- Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng (2011) nêu khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”. - Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh: + Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chi Minh: đó là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam. + Cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa của nhân loại. + Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh: là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nó được thể hiện thông qua: + Các bài nói, bài viết của Người + Qua quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh + Sự vận dung sáng tạo và phát triển hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Như vậy, đối tượng của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là bản thân hệ thống các quan điểm, quan niệm được thể hiện trong toàn bộ di sản Hồ Chí Minh mà còn là quá trình vận động hiện thực hóa các quan điểm lý luận đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là quá trình mang tính quy luật bao gồm hai mặt thống nhất biện chứng: sản sinh tư tưởng và hiện thực hóa tư tưởng theo các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khái niệm Phương pháp nghiên cứu: Theo từ điển Tiếng Việt thì phương pháp nghiên cứu là môt tập hợp những cách thức, biện pháp, thao tác… được nhà nghiên cứu lựa chọn sử dụng để khai thác, thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu, xử lý thông tin nhằm làm rõ những tri thức về đối tượng nghiên cứu (từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2008). Phương pháp nghiên cứu vừa là sản phẩm vừa là công cụ của hoạt động nghiên cứu khoa học (Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2008). 1. Phương pháp luận của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Muốn nghiên cứu, giảng dạy, học tập tốt môn tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải quán triệt, nắm vững phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh, đặc biệt là phải nắm vững các nguyên lý triết học Mác - Lênin. Khi nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm vững một số nguyên tắc phương pháp luận sau: a. Thống nhất nguyên tắc tính đảng và tính khoa học - Tính Đảng: nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Tính khoa học: nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải bảo đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc hiện đại hóa hay đơn giản hóa tư tưởng của Người. Đây là yêu cầu và đòi hỏi rất cao trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, có như vậy mới đảm bảo được tính khoa học. Tính Đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường, phương pháp luận và định hướng chính trị. b. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đều bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc và thế giới, luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, coi trọng tổng kết thực tiễn. Người cho rằng đây là biện pháp không chỉ nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ lý luận, từ thực tiễn Hồ Chí Minh tổng kết, bổ sung để hoàn chỉnh và phát triển những quan điểm và quân niệm trong hệ thống tư tưởng của Người. - Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm. Người khẳng định: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ quan, duy ý chí; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Trung thành với nguyên lý này, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam để đề ra cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải quán triệt quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải biết vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống thực tiễn, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì vậy, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là dựa trên những quan điểm, tư tưởng của Người và dựa trên hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam chứ không phải học tập một cách máy móc, giáo điều. c. Quan điểm lịch sử - cụ thể Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chứng, khi nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Trong nghiên cứu khoa học, theo Lê nin, chúng ta không được quên mối liên hệ lịch sử căn bản, nghĩa là phải xem xét một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào? - Nắm vững quan điểm này giúp chúng ta hiểu được bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấy được tư tưởng của Người mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng tạo. Vì vậy, khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đặt những quan điểm, luận điểm của Người vào một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Để nhận thức và vận dụng luận điểm nào đó phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử cụ thể: Người nói, Người viết trong hoàn cảnh nào? Lúc nào? Với ai? Nhằm mục đích gì?... để không dẫn đến những suy diễn hay quy kết sai lệch tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, ở Hồ Chí Minh luôn luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm, có khi làm nhiều hơn nói. Vì vậy, những quan điểm của Hồ Chí Minh còn phải được tìm trong cuộc sống, trong những việc làm cụ thể diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định, nếu thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử thì chúng ta không thể vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và có hiệu quả. - Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể nên cũng chịu sự chế ước của chính bản thân điều kiện lịch sử đó. Có