You are on page 1of 11

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG HÀ NỘI

BÀI THU HOẠCH


CÂU HỎI:

1. Phân tích, làm rõ những truyền thống quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành người Đảng viên Cộng Sản.

CÂU HỎI

1. Phân tích, làm rõ những truyền thống quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt mang tính quyết định, then chốt đối với
cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên công cuộc giải phóng dân tộc, chấm
dứt thời kỳ bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước, định hướng con đường đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Ðảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của lịch sử,
với nền tảng vững chắc là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Ðảng ra đời là quá trình lựa chọn,
sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng
và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhìn lại chặng đường phát triển trong 88 năm qua, dù vẫn tồn tại khuyết điểm, sai lầm,
nhưng với bản lĩnh vững vàng, thật sự khiêm tốn, cầu thị, Ðảng ta nghiêm túc tự phê bình,
phê bình, sửa chữa khuyết điểm, xây dựng được lòng tin yêu nơi nhân dân. Đảng ta đã luôn
nắm vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại, những kì tích của thế kỷ 20: Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ vươn lên làm chủ đất nước;
9 năm kháng chiến trường kì đánh đuổi thực dân Pháp và 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm
lược, thu non sông về một mối, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ðặc biệt sau
hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới trong muôn vàn khó khăn, thách thức, toàn Ðảng,
toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, đã mang đến cho Việt Nam một diện mạo mới, một
vị thế mới trên trường quốc tế.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Ðảng CSVN chính là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng nước ta. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng đó, Ðảng ta
được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng
xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Thông
qua quá trình hoàn thiện cả về lý luận lẫn tôi luyện thực tế, Ðảng ta đã tích lũy và đúc rút
được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta
càng thấu hiểu, tin yêu, tự hào và có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn, phát huy. Trong đó,
nổi bật là những truyền thống cơ bản sau:

Thứ nhất là truyền thống bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng
cách mạng. Từ khi được thành lập, Đảng ta đã có đã nhận định rõ ràng rằng cách mạng Việt
Nam phải được tiến hành theo con đường cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng của
Đảng lấy chủ nghĩa Mac-Lenin làm kim chỉ nam, tư tưởng Hồ Chi Minh làm nồng cốt cho
mọi hành động cách mạng. Lê-nin đã chỉ rõ “chỉ có giai cấp nào, Đảng nào đi theo con
đường của mình mà không do dự, không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những
bước ngoặt khi khó khăn nhất, gay go và nguy hiểm nhất thì mới có thể lãnh đạo được quần
chúng, đưa phong trào cách mạng tiến lên”. Và đúng như vậy, trong những lúc biến chuyển
khó lường của thời cuộc thế giới, trong những giây phút đối mặt với sự khủng bố, đàn áp dã
man của kẻ thù, Đảng ta cùng các thế hệ Đảng viên ưu tú vẫn kiên định, không nao núng,
không dao động, tin tưởng tuyệt đối với con đường cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân, từ đó khơi dậy niềm tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng.
Thứ hai đó là truyền thống nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng nắm
bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, lấy đó làm cơ sở nhưng không áp
dụng một cách máy móc, giáo điều, không hề dập theo khuôn mẫu mà Đảng đã vận dụng
sáng tạo và phát triển, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn cách mạng ở Việt Nam.

Ngay từ Chánh cương vắn tắt của Đảng (2/1930) so với Luận cương chính trị đầu tiên
(10/1930), chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện được tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, nhìn nhận cách thức làm cách mạng phải phù hợp thực tiễn
Việt Nam. Bác Hồ đã nhận thức sâu sắc hai mâu thuẫn lớn tồn tại trong xã hội Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh giai cấp mà cao hơn chính là
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn của toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân đế quốc xâm lược. Chính vì thế lực lượng cách mạng không chỉ thuần liên
minh công – nông mà còn cần tranh thủ khối đại đoàn kết toàn dân, kêu gọi những tầng lớp
khác có tinh thần yêu nước như trí thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Tính sáng tạo, độc lập
của văn kiện này còn thể hiện tính đúng đắn của nó trong suốt quá trình cách mạng của ta.

