You are on page 1of 12

Đề luyện: Một trong những nét nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu là đậm đà tính

dân tộc. Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc để làm rõ đặc điểm trên:
Mình đi có nhớ những ngày….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Những ý chính cần có

1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, nét phong cách và đoạn thơ
2. Cảm nhận khái quát
2.1. Giải thích khái niệm
+ Tính dân tộc (tham khảo đề bài trước)
2.1. Về đoạn thơ
+ Đoạn thơ gồm mười hai câu nằm ở phần đầu đoạn trích Việt Bắc. Sau
những dòng thơ tái hiện khung cảnh, tâm trạng chia tay lưu luyến bịn rịn, xốn
xang, xao xuyến đầy xúc động “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là 12 dòng thơ
diễn tả nỗi lòng người ở lại- nỗi lòng của đồng bào dân tộc Việt Bắc.
+ Màu sắc dân tộc đã được bộc lộ trong đoạn thơ ở nhiều phương diện:
Trước hết là ở tiếng nói trữ tình người ở lại nhắc nhớ người ra đi về những ân
nghĩa, ân tình cách mạng đã có trog quá khứ, khẳng định tấm lòng gắn bó thuỷ
chung của mình với người đi. Nội dung trữ tình ấy được biểu đạt bằng hình thức
nghệ thuật giàu tính dân tộc: thể thơ lục bát vừa truyền thống vừa biến hoá, ngôn
ngữ thơ dung dị gần với ca dao, giàu hình ảnh so sánh, tượng trưng, ẩn dụ; giọng
thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết…
3. Phân tích cụ thể
3.1. Màu sắc dân tộc trong hình thức (ngôn ngữ, thể thơ, giọng điệu, hình ảnh
thơ…)
- Hình thức kết cấu: Lối kết cấu đối đáp trong ca dao được vận dụng một cách
sáng tạo. Bài thơ là lời đối đáp giữa người đi kẻ ở đồng điệu, giãi bày hoà quyện
quấn quýt…(bổ sung)
- Thể thơ lục bát: Thơ lục bát vốn là một trong những thể thơ mang tính dân tộc
sâu sắc. Thể thơ này đã làm nên tên tuổi của nhiều nhà thơ lớn trong lịch sử thơ ca
dân tộc. Thể thơ lục bát được TH vận dụng tài tình trong bài thơ VBắc cũng như
đoạn thơ này. Thể lục bát qua hồn thơ TH mang âm hưởng thơ vừa thống nhất vừa
biến hoá đa dạng so với lục bát truyền thống. Nó có diện mạo thẩm mĩ riêng, đó là
sự hài hoà đến tự nhiên vẻ đẹp của lục bát dân gian, lục bát cổ điển và lục bát hiện
đại.
+ Sắc thái của lục bát dân gian trong đoạn thơ này thể hiện rõ nhất ở cấu trúc
một cặp lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hoà. Sáu dòng lục tạo thành một điệp
khúc âm thanh, trầm bổng tạo ra giọng điệu nhịp nhàng,êm ái, khoan thai…
+ Sắc thái lục bát cổ điển được bộc lộ tập trung ở những dòng bát. Hầu hết
các dòng này đều có chung cách ngắt nhịp 4/4 tạo nên những tiểu đối cân xứng, hô
ứng về cấu trúc, nhạc điệu:
- Mưa nguồn suối lũ/ những mây cùng mù
- Miếng cơm chấm muối/ mối thù nặng vai
- Trám bùi để rụng/ măng mai để già
- Hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son
(phân tích một số cặp câu tiểu đối ). Lối ngắt nhịp trong đoạn thơ đã tái sinh được
âm điệu, gia điệu rất cổ điển của những câu thơ lục bát thời trung đại. Người đọc
