You are on page 1of 18

MỤC LỤC

I.MỞ ĐẦU 1
II. NỘI DUNG 2
II.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM 2
II.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM BIỂN VIỆT NAM 7
II.2.1 Yếu tố tự nhiên 7
II.2.2 Yếu tố con người 8
II.2.2.1 Sức ép dân số 8
II.2.2.1.1 Dân số gia tăng và nghèo đói 8
II.2.2.1.2 Lối sống giản đơn và dân trí thấp 8
II.2.2.2 Sức ép về kinh tế 9
II.2.2.2.1 Du lịch tràn lan, nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý 9
II.2.2.2.2 Ô nhiễm biển do dầu gia tăng. 9
II.2.2.3 Thể chế và chính sách còn bất cập. 10
III.KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 11
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

0
I.MỞ ĐẦU
Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 330.000km2 và một
vùng biển đặc quyền kinh tế khoảng trên 1.000.000km2. Khu vực bờ biển
cũng như các đảo có vị trí địa lý rất trọng yếu đối với phát triển và an ninh,
quốc phòng. Trên biển có trên 3.000 đảo lớn nhỏ.các đảo và quần đảo là
điểm tựa vững chắc cho bố trí thế trận phát triển kinh tế biển gắn với bảo
vệ an ninh chủ quyền trên biển. Nhiều đảo có thể xây dựng thành các trung
tâm kinh tế đảo và dịch vụ cho các hoạt động khai thác biển xa. Bờ biển
nước ta kéo dài trên 3.260km, đây là những tiền đề cho phép hoạch định
một chiến lược biển, phù hợp với xu thế phát triển của một quốc gia biển.
Biển thực sự là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, là di sản
thiên nhiên của dân tộc, là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người Việt
Nam hôm nay và mai sau.
Tuy nhiên do sức ép dân số, sức ép kinh tế và khả năng quản lý tài
nguyên kém hiệu quả dẫn tới hậu quả ô nhiễm môi trường biển và đới bờ
trở thành vấn đề báo động đỏ.
Nhận thấy tính bức thiết của vấn đề, chúng tôi thực hiện bài tiểu
luận với đề tài: “Thực trạng ô nhiễm môi trường biển Việt Nam và một
số nguyên nhân gây ra thực trạng đó”. Trong khi thực hiện còn thiếu sót,
mong thầy cô góp ý cho bài tiểu luận hoàn thiện hơn.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!!!!

1
II. NỘI DUNG

II.1. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM

Hiện nay, môi trường biển nước ta đang có dấu hiệu bị ô nhiễm
và suy thoái. Môi trường vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm, và
chất thải sinh hoạt. Các chất rắn lơ lửng như Si, NO3, NH4 và PO4 cũng ở
mức đáng lo ngại. Chất lượng trầm tích đáy biển ven bờ- nơi cư trú của
nhiều loài thuỷ hải sản- cũng bị ô nhiễm.
Hàm lượng hoá chất bảo vệ thực vật chủng anđrin và enđrin trong
các mẫu sinh vật đáy ở các vùng cửa sông ven biển phía bắc đều cao hơn
giới hạn cho phép. Đa dạng sinh học động vật đáy ở ven biển miền bắc và
thực vật nổi ở miền trung suy giảm rõ rệt.Lượng hoá chất bảo vệ thực vật
tồn lưu trong cơ thể các loài thân mềm hai mảnh vỏ được xác định cao nhất
là tại Sầm Sơn và cửa Ba Lạt (11,14- 11.83 mg/kg thịt ngao), tháp nhất là
tại Trà Cổ (1,54 mg/kg).Các chất anđrin, enđrin, đienđrin, đặc biệt là
anđrin và enđrin có hầu hết ở các mẫu phân tích, biến đổi từ 0,12 đến 3,11
mg/kg.
Hiện tượng thuỷ triều đỏ cũng đã xuất hiện ở nước ta từ tháng sáu
đến trung tuần tháng bảy âm lịch tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt là tại
Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Thuỷ triều đỏ xuất hiện khá nhiều ở
nam trung bộ. Hơn 30km bãi biển từ Cà Ná đến Long Hương nhầy nhụa