Những năm 1936 – 1939, bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều thay đổi, các Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1936, 1937 và 1939 đã có những quyết định kịp
thời, linh hoạt về chuyển hướng chiến lược và sử dụng những hình thức đấu tranh phù hợp.
Mục tiêu đấu tranh dân tộc hay dân chủ tùy từng giai đoạn mà được đặt cao hơn. Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) đã nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương (11/1940) tiếp tục chủ trương đó. Tuy nhiên, khi thời cơ
đến, năm 1945, Đảng nhanh chóng phân tích thời cơ, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân với chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Sự độc lập, quyết đoán, chỉ thị đi từ thực tiễn là yếu tố tiên quyết góp
phần làm nên một Cách mạng tháng 8 thành công, một cuộc đấu tranh giành chính quyền
trong thời gian ngắn nhất, ít tốn kém nhất và ít đổ máu nhất.

Trong thời gian đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội sau năm 1975, chúng ta đã mắc phải
những sai lầm khi dập khuôn một cách máy móc, bê nguyên mô hình công nghiệp hóa
hướng nội ở Liên Xô, tập trung toàn lực vào phát triển công nghiệp nặng vào Việt Nam mà
không xem xét tình hình thực tế ở nước ta: Nước ta bước ra khỏi chiến tranh với nền kinh tế
gần như bị tàn phá hoàn toàn, là một nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Đại hội
Đảng 6 đã thẳng thắn phê phán những khuyết điểm trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa trước đổi mới (khi ta duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế cũ, quan liêu, bao cấp, tập
trung, ham làm nhanh, nóng vội, chủ quan, duy ý chí). Bắt đầu từ đó, Đảng ta đã có những
điều chỉnh gắn với tình hình thực tiễn đất nước, sáng tạo, độc lập, đã mở đầu cho quá trình
tìm tòi, đổi mới chủ trương khuyến khích mọi lực lượng và năng lực sản xuất làm cho sản
xuất bung ra làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam họp đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) đã nêu bật những thành tựu của 10 năm đổi mới về
nhịp độ phát triển kinh tế, những chuyển biến tích cực về mặt xã hội; giữ vững ổn định
chính trị, củng cố quốc phòng an ninh; thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ
thống chính trị và phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh nước
ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá, đất nước chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Như vậy, chính truyền thống duy trì tính độc lập,tự chủ, sáng tạo đã giúp Việt Nam bước ra
khỏi thời kì khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, tạo nên một diện mạo hoàn toàn mới cho
Việt Nam sau “thời kì đổi mới”.

Thứ ba, Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải
gắn bó mật thiết với nhân dân. “Trong cuộc trường chinh để giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu. Đảng xông pha nơi
khó khăn. Đảng gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng
đất nước. Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân”. Nguyên tắc hoạt động của Đảng lấy dân làm gốc, người Đảng viên
vừa là người lãnh đạo nhưng cũng là người đầy tớ phục vụ cho lợi ích của nhân dân, xây
dựng đất nước do dân làm chủ, của dân, do dân và vì dân. Trong thực tế quá trình đấu tranh,
ta thấy các cơ sở Đảng được hình thành từ trong dân, được nhân dân giúp đỡ, che chở và
bảo vệ, lấy kinh nghiệm thực tiễn từ nhân dân. Bên cạnh đó, trong công cuộc xây dựng đất
nước, Đảng vẫn giữ vững mối quan hệ mật thiết với nhân dân, cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ đất nước, quyền bầu cử, mở các cuộc trưng cầu dân ý, đưa ra các đường lối
phát triển đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Phải dựa vào dân để xây dựng
Đảng, để giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng.

Trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, thông tin bùng nổ, dân trí, dân chủ xã hội ngày một cao; các
thế lực thù địch tăng cường chống phá, xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ uy tín của Đảng, chia rẽ
dân với Đảng, giành giật quần chúng, Đảng ta càng phải tăng cường công tác vận động, gắn
bó mật thiết với nhân dân, tập hợp các tầng lớp nhân dân vào trong các tổ chức do Đảng
lãnh đạo. Sự thừa nhận của nhân dân, lòng tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng là cơ
sở vững chắc để Đảng giữ vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, bất chấp mọi sự chống phá
của kẻ thù.

