Professional Documents
Culture Documents
Đề bài: Phân tích bài ca dao “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Bài làm
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có
nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm
cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn
bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã
trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của
họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lòi than thân buồn tủi:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng
vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có
đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng
đúc kết ‘Người đẹp vì lụa”. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải
bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người
tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật đấy, nhưng chắc gì đã có
người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn,
tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại
gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.
Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người
con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về
thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết
định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.
Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng
định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và
bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Ta đã biết đến một nàng Kiều gian truân,
ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Hay cả một nàng Vũ Nương chịu hàm oan
phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn rất nhiều không biết bao nhiêu chuyện về thân phận
người phụ nữ được biết và không biết nữa nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông
lệ. Và những người phụ nữ họ không thể nào mà thoát ra được cái lối mòn đó, học đành cam
chịu cho số phận xô đẩy. Và họ thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình
“Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở
về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh
và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như
thân phận ngưòi phụ nữ vậy.
Ca dao được xem là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều
tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian dường như có lẽ đã thấu suốt
được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô
nhỏ nhẹ, mềm mỏng. Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm
giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm
nhường thôt lên hai tiếng “thân em”. Thân phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ đã được
văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân
em vừa trắng lại vừa tròn qua thi phẩm “Bánh trôi nước”. Nguyễn Du thương xót cũng đã phải
thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò
khi quãng vắng. Còn ca dao thì sao? Ca dao lại nói về đời người con gái, người phụ nữ trong xã
hội xưa qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây được tác giả dân gian
sử dụng một cách thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa
đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn, phẩm chất ngưòi phụ nữ vậy. Hơn
nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay
khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một
món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình
ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một
nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
“Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết
giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là
về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định
được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám
Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong
nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có
được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, dường như người phụ nữ
xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn ‘trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng,
thờ cha, theo con phải chịu sự áp đặt của lễ giáo trong xã hội cũ. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió,
phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu
hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc
một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.
Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than. Nó như được sinh ra từ số phận cam
chịu của người phụ nữ thời phong kiến, học ó tài nhưng lại phải chịu những đau khổ tủi hờn nhất
vì không được làm chủ cuộc đời mình. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc
câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản
phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca
toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng
than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một
hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con
người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng
ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ
nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ
bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu… Vì thế câu ca dao dường như đã lột tả
được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho
sô” phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc
buồn thương không ngừng và có sức lan tỏa chảy từ ngưòi này sang người khác, từ đời này sang
đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Ngưòi phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều
đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như vải lụa bay trong
cơn gió mải miết kia không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải
chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:
“Ví đây đôi phận làm trai được”
Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất
lực?
Đề bài: Cảm nhận bài ca dao “Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen./ Ai
ơi, nếm thử mà xem!/ Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi”
Bài làm
Ca dao dân ca từ xưa đến nay tựa như dòng sữa mẹ ngọt mát, nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ lớn
lên, những câu ca dao không chỉ tha thiết, thấm đượm cảm xúc mà còn chứa đựng bao triết lý
nhân sinh sâu sắc. Bên cạnh ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa thì ca dao than thân
trách phận của người phụ nữ luôn để lại những suy tư và xúc cảm trong lòng độc giả. Nổi bật
trong số đó là bài:
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi”
Bài ca dao nằm trong mô típ ca dao than thân, nói lên số phận mong manh yếu đuối của người
phụ nữ từ xưa đến nay. Dòng cảm xúc bao trùm của nó là cảm xúc xót xa, buồn thương của
người phụ nữ cho chính thân phận của mình. Từ đó muốn cất lên tiếng nói, tìm kiếm sự yêu
thương và khát khao đồng cảm. Câu ca dao với ngôn ngữ uyển chuyển, ý tứ khéo léo đã gieo vào
lòng người đọc những khắc khoải khôn nguôi.
Mở đầu bài ca dao là cụm từ “Thân em” – mô típ được lặp lại nói về thân phận người phụ nữ.
Một số câu ca dao khác cũng sử dụng mô típ này như: “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như
dải lụa đào”, “Thân em như giếng giữa đàng”,… Việc lấy thân mình ra để so sánh với một sự vật
hiện tượng trong cuộc sống đã cho thấy sự tự ý thức của người phụ nữ. Họ cảm nhận được rằng
số phận mình rất mong manh tựa như cánh hoa trước gió bị bão giông của cuộc đời dồn dập, như
dải lụa đào phó mặc cho số phận nổi trôi. Thậm chí còn nhuốm vị chua chát, nhỏ nhoi, bé mọn.
Bởi vậy mà mô típ này được sử dụng nhiều trong ca dao than thân trách phận.
Ở câu ca dao này, dân gian ví người phụ nữ như “củ ấu gai” là một so sánh khéo léo. Bởi lẽ củ
ấu gai là một loại củ gần gũi với đời sống người việt. Không chỉ vậy, nó còn thể hiện được vẻ
đẹp của người phụ nữ xưa, không kiêu sa đài các mà giản dị, chân chất. Và hơn hết, củ ấu gai có
những đặc tính giống với bản chất của người phụ nữ : Ruột trong thì trắng – vỏ ngoài thì đen.
Nếu chỉ nhìn vẻ bề ngoài vừa đen, vừa xấu xí của củ ấu thì không ai biết được bên trong nó như
thế nào. Muốn thưởng thức củ ấu, phải tách nó ra, nhìn thấy phần ruột trắng thơm trong trẻo thì
mới biết được giá trị của nó. Và người phụ nữ cũng vậy. Vẻ đẹp của họ nhiều khi bị khuất lấp
bởi bao nhiêu lo toan mệt nhọc của cuộc sống, bao nhiêu những tủi hờn, xót xa không ai thấu
hiểu. Thế nhưng ẩn đằng sau hình thức ấy lại là một tâm hồn cao đẹp, biết vị tha, khoan dung. Lẽ
đời, nhiều khi hình thức lại không đi kèm với nội dung. Bởi vậy, muốn khám phá ra vẻ đẹp tiềm
ẩn của người phụ nữ, đòi hỏi ai kia phải là kẻ tinh tế và đầy thấu hiểu. Vẻ đẹp bên ngoài là vẻ
đẹp phù phiếm, vô cùng cuốn hút và hấp dẫn nhưng nó sẽ lụi tàn đi theo thời gian năm tháng.
Chỉ có vẻ đẹp bên trong là giá trị trường tồn vĩnh cửu, đi cùng với cuộc sống và hạnh phúc sau
này của con người. Đó cũng chính là triết lý nhân sinh sâu sắc mà dân gian muốn gửi gắm đến
độc giả.
Hai câu thơ cuối bài là lời mời gọi “nếm thử” của cô gái đối với các chàng trai. Hay nói cách
khác đó là sự thể hiện khát khao được thấu hiểu và đồng cảm của họ. Thân là phụ nữ, sinh ra đã
phải chịu bao nhiêu đắng cay khổ cực. Bởi vậy họ chỉ có mong muốn duy nhất là được làm chính
mình và được người khác công nhận với tất cả vẻ đẹp nhân bản và “ngọt bùi” của mình. Qua đó,
câu thơ cũng đọng lại ý vị xót xa, chua xót của người phụ nữ cho chính bản thân mình.
Bài ca dao với hình ảnh sinh động, ngôn ngữ giàu cảm xúc đã giúp những nghệ sĩ dân gian
chuyển tải được hết nội dung và ý nghĩa. Qua đó, để lại trong lòng độc giả những ấn tượng khó
quên.
Đề bài: Phân tích hình ảnh muối gừng trong ca dao để chứng minh nhận định của nhà văn Thuần
Phong: “Ca dao tự vạch cho mình một lối đi,… ca dao là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân
tộc”
Bài làm
“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
… Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh”
(Thời gian – Văn Cao)
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật luôn sống một cuộc đời cao
đẹp gắn liền với con người và kết tinh những giọt ngọc của thời đại. Có lẽ khi đến với ca dao, tất
cả giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa, neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta là hình ảnh muối gừng
gắn liền với các cặp vợ chồng tượng trưng cho tình yêu lành mạnh, đồng thời cũng hết sức mãnh
liệt, mặn nồng. Từ những hình ảnh ấy, nhà văn Thuần Phong nhận định: “Ca dao tự vạch cho
mình một lối đi,… ca dao là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc”.
Đứng về mặt văn học mà nhận định, người ta có thể nói ca dao là thể loại thơ trữ tình dân gian
do nhân dân sáng tác tập thể, thường kết hợp với âm nhạc diễn xướng nhằm diễn tả đời sống nội
tâm của con người. Nó thường ngắn gọn, phần lớn theo thể lục bát hoặc lục bát biến thể, là tiếng
nói giãi bày trong các mối quan hệ quê hương gia đình, lứa đôi. Có thể xem ca dao là tấm gương
phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người lao động Việt Nam, là “tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”.
Đặc biệt hơn “ca dao tự vạch cho mình một lối đi,… ca dao là kết tinh thuần tuý của tinh thần
dân tộc”.
Trong các chủ đề của ca dao, tình yêu thuỷ chung là chủ đề nổi bật, xuyên thấm trong rất nhiều
câu hát, “những người lao động đã thế kỷ này qua thế kỷ khác, diễn tả trực tiếp lòng mình yêu
thương, sướng vui, đau khổ” (Xuân Diệu). Thuộc nhóm những câu thơ có biểu tượng kép về sự
thuỷ chung là “muối – gừng”, bài ca dao sau khá đặc sắc ở hình thức lục bát biến thể:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Muối và gừng là một hình ảnh vô cùng quen thuộc trong ca dao nghĩa chung sâu sắc. Nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: “Theo phong tục Huế, trong đêm tân hôn, cô dâu và chú rể làm
lễ cúng tơ hồng… Đó là lời nguyện lấy cái tâm để sống với nhau suốt một đời”. Muối gừng được
dùng làm lễ vật để cúng ông Tơ bà Nguyệt, quyết định việc hôn phối đôi vợ chồng trẻ với ý
nghĩa cầu sự gắn bó, thuỷ chung. Trong số những lễ vật của nghi lễ này, muối và gừng mang tính
“trần thế” hơn cả nhưng ý nghĩa sâu sắc lại nằm ở mùi vị của chúng. “Mặn” và “cay” là hai đặc
tính của muối và gừng, là mùi vị cần thiết và khó quên đối với con người. Tất cả đều là những
gia vị quen thuộc trong từng bữa ăn người Việt, là vị thuốc dân gian của người lao động nghèo,
và đặc biệt rất khó quên. Xét mặt “mùi đời”, có thể coi đây là hai “vị chủ”, nhấn mạnh “cay” và
“mặn” thể hiện hai mặt đối lập cho thấy sự nhìn nhận vấn đề hôn nhân rất khách quan: cay đắng
hay mặn nồng là hai trạng thái, tình huống song song tồn tại trong tình cảm vợ chồng; đó là cuộc
sống vốn dĩ của con người, là bình thường! Hai câu sau như một lời thề ước cho tình yêu son sắt.
Những cụm từ đối xứng “nghĩa nặng – tình dày” vừa nói hết được cái nghĩa cái tình của một mối
quan hệ tình cảm, vừa ngụ ý chú trọng cái nghĩa hơn cái tình. Câu cuối cùng là câu bát biến thể,
được kéo dài đến mười ba chữ. Dường như đã là lời thề thì cần phải đầy đủ, chặt chẽ. “Ba vạn
sáu ngàn ngày” thực chất là một cách nói khác của trăm năm – một đời người. Với hình thức câu
giả thiết “có… mới…”, câu ca dao là một lời khẳng định đanh chắc về sự gắn bó thuỷ chung,
bền lâu.
Mỗi bài ca dao chỉ được gói gọn trong vài dòng, nhưng đó là kết quả của cả một quá trình chiêm
nghiệm, ngẫm nghĩ. Phải soi sáng được giá trị bài thơ, chúng ta mới biết nâng niu, nhận ra
“những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” (Nguyễn Minh Châu) sau từng câu
chữ. Mặt khác của muối gừng, ngoài nói lên tình nghĩa bền lâu, son sắt, thuỷ chung, nó còn diễn
tả cuộc hành trình vượt qua khó khăn cùng nhau, đặc biệt được thể hiện qua câu ca dao:
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Lên rừng hái quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”
Đến với bài ca dao thứ hai, ta lại càng thấy tình nghĩa vợ chồng ngày càng mặn nồng, tha tiết.
Động từ “rủ” kết hợp với cụm từ chỉ hành động “xuống bể” – “lên rừng” thể hiện sự gắn bó chặt
chẽ, không tách rời nhau. Dù có đi khắp bốn phương cũng không vượt qua khó khăn một mình,
càng ngày càng thắp sáng cho ngọn lửa vợ chồng lan toả mạnh mẽ, có sức sống mãnh liệt. Hành
động “mò cua” – “hái quả mơ” nói lên những điều giản dị trong cuộc sống vợ chồng, đều dễ
dàng tìm thấy nhưng lại đặc trưng cho tình yêu da diết, bền lâu. Nếu như bài ca dao trên thể hiện
ba vạn sáu ngàn ngày mới xa nhau thì đến với bài này, họ thể hiện sự gắn bó vượt qua khó khăn,
cùng làm cùng chia trong cuộc sống đời thường. Tính từ “chua ngọt” đặc trưng cho sóng gió, bão
táp trên đường đời mình đều đã trải qua cùng nhau. Cuối câu thơ họ lại dùng hình ảnh “muối” –
“gừng” một lần nữa khẳng định sức sống vĩnh cửu vợ chồng bên nhau, gian nan dù bắt ta xa
nhau nhưng tình cảm vợ chồng sẽ hàn gắn tất cả. Hình ảnh ấy còn được thế hệ sau tiếp nhận, học
hỏi và thể hiện lại ở một tầm cao mới, nói về tình yêu một cách trực tiếp hơn, không còn lấy hình
ảnh biểu trưng muối gừng nhưng vẫn giữ nét mộc mạc, giản dị đôi vợ chồng:
“Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ ta sẽ lấy nhau lúc goá bụa về già
….
Chết ba năm hình còn treo đó,
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung
Chết thành muôi, ta múc nước cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.
….
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xuôi, không ngoảnh không nghe.”