2
nhũng bột báng màu xám đen dày cả tắc, trộn với xác chết của sinh vật tạo
nên mùi hôi thối. Thiệt hại do thuỷ triều đỏ gây ra rất lớn. Vùng biển ven
bờ nước ta đã phát hiện được khoảng 8-16 loài vi tảo biển gây hại tiềm
năng với mật độ hơn 2 x 104 tế bào/ lít. Hiện tượng thuỷ triều đỏ xảy ra ở
vùng biển Bình Thuận đã tiêu diệt tôm, cua, cá, san hô, rong cỏ biển.
Theo số liệu thống kê cho thấy khoảng 70% ô nhiễm biển đại
dương có nguồn gốc từ đất liền, xuất phát từ chất xả thải của các thành
phố, thị xã, thị trấn, từ các ngành công nghiệp, xây dựng, hoá chất…trong
đó đáng kể nhất và nguy hại nhất là các chất thải từ các nhà máy thông qua
hệ thống cống rãnh, xả thải ra biển và đại dương một lượng lớn các chất
bồi lắng, hoá chất, kim loại, nhựa, cặn dầu và thậm chí cả các chất phóng
xạ.

Ô nhiễm biển Đà Nẵng


Hàng năm, trên 100 con sông ở nước ta thải ra biển 880 km3
nước, 270-300 triệu tấn phù xa, kéo theo nhiều chất có thể gây ô nhiễm
biển, như các chất hữu cơ, dinh dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc

3
hại từ các khu dân cư tập trung, từ các khu công nghiệp và đô thị, từ các
khu nuôi trồng thuỷ sản ven biển và các vùng sản xuất nông nghiệp. Đến
năm 2010, dự tính lượng chất thải sẽ tăng rất lớn ở các vùng nước ven bờ,
trong đó dầu khoảng 35.160 tấn/1 ngày, nitơ tổng số 26-52 tấn/ngày và
tổng amoni 15-30 tấn/ngày.
Báo cáo hiện trạng môi trường đã chỉ ra rằng chất lượng môi
trường biển và vùng ven biển tiếp tục bị suy giảm. Nước biển của một số
khu vực có biểu hiện bị axit hoá do độ pH trong nước biển tầng mặt biến
đổi trong khoảng 6,3-8,2. Nước biển ven bờ có biểu hiện bị ô nhiễm bởi
chất hữu cơ, kẽm, một số chủng thuốc bảo vệ thực vật. Hiện tượng thuỷ
triều đỏ xuất hiện tại vùng biển nam trung bộ, đặc biệt tại Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận làm chết các loại tôm cá đang nuôi trồng tại vùng
này. Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của
loài bị phá huỷ gây tổn thất lớn về đa dạng vùng bờ.Có khoảng 85 loài hải
sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ
Việt Nam. Hiệu suất khai thác hải sản giảm rõ rệt, thêm vào đó, tình trạng
dùng các ngư cụ đánh bắt có tính chất huỷ diệt diễn ra khá phổ biến như
xung điện, chất nổ, đèn cao áp quá công suất cho phép… làm cạn kiệt các
nguồn lợi hải sản ven bờ. Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ
lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt.

Trong các yếu tố làm ô nhiễm môi trường biển thì các chất phóng
xạ cũng đóng góp một vai trò đáng kể. Các vùng biển, đặc biệt là nước
biển tại các vùng lân cận các mỏ sa khoáng titan, trong điều kiện môi
trường thủy địa hóa thuận lợi, các chất phóng xạ bị hòa tan và di chuyển ra
biển, gây ô nhiễm nước biển. Khi con người khai thác khoáng sản, tài

4
nguyên thiên nhiên vô hình dung đã tàn phá thiên nhiên, làm mất cân bằng
sinh thái, mất lớp phủ thực vật che chắn và bảo vệ đất, làm cho vùng mỏ bị
xói lở và bóc mòn, quặng bị phong hóa phá hủy và phát tán đi các nơi, ảnh
hưởng đến môi trường và sức khỏe con người.Nước thải từ các khai
trường, xưởng tuyển không được xử lý, thu gom, để chảy tràn lan ra môi
trường xung quanh. Các bãi biển đều có địa hình dốc ra phía biển, càng
làm cho các chất thải, nước thải trôi xuống biển, đem theo các chất phóng
xạ và các chất độc hại khác làm ô nhiễm môi trường nước biển.