Thứ tư, đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ
sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình. Trải qua những thử thách khắc
nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa
đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn
kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã
gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân
dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ. Trong các cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta đã thành công trong việc tập hợp, đoàn kết mọi
người Việt Nam yêu nước vào Mặt trận dân tộc thống nhất (dưới các tên gọi khác nhau) do
Đảng lãnh đạo để cô lập kẻ thù, tạo thành lực lượng cách mạng hùng hậu, tiến công trên tất
cả các mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, binh vận, ở mọi nơi, vùng núi, đồng bằng, cả
những đô thị lớn, nơi có các cơ quan đầu não, sào huyệt của kẻ thù, để giành thắng lợi.
Trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác đã khẳng định: “Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ
cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như con ngươi của mắt mình”.

Bên cạnh tinh thần đoàn kết, cần thực hiện sinh hoạt các chi bộ Đảng trên nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Ngay từ Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) họp
tháng 1-2/1999 đã thảo luận và ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong
xây dựng Đảng hiện nay” mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê
bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kỷ
niệm 70 năm thành lập Đảng. Không thể tránh khỏi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên. Đó là những căn bệnh có cơ hội nảy nở, phát sinh trong điều kiện
Đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Cần phải làm tốt công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Chính sự thẳng
thắn nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm, trước là tự phê bình sau đó là phê bình, chỉ ra những
điều đã làm được, những điều chưa làm được trên cở sở đóng góp tích cực, sửa đổi cùng
phát triển, Đảng ta đã có những bước chuyển mình thành công, sửa chữa những điểm còn
tồn đọng, hướng tới xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Thứ năm, đó là thực hiện đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ, kế thừa những tinh
hoa, truyền thống quý báu của Đàng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ
đơn độc, biệt lập của phong trào dân tộc Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng
nước ta gắn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh thời đại và
sức mạnh trong nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân.

Những truyền thống quý báu kể trên chính là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một
tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là kết
quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của các
thế hệ đảng viên. Và hơn thế nữa, nó còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách
mạng triệt để.

Ôn lại lịch sử và truyền thống quý báu của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng mà
quan trọng hơn là góp phần giữ vững, kế thừa và phát huy những truyền thống của Đảng,
làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
ngang tầm đòi hỏi của thời đại mới.

2. Đồng chí cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành người Đảng viên
Cộng Sản Việt Nam.

Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh
cho độc lập và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu
hái lợi lộc. Để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, cần phải có đủ các điều kiện:
Động cơ vào Đảng đúng đắn, có giác ngộ chính trị, thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ của đảng viên; hoạt động trong một tổ chức cơ sở
đảng và phải là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm; mỗi đảng viên phải gắn mình với tổ
chức đảng, coi tổ chức đảng là chỗ dựa vững chắc cho mình thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Tôi đã xác định cho mình quá trình phấn đấu nỗ lực trong tương lai để trở thành một người
Đảng viên chân chính:

Một là, Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn:

Tôi không đến với Đảng vì những gì quá cao siêu, vì dù ở đâu, vị trí nào, tôi nghĩ mình
vẫn làm việc và cố gắng làm việc tốt. Nhưng được đứng vào hàng ngũ của Đảng, không chỉ
là mục tiêu phấn đấu, mà hơn thế, trong quá trình phấn đấu, tôi trưởng thành và sống có
trách nhiệm hơn. Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để
thăng quan, phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ
giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”.
Tôi tin rằng phấn đấu được đứng trong hàng ngũ của Đảng như là một mong muốn,
một trách nhiệm để được đóng góp, cống hiến nhiều hơn cho tập thể, cho nhân dân và rộng
hơn là cho quốc gia, dân tộc. Vào Đảng là phải dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp
nhận hy sinh, phấn đấu đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Cái
được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, được
Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến. Khi nhận thức đúng đắn ta sẽ có động cơ đúng, có sức
mạnh bên trong là động lực hướng dẫn hành động, thôi thúc ta sống, hoạt động có lý tưởng
cao đẹp cho Đảng và cho chính mình.

Trước những biến đổi của xã hội, trước những mặt trái của nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, những người thanh niên trẻ như tôi nếu như không có một niềm tin vững
chắc, một động cơ đúng đắn sẽ không thể tránh khỏi những cám dỗ, thoái hóa trong đạo
đức, những diễn biến hòa bình và tự diễn biến, lấy Đảng là bình phong để chuộc lợi cá nhân.