thất mình như được gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang thơ lục
bát Nguyễn Du.
+ Sắc thái lục bát hiện đại thể hiện trong điệp khúc 2/4 gắn với điệp khúc lời
thơ mình đi/ mình về xuất hiện một cách linh hoạt, biến hoá. Nó tạo nên nhịp ru
cho cả đoạn và toàn bài. Trong đó điệp khúc có nhớ vang lên 5 lần trong 6 dòng
lục đóng vai trò xác định cảm xúc chủ đạo của cả đoạn cũng la cảm hứng chủ đạo
của toàn bài. Đây là tình cảm có tính phổ quát trong mọi cuộc chia tay…
+ Như vậy, sự hài hoà các sắc thái thẩm mĩ trong thể lục bát ở đoạn thơ đã
đem đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mĩ thú vị. Người đọc như nhập vào
giai điệu riêng ngân nga, trầm bổng vừa thân thuộc vừa mói mẻ để nhận biết và
thêm tự hào có ý thức bảo tồn một thể thơ mang bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo…
- Ngôn ngữ thơ giàu tính dân tộc
+ Cặp đại từ xưng hô mình- ta vừa quen thuộc trong ca dao, vừa biến hoá
linh hoạt sáng tạo thể hiện tài năng của nhà thơ..
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết. Đây là giọng điệu riêng góp phần tạo nên
tinh dân tộc của thơ Tố Hữu nói chung và đoạn thơ nói riêng. Giọng điệu tâm tình
ngọt ngào này được tạo ta từ hình thức điệp đa dạng: điệp cấi trúc ngôn từ, điệp
cấu trúc âm thanh, Việc sử dụng đầy sáng tạo từ mình cũng góp phần làm cho
giọng thơ trở nnên đằm thắm nghĩa tình và trìu mến yêu thương…
3.2. Màu sắc dân tộc đậm đà trong nội dung (đề tài, chủ đề cảm hứng…)
- Đề tài đậm màu sắc dân tộc: đề tài chia ly nhưng là một cuộc chia tay lớn của lịch
sử, liên quan đến vấn đề trọng đại của dân tộc…
- Chủ đề của đoạn thơ cũng giàu tính dân tộc
+ Đoạn thơ làm hiện lên một bức tanh cuộc sống chân thực, sống động gợi
cảm đậm đàn bản sắc dân tộc về thiên nhiên và cuộc sống con người Việt Bắc:
thiên nhiên có vẻ hoang sơ, hiu hắt, lạnh lẽo với mưa ngồn suối lũ, những mây
cùng mù, trám bùi, măng mai, lau xám; cuộc sống khó nghèo, lam lú cùng miếng
cơm chấm muối, nhưng con người luôn sống gắn bó sắt son, ân tình thuỷ chung
với cách mạng: mối thù nặng vai, đậm đà lòng son.
+ Đoạn thơ góp phần làm cho Việt Bắc trở thành vản hùng ca ca ngợi cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc, sự trưởng thành của dân tộc trong những năm
kháng chiến, thành khúc tình ca biểu dương tình cảm tha thiết, lòng biết ơn sâu
nặng cua rngười cán bộ cách mạng đối với Việt Bắc và tình cảm gắn bó sắt son của
Việt Bắc đối với cách mạng.
+ Chiều sâu của tình cảm này chính là đạo lí sống ân nghĩa thuỷ chung của
dân tộc đã được các thế hệ con người Việt Nam vui đắp, nuôi dưỡng suốt trường kì
lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó là cội nguồn sức mạnh tinh thần giúp cho dân
tộc ra không chỉ đứng vững trước muôn ngàn thủ thách gian khổ mà còn vượt lên
để đi đến chiến thắng vẻ vang. Tiếp nối và phát huy truyền thống tư tương, tình
cảm này, thơ TH đã tạo được sự rung động và cảm hoá lòng người tự nhiên mà sâu
sắc.