Ô nhiễm môi trường biển còn xảy ra ở các cảng. Các cảng đều
phải đối mặt với nước đục do liên quan đến hoạt động của tàu thuyền ra
vào cảng, nạo vét luồng lạch, đổ phế thải. Độ đục nước vùng cảng Hải
Phòng là 418-424mg/l, cảng Đà Nẵng 33-167mg/l. Nồng độ dầu ở tất cả
các cảng đều vượt mức cho phép 0,3mg/l(TCVN5943-1995), cảng Hải
Phòng 0,42mg/l, cảng Cái Lân 0,6mg/l, cảng Vũng Tàu 0,52mg/l, cảng
Vietso Petro 7,57mg/l. Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hoà tan vào
nước nên hàm lượng oxy trong nước thấp, trung bình 3,3-10,9mg/l vào
mùa khô và 1,16-6,1mg/l vào mùa lũ, trong khi đó nhu cầu oxy rất cao,cần
tới 13,6-31mg/l. Nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt đổ ra biển
chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở mức cao. Ở một số cảng
đáng báo động là hàm lượng thuỷ ngân đã vượt ngưỡng cho phép,cảng
Vũng Tàu vượt 3,1 lần, cảng Nha Trang vượt 1,1 lần. Hiện nay, hàm lượng
dầu trong nước biển của Việt Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn
Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn hiệp hội các nước Đông Nam Á. Đặc
biệt có những thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng

5
dầu đạt mức 1,75mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép, vịnh Hạ Long có 1/3
diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1-1,73mg/l.

Môi trường biển bị ô nhiễm đã dẫn tới suy thoái đa dạng sinh học
biển, điển hình là hệ sinh thái san hô. Vùng biển Việt Nam có khoảng
1.122 km2 rạn san hô, nếu hệ sinh thái này bị mất, biển nước ta có nguy cơ
sẽ trở thành "thủy mạc" không còn tôm cá nữa. Đó là thông điệp mà các
nhà môi trường và bảo tồn thiên nhiên nước ta đã cảnh báo. Theo số liệu
của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đến nay có khoảng 20% rạn có độ
phủ san hô sống nghèo (độ phủ 0-25%), 60% thuộc loại thấp (26-50%),
17% còn tốt (51-75%) và chỉ có 3% rất tốt (trên 75%). Các rạn san hô ở
vùng biển Việt Nam có giá trị cực kỳ quan trọng như điều hòa môi trường
biển, cung cấp dinh dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình sinh
địa hóa; đồng thời còn là nơi cư trú, sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của
nhiều loài thủy sinh vật không chỉ vùng bờ, mà còn từ ngoài khơi vào theo
mùa trong đó có nhiều loài đặc hải sản.

Nhưng một nghịch lý vẫn đang xảy ra với hệ sinh thái này. Trước
đây con người không bao giờ hại đến san hô nhưng nay nhu cầu xây đá mỹ
nghệ, hòn non bộ, trang trí nội ngoại thất ngày càng nhiều nên tình trạng
khai thác, vận chuyển, buôn bán san hô ở các địa phương ven biển đang
diễn ra rất phức tạp. Bờ Đông Nam của đảo Cồn Cỏ từng bị các đối tượng
lặn xuống và dùng cưa để khai thác san hô đen đem bán. Nhiều khu vực
biển miền Trung, ngư dân đi lấy san hô đã thành một loại nghề sinh sống.
Vì lợi nhuận, không ít người đã làm ảnh hưởng đến sự hình thành tự nhiên
của dải san hô gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Những rạn san hô
mất đi, đồng nghĩa với sự cạn kiệt các nguồn lợi thủy sản.

