Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng” (Tố Hữu- Bài ca xuân 1961) Trong bài thơ “Vân chữ” , Lê Đạt viết: Mỗi công dân đều có một dạng vân tay/ Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ/ Không trộn lẫn. Với Hồ Xuân Hương, đó là dạng vân táo bạo, sôi nổi, đầy nữ tính, khát khao về hạnh phúc lứa đôi. Đó là Nguyễn Khuyến, cũng đau đáu nỗi đời nhưng thường ẩn dưới những cảnh đẹp thiên nhiên. Đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhìn thấu sự đời, dạng vân mang vẻ triết lý, sâu xa... Đối với Nguyễn Trãi, đó là một người có dạng vân đặc biệt, dùng ngòi bút tựa tiếng gươm khua làm vũ khí đánh giặc trên mặt trận ngoại giao, đó là dạng vân nghiêng ngòi bút hướng tới nhân dân, luôn nghĩ về nhân dân dù lúc ông còn làm quan hay đã ở ẩn, đó là dạng vân “ như có máu chảy ở đầu ngọn bút” ( Mộng Liên Đường). Điều này được thể hiện rõ qua bài Thuật hứng XXIV: “Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen. Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà nặng vạy then. Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.” ( Bản phiên âm của Đào Duy Anh, Nguyễn Trãi toàn tập. Khoa học xã hội, 1976) Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, nằm trong “Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên bải riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giới,... và Thuật hứng là bài thơ thứ 24 trong chùm thơ “Thuật hứng” 25 bài- được xem là “cái gạch nối táo bạo của tư tưởng và thơ ca” (chữ dùng trong sách Tác giả tác phẩm cổ điển Nguyễn Trãi)
Đầu tiên là hai câu đề:
“Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế nghị khen.” Hợp là từ cổ, có nghĩa là “ đáng”, “nên”. Câu thơ mới nghe qua nhẹ như cỏ, như mây, không có gì băn khoăn, chợn lại ở nơi người quân tử. Như chúng ta đã biết thì Nguyễn Trãi là mưu sĩ của Lê Lợi trong mười năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Như vậy, nói về công danh thì “công danh đã được” , “hợp về nhàn”, đã đến lúc về nhàn, về nghỉ ngơi là hợp lý thôi nhưng dường như ông không chấp nhận điều đó, trong câu thơ vẫn toát lên sự bướng bỉnh của một kẻ đi ngược thời thế. Bởi vì sao? Bởi vì Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi chiến thắng quân Minh, cùng vào sinh ra tử, thế mà khi lên ngôi, Lê Lợi chỉ nghe theo bọn nịnh thần nên Nguyễn Trãi quyết: “Lưng khôn uốn, lộc nên từ” (Mạn thuật bài 14). Nhưng dù có về ở ẩn đi chăng nữa thì ông vẫn khắc khoải. Việc ở ẩn của ông không giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhìn thấy rõ thời cuộc, bốn mươi bốn tuổi mới ra làm quan, chọn lối sống nhàn tâm khi chí nguyện không thành, không giống như Nguyễn Khuyến, không biết nên ở lại với triều đình nhưng bán nước hay về phía nhân dân nhưng mang tội không trung. Nguyễn Trãi về ở ẩn là bất đắc chí, nhàn nhã về thân thể chứ không hoàn toàn nhàn nhã về tâm hồn, chủ yếu là lánh đục tìm trong cho qua thời thế. Giá như tâm tư của ông được thấu hiểu thì Nguyễn Trãi đã không bao giờ dễ dàng từ bỏ cả cơ nghiệp mà phải đánh đổi bằng máu, bằng thời gian của rất nhiều người như thế. Chính vì tư tưởng dứt khoát đó nên thái độ của ông “lành dữ âu chi thế nghị khen”. “Nghị” ở đây nên hiểu là dị nghị, là khen chê bởi nếu như hiểu ở góc độ “nghị” là ngợi khen thì đâu phải bận tâm âu lo làm gì. Ở điểm này, Nguyễn Trãi khá giống Nguyễn Bỉnh Khiêm, đứng trước công danh lợi lộc, trạng Trình chọn lối sống “Thơ thẩn dù ai vui thú nào” (Nhàn), giống Nguyễn Công Trứ “Được mất dương dương người tái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong” (Bài ca ngất ngưởng). Không lo âu không phải vì bàng quan, thờ ơ mà là vì danh lợi đã không ràng buộc được ông, nên ông chọn cách đứng trên những điều đó: “Sự thế dữ lành ai hỏi đến Bảo rằng ông đã điếc hai tai” (Vô đề V- Nguyễn Trãi) “Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn Khách tục không ai bén mảng gần” (Cuối xuân tức sự- Nguyễn Trãi) Có thể thấy là, chỉ qua hai câu đầu nhưng chân dung về người quân tử, chân dung Nguyễn Trãi đã hiện lên phần nào. Chân dung này không chỉ xuất hiện ở hai câu trong bài thơ này mà xuất hiện hầu khắp trong các bài thơ của Ức Trai, dù là thơ nói về cảnh sắc thiên nhiên, nói về muông thú,... thì cái khí chất đó, thái độ không lay chuyển vẫn là sợi chỉ xuyên suốt: “Thu đến cây nao chẳng lạ lùng Một mình lạt thuở ba đông” (Tùng- Nguyễn Trãi) Tiếp theo là hai câu thực: “Ao cạn vớt bèo cấy muống, Đìa thanh phát cỏ ương sen.” Đến đây thì không có gì phải bàn cãi nữa! Nguyễn Trãi hoàn toàn không lánh xa cõi tục, ông vẫn đang ở giữa cuộc đời lắm hư danh, lợi lộc làm vui đấy thôi nhưng không phiền lụy đến ai. Câu thơ thể hiện tính cao quý và thanh nhã qua hình ảnh “ao cạn”, “đìa thanh”, “ bèo”, “muống”, “sen”. Những hình ảnh tạo nét lạ lùng giữa những bài thơ đầy rẫy hình ảnh ước lệ, khuôn rập,...Một điều đáng nói nữa là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn lại có chen vào hai câu sáu chữ. Hữu ý hay chỉ là vô tình? Đọc hai câu thơ như rất gần với văn xuôi nhưng vẫn nghiêm chỉnh trong nguyên tắc đối “ao cạn” với “đìa thanh”, đối động từ “vớt” và “phát”, “bèo” với “cỏ”, “muống” với “sen”, người đọc sẽ có cảm giác thoải mái, co duỗi nhịp nhàng, tránh nhàm chán trong những câu thơ bảy chữ. Nhưng Nguyễn Trãi có vui với cảnh sống này không? Rất hài lòng là khác. Bởi ông sẽ được tận hưởng niềm vui nhàn tản với cuộc sống không có vị tanh hôi đồng tiền, không có mật đắng công danh, không phải nhìn cảnh khom lưng uốn gối nữa. Nói đến cùng, Nguyễn Trãi không giống như những người dân bình thường, cuộc sống này là do ông chọn, ông không phải bận tâm đến “cơm ăn áo mặc” cho đàn con, không phải lo thuê má chồng chất,... cuộc sống đó là thanh sạch, an tịnh “lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu”. Vậy có thể tạm trả lời rằng, đó là hữu ý của Nguyễn Trãi đấy thôi. Biêlinski từng nói: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó là nghệ thuật”. Thật là đúng cho hai câu thơ này của Nguyễn Trãi.