Đề luyện: Cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn
thơ sau

Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng dọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Dàn ý chi tiết


1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích
+ Việt Bắc là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này
chủ yếu viết về thời kì kháng chiến chống Pháp, trong đó Việt Bắc được xem là
đỉnh cao của thơ Tố Hữu .
+ Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn
về thời gian suốt 15 năm Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh, trên một không
gian là toàn bộ Việt Bắc kéo dài sang Tây Bắc.
+ Bút lực của Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. Việt Bắc là một bài
thơ dài, không phải đoạn nào cũng viết rất đều tay. Nhưng có những đoạn qủa thật
đặc sắc, có thể sánh ngang với thơ cổ điển. Đoạn thơ duới đây là một đoạn thơ đã
thể hiện được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu . (Trích thơ)
+ Bài thơ là cả một niềm hoài niệm lớn, một nỗi nhớ lớn mà bao trùm lên cả
là nỗi nhớ về thiên nhiên, con người Việt Bắc với những kỉ niệm kháng chiến.
Đoạn thơ này kết tinh được những nét đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc .
2. Phân tích chi tiết
2.1. Khái quát về đoạn thơ:
+ Đoạn thơ có thể chia làm hai phần. Phần đầu gồm 2 câu, nó như lời mở
đầu đưa đẩy trong cuộc hát giao duyên. Trong đó, người con trai ướm hỏi người
con gái ở lại vừa để khẳng định tình cảm của mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành
4 cặp lục bát. Ở mỗi cặp, cứ câu lục tả hoa, thì câu bát tả người. Nó là một bức
tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc
trưng nhất của miền đất này. Có thể nói cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được
miêu tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này
hàm súc nhất, cô đúc nhất.
2.2. Hai câu đầu: Khái quát về nỗi nhớ
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
+ Bài thơ được viết theo hình thức đối đáp của dân gian với cách xưng hô ta-
mình, mình - ta. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, là hai câu đưa đầy nối liền
các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái:
Ta về mình có nhớ ta. Ý tứ chân thành được gói ghém trong giọng điệu tình tứ đắm
say. Ngay trong lời hỏi đã hàm ý trả lời. Bởi vậy, chính người hỏi đã khẳng định
tình cảm của mình: ta về ta nhớ những hoa cùng người.
+ Như vậy người ta đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ mà là
nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa người. Hoa là cách nói của nghệ
thuật tượng trưng, hoán dụ: Hoa tượng trưng cho thiên nhiên Việt Bắc, và cũng là
một bộ phận của thiên nhiên.
+ Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, soi
chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là hoa
của đất, nhĩa là sản phẩm kì diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy khi nhớ người thì
hiện lên bóng hoa, khi nhớ hao thì hiện bóng người. Cho nên khi người về nhớ hoa