6
Viện Hải Dương học Việt Nam đã từng cảnh báo: "Chưa bao giờ nguồn
san hô nước ta lại đứng trước thách thức sống còn như hiện nay. Mỗi năm,
mất hơn 50 tấn san hô chưa kể mất san hô đen ở Quảng Bình, Quảng Trị,
Quảng Ninh, Hải Phòng, theo đà này 20 năm nữa san hô không còn trong
vùng biển Việt Nam".

II.2. NGUYÊN NHÂN GÂY RA Ô NHIỄM BIỂN VIỆT NAM


II.2.1 Yếu tố tự nhiên
Do các loại vi sinh vật biển, vi tảo biển gây hại ngày một gia tăng
về số lượng, tham gia vào hiện tượng thuỷ triều đỏ, làm suy giảm số lượng
các sinh vật biển có lợi.
Các hoạt động địa chất như núi lửa, bão… làm chết hàng loạt sinh
vật biển, xác của chúng không được xử lý đã gây ô nhiễm vùng biển đới
bờ.
Ngoài ra, sự đứt gãy của vỏ trái đất làm rò rỉ những mỏ dàu ở đáy
đại dương cũng đã góp phần gây ra tình trạng ô nhiễm biển.
II.2.2 Yếu tố con người
II.2.2.1 Sức ép dân số
II.2.2.1.1 Dân số gia tăng và nghèo đói
Biển và vùng bờ là nơi giàu có và đa dạng các loại hình tài
nguyên, cũng như chứa đựng tiềm năng phát triển kinh tế đa dạng. Bởi vậy,
đây cũng là nơi tập trung sôi động các hoạt động phất triển của con người:

7
trên 50% số đo thị lớn, gần 60% dân số tính theo đơn vị cấp tỉnh, phần lớn
các khu công nghiệp và khu chế xuất, các vùng nuôi thuỷ sản, các hoạt
động cảng biển – hàng hải và du lịch sẽ được xây dựng ở đây đến năm
2010. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng này cũng thường cao hơn trung bình cả
nước. Đi kèm các hoạt động trên là sụ gia tăng di dân tự do, tăng nhu cầu
sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hình thành thói quen tiêu thụ tài nguyên
lãng phí. Kết quả đã gây sức ép rất lớn đến môi trường đô thị, khu dân cư
ven biển, làm suy giảm và suy thoái tài nguyên biển và vùng ven bờ. Trong
khi vùng biển gần bờ nước ta còn rất ít tôm cá, thì cuộc sống của khoảng
600.000 ngư dân và gia đình họ vẫn cần có cá hằng ngày và bản năng tồn
tại vẫn buộc họ phải khai thác nhiều tôm cá hơn nên nguồn lợi từ biển ngày
càng cạn kiệt.
II.2.2.1.2 Lối sống giản đơn và dân trí thấp
Khác với trong đất liền, cơ cấu dân cư ven biển từ nhiều nguồn, họ
đến từ tứ xứ, thậm trí có một bộ phận dân cư ngoài đất Việt. Họ vốn là
những người nghèo, xa quê đến vùng ven biển hoặc các đảo nước ta để
sinh sống. Họ tụ tập thành các “vạn chài”, đối mặt hàng ngày với tính khốc
liệt của biển cả, sống với sông nước và gắn liền cuộc sống với con thuyền,
nên tư duy người vạn chài hết sức giản đơn, khái niệm bảo vệ nguồn lợi và
môi trường biển dường như vẫn còn xa vời với họ. Tập quán và phong tục
sống còn lạc hậu, học vấn thấp do không có điều kiện học tập. Cũng vì thế
mà nhận thức về môi trường và tài nguyên biển của đại bộ phận dân cư ở
đây vẫn còn thấp kém. Hành vi và cách ứng xử của họ với các hoạt động
bảo vệ môi trường và tài nguyên rất hạn chế, chưa thành thói quen tự giác.
II.2.2.2 Sức ép về kinh tế