(Xống chụ xon xao)
Qua đó, hai bài ca dao tiến thêm một bước mới: đứng trên cơ sở những trải nghiệm cay đắng
mặn mà của tình nghĩa vợ chồng, để thề ước trăm năm. Ý nghĩa của cả bài có thể diễn đạt như
sau: dù cuộc tình duyên này có gặp phải điều chua chát đắng cay vì bất cứ nguyên nhân chủ quan
hay khách quan nào, hai ta cũng quyết không bỏ nhau. Có lẽ khó có một lời thề nào sâu sắc như
vậy vì không thể tìm ra được kẽ hở để vịn vào khi muốn bội ước hay giải thề. Chính vì thế, “ca
dao tự vạch cho mình một lối đi,… ca dao là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc” là nhận
định vô cùng hợp lý, thuyết phục. Mỗi bài ca dao đều minh chứng cho một góc nhìn của người
dân lao động xưa, thể hiện nỗi niềm riêng biệt không trùng lặp. Nó “tự vạch cho mình một lối
đi”, trở thành thể loại đặc trưng cho văn học Việt Nam cả thời xưa và nay. Chính ca dao cũng là
“sợi chỉ đỏ” gắn kết con người gần lại với nhau, “kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc” suốt
bốn nghìn năm lịch sử không bị phai nhoà. Ca dao “duy trì tình tự dân tộc bằng cách kết nối dĩ
vãng với hiện tại trong công tác phản ảnh nếp sống hằng ngày của dân tộc qua những cộng đồng
làm nên dân tộc đó” (Nguyễn Văn Trung). Nó còn là nguồn thi hứng vô tận của biết bao thi nhân
đời sau, dù chỉ mang tính biểu trưng nhưng lại rực lửa mạnh mẽ về mặt nội dung, hàm ý ẩn giấu
sâu trong đó, mang đến cho bạn đọc nhiều khám phá mới mẻ sau mỗi lần ngẫm nghĩ.
Một bài hát hay không chỉ hay ở nội dung mà còn hay ở giai điệu, một con người hoàn thiện
không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà còn đẹp ở nhân cách bên trong. Cũng giống như một bài ca dao
không chỉ hay ở nội dung mà còn hay ở giá trị nghệ thuật. Và hình ảnh muối gừng đã được nhiều
người tập trung khai thác về tính đa nghĩa. Với cách dùng từ mộc mạc, giản dị kết hợp với từ
ngữ xưa đã thể hiện rõ tình yêu thuỷ chung của đôi vợ chồng thề nguyện không bao giờ xa cách
nhau. Hay có thể nói như GS. Cao Huy Đỉnh: “Thơ trữ tình dân gian cũng là một hệ thống hình
ảnh thiên nhiên và lao động quyện lẫn cảm nghĩ và tâm tình của con người. Nó được sáng tác
ngẫu hứng theo những quy cách so sánh, liên tưởng, phóng đại, ước lệ và trùng lặp. Thật khó
lòng tách bạch được cảnh, tình, người và việc ở trong đó” (“Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian
Việt Nam”). Có lẽ ca dao sẽ luôn là điểm sáng cho các thế hệ sau nhìn lại với từng câu chữ đi
vào lòng người.
Mỗi chúng ta khi đọc một bài ca dao đều có những cách cảm, cách nghĩ riêng, từ đó đọng lại
trong lòng là những cung bậc cảm xúc được rung lên ở nhiều nốt khác nhau. Mọi thời đại, thế hệ
rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của các bài thơ “vô danh” nhưng văn học
với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc những
nội dung tốt đẹp về hình ảnh muối gừng tượng trưng cho tình yêu thuỷ chung cũng như nhiều
thông điệp khác suốt trường kỳ lịch sử.
(Đức Mạnh, Học sinh THPT Nguyễn Thượng Hiền)
Đề bài: Vẻ đẹp của bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”
Bài làm
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng khẳng định: “Không chờ đợi thơ chính quy, thơ chuyên nghiệp diễn
tả hộ cho mình, những người lao động đã thế kỉ này qua thế kỉ kia khác, diễn tả trực tiếp lòng
mình yêu thương, sướng vui, đau khổ”. Có thể nói, chủ đề yêu thương, tình nghĩa trong ca dao là
mảnh đất rộng lớn để các tác giả dân gian thỏa sức sáng tạo và bày tỏ những tâm tư, tình cảm của
mình. Đặc biệt, trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ - khi đôi lứa yêu nhau nhưng khó có thể có
một cuộc sông hạnh phúc bên nhau - thì những âm điệu tha thiết của ca dao lại như chiếc cầu nôi
để cho họ ngân lên những khúc hát giao duyên thầm kín, ý nhị. Cũng với cách thể hiện như vậy
nhưng bài ca dao Khăn thương nhớ ai đã để lại một dấu ấn riêng trong lòng người đọc với những
nét duyên dáng của tình yêu lứa đôi.
Đọc bài ca dao Khăn thương nhớ ai, ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng bạn đọc chính là hình
thức trình bày đặc biệt với mười câu thơ 4 chữ và một cặp lục bát. Nó khác hẳn với cấu trúc của
nhiều bài ca dao khác. Có thể nói, nét đặc biệt về hình thức đó đã tạo nên sự hài hòa, hiệu quả
với thể hứng của bài ca dao. Đó là thể loại mượn câu chuyện của ngoại cảnh bên ngoài để bày tỏ
những tâm trạng, những nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Cụ thể trong bài ca dao này, cô gái đã
mượn những hình ảnh về khăn, mắt, đèn dể diễn tả tâm trạng thao thức trong tình yêu. Sự kết
hợp giữa thể thơ và thể loại của bài ca dao thật tương xứng và hài hòa. Nếu mười câu thơ 4 chữ ở
đoạn đầu với nhịp điệu nhanh cùng một loạt những câu hỏi tu từ thể hiện nỗi nhớ thương chồng
chất thì hai dòng thơ sau lại trở về với thể thơ lục bát quen thuộc, nhịp điệu thơ thay đổi từ nhanh
sang chậm bởi người con gái giờ đây đang trực tiếp bày tỏ cảm xúc của mình nên câu thơ lại cần
trải dài hơn, mượt mà và sâu lắng hơn.
Nỗi niềm tâm sự của cô gái được lần lượt diễn tả qua khăn, rồi chiếc đèn và cuối cùng là đôi mắt.
Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao xuất hiện khăn, đèn, mắt và cũng không phải ngẫu nhiên
chúng lại được sắp xếp theo một trật tự như vậy. Đọc thật kĩ và suy ngẫm, ta sẽ thấy các sự vật
đó đều nằm trong một trạng thái chuyển động, không chỉ là chuyển động về vị trí bề ngoài mà
còn là chuyển động cả bên trong. Người con gái xa cách người yêu, phải sông trong nỗi nhớ
thương khiến cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rộng trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà
quanh quẩn trong tâm trí trăm mối tơ vò, khiến những vật chứng tưởng chùng như vô tri vô giác
là “khăn”, “mắt”, “đèn” cũng phải động lòng. Trong bài ca dao khăn, đèn, mắt được nhân hóa,
hiện lên hết sức sống động và dường như cũng đồng cảm với những nỗi niềm của cô gái.
Đầu tiên là hình ảnh của chiếc khăn:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.”
Là một vật dụng thân thuộc, gắn liền với người con gái, chiếc khăn hiện ra trong bài ca dao chất
chứa nhiều tâm trạng, cảm xúc. Những câu hỏi vang lên rồi lại chìm vào hư vô vắng lặng để rồi
cuối cùng trào ra thành những giọt nước mắt. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ biết bao kỉ niệm
của mối tình tha thiết, mặn nồng. Cô gái cầm chiếc khăn lên rồi hỏi: “Khăn thương nhớ ai”. Sự
lặp lại từ khăn cùng lối vắt dòng khiến những câu thơ tạo thành một điệp khúc tạo cảm giác
dường như nỗi nhớ càng thêm triền miên. Mỗi lần cô gái hỏi chiếc khăn là một lần nỗi nhớ thêm
trào dâng cuồn cuộn trong lòng. Cô gái đang hỏi chiếc khăn trao duyên hay là đang đối thoại với
bản thân mình? Đằng sau nghệ thuật đảo thanh dấu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận
động trái chiều; đằng sau hết thảy các sự “xuống - lên”, “rơi - vắt” của khăn hiện lên hình ảnh
người con gái đang sông trong tâm trạng nhung nhớ khôn nguôi về mối tình đẹp đẽ. Nỗi nhớ
thương lên đến cao độ khiến người trong cuộc không còn tự chủ được dáng đứng, bước đi,
không thể yên ổn. Nó khiến người đọc nhớ đến câu ca dao:
“Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.”
Sự chuyển động của chiếc khăn diễn tả nỗi nhớ da diết trong lòng cô gái mà biểu hiện cao nhất là
những giọt nước mắt nhớ thương, đợi chờ khắc khoải...
Nỗi nhớ người yêu của cô gái trong bài ca dao được thể hiện theo bước đi của thời gian. Ban
đêm là thời khắc để con người suy ngẫm về những điều riêng tư thầm kín. Đối với cô gái, đó là
lúc nỗi nhớ sống dậy mạnh mẽ, khắc khoải nhất trong cô. Nỗi nhớ ở đây được diễn tả theo một
cách riêng, nhất quán và độc đáo. Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại trọn vẹn, còn tâm sự
được gửi gắm tiếp vào ngọn đèn đêm:
“Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.”
Sự chuyển động của đèn cũng giôhg như sự chuyển động của khăn. Hình ảnh chiếc đèn cũng
được nhân hóa để diễn tả tâm tình của cô gái. Sự chuyển hóa từ khăn sang đèn đã diễn tả nỗi nhớ
kéo dài theo thời gian. Nó triền miên, da diết không phút nào nguôi. Đèn không tắt hay chính là
ngọn lửa tình yêu trong lòng cô gái vẫn đang rực cháy bất chấp thời gian và không gian xa cách?
Cô gái mượn các hình tượng khăn, đèn để diễn tả tâm trạng nhớ thương một cách rất biểu cảm
theo lối nói vòng đầy cuốn hút, nhưng rốt cuộc khăn và đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp thông
qua biện pháp nhân hóa. Đến dòng thơ thứ 9, không kìm lòng được nữa, thứ cảm xúc không gọi
được tên trên kia chực vỡ òa, cô gái tự hỏi chính mình:
“Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.”
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Đôi mắt cũng chính là hình ảnh hoán dụ để chỉ cô gái. Đến lúc này,
cô không thể kìm lòng được nữa, nỗi nhớ xoáy sâu, trào dâng khiến cô gái phải tìm đến một đối
tượng biểu hiện cảm xúc trực tiếp, mãnh liệt hơn là khăn, đèn và cô đã tìm đến đôi mắt. Mắt
không ngủ yên cũng chính là nỗi lòng nhân vật nhớ mong khắc khoải.
Ba hình ảnh khăn - đèn - mắt được sắp xếp theo thứ tự đầy ngụ ý: khăn là hình ảnh đại diện cho
câu chuyện trao duyên, trao tình của đôi nam nữ; đèn là hình ảnh đại diện cho nỗi tương tư, cho
nỗi nhớ khi mà tâm sự không thể giãi bày cùng ai, chỉ có ngọn đèn thấu hiểu; còn mắt là hình
ảnh biểu đạt cho khoảnh khắc tình yêu nồng cháy trong lòng, không thể che giấu... Việc sử dụng
hình thức câu hỏi “Khăn thương nhớ ai”, “Đèn thương nhớ ai”, “Mắt thương nhớ ai” đã tạo cho
bài ca dao một giọng điệu tự vấn. Cô gái hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi mắt cũng chính là tự hỏi mình.
Nhờ các câu hỏi này mà mạch trữ tình của tác phẩm được liên kết chặt chẽ, diễn tả một cách
thấm thìa nỗi nhớ và tình yêu của cô gái. Mười câu thơ 4 chữ gieo vần chân xen kẽ vần lưng,
trong đó thanh bằng và thanh trắc lại xoắn xuýt lấy nhau tạo nên âm điệu luyến láy liên hoàn,
bâng khuâng. Nếu cứ đi theo cung cách câu tứ như thế thì bài ca dao sẽ trải dài cùng nỗi sầu đến
vô tận. Lần theo mạch xúc cảm xuyên suốt, qua mấy lần hỏi, điểm cao trào bất chợt xuất hiện
dưới hình thức câu thơ lục bát, biến nỗi nhớ nhung dằng dặc kia thành nỗi lo:
“Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề.”
Những câu hỏi trên không được trả lời càng như nén chặt nỗi thương nhớ trong lòng để rồi cuối
cùng trào ra thành một nỗi niềm lo âu mênh mang khắc khoải cho hạnh phúc lứa đôi. Tuy cô gái
chỉ nói là lo một nỗi, một bề nhưng thực ra trong lòng cô có rất nhiều vấn vương, thao thức. Cô
gái lo về tình yêu của chàng trai, lo về phía gia đình, lo vì họ hàng cùng bao nhiêu những lo âu,
phiền muộn khác. Đó phải chăng cũng là quy luật muôn đời của tình yêu?
Bài ca dao khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách
dùng những hình ảnh biểu tượng, lôi nhân hóa tăng thêm sức sông cho hình ảnh, cách gieo vần
linh hoạt... Qua những tâm tình về nỗi thương nhớ và niềm lo âu - những trạng thái tình cảm rất
điển hình của tình yêu nam nữ - người đọc thấy được phần nào những nét đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật của mảng ca dao yêu thương tình nghĩa.
TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ
MỊ CHÂU – TRỌNG THỦY
– Xây dựng những mẫu thuẫn có sự tăng tiến để thể hiện sự phát triển trong hành động nhân vật
– Xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập để khắc họa nhân vật
– Sử dụng các yếu thần kì.
3. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Mở rộng: Tấm là hiện thân của cái đẹp và cái thiện. Hình tượng cô tấm nết na, thùy mị, hiền
lành từng là biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữa Việt Nam với những ví von “Hiền như Tấm”,
“Cô Tấm Làng Mai”.
Đề bài: Phân tích nhân vật Tấm
Bài làm
Ai đó đã từng nói: "Truyện cổ tích là thế giới hiện thực biết ước mơ". Vâng, truyện cổ tích nói
riêng và văn học dân gian Việt Nam nói chung là tiếng nói, là nỗi niềm, tiếng lòng của người
bình dân trong xã hội cũ. Song những tiếng lòng ấy không hề ủy mị, không hề mềm yếu dẫu rằng
nó được cất lên trong bùn đen cơ cực. "Tấm Cám" là một truyện cổ tích thể hiện rõ niềm lạc
quan, niềm tin của nhân dân lao động. Tấm là nhân vật chính trong truyện hiện lên với số phận
bất hạnh nhưng ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn.
"Tấm Cám" là một truyện cổ tích thần kỳ. Truyện kể về cuộc đời số phận của Tấm - cô gái mồ
côi, bất hạnh nhưng có phẩm chất tốt đẹp, trải qua nhiều gian nan cuối cùng được hưởng hạnh
phúc. Thông qua số phận bất hạnh của Tấm, nhân dân gửi gắm ước mơ, khát vọng lí tưởng xã
hội của mình về sự chiến thắng của cái thiện với cái ác.