và người ở lại cũng là ngụ ý ngợi ca kín đáo người ở lại. Như thế chủ đề của đoạn
thơ đã được giới thiệu: Đó là hoa cùng người Việt Bắc. Chủ đề ấy sẽ được hiện lên
bằng bộ tranh tứ bình.
2.3. Bộ tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ của của
nhà thơ.
+ Tranh tứ bình là một trong những loại hình phổ biến trong nghệ thuật
trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức tranh mô tả trọn vẹn bốn mặt
của một đối tượng nào đấy. Vì vậy tự nó đã có tính hoàn chỉnh riêng. Thậm chí tự
nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng. ..(...)
+ Những bức tranh tứ bình này giúp cho nhà thơ mô tả được toàn diện và
thâu tóm những gì là đặc trưng nhất. Tố Hữu dã sử dụng lối vẻ tranh tứ bình khá
nhuần nhuyễn trong nhiều bài, đoạn thơ này có thể xem là bộ tranh tứ bình quý về
hoa cùng người của bốn mùa Việt Bắc. Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ
con người Việt Bắc. Con người là hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với
thiên nhiên. Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt
vẻ hoang sơ, thiên nhiên có chủ nhân, con người lại sống hoà hợp với thiên thiên,
giữa đất trời, tự do phoáng khoáng...Chữ “cùng” cho thấy điều đó.
* Bức tranh mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
+ Mở đầu là hình ảnh khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền
quê thật lặng lẽ, êm đềm, xa vắng. Gam màu chủ yếu là màu xanh. Nó gơị một
màu xanh mênh mông và yên tĩnh của rừng già. Tuy nhiên trên nền xanh trầm mạc
của núi rừng ấy bỗng rực lên một màu đỏ tươi của hoa chuối rừng: màu xanh của
núi rừng và màu đỏ của hoa chuối đều là những màu đậm, nguyên, gốc, gợi sức
sống mạnh mẽ.
+ Hình ảnh hoa chuối đỏ tươi không chỉ làm sáng bừng lên cả một góc rừng
mà còn làm cho bức tranh sống động hẳn lên. Nếu nền xanh kia gợi vẻ tĩnh lặng
nguyên sơ, nguyên thuỷ, thì bông hoa chuối như bó đuốc đang bập bùng cháy lại
sự sinh động, rộn rã. Mùa đông mà không hề âm u, lạnh lẽo, ngược lại còn rất ấm
nóng, màu đỏ của hoa cũng ánh với tia nắng ở câu thứ hai: Đèo cao nắng ánh càng
làm không gian lấp lánh, loé sáng rực rỡ, đầy sức sống vô cùng.
+ Và hình như bông hoa chuối với màu đỏ tươi còn mang một ý nghĩa tượng
trưng nào đó, như niềm tin, như là điểm sáng nâng đỡ tâm hồn con người. Sau này
khi đi xa miền đất ấy, nó sẽ là vùng sáng nhất, rực rỡ nhất trong kí ức hoài niệm,
như một nhà thơ đã từng viết:
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh đồi cao vẫy gọi mọi người.
+ Trên nền thiên nhiên ấy, con người hiện lên bình dị, đáng yêu và luôn gắn
bó với lao động, hoà hợp với thiên nhiên: bức tranh mùa đông nổi bật là hình ảnh
đặc tả người đi rừng với dao gài thắt lưng
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
+ Con người xuất hiện bằng thủ pháp hoán dụ: chỉ một con dao gài nơi thắt
lưng đang loé sáng khi ánh nắng chiều chiếu hắt vào. Nó gợi lên được tư thế vững
chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường miêu tả con người ở trong
tư thế ấy:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều


Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
+ Cũng chỉ là một hình ảnh ấy nhưng ở đoạn thơ trên, Tố Hữu phải viết đến
28 chữ, những ở Việt Bắc, đường như nhà thơ đã đúc vào 8 chữ. nhà thơ không vẽ
kĩ, mà chỉ dùng biện pháp gợi vẽ mây nẩy trăng, song cũng đủ cho người đọc hình
dung khá rõ nét về hình tượng. Như vậy ở bức tranh mùa đông, thiên nhiên ngập
tràn sức sống- con người khoẻ khoắn, mạnh mẽ, rất hài hoà với nhau.
*Bức tranh mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
+ Đến đây, nền xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của
hoa mơ rừng. Việt Bắc vào mùa xuân chắc phải ngập tràn màu trắng: hoa mơ, hoa
mận, hoa ban. Nhưng ở đây nhà thơ chọn một loại hoa đó là hoa mơ, nó vừa đẹp
vừa gợi sự tinh khiết, trinh bạch vừa gợi sự mộng mơ, thi vị. Hình như vì thế nên
hoa mơ vẫn luôn có duyên với giới thi sĩ.
+ Hai tiếng trắng rừng như làm cho cả núi rừng bừng sáng. Đây là hình ảnh
giàu tính hiện thực nhưng cũng thấp thoáng ý nghĩa tượng trưng., nó gợi lên một
nét đẹp trong sáng trong tâm hồn con người Việt Bắc. Với Tố Hữu nó không chỉ là
màu đặc trưng của Việt Bắc mà còn là một ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu .
Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu sắc hoa này. Sau
này, trong trường ca Theo chân Bác, một lần nữa nhà thơ viết:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
+ Sắc trắng của hoa mơ cũng làm cho núi rừng Việt Bắc có vẻ đẹp thuần
khiết, dịu dàng mềm mại. Chính vì thế, hình ảnh con người xuất hiện trên nền thiên
nhiên ấy cũng với dáng điệu dịu dàng, thầm lặng. Họ làm công việc giản dị ngày
thường : đan nón nhưng rất mềm mại, tinh tế, tài hoa:
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
+ Hai chữ chuốt từng gợi ra được sự cẩn trọng, tinh tế, tài hoa của người
Việt Bắc. Con người hiện lên như một nghệ nhân với công việc của mình. Từ
chuốt với âm với âm vực cao cũng làm cho giọng thơ như mềm đi. Những hình
ảnh đặc tả này giống như cảnh quay chậm của điện ảnh, nó không chỉ giúp người
đọc thấy rõ đường nét, hình khối , động tác của người lao động mà còn thấy cả ý
nghĩ đắn đó, thận trọng, thậm chí thấy được những ước mơ thầm kín mà họ gửi vào
những sản phẩm của mình.
* Bức tranh mùa hè:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
+ Trong những bức tranh trên, chúng ta chỉ mới thấy màu sắc, đường nét và
ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng
nhạc ve, nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng, trong các bức
tranh ở đây thì Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả.
+ Trong câu thơ dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến
cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến làm cho rừng phách ngả màu vàng. Ai đã lên Việt
Bắc dễ thấy hình ảnh kì lạ của những cánh rừng phách. Trong những ngày cuối
cùng của mùa xuân, cây phách vẫn là màu xanh, những nụ hoa vẫn náu mình kín
đáo trong kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì cả từng
phách nhất loạt trổ hoa vàng. Chỉ có vài ba ngày mà những những phách đã lênh
láng sác vàng.
+ Chữ đổ là một từ tinh tế. Nó nhấn mạnh khía cạnh mau lẹ trong việc biến
đổi màu sắc (so sánh với từ rũa, từ nhuốm, từ nhuộm), đồng thời diễn tả những trận
mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có luồng gió ào qua. Đặc biệt trong cách nói của
Tố Hữu , chúng ta còn như cảm nhận được sự liên quan của tiếng ve với màu vàng
của phách, cứ như ve kêu tới đâu, rừng phách ngả màu vàng đến đấy. Âm thanh và
màu sắc cũng hoà điệu với nhau: tiếng ve rộn rã, rừng phách rực rỡ, núi rừng thiên
nhiên Việt Bắc sôi động tươi vui hơn bao giờ hết.
+ Ở thiên nhiên mùa hè, hình ảnh cô gái hái măng một mình không hiện lên
với sư cô đơn côi cút mà lại gợi lên nét thơ mộng trữ tình đáng yêu. Ba chữ “cô em
gái” cho ta thấy cái nhìn trìu mến, thiết tha của người đi khi nhớ về Việt Bắc. Nó
