You are on page 1of 9

Họ và tên: PHẠM CÔNG VŨ – K11

Câu hỏi: thầy. cô hãy chia sẻ những hiểu biết của mình về một mô hình
giáo dục mà thầy cô qua tâm yêu thích?
Trả lời:
Mô hình giáo dục Việt Nam

1. Cơ cấu hệ thống - Mạng lưới nhà trường


Đối với cơ cấu hệ thống giáo dục, có nhiều cách xác định khác nhau. Ở
đây, khái niệm cơ cấu hệ thống chỉ giới hạn trong phạm vi phân chia cấp lớp/
trình độ đào tạo kèm theo đó là một số chú ý về phương thức giáo dục, loại hình
trường và việc phân bố trường/ lớp trên các địa bàn (thường được gọi là mạng
lưới trường/ lớp).
* Về cơ cấu hệ thống giáo dục. Luật giáo dục 2005 quy định tại Điều 4
- “Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên”. Như vậy, giáo dục thường xuyên vừa có thể hiểu như một phương thức
giáo dục, vừa có thể xem là một tiểu hệ thống/ phân hệ của hệ thống giáo dục
quốc dân.
- Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non, có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông, có 3 cấp học: tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5), trung
học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9), trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12);
c) Giáo dục nghề nghiệp, gồm 3 trình độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp (trung
cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề), cao đẳng;
d) Giáo dục đại học, gồm 4 trình độ đào tạo: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến
sĩ.
* Về mạng lưới trường/ lớp, theo nguyên tắc phân bố trường gần dân, đến
nay trên các địa bàn dân cư đều có các cơ sở giáo dục. Cụ thể là:
- Mỗi xã, phường hoặc thị trấn đều có ít nhất một cơ sở giáo dục mầm non,
một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở hoặc một trường liên cấp tiểu
học và trung học cơ sở (hình thức này chỉ có ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn); phần lớn các xã có trung tâm học tập cộng đồng.
- Mỗi quận, huyện, thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh đã có một hoặc một số
trường trung học phổ thông, có một trung tâm giáo dục thường xuyên của
huyện. Các thị xã, các quận và nhiều huyện đã có trung tâm kỹ thuật tổng hợp-
hướng nghiệp. Các huyện miền núi, hải đảo đều có một trường trung học cơ sở
nội trú dành cho học sinh dân tộc thiểu số1 và trường phổ thông có nhiều cấp
học.
- Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có một trường trung học
phổ thông chuyên dành cho học sinh xuất sắc trong việc học tập một trong các
các môn học, có trường trung cấp hoặc/và một trường cao đẳng (junior college),
một trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh. Các tỉnh miền núi và các tỉnh có
nhiều huyện miền núi đều có trường trung học phổ thông nội trú dành cho học
sinh dân tộc thiểu số. Một số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương còn có
trường năng khiếu nghệ thuật, trường năng khiếu thể dục-thể thao và trường
dành cho người khuyết tật, tàn tật.
- Các trường đại học tập trung ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số
thành phố như Hải Phòng, Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ ... Ngoài ra,
hầu như mỗi tỉnh đều có trường cao đẳng hoặc trường đại học.
2. Giáo dục mầm non và việc thực hiện quyền trẻ em:
Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
từ mười hai tháng tuổi đến sáu tuổi. Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em
phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, ngôn ngữ, thẩm mỹ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1. [12] Cơ sở giáo
dục mầm non gồm nhà trẻ (tiếp nhận trẻ từ ba tháng tuổi đến ba tuổi) và trường
mẫu giáo (tiếp nhận trẻ từ ba tuổi đến năm tuổi).
Chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước là bảo đảm các quyền của trẻ em
được quy định trong Luật Giáo dục và Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Cụ thể
là:
- Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục để phát triển toàn diện về
thể chất, tình cảm, trí tuệ, ngôn ngữ, thẩm mỹ phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi.
- Trẻ em được chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám bệnh, chữa bệnh không
phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.
- Trẻ em được giảm phí đối với các dịch vụ vui chơi, giải trí.
Việc thành lập các nhà trẻ nhằm mục đích giúp các bà mẹ có nơi gửi con
để đi làm và tham gia hoạt động xã hội, góp phần tạo điều kiện thực hiện sự
bình đẳng về giới.
Về mặt quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục mầm non hoặc do Uỷ ban
nhân dân cấp huyện thành lập (cơ sở công lập), hoặc do cộng đồng xã, phường
thành lập (cơ sở dân lập), hoặc do tư nhân thành lập (cơ sở tư thục).
- Các cơ sở giáo dục mầm non công lập chỉ được thành lập tại các xã thuộc
địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng cư trú của các dân tộc thiểu số.