Với cá nhân tôi đã xác định, trở thành đảng viên là vinh dự, tự hào nhưng trên hết là
trách nhiệm; trách nhiệm tiếp tục cống hiến, cống hiến không phải là cái gì đó quá cao siêu,
mà trước hết đơn giản là phải hết sức cố gắng trong học tập và công tác, là phấn đấu hết
mình để chiếm lĩnh tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn.

Hai là, Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng:

Để thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững
trên lập trường của giai cấp công nhân, trước khó khăn thử thách không nao núng tinh thần,
không mờ nhạt phương hướng chính trị, có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định, đặc biệt
trước diễn biến hòa bình ngày càng phức tạp, các thế lực chống phá, phản động dựa vào sự
lan nhanh của công nghệ thông tin để tuyên truyền, bôi nhọ Đảng.

Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng sự nỗ lực của bản thân trong quá trình
học tập, nắm vững lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng của
Đảng. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời; như Bác
Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”.

Tôi tin rằng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích
cá nhân. Lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng.
Đường lối của Đảng là kết hợp hài hòa giữa 3 lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích
cá nhân. Đảng luôn luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết
chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể
và toàn xã hội. Việc gì có lợi cho cách mạng, cho nhân dân thì khó mấy, kể cả hy sinh cũng
làm. Việc gì có hại cho cách mạng, cho nhân dân thì nhỏ mấy cũng hết sức tránh.

Trong quá trình phấn đấu trở thành một người Đảng viên, hay khi đã là một Đảng
viên, tôi sẽ phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao, tu dưỡng đạo đức, trước hết thể
hiện trong cách đối nhân xử thế với bạn bè, đồng nghiệp và những người xung quanh. Nếu
để cho chủ nghĩa cá nhân ám ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự
tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết
“phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì
tức là thoái bộ, là lạc hậu… sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải”.

Ba là, Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: “Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những
thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Muốn
vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi đảng viên phải ra sức “học tập chủ nghĩa
Mác-Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ;
không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác của mình.

Với cương vị là một thanh niên trẻ thời kì hội nhập, tôi cần ra sức phấn đấu hoàn thành
tốt nhiệm vụ của một người sinh viên, học tập tốt, trao dồi kiến thức chuyên ngành, áp dụng
thực tế, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể của lớp của trường.
Bốn là, Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể,
công tác xã hội:

Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống của Đảng, là gắn bó mật thiết máu
thịt với nhân dân, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú
của mình. Muốn trở thành đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với
nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố, tôn
trọng, chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau.

Tôi sẽ phấn đấu nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, cố
gắng thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phải phát huy tính tiền
phong, gương mẫu và những phẩm chất cần thiết để trở thành đảng viên của Đảng. Bên cạnh
đó cũng cần chú trọng mở rộng quan hệ xã hội, gương mẫu và vận động gia đình, người
thân tham gia các phong trào ở địa phương.

Năm là, Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở:

Tham gia xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của
người phấn đấu vào Đảng.

Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực, phấn đấu cao
nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước
phát triển mới của cơ sở, đơn vị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu
hiện tiêu cực.

Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân
dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề
xuất với tổ chức Đảng. Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ
chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên. Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động chính quyền và đoàn
thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn
để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy; giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện
để tổ chức đảng xét kết nạp.

Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị – xã hội ở
cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu,
các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để cuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, vu cáo,
bôi nhọ những cán bộ, đảng viên tích cực, trung thực; kích động, chia rẽ đoàn kết, gây rối
nội bộ.

Tôi luôn xác định mục tiêu của mình rằng: Kiên định lập trường cách mạng của giai
cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ XHCN, vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó
khăn, thử thách nào. Ra sức phấn đấu lập thân, lập nghiệp, đi đầu trong việc thực hiện
Đường lối đổi mới đất nước của Đảng cống hiến hết mình vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội dâu chủ, công bằng, văn minh. Tôi cũng luôn tích cực tham gia đấu tranh chống thói
hư tật xấu, chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực
đoạn hay tư tưởng sai lệch.

Học tập, nắm vững lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thường xuyên trau
dồi đạo đức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư.

You might also like