8
II.2.2.2.1 Du lịch tràn lan, nuôi trồng thuỷ sản bất hợp lý
Theo điều tra của Viện Hải Dương học, một trong những nguyên
nhân cơ bản dẫn tới tình trạng ô nhiễm môt trường ven biển là hiện tượng
nuôi thuỷ sản tràn lan, không có quy hoạch. Tại các tỉnh từ Quảng Ninh
đến Quảng Bình, trên 37000ha đã được khai thác đưa vào nuôi trồng thuỷ
sản (chiếm 30-35% diện tích nước mặn lợ). Gần đây phần lớn cơ sở đã đi
vào nuôi trên quy mô công nghiệp dẫn tới các nơi cư trú sinh vật, bãi đẻ,
bãi giống bị huỷ diệt, dịch bệnh xuất hiện tràn lan…Hơn nữa, tình trạng ô
nhiễm môi trường còn do các địa phương khai thác, sử dụng không hợp lý
các vùng đất cát ven biển dẫn tới việc thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ
biển với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Việc khai thác bằng đánh mìn,
sử dụng hoá chất độc hại làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn lợi thuỷ sản và
gây hậu quả nặng nề cho các vùng sinh thái biển. Các hoạt động du lịch có
ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên của
biển. Điển hình là vườn quốc gia Cát Bà với 5.400ha mặt nước, từ một hòn
đảo khá đẹp và trong lành, Cát bà đã biến thành một hòn đảo “tạp” kể từ
khi được đưa vào khai thác du lịch và nuôi trồng thuỷ sản. Những khu du
lịch, khu nuôi cá lồng bè, khu đánh bắt cá…Tất cả đều được quy hoạch
“bám” ra mặt biển. Theo thống kê, mỗi ngày có hang nghìn tấn rác được
đổ trực tiếp ra biển.
II.2.2.2.2 Ô nhiễm biển do dầu gia tăng.

9
Ô nhiễm biển do tràn dầu
Một nguyên nhân gây ô nhiễm biển nữa là tràn dầu. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế lớn trong những năm gần đây đã làm gia tăng rất mạnh
lượng tiêu thụ xăng dầu. Lợi ích kinh tế dẫn đến tình trạng khai thác dầu
quá mức. Hậu quả là một lượng dầu rất lớn bị rò rỉ ra môi trường biển do
hoạt động của các tàu và do các sự cố hư hỏng hay đắm tàu trở dầu, do sự
cố tại lỗ khoan thăm dò và dàn khoan khai thác dầu. Đáng chú ý là các vụ
tràn dầu nghiêm trọng những năm gần đây có xu hướng tăng, gây thiệt hại
nghiêm trọng cho môi trường biển, đặc biệt là vùng nuôi trồng thuỷ sản.
Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và
khai thác dầu khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn. Trung
bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5600 tấn rác thải dầu
khí, trong đó có 20 đến 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa
và nơi xử lý.

10
II.2.2.3 Thể chế và chính sách còn bất cập.
Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh tế
khác nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Các ngành thường chú
trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục tiêu xã hội và môi
trường ít được ưu tiên, chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình. Kết quả là tính
toàn vẹn và tính lien kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ bị chia cắt, mâu
thuẫn sử dụng lợi ích tài nguyên ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền
vững của hoạt động phát triển. Các cơ quan quản lý biển còn chồng chéo
về chức năng và nhiệm vụ trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ. Thiếu
sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và các tổ chức phi
chính phủ trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt vùng ven
bờ. Bên cạnh đó, các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển
của Việt Nam còn chung chung, thiếu thực tế, gây khó khăn cho việc tổ
chức thực hiện. Cho đến nay quản lý môt trường biển, ven biển và hải đảo
vẫn được rập khuôn theo cách tiếp cân của ngăn ngừa và kiểm soát ô
nhiễm, chưa tính đến đặc điểm về tính chất xuyên biên giới, đa ngành, đa
mục đích sử dụng cho nên hiệu qủa quản lý yếu kém và bộc lộ nhiều thiếu
sót, bất cập. Một nguyên nhân cũng cần phải kẻ đến là việc hợp tác quốc tế
trong lĩnh vưc bảo vệ môi trường cũng như việc tham gia ký kết và thực thi
các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển của chúng ta còn bộc lộ
nhiều hạn chế, chưa thực sự được quan tâm, chú trọng.
III.KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
Biển là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng thực trạng ô nhiễm biển
Việt Nam đã và đang trở thành vấn đề báo động đỏ đối với toàn xã hội ,
nguyên nhân chính là do những hoạt động của con người.