những vấn đề Hồ Chí Minh chưa kịp đề cập, có những vấn đề Hồ Chí Minh đề cập nhưng đã bị thực tiễn vượt qua. Ví dụ như trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế: có người nói rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, coi trọng nông nghiệp và hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp là không đúng đắn, nhưng chúng ta phải nhìn nhận điều kiện lịch sử mà Hồ Chí Minh đề cập đến những tư tưởng đó là lúc mà đất nước đang có chiến tranh, gặp rất nhiều khó khăn, vì vậy chúng ta cần coi trọng nông nghiệp, cần có phương thức tổ chức sản xuất phù hợp với hoàn cảnh thời chiến: sản xuất tập thể; cũng có những tư tưởng mà lúc sinh thời chỉ mới được Hồ Chí Minh gợi ra, chưa có điều kiện đi sâu vào lý giải và áp dụng vào thực tiễn như là áp dụng nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải được bảo vệ và phát triển trong những điều kiện mới. d. Quan điểm toàn diện và hệ thống - Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt nguyên tắc quan điểm toàn diện và hệ thống vì Lênin đã từng khẳng định: Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Vì vậy, khi nghiên cứu cần nắm vững và đầy đủ hệ thống các quan điểm của Người. - Quán triệt nguyên tắc này trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải xem xét mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, các bộ phận (các quan điểm, luận điểm) trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh một cách tổng thể, toàn diện và hệ thống, mà hạt nhân cốt lõi của hệ thống tư tưởng đó là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; - Cần nắm vững và đầy đủ hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh trên tất cả các lĩnh vực, không nên biệt lập từng quan điểm, cắt khúc quan điểm đó một cách siêu hình, nếu tách rời một yếu tố (một quan điểm, luận điểm) nào đó sẽ dẫn đến việc hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh e. Quan điểm kế thừa và phát triển Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết kế thừa, vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong điều kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và thế giới. - Không nên quan niệm việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã xong xuôi, hoàn chỉnh mà cần nhận thức trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh còn nhiều nội dung tư tưởng cần được nghiên cứu, làm rõ và đặc biệt là vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống sinh động có như vậy thì tư tưởng Hồ Chí Minh mới luôn luôn có sức sống, đây cũng chính là biểu hiện của sự phát triển tư tưởng của Người trong thời đại mới. - Hơn nữa, hiện nay, thực tiễn và thế giới có nhiều điều khác so với thời kỳ Hồ Chí Minh còn sống. Vì vậy, cần vận dụng tinh thần và phương pháp của Người để suy nghĩ giải quyết, nghĩa là phải kế thừa, vận dụng và phát triển theo định hướng sau đây: + Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh phải giữ đúng nguyên tắc, đúng mục đích, giữ vững mục tiêu chiến lược nhưng linh hoạt về sách lược thể hiện qua toàn bộ tư tưởng của Người, tránh giáo điều, máy móc. + Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng phương pháp của Hồ Chí Minh để tiếp tục nhận thức và hành động đúng quy luật, giải quyết những vấn đề mới, cần được bổ sung và phát triển trong sự nghiệp đổi mới. 2. Một số phương pháp cụ thể Các phương pháp trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh: - Phương pháp lịch sử và logic: Là phương pháp nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo trình tự thời gian, quá trình phát sinh, phát triển, kết quả của nó và nghiên cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra được bản chất vốn có của sự vật hiện tượng và khái quát thành lý luận. - Các phương pháp phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh - Phương pháp chuyên ngành, liên ngành: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống, bao quát nhiều lĩnh vực, có đối tượng nghiên cứu đa dạng và phong phú. Vì vậy, cần phải áp dụng các phương pháp liên ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như mỗi tác phẩm lý luận riêng biệt của Người. IV. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận - Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. - Bồi dưỡng lập trường quan điểm cách mạng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. - Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. 2. Giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước - Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng, nâng cao lòng tự hào về Hồ Chí Minh, về Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó mỗi sinh viên tự nguyện “sống, chiến đấu, lao động, học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại”. - Trên cơ sở kiến thức đã được học, giúp sinh viên biết vận dụng vào cuộc sống, từ đó mà tích cực tu dưỡng, rèn luyện bản thân, quyết tâm hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. - Trang bị cho sinh viên trí tuệ và phương pháp tư duy biện chứng để các em trở thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”, đóng góp sức mình trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Tổ quốc. 3. Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác - Giúp người học có thể vận dụng phong cách tư duy, phong cách diễn đạt, phong cách làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt, v.v. phù hợp từng lúc, từng nơi theo phương châm mà Hồ Chí Minh đã nêu: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.