cũng cho thấy, sự gắn bó máu thịt của những người Việt Bắc với cán bộ cách
mạng. Và khi đã đi xa, hình ảnh ấy hiện lên trong nối nhớ càng thân thương vô
cùng.
+ Thiên nhiên và con người ở đây nhìn bề ngoài có vẻ không hoà hợp, rừng
phách thì trổ vàng hàng hoạt, nhưng cô em gái chỉ có một mình. Nhưng thực chất,
giữa bạt ngàn hoa phách vàng rừng, giữa tiếng ve rộn rã khắp rừng, cô gái hái
măng một mình là hình ảnh trữ tình, duyên dáng. Cô gái không lẻ loi mà như cũng
hoà chung nhịp điệu sôi động ấy. Câu thơ này gợi nhắc đến một câu thơ của
Nguyễn Bính: Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ- cũng là hình ảnh rất đỗi nên thơ về
cảnh sắc núi rừng.
+ Hơn nữa, một mình cô gái giữa rừng còn gây ấn tượng về sự cần cù, chăm
chỉ, kiên nhẫn của con người Việt Bắc, lại toát lên dáng điệu chịu thương chịu khó,
hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Chính nhờ những con người như thế, mà những
những người cách mạng mới vựot qua được những năm tháng kháng chiến thiếu
thốn và gian khổ.
* Bức tranh mùa thu
Rừng thu trăng dọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
+ Bộ tranh kết thúc bằng bức tranh mùa thu: đêm trăng có ánh trăng rọi qua
vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này rất thích hợp với việc bộ
lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên. Nhà
thơ đã vận dụng lợi thế này một cách sáng tạo. câu thơ gợi không khi thanh bình
yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa
thiên nhiên (rừng thu) với vũ trụ (trăng) với cuộc sống yên vui trong sự hoà hợp
những tấm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại.
+ So với nhưng bức tranh ở trên, thì bức này được miêu tả ít cụ thể hơn nên
nó gợi được nhiều ý tứ hơn. Chọn một đêm trăng thu - hoà bình, nhà thơ còn như
gợi lạ những thời điểm lịch sử có ý nghĩa của nước ta đó đó mùa thu độc lập. Hơn
nữa bức tranh rừng thu có ánh trăng có thể phát huy trí tưởng tượng người đọc hơn
hết. Nó có thể làm ta nhớ lại bức tranh rừng già trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư
Em không nghe rừng thu
Dưới trăng mờ thổn thức
hay trong thơ Bác: Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
+ Con người ở bức tranh cuói cùng không hiện lên ở dáng điệu mà hiện lên
qua tiếng hát ân tình thuỷ chung. chữ ai là cách nói bóng gió ám chỉ người đnag
hát cùng mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát, chúng ta lại
thấy được phẩm chất khác của con người xứ sở này, đó là ân tình chung thủy.
3. Kết luận
+ Cả bốn bức tranh bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được
những gì là đặc trưng nhất của quê hương CM. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên
trong điệp khúc “nhớ thương”.
+ Những chữ nhớ đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của
nỗi nhớ. Nỗi nhớ là nền nhạc, là âm điệu là không khí của toàn bộ tiếng thơ này.
Trong nỗi nhớ, tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
+ Tóm lại, bốn bức tranh này, hoa và người Việt Bắc đều đẹp lung linh, rạng
rỡ, gắn bó mật thiết với nhau, hoa đứng cạnh người, người đứng cạnh hoa, bên
cạnh bức tranh toàn cảnh là bức tranh đặc tả như tôn thêm vẻ đẹp của nhau. Bức
tranh cũng in đậm dấu ấn của tấm lòng nhà thơ, tấm lòng nặng lòng với con người,
với thiên nhiên mà đặc biệt là con người và thiên nhiên của quê hương cách mạng.
Và đó còn là đạo lý truyền thống cao đẹp của Việt Nam.
+ Nghệ thuật: thể hiện rõ phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu: trữ tình, tha
thiết, đậm đà tính dân tộc. (Thể thơ lục bát quen thuộc vừa dân giã, vừa cổ điển
vừa hiện đại; Nhịp điệu cân đối, hài hoà, cô đúc, ngân nga dìu dặt…; đại từ mình ta
vừa truyền thống vừa hiện đại, tạo tính nhạc; Điệp từ nhớ được điệp đi điệp lại
nhiều lần, mỗi lần mang sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng tiến, thể hiện những
rung động chân thật của nhân vật trữ tình đối với thiên nhiên và con người Việt
Bắc )