11
Qua bài tiểu luận này,đã giúp chúng ta hiểu được những hành động của
con người dù là vô tình hay cố ý cũng một gây ra tình trạng ô nhiễm biển,
gây suy thoái đa dạng sinh học biển và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Từ đó ý thức được việc bảo vệ môi trường biển nói riêng và môi trường nói
chung, tìm ra những giải pháp ngăn ngừa và khắc phục tình trạng ô nhiễm.
Sau đây là một số kiến nghị:
- Việt Nam cần tích cực tham gia hơn nữa các điều ước ở phạm vi thế giới và
khu vực về vấn đề bảo vệ môi trường biển. Các điều ước quốc tế ở lĩnh vực
này mà Việt Nam đã tham gia bao gồm:
Công ước 1982 của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNLOSC) là bộ
luật hoàn chỉnh nhất về biển, dành phần XII quy định việc bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển gồm có 11 mục và 46 điều khoản (từ điều 192 đến 237).
Việc tham gia vào Công ước này tạo cơ sở pháp lý giúp chúng ta bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển của mình đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế để
ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm biển chung. Điểm nổi bật của công ước là xác
định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc
BVMTB khỏi ô nhiễm.
Công ước quốc tế ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78): ra đời năm
1973 , đây là bộ luật chuyên ngành hàng hải của thế giới ,đã được thông qua
tại hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển. Công ước đưa ra những quy định nhằm
ngăn chặn ô nhiễm gây ra do tai nạn hoặc do vận chuyển hàng hoá dầu mỏ,
nguy hiểm,độc hại bằng tàu,cũng như do nước,rác và khí thải ra từ tàu.
Công ước BALSE về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các chất độc hại
và việc loại bỏ chúng năm 1989
Công ước về đa dạng sinh học năm 1992

12
Công ước RAMSA về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế
,đặc biệt như là nơi cư trú của các loài chim nước năm 1982 v.v…
Ngoài ra, Nhà nước và Chính phủ cần thực hiện các chủ trương như:
-Tăng cường việc thực hiện bảo vệ môi trường hiện nay ; cần lưu ý tới
việc thực thi luật đối với dải ven biển ở cấp tỉnh và huyện.
-Tiến hành kiểm soát trên phạm vi toàn vùng biển hiện tượng thải dầu
cặn và có kế hoạch,biện pháp ứng phó sự cố tràn dầu;xử lý, phòng ngừa ô
nhiễm dầu có nguồn gốc đất liền.Cụ thể như việc xử lý ô nhiễm biển do cặn
dầu trên biển ở Hải Phòng: Bình quân hằng năm có tới hơn 1.500 lượt tàu
vận tải biển cập cảng Hải Phòng. Lượng dầu cặn qua sử dụng trong hành
trình vận tải của mỗi tàu khi đến cảng từ 5 m3 đến 10m3. Như vậy, hàng
nghìn m3 dầu cặn qua sử dụng đã xả tự nhiên theo nhiều cách xuống biển.
Để chấn chỉnh tình trạng gây ô nhiễm môi trường vùng cửa biển, đầu tháng
3, UBND thành phố Hải Phòng đã có quyết định giao nhiệm vụ thu gom,
quản lý và xử lý nguồn dầu cặn thải ra của các tàu vận tải biển vào cảng Hải
Phòng cho Công ty Môi trường thành phố. Tuy nhiên, để việc bảo vệ môi
trường biển cảng Hải Phòng có hiệu quả, theo ông Trần Trung Dũng, Trưởng
trung tâm Quản lý rác công nghiệp và vệ sinh môi trường biển thuộc Công ty
Môi trường thành phố, cần phải có các chế tài xử phạt các chủ tàu và lực
lượng khai thác dầu cặn trái phép trên biển, đồng thời đầu tư phương tiện,
điều kiện kỹ thuật cho Trung tâm đủ mạnh mới chấm dứt được tình trạng
bức xúc này.
-Việc quản lý nguồn nước ở các hệ thống sông ngòi cũng rất quan
trọng,bởi vì các nhánh sông phần lớn đều đổ ra biển. Với sự ra đời của nhà
máy sản xuất chất Zeolite đầu tiên tại Việt Nam, bài toán xử lý ô nhiễm nước
biển do nuôi tôm trên cát tại những địa điểm nghỉ mát nổi tiếng ở miền trung
đã có lời giải. Đây là kết quả công trình nghiên cứu đoạt nhiều giải thưởng