Tấm là một cô gái có số phận bất hạnh. Tấm mồ côi từ nhỏ: "Tấm và Cám là hai chị em cùng cha
khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy
năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám". Tác giả dân gian đã đưa người
đọc đến với số phận rất quen thuộc trong truyện cổ tích: đó là người mồ côi. Ở với dì ghẻ, Tấm
phải sống một cuộc sống khổ cực, bị mẹ con Cám hành hạ. Tấm phải làm lụng suốt ngày đêm
trong khi Cám thì thảnh thơi. Đâu chỉ có thế, Tấm còn bị Cám lừa lấy mất giỏ cá. Mất giỏ cá là
Tấm mất đi phần thưởng của dì, mất đi cái yếm đẹp, mất đi tình yêu thương mà Tấm khao khát
có được. Không chỉ có vậy, khi chỉ còn con cá bống bầu bạn, Tấm cũng bị mẹ con Cám bắt lấy
và giết thịt. Cuộc đời Tấm dường như bị bủa vây trong sự hãm hại. Bống là con cá duy nhất còn
sót lại trong giỏ cá. Bị lấy mất cá là Tấm mất đi người bạn ngày ngày tâm sự, sẻ chia, mất một
niềm an ủi cuối cùng. Tấm là hiện thân của một cuộc đời đày đoạ, tước đoạt, một hình ảnh tiêu
biểu cho những số phận thấp cổ bé họng, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phân chia giai cấp.
Bởi vậy tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi khi bị chèn ép, áp bức có sức lay động mỗi trái tim
nhân hậu, khơi dậy niềm cảm thông chia sẻ ở mọi người.
Nhờ Bụt, Tấm từ một cô gái mồ côi đã trở thành hoàng hậu. Bụt xuất hiện mỗi khi Tấm khóc,
buồn tủi cần sự an ủi, giúp đỡ. Tấm bị mất chiếc yếm đỏ, Bụt cho hi vọng là con cá bống. Tấm
bị mất cá bống, Bụt lại cho hi vọng. Tấm không được đi xem hội, Bụt cho một cho đàn chim sẻ
đến giúp để đi hội làng gặp nhà vua. Lúc đi hội, Tấm làm rơi giày. Chính chiếc giày giúp Tấm
gặp lại được vua trở thành hoàng hậu. Đó chính là ước mơ của người xưa về một sự đổi đời trở
thành hoàng hậu, bước lên ngôi vị tối cao, là ước mơ, khát vọng lớn lao của người dân bị đè nén,
áp bức. Hạnh phúc ấy chỉ dành cho những con người hiền lành, lương thiện.
Tấm là một con người sẵn sàng đấu tranh để giành lại hạnh phúc cho chính mình. Thông qua các
cuộc đấu tranh của Tấm, nhân dân lao động gửi gắm niềm tin, ước muốn về khát khao đổi đời,về
cuộc chiến thắng của cái thiện trước cái ác. Tấm phải nhiều lần hóa thân: Tấm bị giết hóa thành
chim Vàng Anh, Vàng Anh bị giết mọc lên cây xoan đào, xoan đào bị chặt, Tấm hóa khung cửi,
khung cửi bị đốt, Tấm hóa quả thị, từ quả thị Tấm bước ra làm người. Cuộc đấu tranh giành lại
quyền sống của Tấm là vô cùng gian nan, quyết liệt, không khoan nhượng. Cuộc đấu tranh cho
thấy cái ác luôn hiện hữu, luôn xuất hiện đầy ắp hành hạ cái thiện. Khi Tấm trở thành hoàng hậu,
mẹ con Cám vẫn đeo bám tiêu diệt Tấm tới cùng. Sự đày đoạ của Tấm đã đến tận cùng, bị tước
đoạt cả hạnh phúc lẫn tính mạng.
Lần hóa thân cuối cùng, cô Tấm bước ra làm người đã gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc.
Có lẽ hạnh phúc nơi trần thế mới là hạnh phúc đích thực và đáng trân trọng. Hạnh phúc giữa
cuộc sống đời thực, được bên cạnh những người mình thương yêu. Đặc biệt, để có được hạnh
phúc ấy, Tấm đã phải đấu tranh rất nhiều lần. Nếu như lúc trước lúc khó khăn, đau khổ, Tấm có
Bụt hiện ra giúp đỡ thì lúc này đây, Tấm chủ động đấu tranh giành lấy hạnh phúc cho mình. Gửi
hồn mình vào chim Vàng Anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị,... sau bao lần hóa thân, bị hãm
hại, Tấm trở lại làm người. Tấm lại trở về là Tấm - một hoàng hậu xinh đẹp. Nhưng hạnh phúc
sẽ chẳng bền lâu khi cái ác chưa bị diệt trừ tận gốc. Tấm tự tay trừng trị mẹ con Cám, để mẹ con
cám phải nhận cái kết thích đáng. Nhân dân đã đứng về phía Tấm, công lý đứng về phía Tấm,
hạnh phúc lại trở về bên cô Tám nết na.
"Tấm Cám" là một truyện cổ tích mà ở đó mà không hề thấy người nông dân bi quan. Cái hiện
thực với xã hội bất công vẫn cứ hiện ra thông qua số phận của nhân vật Tấm nhưng cũng qua
nhân vật Tấm, nhân dân gửi gắm những ước mơ, khát vọng về cuộc sống hạnh phúc, được thể
hiện bằng cốt truyện chặt chẽ, có sự tham gia của các yếu tố thần kì tạo hấp dẫn cho truyện.
Thông qua nhân vật Tấm, người đọc hiểu được những ước mơ, khát vọng mà nhân dân gửi gắm,
ta thấy được sự đấu tranh của tầng lớp thấp cổ bé họng trong xã hội xưa.
Trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, văn học dân gian đã và mãi có chỗ đứng trong lòng bạn đọc
và có giá trị sâu sắc trong kho tàng văn học Việt Nam nói chung. Bởi thông qua văn học dân
gian, người đọc hiểu được đời sống cũng như tâm tư tình cảm người nông dân xưa, càng thêm
trân trọng hơn kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Đề bài: Có nhà nghiên cứu nhận định truyện cổ tích Tấm Cám: “Đặc sắc nghệ thuật của truyện
là khắc họa hình tượng Tấm có sự phát triển về tích cách.” Anh (chị) hiểu như thế nào về nhận
định trên? Phân tích tác phẩm để làm rõ.
Bài làm
Trên quê hương ta biết bao nhiêu cô Tấm xinh đẹp đảm đang… Vâng, cô Tấm từ trong quả thị từ
xa xưa đến nay luôn gần gũi thân thuộc với mỗi tâm hồn Việt Nam. Tấm Cám gắn với lời kể của
mẹ, lời hát của bà “Bống bống bang bang…” đưa ta vào không gian huyền ảo của câu chuyện cổ
tích thần kì thấm được cảm hứng nhân văn này.
Tấm Cám đánh dấu sự rạn nứt trong các mối quan hệ xã hội, khi bắt đầu nảy sinh những xung
đột mang mầm mống của cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi thế câu chuyện chính là sự phản chiếu tâm
hồn của những người bị áp bức mong muốn có một cuộc sống công bằng và tốt đẹp hơn. Sách
giáo khoa Ngữ văn 10 (thí điểm), tập 1 nhận định về truyện cổ tích Tấm Cám: Đặc sắc nghệ
thuật của truyện là khắc họa được hình tượng Tấm có sự phát triển về tính cách (từ yếu đuôi, thụ
động đến kiên quyết đấu tranh giành lại cuộc sống và hạnh phúc). Triết lí dân gian thể hiện sinh
động trong nội dung cuộc đấu tranh với mức độ ngày càng quyết liệt căng thẳng giữa cô Tấm
hiền dịu với mẹ con mụ dì ghẻ độc ác. Triết lí ấy hàm chứa ước mơ của người bình dân: “ở hiền
gặp lành, ở ác gặp dữ”.
Bắt đầu cho những xung đột của tác phẩm là mối quan hệ dì ghẻ – con chồng, sự phân biệt đối
xử giữa những đứa con không cùng chung dòng máu. Sự bất công thể hiện không chỉ ở những gì
mà mụ dì ghẻ đối xử với Tấm kiểu con yêu – con ghét, mà mầm mống ấy đã nảy nở sang người
em khác mẹ với cô: Cám được nuông chiều bởi sự thiên vị đã tất yếu bộc lộ sự ích kỉ, tranh
giành phần hơn, xem việc Tấm bị thiệt thòi như một tất yếu. Mầm ác cứ lớn dần từ việc Cám lừa
Tấm tranh giỏ cá để được chiếc yếm đỏ ban đầu cho đến việc hai mẹ con dì ghẻ dồn mọi việc
nặng nhọc sang cho Tấm, hành hạ cô chăn trâu cắt cỏ đồng xa để bọn chúng ở nhà thực hiện
những mưu mô đen tối. Điều đáng nói là trong mối quan hệ này, hầu như Tấm chưa hề có phản
ứng gì mà chỉ biết bưng mặt khóc.
Bởi thế, dân gian đã sáng tạo ra hình tượng ông Bụt giúp Tấm giành lại những quyền lợi đáng
ra cô phải được hưởng. Yếu tố ngẫu nhiên về con cá bống còn sót lại trong giỏ cho đến khi bống
thành người bạn thân thiết cùa Tấm, cô gái mồ côi cô đơn, đã chuyển sang ý nghĩa triết lí. Người
hiền lành như Tấm phải được hưởng sự công bằng, đó là lẽ trời. Thế nhưng, mầm thiện luôn bị
chèn ép bởi cội rễ cái ác cứ lớn dần. Mẹ con dì ghẻ đã tước đoạt luôn niềm vui của cô bé bởi cội
rễ cái ác cứ lớn dần. Mẹ con dì ghẻ đã tước đoạt luôn niềm vui của cô bé khi dùng mẹo lừa Tấm
đi xa để bắt bống ăn thịt. Từ xung đột này, câu chuyện đã mang ý nghĩa một xung đột chiều sâu:
sự an phận đổng nghĩa với việc để cho cái ác tiếp tục hoành hành. Một lần nữa Bụt xuất hiện để
an ủi Tấm, con gà cũng giúp cô tìm xương cá bống…
Câu chuyện phát triển theo hướng xung đột càng trở nên gay gắt: hai mẹ con Cám hưởng thụ
niềm vui hội hè còn Tấm phải âm thầm tủi hể gạt qua khát khao được đi chơi để hoàn thành công
việc mà dì ghẻ bày ra hành hạ cô. Lúc này bên cạnh Tấm có đàn chim sẻ trợ giúp. Xương cá
bống bây giờ biến thành quần áo đẹp giúp cô đi xem hội. Có thể nói chính nhân dân đã tạo ra các
yếu tố thần kì để bênh vực cho những quyền lợi chính đáng cho cô gái đảm đang, Tấm xứng
đáng được hưởng sự công bằng.
Những tưởng cuộc đời Tấm sẽ sang trang sau khi thử vừa chiếc hài đánh rơi, được đón về cung
vua, giống như cô bé Lọ Lem được hưởng hạnh phúc cùng hoàng tử trong câu chuyện cổ nước
ngoài. Thế nhưng truyện Tẩm Cám đã chuyển sang một loạt những xung đột mới gay gắt hơn.
Sự đố kị, lòng ích kỉ đã khiến cho hai mẹ con Cám không buông tha Tấm. Chúng không chấp
nhận hạnh phúc đến dễ dàng với cô gái xinh đẹp dịu hiền. Tội ác của mẹ con Cám phát triển ở
mức độ tinh vi hơn, bắt đầu từ một thủ đoạn lừa đảo đánh đúng lòng hiếu thảo của Tấm. Tấm
chết vì chính sự ngây thơ không mảy may đề phòng dã tâm của mẹ con Cám. Nhưng cũng bắt
đầu từ thời điểm này, hàng loạt quá trình hóa thân thần kì của Tấm đã thể hiện một nhận thức
mới, gắn những hình tượng bất tử là một truyền thông độc đáo của truyện cổ tích thần kì Việt
Nam, khẳng định sức sông mạnh mẽ và ý chi tranh đấu của người bình dân vượt lên các thế lực
bạo tàn.
Mạch truyện gắn với các tình tiết hóa thân kì ảo của nhân vật. Mặc dù Cám được vào cung vua,
thế nhưng Tấm mới là người giành trọn được tình yêu thương của ông vua trẻ. Nàng lần lượt
biến thành chim vàng anh, cây xoan đào quấn quýt bên chồng. Chim vàng anh là biểu tượng của
một tình yêu khăng khít, cây xoan đào là biểu tượng dịu dàng của người vợ chỉ mong muốn được
chăm sóc chồng. Tính chất xung đột càng lúc càng gay gắt hơn khi lần lượt Cám giết chim vàng
anh, chặt cây xoan đào, phá tan mong muốn sum vầy hạnh phúc của Tấm. Bởi thế, nỗi đau đớn
vì hạnh phúc bị cướp đi đã biến thảnh tiếng rít căm hờn của Tấm – khung cửi: Cót ca cót két.
Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra. Không còn là một cô Tấm tủi thân tủi phận ngày nào nữa,
nàng đã bắt đầu cho cuộc đâu tranh giành lại hạnh phúc của mình. Cuộc chiến chôn hoàng cung
lại tiếp diễn với phần thắng tạm nghiêng về Cám, khi khung cửi bị đốt thành tro và tro bị vứt trả
về với đất bụi dân dã. Thế nhưng điều kì diệu về sức sống mãnh liệt của Tấm bầy giờ mới thật sự
bắt đầu.
Tấm được trở về sống với bà lão hàng nước nghèo khổ nhân hậu, trong hình hài quả thị thơm
thảo như tấm lòng của cô. Để rồi từ trong quả thị, cô bước ra trong hình hài đẹp đẽ nhất, với tất
cả vẻ dịu dàng đảm đang, quán xuyến tảo tần: dọn dẹp nhà cửa, cơm lành canh ngọt. Tấm hiện
thân cho vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam, rất bình dị và trong sáng, vẻ đẹp ấy tất
yếu chỉ xuất hiện trong cuộc sông dân dã, gắn bó những tâm hồn thuần hậu chất phác trong dáng
vẻ quê mùa, trong những công việc thổi cơm, rót nước, gói bánh, têm trầu, vẻ đẹp ấy thấm đượm
tinh thần nhân văn của người lao động.