Đề luyện: Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu

Những ý chính cần có


1. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình- chính trị
+ Thơ trữ tình chính trị thể hiện trực tiếp tư tưởng tình cảm chính trị trong
thơ. Tố Hữu thường khởi phát từ những vấn đề, những sự kiện chính trị: Đảng, lý
tưởng, xã hội chủ nghĩa, cách mạng, chiến tranh…Đó là những vấn đề chính trị
thường khô khan nhưng khi đi vào thơ Tố Hữu lại trở nên mềm mại, dễ đi vào lòng
người…
+ Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu là cái tôi công dân (khác với cái tôi cá
nhân riêng tư, nhỏ bé) gắn với những vai trò, nghĩa vụ, bổn phận của một người
công dân đối với đất nước. Cái tôi đó hoà vào trong cái Ta chung của cộng đồng…
(Tôi buộc lòng tôi với mọi người/ Để tình trang trải với trăm nơi…; Sống đã vì
cách mạng anh em ta/ Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà…)
+ Thơ Tố Hữu là thơ của những tình cảm lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn.
Tình cảm lớn đó là tình đồng chí, yêu lý tưởng, yêu Bác Hồ, yêu đất nước, yêu
cách mạng, tình quốc tế vô sản; lẽ sống lớn là “sống là cho đâu chỉ nhận riêng
mình”, sống để đấu tranh, xả thân, dấn thân vào máu lửa để giải phóng nhân dân
khỏi áp bức, là lẽ sống vươn tới sự tiến bộ chung của nhân loại; niềm vui lớn là
niềm vui chung của dân tộc, của đất nước, thường gắn với những chiến thắng lớn,
chiến công lớn…sôi nổi, hân hoan…
2. Thơ Tố Hữu mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
- Trước hết là khuynh hướng sử thi, nó vốn là một đặc điểm chung của văn học
cách mạng Việt Nam giai đoạn 45-75 nhưng thực sự được thể hiện rõ nét trong thơ
Tố Hữu. Tính sử thi được thể hiện ở các phương diện như: đề tài, hình tượng nhân
vật trung tâm, giọng điệu và ngôn ngữ.
+ Đề tài: đó là những đề tài trọng đại, lớn lao, liên quan đến vận mệnh của
dân tộc, nhân dân như chiến tranh, cách mạng, xây dựng xã hội chủ nghĩa…
+ Hình tượng trung tâm: thường là những người anh hùng có thật trong lịch
sử như chị Trần Thị Lý, Lý Tự Trọng, Lượm, mẹ Suốt, mẹ Tơm, Nguyễn Văn
Trỗi, Hồ Chí Minh…Đó là những anh hùng kết tinh sức mạnh, phẩm chất vẻ đẹp
của cộng đồng dân tộc; hoặc những hình tượng đám đông anh hùng: Quân đi điệp
điệp trùng trùng/ Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan…
+ Giọng điệu thường là giọng tráng ca, hào sảng, mang tính ngợi ca, ngưỡng
mộ: Em là ai cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi…
+ Ngôn ngữ hình ảnh: thường là kì vĩ, tráng lệ, sử dụng nhiều thủ pháp so
sánh, cường điệu, ước lệ…
- Cảm hứng lãng mạn trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn cách mạng, nó khác
với cảm hứng lãng mạn thơ mới là u sầu và bất mãn với thực tại, muốn thoát ly
khỏi hiện thực. Cảm hứng lãng mạn cách mạng thường là sự thể hiện cái tôi lạc
quan, bay bổng với niềm tin vào lý tưởng, vào tương lai vào sự chiến thắng của
dân tộc: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai Hoặc :
Ngày mai rộn rã sơn khê/ Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng…
3. Thơ Tố Hữu có giọng điệu riêng đó là giọng điệu thơ ngọt ngào tâm tình thương
mến
+ Đó là giọng điệu trìu mến, nhẹ nhàng, tâm tình, thủ thỉ dễ đi vào lòng
người…Có được điều này là ông sinh ra ở xứ Huế nên được hấp thu nguồn mạch
văn hoá Huế tạo ra giọng điệu trầm lắng, ngọt ngào rất đặc trưng của người Huế.
+ Mặt khác, Tố Hữu có một quan niệm về thơ: Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng
chí, đồng tình. Vì thế nhà thơ luôn muốn tạo ra sự đồng cảm giữa người và người,
giữa nhà thơ- độc giả, và điều này khiến Tố Hữu lựa chọn giọng điệu riêng này để
tạo ra sức lan toả trong cộng đồng…
+ Biểu hiện của giọng điệu này trước hết ở những cảm xúc của Tố Hữu
trong thơ: tình đồng đội, đồng chí, quân dân…đều được thể hiện rất ngọt ngào qua
những lời gọi thiết tha, trìu mến, nhắn nhủ: ôi Bác Hồ ơi/ Hãy về vui chút mẹ Tơm
ơi/ Thôi rồi Lượm ơi/ Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm…; Tố Hữu cũng sử dụng
nhiều câu hỏi tu từ, nhiều thán từ, khẩu ngữ trong thơ để tạo ra giọng điệu này: ừ
nhỉ, ôi, ơi, nhé, nghe…( Nhiều đấy ư em? mấy tuổi rồi/ Hai mươi! Ừ nhỉ, tháng
năm trôi…)
4. Hình thức thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc
+ Thể thơ: Tố Hữu thường sử dụng thể thơ lục bát để sáng tác. Đây là thể
thơ dân tộc có nhiều trong ca dao, dân ca. Nhà thơ đã có nhiều cách tân, sáng tạo
khi sử dụng thể thơ này để tạo nên màu sắc lục bát riêng vừa cổ điển vừa dân gian,
vừa rất hiện đại…
+ Tố Hữu cũng sử dụng nhiều hình thức nghệ thuật dân gian: kết cấu đối
đáp, cặp đại từ xưng hô mình- ta, nhiều biện pháp chuyển nghĩa quen thuộc của ca
dao: so sánh, ẩn dụ…
+ Thơ Tố Hữu cũng rất giàu nhạc tính do ông rất chú trọng sự hài hoà trong
phối thanh, hiệp vần, ngắt nhịp…

