You are on page 1of 3

Nguồn gốc thơ lục bát

Thơ lục bát có nguồn gốc từ rất lâu. Cho tới ngày nay nó vẫn được kế thừa và phát
huy, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong nguồn văn học dân gian của dân tộc. Ở Việt
Nam, thơ lục bát tồn tại dưới nhiều hình thức. Chúng ta thường được nghe những bài
ca dao, dân ca, những bài đồng dao thấm đượm tình cảm và nồng nàn hồn quê con
người. Thơ lục bát vì vậy mà trở thành thể loại đặc trưng trong những sáng tác của
người dân quê.

Người dân lao động làm việc vất vả, để quên đi mệt nhọc họ trở thành những nhà sáng
tác thơ. Thể thơ trong các sáng tác của họ thường là lục bát. Vì vậy nó chân chất, giản
dị, diễn tả đúng tâm trạng và các cung bậc cảm xúc trong tâm hồn người dân lao động.
Thể loại thơ của dân tộc này còn có nguồn gốc từ những câu ru hời của bà, của mẹ
nồng nàn tình cảm thương yêu; những bài đồng dao đi vào lòng người.

Cấu trúc thơ lục bát


– Số tiếng trong bài thơ lục bát: mỗi cặp lục bát gồm có 2 dòng (lục: 6; bát: 8). Bài thơ
lục bát là sự kế tiếp của các cặp như thế. Số câu trong bài không giới hạn.

– Nhịp: nhịp chẵn dựa vào tiếng có thanh không đổi (trừ 2,4,6), nhịp 2/2/2 tạo sự hài
hòa, nhịp nhàng cho các cặp lục bát trong bài.

– Hài thanh:

+ Có sự đối xứng luân phiên B – T – B ở các tiếng 2,4,6 trong dòng thơ, đối lập âm vực
trầm bổng ở tiếng thứ 6 và thứ 8 dòng bát.

Ví dụ:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Trong cặp lục bát trên có sự đối xứng nhau trong các thanh ở các tiếng 2,4,6. Câu lục
là B – T – B “năm – cõi – ta”; câu bát là B – T – B – B “tài – mệnh – là – nhau”

+ Thơ lục bát có sự chặt chẽ về cách phối thanh: tiếng thứ 4 bắt buộc là trắc, các tiếng
2,6,8 phải là bằng. Trong đó trong câu bát tiếng thứ 6 và 8 cùng là bằng nhưng phải
khác dấu, nghĩa là tiếng thứ 6 là dấu huyền thì tiếng thứ 8 phải không có dấu hoặc
ngược lại.

Ví dụ:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

(Trích Kiều thăm mộ Đạm Tiên – Nguyễn Du)

Các từ “qua – cuộc – dâu/ điều – thấy – đau – lòng” tuân thủ luật B – T – B

Ta thấy câu bát tiếng 6 và 8 đều là vần bằng nhưng có sự ngược nhau: tiếng 6 thanh
bằng, tiếng 8 thanh huyền.

Cách gieo vần thơ lục bát


Thơ 6 – 8 cũng có quy định nghiêm ngặt về cách gieo vần: hiệp vần ở tiếng thứ 6 của 2
dòng và giữa tiếng thứ 8 của dòng bát với tiếng thứ 6 của dòng lục.

+ Vần bằng: là các vần có thanh huyền và thanh ngang (không dấu)

Ví dụ: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.

“Trang – da” là vần bằng các tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.

+ Vần trắc: là các vần có các dấu còn lại: sắc, hỏi, nặng, ngã

Ví dụ: “Tò vò mà nuôi con nhện

Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”

“Nhện – quện” là vần trắc.

+ Vần chân: hiệp vần ở tiếng thứ 6 câu lục và tiếng thứ 8 câu bát.

Ví dụ: “Nao nao dòng nước uốn quanh


Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

“Quanh – ngang” là vần chân cuối các câu lục và bát.

+ Vần yêu: là vần ở cuối câu lục hiệp với tiếng thứ 6 câu lục.

Ví dụ: “Thanh minh trong tiết tháng Ba

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”

“Ba – là” gọi là vần yêu hiệp ở tiếng thứ 6 của 2 dòng.

You might also like