Miếng trầu têm cánh phượng là dấu ân gặp gỡ giữa Tấm với vua – người chồng chung thủy
không nguôi nhớ về cô giáo thảo hiền nết na xinh đẹp. Lẽ công bằng được lập lại, lần này không
do bàn tay của Bụt giúp, mà chính từ phẩm chất của Târn, từ sự sông bất tử của cái thiện vượt
lên mọi mưu mô độc ác. Vua không phải đại diện của thế lực thông trị mà chỉ là hiện thân của
một lẽ công bằng. Cung vua và cuộc sống dân dã ấy không quá cách xa như những câu chuyện
cổ tích về sau.
Không dừng lại như kết thúc của sách giáo khoa, lời kể dân gian còn tiếp diễn với việc Cám bị
trừng phạt vì chính những tham vọng của mình, mụ dì ghẻ cũng phải đền tội vì chính tội ác mụ
gây ra cho người con chồng. Có lẽ đó là một kết thúc hợp lí vì cái ác không thể tồn tại đế’ gây
họa tiếp tục cho những người lương thiện… Đó cũng là thái độ của nhân dân kiên quyết diệt trừ
cái ác, đứng về cái thiện, thể hiện khát khao cháy bỏng về lẽ công bằng ở đời. Đó cũng là công lí
và đạo lí dân gian, làm nên vẻ đẹp trọn vẹn của câu chuyện cổ tích thần kì Tấm Cám.
Đề bài: Hành trình đến với hạnh phúc của Tấm – truyện “Tấm Cám”
Bài làm
“Tấm Cám” là một trong những truyện cổ tích thần kỳ tiêu biểu nhất trong kho tàng văn học dân
gian của dân tộc Việt Nam. Qua cốt truyện về cô Tấm côi cút bị dì ghẻ và đứa em cùng cha khác
mẹ - Cám hành hạ tủi cực nhưng kết thúc lại có hạnh phúc, những sung sướng nhất định, các tác
giả dân gian phản ánh cuộc sống chiến đấu dai dẳng, gian nan và không cân sức giữa người lao
động nghèo khổ với lực lượng thống trị. Họ chiến đấu với niềm tin sẽ chiến thắng cả một thế lực
đen tối trong xã hội phong kiến xưa. Mâu thuẫn giữa mẹ con Tấm Cám không chỉ bó hẹp trong
khuôn khổ gia đình mà còn là xung đột kịch liệt giữa cái thiện và cái ác.
Mâu thuẫn này không chỉ diễn ra trong khoảng thời gian cố định mà nó đã ngấm ngầm nảy sinh
ngay từ lúc dì ghẻ thay quyền người mẹ yểu mệnh đáng thương của Tấm. Cô bé mồ côi tội
nghiệp vấp phải cái quy luật nghiệt ngã nghìn đời:
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng”
Cảnh người cùng cực và cô thế nhất trong cái xã hội vốn đầy rẫy trái khoáy đẩy người con gái
nhỏ vào thế chông chênh, bơ vơ ngay từ bước đi chập chững đầu tiên trên con đường đời khúc
khuỷu. Tấm là nạn nhân của chế độ phụ quyền: khi mà bố mẹ đã qua đời cả thì mọi quyền hành
đều thuộc về tay dì ghẻ. Suy cho cùng thì gia đình chính là nguồi gốc của mọi khổ đau bủa vây
lấy đời Tấm. Gia đình không là mái ấm! Vừa là phận gái, vừa mồ côi, vừa chịu thế con riêng của
chồng, nên cái tủi nhục của Tấm càng chất chồng lên cao. Biết thân biết phận, nhân vật hiền lành
nhẫn nhục của chúng ta luôn chăm lo làm việc, sẵn sàng “quần quật nửa ngày trời, mải miết hớt
đầy giỏ tôm tép” chỉ để mong ước có được cái yếm đỏ. Thế mà, cái niềm vui cỏn con đó của tuổi
thơ bỗng chốc cũng biến mất, hệt như giỏ tép mà Cám đã tráo trở cướp công vậy. Người ta đã
lấy đi công lao của mình để mà hưởng phần, Tấm biết nhưng biết làm gì hơn ngoài việc ngồi ôm
mặt khóc tức tưởi? Tấm buộc phải tự thu hẹp ước mơ của mình lại trước khi bàn tay lấm lem kia,
bóp ngẹn lấy nó. Một con cá bống nhỏ sống sót y hệt như một đám than hồng còn sót trong tro
nguội, nhưng cũng đủ hơi ấm để sưởi ấm niềm tin.
“Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nước một mình mồ hôi”.
“… Cái bống là cái bống bang,
Ăn cơm bằng sàng, uống nước bằng tay”.
Thân bống và thân Tấm có chung nỗi bất hạnh, và dường như chỉ Tấm và bống mới đồng cảm
với nhau được. Câu hát gọi bống ăn còn là cả lời chân tình đối với người bạn duy nhất thuở ấu
thơ:
“Bống bống bang bang,
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”.
Một hạt cơm thừa từ bữa ăn ngon lành của mẹ con Cám thì vẫn là “cơm vàng, cơm bạc”, vẫn là
mồ hôi nước mắt của cô gái luôn nâng niu mọi thứ xung quanh mình. Giết chết cá bống nào đâu
chỉ đơn giản là để đáp ứng khẩu vị của bọn giàu sang? Chúng giết bống cốt là để dập tắt niềm hy
vọng vốn đã vô cùng hiếm hoi của Tấm. Hòn máu đỏ đọng lại mãi không tan là hiện thân của tội
ác không thể dung tha, là vết tích để lại cái chết oan tàn nhẫn. Và rồi Tấm cũng chỉ biết “bưng
mặt mà khóc òa lên”, khóc căm hận và phẫn nộ nhưng vẫn không làm gì được. Một lần nữa nhờ
đến Bụt, nhờ đến ông lão hiền lành, tốt bụng đã được dân gian hóa từ hình tượng Đức Phật, luôn
xuất hiện trợ giúp Tấm trên con đường đến hạnh phúc, Tấm lại tự nhen nhóm ánh sáng lẻ loi của
niềm tin từ trong đống tro tàn. Thứ ánh sáng đó cho dù Tấm mang cả tâm hồn mình ra để che
chở nhưng vẫn không cản nổi sự đày đọa của mẹ con Cám. Hai con người độc ác ấy chủ ý giáng
mạnh vào thân xác nhỏ bé của cô gái khát khao một lần được đi hội xuân. Bọn chúng trắng trợn
trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được gia cảm với đời của Tấm. Và Tấm lại khóc ấm ức
làm người ta thiết nghĩ, nhân vật Tấm quá bị động, chị khóc từ đầu đến cuối chờ Bụt giúp. Ngay
cả chi tiết nhà vua vô tình lượm được chiếc giày xinh xắn Tấm làm rơi cũng quá phụ thuộc vào
sự may rủi. Nhưng hãy cứ nghĩ lại mà xem, chẳng phải chi tiết Tấm ướm giày vừa như in đã
tượng trưng cho sự đúng đắn và hợp ý vừa lòng mọi người hay sao? Có lẽ, vô chừng trong thâm
tâm Tấm đã sống cho cái quy luật muôn đời truyền tụng mà cô vẫn hằng ngày đặt niềm tin: “Ở
hiền gặp lành”. Tấm vẫn phải sống để thấy được điều “lành” sẽ tới vớt mình như thế nào sau bao
nhiêu năm “ở hiền” như vậy? Và bản tính lương thiện, hiền hậu đã đưa cô gái nghèo lên trên
đỉnh cao của vị thế, lên đến ngôi Hoàng hậu cao sang. Trước đó không lâu, mẹ con Cám dè bỉu
õng ẹo:
“Chuông khánh còn chẳng ăn ai,
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!”
Chúng cho rằng Tấm chẳng thể thay đổi được cái trật tự giàu nghèo vốn đã được định đoạt. thế
mới có cớ sự mụ dì ghẻ cũng hăng hái hớn hở ướm giày như các cô gái trẻ, và khi thất bại chúng
sẵn sàng nhúng tay vào bất cứ tội ác nào.
Nhưng nàng chẳng thể yên vị ở ngôi Hoàng hậu. Tấm nào ngờ có biết bao nhiêu ánh mắt hiểm
độc đang hướng về mình. Và Tấm tiếp tục là nạn nhân bi thảm của tội ác, khi mà lắt léo cái lưỡi
không xương, khi mà tay cầm dao vấy máu đến nơi miệng vẫn thơn thớt, nỉ non ngọt ngào: “Dì
đuổi kiến cho con ấy mà!”. Cô Tấm hiền hậu đoan trang ngã xuống thì một cô Tấm quyết liệt và
mạnh mẽ lại sống dậy, trở về đòi cho bằng được hạnh phúc của mình. Bốn lần hóa thân thành
chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị - những vật bình dị thân thương Tấm gửi gắm linh hồn
mình trong đó; thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị dập tắt một các oan ức của cái thiện mà
đã vùng dậy mạnh mẽ. Oái oăm thay, cái thiện đứng dậy bao nhiêu thì cái ác cũng lấn lướt hòng
dập tắt cái thiện bấy nhiêu. Có một lúc nào đó chúng tạm thời thắng thế, bước lên lầu son gác tía
của vương quyền, cung vua, những nơi không thuộc về chúng, chim chóc đến với chúng chỉ để
nguyền rủa, tiếng võng trưa hè cũng cất lời đay nghiến chúng. Chúng bị dồn vào thế cô lập và
phải đương đầu với cả một đấu trường công lý. Chúng ta không còn thấy Tấm khóc, mà tự mình
giành và giữ hạnh phúc sao cho bền chặt. Sự hóa thân trở về trần thế thể hiện mơ ước lớn lao về
công bằng xã hội; không tìm hạnh phúc ở cõi Niết bàn cực lạc như thuyết luân hồi nhà Phật, mà
tìm và giữ hạnh phúc ngay ở cõi đời này. Sau bao lần thăng trầm trôi nổi, Tấm trở lại thiêng
liêng, dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại, cô lừa
Cám để tự mẹ con nó tìm đến cái chết. Kết thúc dẫu có hơi tàn bạo nhưng quả thật phù hợp với
mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù thích đáng.
Tiếng hót chim vàng anh có nghĩa gì đối với trái tim những con người dã thú đầy máu độc, bóng
xoan đào rợp mát nào xoa dịu được lòng dạ ganh ghét, đố kỵ, tiếng khung cửi kẽo kẹt lại càng
làm cho những trái tim bạo tàn… Cái thiện càng bị áp bức, dồn đuổi đến đường cùng thì cái ác
càng lộng hành thể hiện mâu thuẫn đối kháng không thể dung hòa, không khí căng thẳng nên xu
thế buộc phải thay đổi. Các tác giả dân gian không đi sâu vào việc phân tích tâm lý nhân vật mà
thiên về miêu tả hành động và tính cách của nhân vật, kết hợp các yếu tố kỳ ảo cùng các câu văn
vần góp phần thi vị hóa lời văn và cốt truyện được cố định.
Truyện được lưu truyền và gọt giũa qua thế gian, được nhiều người ưa thích và nghiền ngẫm, lôi
ra được bản chất xấu xa của mẹ con Cám; đồng thời cũng thể hiện hoài bão về lẽ tất thắng của
cái thiện đối với cái ác cho dù có khó khăn đến đâu, có gian nan đến thế nào chăng nữa.
(Bài viết của page Thích Văn Học)
Đề bài: Tưởng tượng cuộc hội ngộ Tấm - Cám dưới âm phủ
Đề bài
Đã ba năm trời kể từ ngày Cám và dì mất, cũng là từng ấy thời gian Tấm trở lại sống trong
cung cùng nhà vua. Mặc dù cuộc sống trôi đi yên bình, hạnh phúc, nhưng luôn có một nỗi niềm
làm Tấm không khỏi bận lòng - về Cám!
Tháng bảy mới sang, lại gần đến ngày lễ Vu lan và ngày Xá tội vong nhân. Độ này Tấm hay nằm
mơ thấy Cám. Những giấc mơ - kì lạ thay - giống hệt như nhau. Cám lơ lửng trong một khoảng
không mịt mùng, vừa như gần mà lại xa vời vợi, mỏng manh như sương khói. Cám bận bộ quần
áo giản đơn, trông gầy guộc xanh xao, hai hốc mắt trũng sâu, chỉ nhìn Tấm buồn rầu rầu, ánh
mắt thiết tha như có điều muốn rãi tỏ. Giấc mơ lặp đi lặp lại khiến Tấm suy nghĩ rất nhiều - phải
chăng ngày xá tội gần kề, Cám muốn gặp Tấm để bày tỏ điều gì? Nghĩ vậy, nàng quyết định sẽ
lên chùa vào ngày xá tội năm nay.
Ngày xá tội vong nhân đến. Sáng sớm, Tấm đã dậy, tự tay làm chút đồ lễ rồi khởi hành đến ngôi
chùa trên núi - có tiếng rất thiêng. Tấm đến chùa thì đã gần trưa, nàng sắp lễ rồi thắp một nén
nhang, thành tâm cầu khẩn! Nàng khấn cho Dì, cho Cám, cầu cho linh hồn của hai người được
rửa tội và siêu thoát! Giữa lúc ấy, đột nhiên Tấm nghe ù ù bên tai, mở mắt ra thì không còn thấy
điện thờ nữa, chỉ thấy mình đang lơ lửng giữa khoảng không xám đặc, cuộn xoáy! Chưa kịp định
thần thì Tấm thấy mình bị hút về phía trước, mãi cho đến khi gặp một cánh cửa, cửa bật tung,
Tấm bị hút vào đó. Sau cánh cửa là một căn phòng. Căn phòng trống không, tường và trần đều
một màu xám, Tấm ngỡ ngàng. Nhưng đó chưa phải là điều lạ lùng nhất, cảnh cửa mở ra lần
nữa, và Cám bước vào. Đúng là Cám, không mờ ảo như trong giấc mơ của Tấm, mà thực sự hiện
hữu - Cám bằng xương bằng thịt! Tấm không nói được lời nào, trong nàng tràn ngập nỗi hoang
mang và hàng trăm ngàn câu hỏi. Nàng đang ở đâu? Tại sao nàng bị đưa đến đây? Nơi này cách
ngôi chùa kia bao xa? Giữa lúc bối rối, Cám chợt lên tiếng, tiếng nói nghe cũng rất thật, rất đỗi
thân quen, nhưng thoáng chút gì như nghẹn ngào, và vang hơn bình thường:
- Chị Tấm!
Tấm hoảng hốt, hình ảnh Cám, giọng nói Cám, sống động quá. Nàng hoang mang: đây là mơ,
hay là thực? Như đọc được suy nghĩ của Tấm, Cám tiếp:
- Chị Tấm, chị và em đang ở dưới Âm Phủ! Đây là nơi mà người trần lẽ ra không được đến, chỉ
có chị - người được thần thánh phù độ, trải qua bao kiếp nạn mới tới được!