Đề luyện:

Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Bát cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xam đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thủa còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa

Dàn ý chi tiết


1. Giới thiệu tác giả tác phẩm, đoạn trích
2. Cảm nhận khái quát
+ Đoạn thơ tự nó chia làm 3 phần. Bốn câu trên, Tố Hữu gợi lại phong cảnh
thiên nhiên hoang sơ mịt mù của Việt Bắc, gợi lại những ngày tháng đầu vô cùng
thiếu thốn và gian khổ. Bốn câu tiếp theo là tấm lòng thuỷ chung, nỗi nhớ thương,
mong ngóng của người ở lại đối với người đi xa được thể hiện một cách tinh tế và
duyên dáng. Bốn câu cuối lại là sự gợi nhắc về những kỉ niệm về không gian và
thời gian lịch sử trong chặng đường kháng chiến.
+ Hình thức đối đáp là một đặc sắc nghệ thuật của đoạn thơ nói riêng và bài
thơ nói chung. Riêng ở đoạn thơ này, việc sử dụng hai đại từ mình- ta có rất nhiều
điều đáng nói.
+ Điều khá nổi bật trong đoạn thơ này là cùng diễn tả ý niệm người cán bộ
kháng chiến về xuôi nhưng cũng có lúc người ở lại dùng từ mình đi, có khi lại
dùng từ mình về dù đi và về là hai từ ngược hướng. Điều tế nhị là ở chỗ đó. Trong
phần này, người ở lại khẳng định tình cảm của mình dành cho người về xuôi nên
dùng từ về. Dù với mình, lần ra đi này là về, về với quê hương bản quán, về với nơi
mình đã từ đó mà ra đi, cũng là nơi suốt 9 năm trời mong mỏi. Còn VB lúc này là
nơi mình bỏ lại phía sau. Ấy thế nhưng Việt Bắc vẫn nhớ thương và trông đợi. Như
thế mới thấy được tình cảm sâu nặng của Việt Bắc như thế nào.
+ Khi người ở lại dùng hai chữ mình đi cũng có hàm ý tinh vi của nó. Trong
Tiếng Việt, chữ đi thường được dùng trong tương quan với về. Đi là cất bước, là
chia xa khỏi căn nhà của mình, là đến những nơi xa lạ. Khi dùng hai chữ mình đi,
ẩn ý của người nói đã coi Việt Bắc luôn là nhà của người kháng chiến. Nó đã từng
là ngôi nhà cưu mang, che chở cho người kháng chiến suốt 15 năm thiết tha mặn
nồng. Và giờ đây, người kháng chiến đã giã từ ra đi, nó vẫn luôn là ngôi nhà đợi
chờ sau lưng họ, thầm mong họ trở về. Nói như thế, người ở lại không chỉ khẳng
đinh tấm lòng hiếu khách luôn rộng mở mà còn là tấm lòng thủy chung sau trước
dành cho người đi.

You might also like