Professional Documents
Culture Documents
Ca dao là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không
theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao
là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát
ngắn, không có giai điệu, chương khúc.
Một số ví dụ về ca dao:
“
Có công mài sắt có ngày nên kim.
"từ đó, nhiều câu từ có vần nhịp được chính người dân lao động phổ thành ra đời, nhằm ca
thán, thương tiếc thay cho thân phận người phụ nữ, hay cũng chính là để than cho chính thân
phận mình, gọi là ca dao than thân"
Than thân
Than thân là một trong những chủ đề quan trọng trong ca dao Việt Nam. Chùm ca dao này có số
lượng bài khá lớn. Đó là những câu ca dao được cất lên từ những kiếp người đau khổ
lầm than trong xã hội cũ. Những con người ấy phái chịu trăm đắng ngàn cay, những đè nén, áp
bức, những uất ức, tủi nhục, hờn giận.
2 câu thơ:
...
Phân tích
Hai lời than thân này đều có hình thức mở đầu là cụm từ “thân em như….” kèm theo một âm
điệu ngậm ngùi, xa xót. Có thể xác định đây là lời than của những cô gái đang đến độ xuân
thì. Tuy có phẩm chất đẹp thế nhưng vẻ đẹp ấy lại không được nâng niu và trân trọng. Họ
không thể tự quyết định được tương lai và hạnh phúc của mìn. Họ khát khao và chờ mong
nhưng vẫn phải gửi cuộc sống của mình cho số phận.
Cả hai bài ca dao tuy đều nói đến thân phận nổi nênh, thiệt thòi của người phụ nữ trong xã
hội xưa. Thế nhưng mỗi bài lại có một sắc thái tình cảm riêng:
- Bài 1: Người phụ nữ ý thức được tuổi xuân và vẻ đẹp của mình (như tấm lụa đào). Nhưng
thân phận lại thật xót xa khi không thể tự quyết định được tương lai của chính mình (phất phơ
giữa chợ biết vào tay ai?).
- Bài 2: Đây là lời khẳng định phẩm chất và vẻ đẹp đích thực của con người (ruột trong thì
trắng vỏ ngoài thì đen). Bài ca còn là lời mời mọc da diết của cô gái. Lời mời mọc ấy là khát
khao của con người mong muốn được khẳng định cái chân giá trị, cái vẻ đẹp của mình. Tư
tưởng của bài ca dao vẫn là nỗi ngậm ngùi chua xót cho thân phận của người con gái trong
xã hội xưa.
- Những hình ảnh (mô típ) đã trở thành biểu tượng: cái cầu, khăn, đèn, gừng cay – muối
mặn…
- Các mô típ thời gian li biệt, không gian xa xôi cách trở.
- Thể thơ: lục bát – lục bát biến thể, vãn bối (4 chữ), song thất lục bát (có cả biến thể).
Những biện pháp nghệ thuật này có nét riêng so với nghệ thuật thơ của văn học viết: nó
mang nhiều dấu ấn của cộng đồng. Những dấu hiệu nghệ thuật này đều quen thuộc, dễ nhận
ra. Trong khi đó nghệ thuật thơ của văn học viết thường mang dấu ấn riêng của người nghệ sĩ
– dấu ấn đặc trưng của từng tác giả.
- Hai bài đầu sử dụng cùng một hình ảnh so sánh : thân em – hạt mưa, để nói lên nỗi khổ của
cô gái khi số phận của mình (buồn – vui, sướng – khổ) chỉ có thể trông nhờ vào sự may mắn
mà thôi.
ví dụ về những câu hát than thân:
Nước non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?
Người ta đi đôi về đôi, Thân em đi lẻ về côi một mình.
Ở những câu, bài ca dao có “Thân em...” mang nghĩa là thân phận, cuộc đời của
người phụ nữ. Những thân phận, cuộc đời này thường có số kiếp hẩm hiu, bạc
bẽo. Đa phần những câu ca dao với mô - típ này thường mang giai điệu buồn tẻ,
chán ngán, chỉ một số ít mang âm hưởng tươi tắn, lạc quan hơn.