Tấm không biết nói gì, nàng còn chưa hết sững sờ.
- Chị Tấm, sao chị không nói gì?
Tấm nhắm mắt, hít một hơi dài. Giờ thì nàng chắc chắn rằng đây không phải là mơ, nàng chọn
lời:
- Em Cám à! Em đưa chị đến đây sao? Có phải em đã tìm gặp chị suốt mấy đêm rồi?
Cám gật đầu.
- Vậy phải chăng em có điều gì muốn nói? - Tấm tiếp.
- Vâng, hôm nay là ngày phán quyết của em. Hôm nay Diêm Vương sẽ định đoạt liệu linh hồn
em có được siêu thoát, được đầu thai hay không.
"Cám khác quá!" - Tấm tự nhủ. Cám đang đứng trước mặt Tấm lễ phép, điềm đạm, hoàn toàn
khác xưa.
- Em Cám, suốt ba năm qua em ở đâu?
Cám cười, nụ cười rầu rầu:
- Em được Diêm Vương sai đi chứng kiến cảnh khổ đau trong nhân gian, cảnh người ta bị lừa
gạt, bị hãm hại, chứng kiến lòng đó kị, tham lam. Cứ đi một ngày, em phải về báo những gì mình
nhìn được cho Diêm Vương, và cả những gì mình cảm thấy.
- Rồi sao nữa?
- Ban đầu em dửng dưng, em vô cảm, nhìn người khác đau đớn, bất hạnh, em không có lấy một
chút mủi lòng. Vì thế mà Diêm Vương trừng phạt em bằng cách bắt em chịu tất cả những cảm
xúc đau khổ ấy. Em quằn quại, em cầu xin dừng tay, nhưng vô ích! Cảm giác của người bị tra
tấn, của người mất cha, mất mẹ, của người bị ruồng bỏ, của người bị hãm hại, như trận cuồng
phong cào xé em. Em bị trừng phạt cho đến khi em biết đồng cảm, biết thương xót.
- Đến khi nào em mới biết thương xót những cảnh khốn cùng ấy?
- Hai năm trời chị Tấm ạ!
- Thế một năm còn lại em làm gì?
- Em xá tội cho những tội lỗi của mình. Diêm Vương gửi hồn em vào một con bống, con bống bị
lừa gạt rồi bị làm thịt; rồi Diêm Vương gửi em vào con chim vàng anh, con chim cũng bị giết;
Diêm Vương lại cho em vào cây xoan đào, cây xoan đào cũng bị đốt trụi! Như thế em cũng phải
bỏ mạng bốn lần, bằng số lần em hãm hại chị.
Tấm im lặng. Ba năm trời ròng linh hồn Cám bị đày đọa, cái giá đắt cho những lỗi lầm khi còn
sống.
- Vậy dì đâu, em đã phải chịu phạt cho cả phần dì nữa ư?
Cám rùng mình một cái, cô cất giọng buồn. Trông Cám như muốn khóc mà không thể khóc. Hẳn
là người chết rồi không khóc được nữa.
- Mẹ em khi xuống đây đã làm náo loạn cả âm phủ, đắc tội với Diêm Vương. Mẹ quyết không
nhận lỗi, vì thế mà phải chịu trừng phạt đau đớn, không những thế, đời đời kiếp kiếp phải đầu
thai vào con ruồi, con cóc.
Dẫu dì đã làm nhiều điều độc ác với Tấm, Tấm nghe vậy cũng không khỏi xót xa! Đúng là
không gì qua được mắt thần linh, tội lỗi dù sớm muộn đều bị trừng trị. Nghĩ đến đây, Tấm nhìn
lại mình, bàn tay Tấm cũng từng rót nước sôi giết Cám, bàn tay Tấm cùng từng gửi hũ mắm đến
cho Dì, khiến dì chết vì kinh sợ, bàn tay ấy đã từng làm điều xấu, từng giết người!
- Em Cám, em nói hôm nay là ngày phán quyết, phải chăng đích thân Diêm Vương sẽ...
Tấm chưa dứt câu, đột nhiên cả căn phòng rung chuyển, rồi bất thình lình nới rộng ra, thành một
nơi rộng mênh mông, u ám, tường vẽ đầy hình người bị tra tấn, trần thì cao hun hút. Tấm lờ mờ
đoán ra: đây ắt hẳn là phòng xử của Âm Phủ.
Bàn xử án sừng sững trước mặt, Diêm Vương hiện ra. Vượt ra ngoài ngôn ngữ và trí tưởng
tượng của con người, Diêm Vương, và cả bầu không khí toát ra từ Người không một từ nào có
thể miêu tả. Ngài cất tiếng nói làm rúng động không gian:
- Cám, hẳn ngươi biết vì sao mình lại ở đây. Tấm, ngươi là người trần đầu tiên đặt chân xuống
Âm Phủ, người biết vì sao không?
- Dạ bẩm, tì nữ người trần mắt thịt, không thấu được hết ý định của bậc thần linh.
Diêm Vương cười lớn:
- Hôm nay, ta sẽ ra phán quyết định đoạt số phận của hai ngươi. Cám, ngươi trước.
Cám bước về phía trước.
- Hẳn ngươi biết tội của mình chứ?
- Dạ, con biết. - Cám trả lời, nghe giọng nói thoáng run nhưng cứng cỏi lạ thường.
- Ngươi đã cùng mẹ hãm hại Tấm nhiều lần, còn tranh giành hạnh phúc của Tấm. Ta hỏi nhà
ngươi, nhà ngươi có thật sự yêu vị vua đó không?
- Dạ bẩm, con không ạ.
- Vậy suy cho cùng ngươi vì lòng đố kị và lòng ham mê phú quý mà làm vậy?
- Dạ, vâng ạ.
- Ngươi đã chuộc tội suốt ba năm vừa rồi, đã học được cách thương xót, đã biết đồng cảm, đã
nếm mọi khổ đau trong nhân gian. Ngươi có thấy mình xứng đáng được đầu thai làm người
không?
Cám chợt im lặng. Một khoảng dài trôi qua, rồi Cám lên tiếng:
- Dạ bẩm, không ạ.
Diêm Vương thoáng ngạc nhiên, rồi gật đầu:
- Ngươi nói vậy, và ngươi thực sự nghĩ vậy, điều ngươi thật sự nghĩ mới quan trọng! Ngươi biết
không, đầu thai làm người là một ân huệ lớn lao, nhưng cũng là một sứ mệnh khó khăn, làm
người không hề dễ dàng. Ngươi đã chịu phạt không có nghĩa là linh hồn ngươi đã được gột rửa.
Vì tội lỗi của ngươi một phần là do mẹ nhà ngươi xúi giục mà ngươi lại chịu đựng cả hình phạt
của mẹ mình, nên ta cho phép nhà ngươi được đầu thai thành bông hoa sen. Ngươi sẽ có ba kiếp
làm hoa trước khi ta xem xét ngươi có thể được đầu thai làm người một lần nữa không.
- Dạ! Con xin tạ ơn ân đức của Diêm Vương. - Cám nói, rồi bước xuống.
- Tấm, đến lượt ngươi.
Tấm bước lên trước.
- Tấm, ngươi không thắc mắc vì sao ngươi là người trần mà lại phải xuống âm phủ để nhận phán
quyết về số phận mình không?
- Dạ bẩm, không ạ.
- Một phần là vì ta đã hứa với Cám sẽ ban một ân huệ cho những tháng ngày chuộc tội, và Cám
xin được gặp ngươi. Phần khác, phần khiến ngươi được phán quyết khi còn sống là bởi ngươi đã
trải qua bao khổ nạn - điều không hề được ghi trong sách sinh tử. Sức sống và sự trong sạch của
ngươi đã khiến thần linh động lòng mà thay đổi điều được sắp đặt, lẽ ra ngươi đã chết ngay từ
lúc dì ngươi chặt đổ cây cau, khiến ngươi ngã.
- Nhưng con đã giết người, thưa Diêm Vương, con đã làm việc tàn độc, linh hồn con đã bị vấy
bẩn.
Diêm Vương khẽ làm một hành động như cười mỉm.
- Ngươi giết người đâu phải vì dã tâm. Ngươi đã cảnh báo mẹ con Cám nhiều lần nhưng hai
người đó không hề thay đổi. Ngươi giết người là hành động tự bảo vệ mình, khi sự can thiệp của
thánh thần cũng chỉ có hạn, khi người bên cạnh ngươi - là vị vua kia - cũng không ra tay giúp.
Tuy vậy, hành động giết người luôn luôn là sai trái. Như thế, ngươi sẽ vẫn được đầu thai làm
người. NHƯNG. Nhưng sau khi vị vua kia mất, ngươi sẽ phải quy y cửa phật và dành phần đời
còn lại là một nữ tu, ăn chay niệm phận để xá tội.
- Dạ, tạ ơn ân đức của Diêm Vương.
Diêm Vương gật đầu
- Vậy thì ta tuyên bố: PHIÊN XỬ KẾT THÚC!
Nói rồi, Diêm vương biến mất, căn phòng lại chuyển động dữ dội, rồi trở lại là căn phòng nhỏ
khi nãy.
- Chị Tấm! - Cám lên tiếng - Em phải chia tay chị thôi. Vậy là em được thỏa tâm nguyện gặp chị
lần cuối. Em xin lỗi, chị Tấm ạ, em xin lỗi, cho những gì mẹ con em đã làm!
Tấm trào nước mắt, chỉ biết gật đầu.
- Vậy em đi nhé, chị Tấm! - Cám nói, đoạn đưa tay ra, rồi hình bóng mờ dần, mờ dần, đến khi
biến mất hẳn.
Cửa phòng bật mở, Tấm bị hút ra ngoài, trở về với điện thờ.
***
Năm ấy, hồ sen trong cung chỉ nở đúng một bông, nhưng tươi tắn và thơm lạ thường. Tấm
thường ra ngồi ở lầu trước hồ sen cùng nhà vua. Cứ mỗi lần ấy, Tấm lại thấy như nghe được
giọng Cám nói khe khẽ :"Chị Tấm ơi! Chị Tấm ơi!" - như tiếng thỏ thẻ của người em gái ruột
thân thương!
(Dương Quỳnh Anh, Lớp 10 Anh, Trường THPT Chuyên Nguyễn Trãi, Hải Dương)
CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY
Đề bài: Cảm nhận nhân vật Đăm Săn trong trích đoạn “Chiến thắng Mtao Mxây”
Bài làm
Một nhà nghiên cứu người Nga nhận xét: “Trong sử thi, con người biến thành những nhân vật
trác việt, lập được nhiều chiến công vĩ đại mà con người trong đời thường không thể lập được.
Vì vậy k thể thuật lại mà chỉ có thể ca hát về những chiến công đó”. Đăm Săn là một trong
những tác phẩm sử thi tiêu biểu nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, được sáng tạo
từ trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, lãng mạn của đồng bào Ê- đê Tây Nguyên thời cổ đại.
Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” đã dựng lên một bức chân dung khá trọn vẹn về người anh
hùng sử thi Đăm Săn với sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thường, tiêu biểu cho tinh thần, ý chí,
khát vọng của cả cộng đồng.
Nguyên nhân xảy ra cuộc chiến là do Mtao Mxây đã cướp Hơ Nhị, vợ của Đăm Săn. Đối với
người Ê-đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục lớn đối với cả
cộng đồng. Đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu để
giành lại vợ, chứng tỏ bản lĩnh của mình. Vẻ đẹp của Đăm Săn được thể hiện rõ ngay từ khi
chàng bước chân vào lãnh địa của Mtao Mxây. Chàng gọi hắn xuống thách đấu, hành động lộc lộ
rõ sự quả cảm của chàng. Khi nghe lời khiêu khích của Mtao Mxây, Đăm Săn rất mạnh mẽ đáp
trả lại: “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên nhà người ta bẻ đôi,ta lấy cái cầu thang
nhà ngươi chẻ ra kéo lửa, ta hun cái nhà của ngươi cho mà xem”. Trước thái độ đó, Mtao Mxây
tỏ vẻ ngần ngại, lo sợ, thấy thế Đăm Săn tỏ ra khinh miệt, coi hắn không bằng con lợn nái: “Đến
con lợn nái của nhà ngươi dưới đất ta cũng không thèm đâm nữa là. Đến con trâu của nhà ngươi
trong chuồng ta cũng không thèm đâm nữa là”. Ở đây ta thấy Đăm Săn tỏ rõ tinh thần thượng võ,
không đánh kẻ thù khi hắn chưa chuẩn bị tinh thần giao chiến. Tuy chưa vào cuộc chiến nhưng
Đăm Săn đã để lại ấn tượng là một người anh hùng tự tin, bản lĩnh, dũng cảm, chủ động từ trong
suy nghĩ đến hành động, một phẩm chất đẹp đẽ hơn hẳn kẻ thù.
Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng của buôn làng, mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của
Đăm Săn đều nổi bật, vượt trội hơn kẻ thù. Dù hừng hực khí thế nhưng Đăm Săn vẫn nhường
Mtao Mxây múa khiên trước. Khi Mtao Mxây múa khiên, Đăm Săn không hề nhúc nhích mà vẫn
bình tĩnh, thản nhiên, thậm chí chế giễu hắn. Bằng cách ấy, tác giả dân gian đã làm nổi bật vẻ
đẹp oai hùng của người anh hùng sử thi. Và thế là Đăm Săn đã dập tắt nhuệ khí của kẻ thù bằng
màn múa khiên độc đáo: “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng
vượt một đồi lồ ô”. Biện pháp nghệ thuật trùng điệp, phóng đại, tác giả dân gian đã khắc họa một
màn múa khiên thật đẹp, thật hào hùng. Không gian như mở ra đến vô cùng càng nhân lên kích
thước của người anh hùng. Khi được Hơ Nhị ném cho miếng trầu, sức mạnh của Đăm Săn càng
tăng lên gấp bội: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi
lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi
chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba
lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung”. Đồng thời, chàng còn được sự trợ giúp của ông trời.
Trời đã giúp chàng đánh rơi áo giáp của Mtao Mxây. Tuy nhiên, ông Trời chỉ đóng vai trò hỗ trợ
Đăm Săn, còn chính chàng mới là người kết liễu kẻ thù, đòi lại danh dự, cướp lại người vợ. Giết
Mtao Mxây, chính nghĩa thuộc về Đăm Săn. Chiến thắng được tôn vinh cùng với việc Đăm Săn
được sở hữu tất cả tài sản, dân làng, tôi tớ của hắn. Quyền sở hữu này là đặc trưng gắn với thời
kì chuyển từ công xã thị tộc sang chiếm hữu nô lệ, làm nên vinh quang của người anh hùng. Bởi
thế hình ảnh trong sử thi được mô tả với quy mô hoành tráng: mọi người tình nguyện theo Đăm
Săn đông như bầy hươu nai, lố nhố như đàn kiến cánh, như bầy kiến đen, như đàn mối trắng.