13
trong nước và quốc tế của một nhà khoa học lăn lộn nhiều năm với các dự án
thanh niên: TS Tạ Ngọc Đôn, ĐH Bách khoa Hà Nội.
-Đánh giá tác động môi
trường của các dự án xây
dựng ở ven biển và biển
(cảng,khu công nghiệp,khai
thác biển…) Cụ thể như ở
Đồng Nai ,theo báo cáo của
Sở TNMT, thì 11 KCN của tỉnh
Đồng Nai và tỉnh BRVT với hàng trăm nhà máy, xí nghiệp đang hoạt động
mỗi ngày thải ra sông trên 33.400m3 nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý
chưa đạt tiêu chuẩn. Ông Ao Văn Thinh yêu cầu sở ngành liên quan tăng
cường kiểm tra, xử lý kiên quyết những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi
trường; đôn đốc các KCN đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà máy nước thải tập
trung trong thời gian từ nay đến cuối năm.Hết hạn này, nếu KCN nào có
doanh nghiệp xả thải ra môi trường mà chưa có nhà máy xử lý nước thải tập
trung sẽ phải ngừng hoạt động.UBND tỉnh Đồng Nai cho hay, sẽ đề xuất với
bộ ngành T.Ư đầu tư nạo vét, đào mới đoạn kênh nối sông Thị Vải với sông
Đồng Môn thông qua kênh Bà Ký tạo sự thông thương luồng lạch để làm
tăng khả năng "tự làm sạch" của sông Thị Vải, đồng thời tạo thêm một tuyến
vận tải thuỷ cho các KCN trên địa bàn.

14
Nguồn nước bị ô nhiếm ở sông Tô Lịch Hà Nội

-Đào tạo,giáo dục,nâng cao nhận thức cộng đồng và của cấp chính quyền
địa phương(huyện,xã/phường)

-Tận dụng hiệu quả sự giúp đỡ,trợ giúp ,hợp tác quốc tế tại Việt Nam
cũng như nước ngoài.Ngày 6/6 - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Việt Nam Mai Ái Trực và Bộ trưởng Bộ Sinh thái, Phát triển và Quy hoạch
bền vững Cộng hòa Pháp Alain Juppé đã ký Bản ghi nhớ hợp tác giữa hai
Chính phủ Việt Nam và Pháp về lĩnh vực tài nguyên nước ở Việt Nam. Đây
là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hợp tác phát triển
giữa Việt Nam và Pháp. Pháp cam kết tăng cường hợp tác về xây dựng thể

chế và tăng cường năng lực quản lý tài nguyên nước. tỉnh Fukuoka – Nhật

Bản sẽ hỗ trợ thành phố Hà Nội xây dựng các chính sách và nghiên cứu làm
sạch nguồn nước bị ô nhiễm tại các sông hồ của thành phố và quản lý chất
thải rắn. Hai bên sẽ tích cực trao đổi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đặc
biệt nhấn mạnh việc phát triển nguồn nhân lực và trao đổi công nghệ.

15
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.www.canh sat.gov.vn

2.www.yeumoitruong.com

3.www. thiennhien.vn

4 .www. thuvienkhoahoc.com

5.www.laodong.com

6.www.congnghehoahoc.org

7.www. khoa hoc.com

8.www. mcdvietnam.org

16
17

You might also like