“Thân em...” phản ảnh sự lệ thuộc, thể hiện nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội
cũ:
Hay:
“Thân em như cá giữa rào
Đối với bà con Nam bộ, họ lại lấy thứ trái cây rất bình thường, dân dã để so sánh
với “Thân em...”:
Ở những câu ca dao này đã liên tưởng, thể hiện nỗi cảm thông sâu sắc đối với
thân phận người phụ nữ. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia bị lệ thuộc, ràng buộc
bằng nhiều sợi dây, hữu hình và vô hình, khiến họ không thể vươn lên:
“Thân em như cá vô lờ
Mắc hom chật hẹp biết bao giờ mới lộn ra”
Những câu ca dao mở đầu bằng yếu tố “Thân em...”, người bình dân còn muốn
thể hiện nỗi đau khổ, bất hạnh của người phụ nữ khó có thể giãi bày trong xã hội
đương thời. Họ phải gửi gắm lòng mình qua những câu ca dao thật khắc khoải:
Và:
Nỗi đau ấy đâu phải ai ai cũng thấu hiểu cho họ, lắm lúc bề ngoài trông họ tươi
tắn mà ruột gan rối bời:
“Thân em như cây sầu đâu
Dẫu trải qua bao giông tố cuộc đời, số kiếp có bạc bẽo đến đâu thì người phụ nữ
vẫn vẹn toàn đức hạnh. Họ vẫn son sắt, dào dạt tình thương:
Hơn hết, họ vẫn muốn khẳng định giá trị và sự cần thiết của mình:
Thế mới biết, người phụ nữ Việt Nam dù trong khó khăn, thử thách họ vẫn thể
hiện bản lĩnh. Tác giả bình dân đã tự hào ca ngợi vẻ đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn
của người phụ nữ, thể hiện giá trị vốn có của họ:
Quả vậy, “Thân em...” thật đẹp đẽ và cao quý lắm thay:
Cũng liên tưởng đến “tấm lụa đào” nhưng lắm khi họ không phải bị cảnh “phất
phơ giữa chợ” mặc cho thiên hạ kẻ bán người mua, nhưng họ đã biết khẳng định
mình:
Người phụ nữ Việt Nam thật đáng yêu, không phải họ chỉ đẹp bằng hình ảnh khăn
nhung, mỏ quạ của xứ kinh kỳ, bằng chiếc nón lá rất Huế hay bằng một chiếc áo
bà ba dịu dàng Nam bộ mà họ còn đẹp về tâm hồn và phẩm hạnh. Quả thật, họ
như bông sen mọc giữa đầm lầy, đậm sắc và ngát hương.
Những câu ca dao bắt đầu mô-típ “Thân em...” còn thể hiện nỗi khát khao về một
tình yêu đẹp, một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Bởi thế, những người phụ nữ thật
dịu dàng và nhu mì trong trường liên tưởng:
“Thân em như trến mít chạm rồng
Thân anh như kèo chua chạm phụng, đẹp vô cùng anh ơi!”
Người bình dân còn hào sảng đặt thân phận người phụ nữ một địa vị cao hơn,
hơn cả “Thân anh”. Thậm chí, nhiều câu ca dao phủ định vai trò tối thượng của
người đàn ông trong xã hội cũ; qua đó thể hiện sự phản kháng, vùng dậy của nữ
giới. Họ cũng có nhu cầu được hạnh phúc, được là chính mình. Bởi thế lắm lúc họ
ngang nhiên thách thức:
Vậy mới biết, “Thân em...” cũng có ba bảy kiểu, đâu chỉ biết buông xuôi cam chịu!
Đa phần những câu, bài ca dao này được làm bằng thể thơ lục bát, một số ít
được làm theo thể song thất lục bát. Tuy nhiên, về hình thức thể hiện, theo khảo
sát của chúng tôi có gần 30% câu, bài ca dao làm theo thể lục bát biến thể. Điều
này minh chứng cho bản tính phóng khoáng, nghĩ sao viết vậy, không e dè câu
chữ của người bình dân. Chính đặc điểm này đã để lại dấu ấn rất riêng, rất dân
tộc. Do thể thơ lục bát có tính hàm súc, biểu cảm cao và dễ thuộc, dễ hiểu nên
hiệu quả của việc thể hiện nội dung rất lớn.
Dân gian thường dùng những từ ngữ rất bình dân, mang đậm phong cách khẩu
ngữ, bên cạnh đó là lớp từ địa phương: đọi, vô,... hay từ láy: lắc lẻo, dập dồi, đứt
đoác... Từ những sự vật, hình ảnh cụ thể, rất thực, người bình dân xưa đã thổi
hồn vào nó, mang đến cho người đọc những ý nghĩa rất sâu sắc, nhân văn, thể
hiện tâm hồn nghĩa tình của người dân Việt.
Một thành công rất đáng trân trọng của những câu ca dao loại này là sử dụng biện
pháp tu từ so sánh. Người bình dân thường sử dụng những hình ảnh rất đa dạng,
phong phú nhưng đều rất quen thuộc với đời sống nông thôn: cá vô lờ, chẽn lúa
đòng đòng, trái bần,... Những hình ảnh, sự vật này người ta đã biết rõ đặc điểm,
thuộc tính cơ bản của chúng, nhờ vậy người đọc rất dễ hình dung và nhận biết.
Những bà mẹ- người nghệ sĩ của tình thương đã ngân lên những giai điệu hát ru
đẹp và ngọt ngào bằng chính những câu ca dao. Thật vậy, ca dao đã đi sâu vào
tiềm thức và tâm hồn của người bình dân. Bằng những câu ca dao với mô-
típ “Thân em...”, dân gian đã thốt lên những tiếng đời than thân, trách phận. Bên
cạnh đó họ còn thể hiện thái độ phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi của người
phụ nữ, làm giàu thêm cho ca dao người Việt.