Chàng thêm quyền uy, thêm nhiều chiêng núm, chiêng bằng - của cải trở thành biểu tượng sức
mạnh tuyệt đối của người anh hùng.
Sau chiến thắng, Đăm Săn không quên sai tôi tớ làm lễ cảm tạ tổ tiên và thần linh đã giúp đỡ
chàng, thể hiện nếp sống văn hóa “Uống nước nhớ nguồn” của đồng bào Ê-đê, cũng là của cộng
đồng người Việt Nam. “Ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu! Rượu năm ché, trâu dâng
một con để cúng thần, cáo tổ tiên, cầu sức khỏe cho ta mới đi đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát
đất đai một tù trưởng nhà giàu về. Rượu bảy ché, trâu bảy con để dâng thần, rượu bảy ché, lợn
thiến bảy con để dâng thần, cầu cho ta được bình yên vô sự, tai qua nạn khỏi, lớn lên như sông
nước, cao lên như cây rừng, không ai bì kịp”. Đến sự lễ ăn mừng của chàng có đầy đủ chàng trai,
cô gái, các tù trưởng cũng từ nơi khác đến và cả sự góp mặt của thiên nhiên Tây Nguyên. Nổi bật
giữa đám đông hoan hỉ ấy tất yếu phải là người anh hùng Đăm Săn - tù trưởng hùng mạnh ít ai
sánh kịp: “Ngực quấn chéo một tấm mềm chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo
gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre. Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang,
bắp đùi chàng to bừng ống bễ, sức chàng ngang sức voi, hơi thở của hàng ầm ầm tựa sấm dậy".
Sức mạnh của chàng được so sánh với những gì đẹp nhất, mạnh nhất của thiên nhiên. Vốn ngang
tàn từ trong bụng mẹ, trải qua bao cuộc chiến, chàng lớn lên trở thành chiến thần. Không chỉ có
sức mạnh phi thường, chàng còn có vẻ đẹp lãng mạn: “Chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn,
hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nan hoa”. Đăm Săn là biểu tượng cho sự hài hòa giữa cái
đẹp dữ dội của núi rừng, vũ trụ với cái đẹp êm ả, lãng mạn của tâm hồn người Tây Nguyên.
Đoạn trích đã đem lại cho ta những cách nhìn độc đáo về người anh hùng Đăm Săn trong chiến
công bảo vệ buôn làng, đem lại bình yên cho bộ tộc. Lời kể chuyện hấp dẫn cùng ngôn ngữ miêu
tả khoa trương tạo được dấu ấn đặc sắc, chứa đựng những giá trị nhân văn đặc trưng của sử thi.
Sử thi anh hùng Đăm Săn quả thật đã hình thành ý thức và tình cảm cộng đồng vững bền của dân
tộc Ê-Đê, thành di sản quý báu của Tây Nguyên và dân tộc Việt Nam, đánh dấu thời đại sử thi
rực rỡ với vẻ đẹp “một đi không trở lại”.
Đề bài: So sánh lời nói, cử chỉ, hành động của hai nhân vật Đam Săn và Mtao Mxây
Bài làm
Văn học dân gian Việt Nam như một vườn hồng mang đầy đủ hương sắc, có vị trí quan trọng
trong nền văn học Việt Nam. Nếu truyện cổ tích mang đến cho chúng ta những bài học giàu giá
trị nhân văn về cuộc sống, về cách làm người qua những nhân vật dịu hiền, dù bất hạnh nhưng
đầy bản lĩnh, tài năng như cô Tấm, Thạch Sanh, Nàng lọ lem; truyền thuyết giúp ta hiểu thêm về
lịch sử dân tộc, về khát vọng ước mà nhân vật gửi gắm qua những vị anh hùng như Thánh
Gióng, Sơn Tinh; ca dao, dân ca là những tiếng thơ ngọt ngào mang dư vị nghĩa tình yêu
thương,... Thì đến với văn học sử thi, ta lại càng hiểu hơn về những vị anh hùng sử thi bản lĩnh,
mang cốt cách và sức mạnh của cả cộng đồng.
Sử thi Đăm Săn là một trong những sáng tạo vô cùng tuyệt diệu và hào hùng của những người
con dân tộc Ê-đê yêu dấu. Tác phẩm không chỉ giàu giá trị nội dung mà còn khắc hoạ được hình
ảnh những nhân vật sử thi đầy ấn tượng. Mtao mxây và Đăm Săn tiêu biểu cho những nhân vật
đó, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc, bức chân dung của vị tù trưởng được dựng lên rõ
nét, đặc biệt là trong lời nói, hành động của nhân vật.
Về ngôn ngữ, cả Mtao Mxây và Đăm Săn đều là những người tù trưởng của cộng đồng. Nhưng
trong lời nói của họ lại thể hiện rõ sự trái ngược nhau, ngôn ngữ của Đăm Săn đầy hào sảng uy
nghi, đại diện cho cuộc chiến chính nghĩa thì Mtao mxây trong lời nói có sự run sợ, hèn nhát của
một kẻ xấu xa, tiêu biểu cho cho cuộc chiến phi nghĩa. Khi biết Mtao Mxây đến cướp vợ mình,
Đăm Săn phải bảo vệ danh dự cho chính mình và hơn hết là cả cộng đồng, là người vợ mà chàng
thương yêu. Đăm Săn đã tiến thẳng tới nhà của Mtao Mxây để giành lại vợ - nàng Hơ Nhị, Hơ
Nhị yêu quý. Đăm Săn khiêu chiến với Mtao Mxây bằng một thái độ đàng hoàng, trong lời nói
bộc lộ cốt cách của một người hùng. Khi thách đấu, Đăm Săn rất rõ ràng và chính trực: "Ơ
diêng! ơ diêng! Xuống đây ta thách ngươi đấu sức với ta đấy". Trong lời nói của chàng có sự tự
tin, quyết chiến của một vị tù trưởng uy hùng. Trong khi đó, Mtao Mxây lại buông lời ngạo
nghễ, trêu tức Đăm Săn: "Ta không xuống đâu, diêng ơi! Ta còn bận ôm vợ của hai chúng ta trên
này cơ mà". Một kẻ đã làm việc xấu, lại còn tỏ rõ sự ngang ngược, có phần giễu cợt trêu tức
người khiêu chiến, trái ngược hoàn toàn với một Đăm Săn anh hùng. Trong lời nói phần nào đã
thể hiện rõ phẩm chất và tính cách nhân vật. Khi Mtao Mxây xuống, hắn nghi ngờ tỏ ra lo lắng
sợ Đăm Săn đâm lén mình, bèn nói: "Người không được đâm ta khi ta đang đi xuống đó nghe".
Đăm Săn Săn tỏ rõ sự coi thường, khinh bỉ cho một kẻ xấu xa, hèn nhát: "Sao ta lại đâm ngươi
khi ngươi đang đi nhỉ? Ngươi xem đến con trâu của nhà ngươi trong chuồng, ta cũng không thèm
đâm nữa là"
Hai đối thủ trong chiến trận, mỗi người một tính cách, hai cá tính đại diện cho hai phe chính
nghĩa và gian tà đang sắp sửa bước vào cuộc đấu. Trong trận đấu, Mtao Mxây lại càng huênh
hoang, thể hiện mình là người có học, tài giỏi chẳng kém ai bằng đường múa của mình: "Có cậu
ta học cậu, có bác ta học bác, có thần Rồng ta học thần Rồng", dù trong lòng rất run sợ trước
Đăm Săn. Rồi biết mình sắp không trụ được nữa, bèn kêu xin Hơ-nhị quăng cho miếng trầu. Khi
sắp thua cuộc, hắn bèn buông lời cầu xin thảm thiết, kẻ hèn nhát cuối cùng cũng bộc lộ rõ bản
chất: "Ơ diêng, ơ diêng đê để ta làm lễ cầu phúc cho diêng một trâu. Ta cho thêm diêng một voi
nữa". Cuối cùng, Mtao Mxây là kẻ bại trận, Đăm Săn chiến thắng trong tiếng hò reo, lời kêu gọi
của Đăm Săn "Ơ ngàn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! Ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta
không?."
Trong cử chỉ, hành động, sự đối lập giữa Mtao Mxây và Đăm Săn càng rõ rệt hơn. Một cuộc
chiến diễn ra vô cùng căng thẳng, quyết liệt. Trong hiệp đấu đầu tiên, hai bên đấu khiên, Mtao
Mxây múa khiên trước, tỏ ra kém cỏi, thiếu tài năng "khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp
khô". Đăm Săn lúc này tỏ ra rất bình tĩnh, thản nhiên không hề run sợ. Đến lượt Đăm Săn: "Đăm
Săn rung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt
một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía Tây". Mtao Mxây thì bước
thấp bước cao khốn khổ chạy hết bãi này sang bài khác từ Tây sang Đông.
Qua trận đấu hiệp hai, lần này, Đăm Săn nhanh tay cướp lấy miếng trầu của Hơ Nhị, tiếp tục
múa khiên "Chàng múa trên cao, gió như bão... Khi chàng múa nước kiệu, quả núi ba lần rạn
nứt, bật đồi tranh bật rễ bay tung". Được sự giúp sức của ông trời, lại càng bừng tỉnh, sức mạnh
càng lớn, vung cái chày trúng ngay tai Mtao Mxây, hắn lúc này buộc phải tháo chạy trong hoảng
hốt, sợ hãi, lo lắng cho tính mạng của mình: "Mtao Mxây tháo chạy. Hắn tránh quanh chuồng
lớn... hắn tránh quanh chuồng trâu". Cuối cùng, đầu hắn bị cắt, đem bêu khắp ngoài đường.
Cả lời nói, cử chỉ và hành động của nhân vật được tác giả miêu tả rất chi tiết, tỉ mỉ, ngôn ngữ
linh hoạt và giàu sức gợi. Qua đó, tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh người hùng sử thi Đăm Săn
hội tụ đầy đủ những nét đẹp của một vị tù trưởng buôn làng: dũng cảm, tự tin, tài năng, tốt bụng.
Là đại diện cho vẻ đẹp cộng đồng, chiến đấu vì hạnh phúc, hoà bình, ấm no, thịnh vượng cho
buôn làng Tây Nguyên. Bằng nghệ thuật đối lập, văn phong miêu tả tinh tế, sử dụng bút pháp
phóng đại, tác giả dân gian xây dựng nên hai hình tượng nhân vật tiêu biểu, để lại ấn tượng trong
lòng người đọc.
Đề bài: Đóng vai Đăm Săn kể lại trận đánh Mtao Mxây
Bài làm
Từ rất lâu, trên cao nguyên hùng vĩ, tù trưởng Mtao Mxây nổi tiếng giàu có khắp vùng.Hắn cậy
mạnh nên cho đám đầy tớ đến cướp vợ tôi là Hơ Nhị mang về nhà trong lúc tôi đi vắng.
Nghe tin,tôi vội vã giắt dao vào thắt lưng,đi tìm hắn. Nhà Mtao Mxây rất lớn, đầu sàn hiên đẽo
hình mặt trăng, đầu cầu thang đẽo hình chim ngói. Ngôi nhà của lão tù trưởng này quả là đẹp.
Cầu thang rộng bằng một lá chiếu, người nối đuôi nhay lên xuống mà khiêng một ché rượu lớn
vẫn không sợ chật.
Tôi bắc tay lên miệng gọi to: “Mxây xuống đây! Ta thách nhà người đọ dao với ta đấy!”. Mxây
nói vọng ra: “Ta không xuống đâu. Tay ta còn đang bận ôm vợ ở trên này cơ mà!”.
Tôi tức giận thét lên: “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên nhà người ta bẻ đôi, ta lấy
cái cầu thang nhà ngươi chẻ ra kéo lửa, ta hun cái nhà của ngươi cho mà xem”. Mxây biết tính
tôi xưa nay nói là sẽ làm nên hắn hoảng hốt hứa rằng từ từ sẽ xuống, chỉ xin tôi đừng đâm hắn
lúc hắn xuống thang. Tôi cười nhạt bảo rằng đến con lợn nái nhà hắn ở dưới đây, tôi còn chả
thèm đâm nữa là.
Mtao Mxây buộc phải ra mặt. Bà con trong buôn kéo đến xem rất đông. Cái khiên của hắn tròn
như đầu cú, lưỡi gươm của hắn óng ánh bảy sắc cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một hung thần.
Hắn đóng cái khố sọc gấp bỏ múi, mặc một cái áo dày nút, đi từ trong ra nhà ngoài, dáng tần
ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo giữa một đám đông mịt mù sương sớm.
Tôi thách thức: “Ngươi múa trước đi!” Hắn đáp: “Ngươi mới là người múa trước. Ta như gà làng
mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh". Tôi giục thêm
lần nữa, Mtao Mxây rung khiên múa. Cái khiên của hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô. Mặc
cho hắn múa, tôi không nhúc nhích. Tôi bật cười khinh bỉ: “Ngươi múa một mình, khiên kêu
lạch xạch như quả mướp khô. Miếng múa ấy, ngươi học ai vậy? Ngươi múa chơi đấy phải
không?”.
Chạm tự ái, Mtao Mxây trả lời: “Ta học ai à? Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần
Rồng, ta học thần Rồng”. Tôi khiêu khích: “Thế ư? Ta thì đâu có cậu mà học cậu, đâu có bác mà
học bác! Chỉ có hai ta đây, ngươi mua đi ta xem nào!”. Mxây hùng hổ quát: “Thế ngươi không
biết ta là người dũng tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen xéo nát đất đai thiên hạ
hay sao?”. Tôi chỉ thẳng vào mặt hắn: “Vậy thì ngươi hãy xem ta đây!” rồi vung khiên múa. Một
lần xốc tới, tôi vượt qua một quả đồi. Một lần xốc tới nữa, tôi vượt một đồi lồ ô. Tôi chạy vun
vút sang phía đông, sang phía tây. Còn Mtao Mxây thì bước cao bước thấp chạy hết bãi tây lại
sang bãi đông. Hắn vung dao chém phập một nhát nhưng lại trúng cái chão cột trâu. Tôi chế giễu
hắn: “Sao ngươi lại chém cái chão cột trâu? Còn khoeo chân ta, ngươi dành làm gì?”.
Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị quăng cho hắn một miếng trầu, nhưng tôi đã đớp được
miếng trầu ấy và nhai ngấy nghiến. Sức mạnh trong tôi tăng lên gấp bội. Tôi bảo Mxây: “Bây
giờ ngươi chạy đi, ta đuổi coi!”. Hắn bỏ chạy, tôi rượt theo, vừa rượt vừa múa khiên. Trên cao,
gió thổi như bão. Tôi múa dưới thấp, gió như lốc cuốn. Chòi lẫm đỏ lăn lóc, cây cối chết rụi.
Tiếng khiên của tôi vang lên như tiếng khiêng đồng, khiên kênh. Tôi chạy nước kiệu, quả núi ba
lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung. Cây giáo thần chứa đầy những oan hồn của tôi nhắm đùi
Mtao Mxây phóng tới. Tôi đâm trúng đùi hắn cũng không thủng. Tôi đã thấm mệt, vừa chạy vừa
ngủ và mơ thấy ông Trời. Tôi than thở: “Ôi chao, chết mất thôi ông Trời ơi! Cháu đâm mãi mà
không trúng hắn!”. Ông Trời bảo: “Thế ư, cháu? Vậy thì cháu hãy lấy một cái chày mòn ném
vào vành tai hắn là được”. Tôi bừng tỉnh, chộp ngay cái chày mòn, ném trúng vào vành tai kẻ
địch. Cái khiên của Mtao Mxây tức thì rơi loảng xoảng. Hắn tháo chạy. Hắn tránh quanh chuồng
lợn, tôi phá tan chuồng lợn. Hắn tránh quanh chuồng trâu. Tôi phá ta chuồng trâu. Cuối cùng,
hắn ngã lăn quay ra đất.
Hắn lạy van rối rít: “Tha cho ta, ta sẽ làm lễ cầu phúc cho ngươi một con trâu,ta sẽ cho ngươi
thêm một con voi!”. Tôi chưa nguôi cơn giận, liền vặn hỏi hắn: “Sao ngươi lại cúng trâu cầu
phúc cho ta? Chẳng phải vợ ta ngươi đã cướp, đùi ta ngươi đã đâm rồi sao?”. Dứt lời, tôi cắt đầu
Mtao Mxây đem bêu ngoài đường rồi hỏi bà con, tôi tớ trong buôn làng của hắn là có bằng lòng
đi theo tôi không. Mọi người đồng ý. Tôi hô to: “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! Ơ tất cả tôi
tớ làng này! Chúng ta ra về nào!”. Đoàn người đông đúc ùn ùn kéo theo sau tôi đông như kiến
tha mồi.
Thế là từ đó, tôi trở thành tù trưởng giàu có nhất, hùng mạnh nhất. Tôi mở tiệc tùng linh đình, ăn
uống đông vui kéo dài suốt cả mùa khô. Cho đến lúc rượu đã nhạt, ché đã phai thì khách mới lần
lượt ai về nhà nấy.
ĐỀ THI GIỮA KỲ I
ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU: (3 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Yêu Tổ quốc từ những giọt mồ hôi tảo tần. Mồ hôi rơi trên những cánh đồng cho lúa thêm hạt.
Mồ hôi rơi trên những công trường cho những ngôi nhà thành hình, thành khối. Mồ hôi rơi trên
những con đường nơi rẻo cao Tổ quốc của những thầy cô trong mùa nắng để nuôi ước mơ cho
các em thơ. Mồ hôi rơi trên thao trường đầy nắng gió của những người lính để giữ mãi yên bình
và màu xanh cho Tổ quốc.
(Nguồn http://vietbao.vn ngày 9-5-2014)
1. Văn bản trên thuộc phong cách ngôn ngữ nào? (0.5 điểm)
2. Biện pháp tu từ nào được sử dụng chủ yếu trong văn bản trên? Nêu tác dụng của biện pháp tu
từ đó. (1.0 điểm)
3. Những từ ngữ: cánh đồng, công trường gợi nhớ đến đối tượng nào trong cuộc sống (1.0 điểm)
4. Đặt nhan đề cho văn bản trên. (0.5 điểm)
II. LÀM VĂN: (7 điểm)
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những câu chuyện có
sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian về buổi đầu của lịch sử dân tộc – một câu chuyện
vừa mang nét hiện thực vừa mang nét huyền thoại thời Âu Lạc.
Hãy hóa thân thành An Dương Vương kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng
Thuỷ (có thể thay đổi một số tình tiết ở đoạn cuối câu chuyện).
---------HẾT----------
ĐÁP ÁN
I- ĐỌC HIỂU: (3 điểm)
Câu 1: (0.5 điểm)
- Phong cách ngôn ngữ Báo chí
Câu 2: (1 điểm):
- Biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất trong văn bản trên là phép điệp cấu trúc câu (Mồ hôi
rơi). (0.5 điểm)
- Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó là nhấn mạnh tình yêu Tổ quốc từ những giọt mồ hôi của
con người. (0.5 điểm)
Câu 3: (1 điểm)
Những từ ngữ: cánh đồng, công trường gợi nhớ đến những người nông dân, công nhân trong
cuộc sống
Câu 4: (0.5 điểm)
Nhan đề của văn bản: Yêu Tổ quốc, hoặc Tổ quốc của tôi.
II. LÀM VĂN: (7 điểm)
1- Yêu cầu về kĩ năng:
- HS vận dụng kĩ năng kể chuyện sáng tạo. Người kể phải xưng ngôi thứ nhất (tôi), khác với văn
bản trong SGK, câu chuyện được kể bằng ngôi thứ ba.
- Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trôi chảy; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
2- Yêu cầu về kiến thức:
- Chọn lọc được những chi tiết và sự việc tiêu biểu của truyện.
- Có thể thay đổi một vài tình tiết nhưng phải đảm bảo tôn trọng cốt lõi lịch sử và không làm mất
đi bài học giáo dục của truyện
- Biết kết hợp yếu tố biểu cảm để lời kể thêm sinh động và hấp dẫn.
3- Biểu điểm:
- Điểm 6-7: Nắm vững cốt truyện, chuyện kể có sáng tạo. Diễn đạt trong sáng, bố cục mạch lạc.
- Điểm 4-5-: Nắm vững cốt truyện, chuyện kể có sáng tạo nhưng chưa kết hợp được yếu tố biểu
cảm. Văn viết trôi chảy, có thể sai một vài lỗi chính tả, diễn đạt.
- Điểm 2-3 : Chuyện kể thiếu sáng tạo, mắc nhiều lỗi về chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
- Điểm 1: Không nắm vững cốt truyện, bài viết lan man; mắc rất nhiều lỗi về diễn đạt.
- Điểm 0: Lạc đề hoặc bỏ giấy trắng.
ĐỀ SỐ 2
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
(1) Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang…”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.
(2) Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo Vương đã mở hội Diên Hồng.
(3) Quê hương tôi có hát xòe, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.
(Trích Bài thơ quê hương- Nguyễn Bính)
Câu 1: Xác định các phương thức biểu đạt của đoạn thơ trên là gì?
Câu 2: Hãy chỉ ra: ba truyện cổ tích được gợi nhớ trong khổ (1) và những sự kiện lịch sử được
gợi nhớ trong khổ (2).
Câu 3: Xác định và nêu hiệu quả của hai trong trong số các biện pháp nghệ thuật của đoạn thơ.
Câu 4: Anh (chị) có nhận xét gì về tình cảm của tác giả đối với những di sản tinh thần của dân
tộc thể hiện qua khổ (3).
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 5 đến câu 8:
… (1) Vậy tìm hứng thú học văn ở đâu?
Trước hết, cần tìm ngay ở môn Ngữ văn, một môn học rất hay. Văn chính là môn học chứa đựng
và truyền tải đi những thông điệp của tình cảm, cảm xúc đẹp ở con người. Học văn sẽ giúp các
em hiểu hơn về những điều đáng quý, đáng yêu trong cuộc sống, biết yêu những con người bình
dị xung quanh.
(2) Môn Văn ở bất cứ nước nào cũng được coi là môn học làm người. Tôi nhớ khi còn đi học,
vào ngày tựu trường, mẹ tôi cũng dắt tay tôi đến trường, lúc đó tôi không biết gọi cảm xúc lòng
mình đang có là gì, chỉ đến khi cô giáo của tôi đọc một đoạn trong bài “Tôi đi học” của Thanh
Tịnh, tôi mới hiểu được cái hơi thu se lạnh, cái siết tay nắm chặt của mẹ và cảm giác vừa hân
hoan vừa lo sợ của tôi,… Nếu không có áng văn đó chắc phải lâu lắm tôi mới hiểu được những
tình cảm và cảm xúc tốt đẹp ngây thơ khi còn nhỏ dại.
(3) Cùng những tình cảm đẹp mà các em học được từ những áng văn hay, kết hợp với suy nghĩ
trong sáng, học Văn sẽ kích thích trí tưởng tượng của các em, khiến các em biết ước mơ, biết hi
vọng. Có ước mơ các em sẽ lớn lên và trưởng thành. Chính sự lớn lên và trưởng thành đó sẽ
tặng các em hứng thú học Văn.
(Trích Tìm hứng thú học Văn, Phong Thu, Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, Số 2, Nxb GD, 2015)
Câu 5: Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của đoạn trích trên.
Câu 6: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn.
Câu 7: Học văn sẽ giúp các em hiểu hơn về những điều đáng quý, đáng yêu trong cuộc sống,
biết yêu những con người bình dị xung quanh, […] học Văn sẽ kích thích trí tưởng tượng của các
em, khiến các em biết ước mơ, biết hi vọng. Có ước mơ các em sẽ lớn lên và trưởng thành.
Anh (chị) hãy cho biết quan điểm trên của tác giả là nhằm khẳng định điều gì?
Câu 8: Khi có hứng thú học Văn, anh (chị) sẽ rút ra được điều bổ ích nào cho bản thân? (Trả lời
trong khoảng 5 – 7 dòng).
II. PHẦN LÀM VĂN (6,0 điểm)
Về hình ảnh ngọc trai – giếng nước trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy,
có ý kiến cho rằng: Đó là biểu tượng của tình yêu chung thủy giữa Mị Châu và Trọng Thủy. Ý
kiến khác lại nhấn mạnh: Đó là sự hóa giải một nỗi oan tình.
Từ việc cảm nhận về hình ảnh ngọc trai – giếng nước, anh (chị) hãy bình luận các ý kiến trên.
------------- Hết------------
ĐÁP ÁN
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Câu 1: Các phương thức biểu đạt của đoạn thơ: phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm. (0,25
điểm)
Câu 2:
- Ba truyện cổ tích được gợi nhớ trong khổ (1): Thạch Sanh, Tấm Cám, Cây khế.(0,25 điểm)
- Những sự kiện lịch sử được gợi nhớ trong khổ (2): Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Khởi nghĩa Bà
Triệu; Khởi nghĩa Lam Sơn; Hội nghị Diên Hồng.(0,25 điểm)
Câu 3: Chỉ ra được hai biện pháp nghệ thuật (điệp ngữ, liệt kê,…) và nêu được tác dụng của
chúng (tình cảm của tác giả đối với những di sản tinh thần của dân tộc). (0,5 điểm)
Câu 4: Tình cảm của tác giả với những di sản tinh thần của dân tộc: yêu mến, trân trọng, thể hiện
qua cách khẳng định bằng điệp ngữ “quê hương tôi”, qua giọng điệu say sưa, tự hào. (0,75 điểm)
Câu 5: Câu văn nêu khái quát chủ đề của đoạn trích: Vậy tìm hứng thú học văn ở đâu?(0,25
điểm)
Câu 6: Phương thức biểu đạt chính của đoạn: phương thức tự sự.(0,25 điểm)
Câu 7: Học văn sẽ giúp các em hiểu hơn về những điều đáng quý, đáng yêu trong cuộc sống, biết
yêu những con người bình dị xung quanh, […] học Văn sẽ kích thích trí tưởng tượng của các em,
khiến các em biết ước mơ, biết hi vọng. Có ước mơ các em sẽ lớn lên và trưởng thành.
Tác giả muốn khẳng định: tầm quan trọng, tác động của việc học văn đối với tình cảm, nhận thức
con người; đồng thời đó cũng là động lực để tạo nên niềm hứng thú học văn. (0,75 điểm)
Câu 8: Câu trả lời phải chặt chẽ, thuyết phục, thể hiện nhận thức tích cực của người học. (0,75
điểm)
II. PHẦN LÀM VĂN (6,0 điểm)
1. Mở bài (0,5 điểm)
- Giới thiệu về thể loại truyền thuyết.
- Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy.
- Trích dẫn ý kiến đánh giá về hình ảnh ngọc trai – giếng nước.
2. Thân bài (5,0 điểm)
2.1 Giải thích (1,0 điểm)
- Ý kiến thứ nhất: Thủy là khởi nguồn, bắt đầu; Chung là cuối, kết thúc. Người ta dùng khái
niệm tình yêu chung thủy để chỉ sự không thay đổi, trước sao sau vậy và đặc biệt dùng để miêu
tả tính chất đẹp đẽ của mối quan hệ, sự gắn kết vợ chồng. Ý kiến ca ngợi mối tình chung thủy
giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
- Ý kiến thứ hai: oan là bị hiểu lầm, bị nhìn sai, bị đánh giá không đúng, bị phê phán bất công, bị
nhận định thiên lệch... và cuối cùng mang chịu kết luận, phán quyết không hợp với công lý và
nhân bản. Ý kiến nhấn mạnh đến sự hóa giải nỗi oan tình giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
2.2 Cảm nhận về hình ảnh ngọc trai – giếng nước(4,0 điểm)
- Vị trí: hình ảnh ngọc trai – giếng nước là hình ảnh khép lại truyền thuyết Truyện An Dương
Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. (0,25 điểm)
- Cơ sở sự xuất hiện hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”:(0,5 điểm)
+ Hình ảnh ngọc trai xuất hiện bởi lời khấn nguyện của Mị Châu trước khi chết: Nàng mong
được người đời minh oan cho tấm lòng yêu nước nhưng nhẹ dạ, ngây thơ của mình.
+ Giếng nước vốn có ở Loa Thành từ trước. Sau khi Mị Châu chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn
cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết.
+ Ngọc trai – giếng nước trở thành cặp hình ảnh sóng đôi trong truyện: Người đời sau mò được
ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm.
- Ý nghĩa của hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”: (2,0 điểm)
+ Ngọc trai là sự hóa thân của Mị Châu, như một sự chứng nhận rằng Mị Châu không chủ ý dối
cha và bán nước. Nàng vì ngây thơ, nhẹ dạ nên đã vô tình nối giáo cho giặc, đẩy trăm họ vào
cảnh lầm than. Trước khi chết, Mị châu đã kịp nhận ra mình bị lừa dối và kẻ đó chính là chồng
mình người mà nàng tin tưởng nhất. Nàng cũng đã ý thực được tội lỗi nặng nề của mình. Nàng
không xin tha chết, chỉ xin được hoá thân để rửa sạch mối nhục thù. Sự nhẹ dạ đó của Mị Châu
phải trả giá không chỉ bằng sinh mạng nàng mà bằng cả máu của cả dân tộc. Vì thế, nếu có kiếp
sau, Mị Châu chắc không thể tiếp tục mù quáng chung tình với một tên lừa dối như Trọng Thủy.
Mặc dù tâm hồn nàng được xá tội nhưng lịch sử vẫn nghiêm khắc phán xét nàng, và từ lỗi lầm
của nàng mà nhắc nhở con cháu, trai – gái các thể hệ muôn đời sau bài học cảnh giác với kẻ thù,
mối quan hệ giữa cái chung – cái riêng, giữa tình nhà – nợ nước.
+ Trọng Thủy cũng đã nhận ra sai lầm của mình: những tưởng vừa thực hiện được yêu cầu của
cha vừa giữ được tình yêu. Nhưng hạnh phúc tình yêu không thể tồn tại song song cùng chiến
tranh xâm lược. Khi ôm xác Mị Châu không đầu bên bờ biển, Trọng Thủy mới ý thức được tất cả
mất mát và tình yêu mà hắn đã dành cho vợ. Hành động lao đầu xuống giếng mà chết là một tất
yếu, một kết cục không thể khác. Hắn chết vì khủng hoảng trong nhận thức và tình cảm.
+ Vì thế, nếu hình ảnh ngọc trai - giếng nước tượng trưng cho sự gặp lại của hai người ở kiếp sau
chứng tỏ những mâu thuẫn trong lòng Trọng Thủy, những đau đớn, ân hận, tội lỗi của y đã được
Mị Châu ghi nhận và tha thứ ở thế giới bên kia. Chi tiết ngọc trai đem rửa trong nước giếng lại
càng sáng đẹp hơn nói lên rằng chứng tỏ nàng đã gột sạch được tội lỗi. Hình ảnh ngọc trai -
giếng nước chắc chắn đó không phải là biểu tượng của mối tình thuỷ chung mà chỉ là hình ảnh
một mối oan tình được hoá giải.
- Nghệ thuật khắc họa: sử dụng motif hóa thân kỳ ảo rất quen thuộc trong các truyền thuyết;
nghệ thuật xây dựng nhân vật vừa gắn với cốt lõi sự thật lịch sử vừa có yếu tố hư cấu; các chi tiết
nghệ thuật, ngôn ngữ, hành động được chọn lọc,…. (0,5 điểm)
2.3 Đánh giá ý kiến (0,75 điểm)
- Hình ảnh ngọc trai - giếng nước chắc chắn đó không phải là biểu tượng của tình yêu chung
thủy giữa Mị Châu và Trọng Thủy. Nhân dân ta không có ý định sáng tạo nghệ thuật để ca ngợi
tình yêu chung thủy, son sắt, vượt qua những thù hận của hai nước giữa Mị Châu và Trọng
Thủy; lại càng không có ý định ca ngợi những kẻ vô tình hay hữu ý đã làm mất nước.
- Hình ảnh ngọc trai - giếng nước là hình ảnh một mối oan tình được hoá giải, là sự thể hiện tập
trung nhất nhận thức về lịch sử, nói lên truyền thống ứng xử bao dung, đầy nhân hậu của nhân
dân đối với nhân vật trong truyện.
3. Kết bài (0,5 điểm)
Khẳng định ý nghĩa giáo dục của hình ảnh ngọc trai - giếng nước đối với con người mọi thế hệ.
ĐỀ SỐ 3
PHẦN I: ĐỌC HIỂU (4 điểm)
Câu 1: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không.
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”
(Ca dao)
a. Xác định phong cách ngôn ngữ và thể thơ của văn bản. (0.5 điểm)
b. Văn bản trên sử dụng các phương thức biểu đạt nào? (0.5 điểm)
c. Nêu nội dung chính của văn bản. (0.5 điểm)
d. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong 2 câu: "Bây giờ em đã có chồng,/ Như chim
vào lồng như cá cắn câu."? (1.0 điểm)
e. Viết đoạn văn từ 5 đến 7 dòng thể hiện cảm nhận của anh/chị về nỗi niềm của nhân vật “em”
trong 4 câu cuối của văn bản. (0.5 điểm)
Câu 2: (1 điểm)
Trong truyện “An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy” (SGK lớp 10 tập 1) có chi tiết Rùa
vàng hiện lên rẽ nước đưa An Dương Vương xuống biển. Anh/chị hãy cho biết ý nghĩa của chi
tiết đó.
PHẦN II: LÀM VĂN (6 điểm)
Bằng hình thức nhập vai hóa thân vào nhân vật, anh/chị hãy kể lại quá trình đấu tranh của Tấm
với mẹ con Cám sau khi được trở thành Hoàng Hậu.
----------HẾT----------
ĐÁP ÁN
Phần I: ĐỌC-HIỂU
Câu 1:
a: PCNN: Nghệ thuật - Thể thơ lục bát
b: PTBĐ tự sự, biểu cảm, miêu tả
c:
-Lời than vãn của chàng trai về việc cô gái đã đi lấy chồng.
-Lời trách móc của cô gái vì chàng trai quá chậm trễ trong việc bày tỏ tình cảm với cô.
d:
Biện pháp tu từ: So sánh (như chim, như cá) (0.25 điểm).
Tác dụng: nhấn mạnh vào tình cảnh bị rang buộc bởi hôn nhân của cô gái. Gợi hình ảnh gò bó, tù
túng (chim lồng, cá chậu). Gợi cảm xúc buồn bã, tiếc nuối của cô gái (0.25 điểm).
Biện pháp tu từ: Ẩn dụ (chim vào lồng, cá cắn câu) (0.25 điểm).
Tác dụng: nhấn mạnh vào tình cảnh bị rang buộc bởi hôn nhân của cô gái. Gợi hình ảnh gò bó, tù
túng (chim lồng, cá chậu). Gợi cảm xúc buồn bã, tiếc nuối của cô gái (0.25 điểm).
e: Bày tỏ tình cảm buồn bã, xót xa, tiếc nuối ...
Đúng kỹ năng viết đoạn văn ...
ĐÁP ÁN
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1:
*Phương pháp: Căn cứ vào các phương thức biểu đạt đã học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết
minh, nghị luận, hành chính – công vụ
*Cách giải:
Phương thức biểu đạt: biểu cảm
Câu 2:
*Phương pháp: Phân tích, tổng hợp
*Cách giải
Điệp từ “yêu”
Tác dụng:
+Tạo giọng điệu nhịp nhàng, tha thiết cho bài thơ
+Khẳng định tình yêu chính là lẽ sống của cuộc đời
Câu 3:
*Phương pháp: Phân tích, tổng hợp
*Cách giải:
Chúng ta cần phải “yêu” một cách chân thành như thế vì:
+Thời gian chẳng chờ đợi ai, nó qua nhanh
+Tình yêu có thể giúp xóa đi hận thù, mở rộng tấm lòng bao dung
Câu 4:
*Phương pháp: Phân tích, tổng hợp
*Cách giải:
Gợi ý:
- Đoạn thơ cuối là đoạn thơ kết tinh tư tưởng của toàn bài thơ
- Bằng việc sự dụng điệp từ “yêu” tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của tình yêu trong cuộc
sống…
-Thời gian là vô tận nhưng đời người hữu hạn, hãy cho đi tình yêu thương chứ không phải là sự
hận thù
- Cho đi có nghĩa là còn mãi mãi và cũng chỉ có tình yêu mới có thể gắn kết con người
- Tình yêu sẽ luôn tồn tại vĩnh hằng, bất biến
II. LÀM VĂN
Câu 1:
*Phương pháp: Phân tích, tổng hợp, bình luận
*Cách giải:
*Giới thiệu vấn đề
*Giải thích vấn đề
- Tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý, và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm
cá nhân đến niềm vui sướng. Tình yêu thương là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn
được ràng buộc gắn bó. Nó cũng có thể là một đức tính đại diện cho lòng tốt của con người, sự
nhân từ, và sự thông cảm - "mối quan tâm trung thành và vị tha hướng tới người khác". Nó cũng
có thể mô tả các hành động nhân văn và thông cảm đối với người khác, chính bản thân mình
hoặc các con vật.
- Tình yêu trong cuộc sống mang nhiều hương vị khác nhau.
*Phân tích, bàn luận vấn đề
- Vai trò của tình yêu:
+ Làm cho con người trở nên gần gũi nhau hơn, biết cảm thông và chia sẻ nhiều hơn
+ Khi mối quan hệ giữa mọi người trở nên tốt đẹp sẽ xây dựng một xã hội tốt đẹp
- Hương vị của tình yêu trong cuộc sống:
+ Khi ta còn bé, gắn bó với gia đình, hương vị tình yêu lúc đó có lẽ là mùi cơm nóng thơm nức,
là sự ngọt ngào của chiếc bánh chia đôi với anh chị em…
+ Khi lớn lên, bước ra ngoài xã hội, hương vị của tình yêu đa dạng hơn nhiều. Đó có thể là nỗi
nhớ nhà da diết, là hạnh phúc khi được người bạn tặng một que kem, là sự giúp đỡ của một
người không quen nào đó khi vô tình bị hỏng xe trên đường…
+ Riêng với tình yêu đối lứa, hương vị đó có thể là sự pha trộn của nhiều cung bậc cảm xúc. Là
sự ngọt ngào, hạnh phúc khi yêu và được yêu, là chút giận hờn, ghen tuông, … và cũng có thể là
việc buồn rầu khi bị cự tuyệt hay tổn thương…
+ Cho dù là hương vị nào cũng cho ta những trải nghiệm đắt giá để từ đó ta tìm ra được điều gì
là quan trọng nhất với mình và cách để cho đi hay nhận về yêu thương đúng nghĩa. Tình yêu
cũng là một hành trình thức tỉnh…
- Phê phán những người không biết yêu thương, vô cảm…
*Liên hệ bản thân
*Tổng kết
Câu 2:
*Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để tạo lập một văn bản nghị
luận văn học.
*Cách giải:
Giới thiệu tác phẩm
- Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết tiêu
biểu trong chuỗi truyền thuyết về Âu Lạc và An Dương Vương của kho tàng văn học dân gian
phong phú của dân tộc ta.
- Đây là câu chuyện dân gian có nhiều yếu tố tưởng tượng, hoang đường, kì ảo tái hiện một giai
đoạn đầy biến động của nhà nước Âu Lạc buổi sơ khai, thuật lại khá trọn vẹn cuộc đời An
Dương Vương từ khi lên ngôi cho đến lúc để mất nước.
Cảm nhận về việc Mị Châu bị thần Rùa Vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu nhưng sau
đó, máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch
*Giới thiệu nhân vật Mị Châu: Mị Châu là con gái An Dương Vương, sau này lấy Trọng Thủy –
con trai Triệu Đà.
*Nguyên nhân dẫn đến việc Mị Châu bị kết tội:
- Triệu Đà, vua phương Bắc có âm mưu đánh chiếm Âu Lạc nên sau nhiều phen thua dưới nỏ
thần của An Dương Vương, hắn đã cho con trai Triệu Đà sang cầu thân. Đây chẳng qua là kế
hoãn binh nhằm thực hiện tiếp âm mưu tái chiếm.
- An Dương Vương lại cho Trọng Thủy ở rể. Đó là sự mất cảnh giác trầm trọng hơn, tạo cơ hội
thuận lợi cho gián điệp đội lốt chú rể xâm nhập sâu hơn để khám phá bí mật quốc gia, bí mật bố
phòng quân sự và bí mật về vũ khí Âu Lạc.
- Mị Châu nhẹ dạ, cả tin, nể tình vợ chồng, cho Trọng Thủy xem nỏ thần, vô tình tiếp tay cho âm
mưu của cha con Triệu Đà có điều kiện thực hiện sớm.
- Triệu Đà chiếm được nỏ thần, chuyện gì đến đã đến.
=> Sự chủ quan, mất cảnh giác và ỷ lại vào vũ khí, coi thường giặc của An Dương Vương đã
trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp của mình và đưa Âu Lạc đến diệt vong => nước mất nhà tan.
*Phân tích lời kết tội của Rùa Vàng, vua cha chém đầu nhưng sau đó, máu nàng hóa thành ngọc
trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch?
- Lời kết tội của Rùa Vàng chính là lời kết tội của công lí, của nhân dân trước hành động vô tình
phản quốc của Mị Châu. Đó là bài học xương máu về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng,
mối quan hệ giữa gia đình và Tổ quốc.
- Thanh gươm đáng ra phải dùng để chém kẻ thù thì nay An Dương Vương phải dùng để chém
chính khúc ruột của mình.
- Hành động “tuốt kiếm chém Mị Châu” là hành động quyết liệt và dứt khoát của An Dương
Vương đứng về phía công lí và quyền lợi của dân tộc để trừng trị kẻ đắc tội với non sông, dù sự
đắc tội đó là vô tình hay hữu ý.
=> Sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua cũng chính là bài học cho muôn đời.
- Tuy nhiên, Mị Châu cũng chỉ là nạn nhân của bi kịch tình yêu:
+ Mị Châu là nàng công chúa ngây thơ, trong trắng sống trong sự thương yêu, cưng chiều của
đức vua giữa không khí hào hùng và thanh bình của đất nước.
+ Nàng là người vợ thực sự yêu thương chồng nhưng không hề biết âm mưu của Trọng Thủy
+ Những ngày sống bên Mị Châu, Trọng Thủy vừa muốn đạt được âm mưu của mình và vừa
muốn có được tình yêu của Mị Châu nhưng tận cùng của con đường rắc trắng lông ngỗng là cái
chết của tình yêu
->Tác giả dân gian muốn phê phán chiến tranh phi nghĩa
- Tác giả dân gian xây dựng chi tiết Mị Châu nhảy xuống biển thành ngọc minh châu trong lòng
trai sò, lấy nước giếng nơi Trọng Thủy tự tử mà rửa ngọc càng sáng thêm là sự minh chứng cho
lòng dạ Mị Châu trong trắng, vô tình mắc tội => thái độ cảm thông, thương xót của nhân dân với
nàng.
- Hình ảnh ngọc trai – giếng nước mang ý nghĩa biểu tượng:
+ Mối tình mang đầy bi kịch
+ Sự nhẹ dạ, cả tin, sự thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc phải trả bằng sinh mạng
+ Phải lấy cái chết của kẻ thù mới rửa nổi “nhục thù”
=>Bài học đắt giá cho thế hệ sau
Tổng kết