1
Cấp trung học cơ sở
- Các cơ sở giáo dục mầm non dân lập chủ yếu được thành lập tại nông
thôn. Dân cư trong cộng đồng đóng góp xây dựng trường sở, mua sắm thiết bị
và bảo đảm kinh phí hoạt động, chính quyền địa phương có trách nhiệm hỗ trợ
về nguồn lực.
- Chính phủ khuyến khích tư nhân thành lập các cơ sở giáo dục tiền học
đường tư thục. Các trường này được hưởng các chính sách ưu đãi như được
giao hoặc cho thuê đất, được giao hoặc cho thuê cơ sở vật chất, được hưởng ưu
đãi về thuế và tín dụng.
Về quy mô giáo dục mầm non, trong năm học 2007-2008, cả nước có
3.057.718 trẻ em được bố mẹ gửi vào 11.620 cơ sở giáo dục mầm non; trong đó
có 5.678 cơ sở giáo dục mầm non công lập tiếp nhận 1.336.824 trẻ em, 5.942 cơ
sở giáo dục mầm non ngoài công lập tiếp nhận 1.720.894 trẻ em. [13] [19]
* Mục tiêu phát triển của giáo dục mầm non đến 2010 là:
- Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ em trước 6 tuổi. Giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng của trẻ em trong các cơ sở giáo dục tiền học đường xuống dưới
15%2.
- Mở rộng hệ thống nhà trẻ, trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc
biệt ở nông thôn và vùng khó khăn để hệ thống này có thể thu hút 18% trẻ em
dưới 3 tuổi, 67% trẻ em trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Phổ cập trẻ 5 tuổi, tích cực thu
hút 95% - 100% 3 trẻ 5 tuổi đến trường để chuẩn bị cho các em có kỹ năng vào
học lớp một.
- Tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức, tuyên truyền và tư vấn cho
các bậc ông bà, cha mẹ về nuôi dạy trẻ em theo khoa học. [15]
3. Giáo dục tiểu học
Cấp tiểu học gồm 5 lớp, thu nhận trẻ em từ 6 tuổi. Như vậy, nếu trẻ không
lưu ban, bỏ học thì đến 11 tuổi sẽ tốt nghiệp tiểu học.
Mục tiêu giáo dục của cấp tiểu học là giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên cấp trung học cơ sở.
[12] Trong chương trình tiểu học hiện hành, ở lớp 1, lớp 2 và lớp 3 có 6 môn
học là : Tiếng Việt, Toán, Tự nhiên và xã hội, Đạo đức, Thể dục, Nghệ thuật
( Mỹ thuật, Âm Nhạc); trong đó, chỉ có Tiếng Việt và Toán có sách giáo khoa
(để học sinh sử dụng), bốn môn còn lại có tài liệu hướng dẫn giảng dạy (để giáo
viên sử dụng); ở lớp 4 và lớp 5 có 7 môn học là: Tiếng Việt, Toán, Lịch sử và
Địa lý, Khoa học, Đạo đức, Thể dục, Nghệ thuật; trong đó, bốn môn có sách
giáo khoa là Tiếng Việt, Toán, Lịch sử và Địa lý, Khoa học, các môn học còn
lại có tài liệu hướng dẫn giảng dạy. [14] Ngoài ra, cần đưa dần chương trình tin

2
Năm 2005 là 20%
3
Năm 2005 các chỉ tiêu này là15%, 58% và 85%.
học vào tiểu học để bổ sung các kỹ năng cơ bản cho học sinh lên cấp học cao
hơn.
Năm học 2007-2008, cả nước có 14.939 trường tiểu học với 6.832.567 học
sinh. Số trường công lập là 14.844 với 6.832.218 học sinh. Số trường ngoài
công lập là 95 với 18.349 học sinh. [13] [19] Trong những năm gần đây, số học
sinh tiểu học giảm liên tục.17 Bên cạnh tình trạng học sinh bỏ học, nhiều nhà
phân tích cho rằng hiện tượng này là kết quả của việc giảm tỷ lệ tăng dân số
(nhân khẩu trong độ tuổi 6-11 giảm) và việc trẻ em đi học đúng độ tuổi (trước
đây quy mô cấp tiểu học lớn hơn dân số trong độ tuổi 6-11).
Thực hiện quy định của Luật phổ cập giáo dục tiểu học 1991, mọi trẻ em
chậm chất là đến 14 tuổi đều phải tốt nghiệp tiểu học, hơn chục năm trở lại đây,
ngày 5-9 được lấy làm ngày toàn dân đưa trẻ em đến trường với mục tiêu vận
động tất cả các gia đình có con lên 6 đều đưa vào học lớp một. Năm 2000, tỷ lệ
trẻ em trong độ tuổi 6-11 đi học là 95%; năm học 2004-2005 tỷ lệ đó là hơn
98%. [19]
Mục tiêu phát triển của giáo dục tiểu học đến 2010 là: Thực hiện phổ cập
giáo dục đúng độ tuổi (thu hút 99% trẻ em trong độ tuổi đi học, giảm thiểu tỷ lệ
lưu ban, bỏ học), nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiến tới thực hiện dạy và học
2 buổi/ ngày, đưa ngoại ngữ vào học từ lớp 3, giảm tỷ lệ hs/gv và quy mô các
lớp học. [13]

Năm học 2001-2002, số học sinh mtiểu học là 9.311.010. Như vậy, mỗi giảm trung bình gần 400-500 nghìn
1717

học sinh.
Sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam

4. Giáo dục trung học:


Giáo dục trung học có hai cấp: cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông.
Trung học cơ sở gồm 4 lớp (từ lớp 6 đến lớp 9). Mục tiêu giáo dục của cấp
trung học cơ sở là củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có
học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, hoặc học nghề (trung cấp
chuyên nghiệp/ trung cấp nghề), hoặc đi vào cuộc sống lao động. [12]
Trung học phổ thông gồm 3 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12). Mục tiêu giáo dục
của cấp trung học phổ thông là giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những
hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng
lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, hoặc học lên đại học, cao đẳng, hoặc
học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. [12]
Năm học 2007-2008, cả nước có 10.491 trường trung học cơ sở với
5.791.229 học sinh; trong đó, số trường công lập là 10.458 với 5.791.229 học
sinh và số trường ngoài công lập là 33 với 68.297 học sinh. Cũng trong năm học
này, số trường trung học phổ thông là 2.476 với 3.070.023 học sinh; trong đó,
số trường công lập là 1.826 với 2.238.141 học sinh và số trường ngoài công lập
là 831.882 học sinh. [13] [19]
Tại các tỉnh có đông người dân tộc thiểu số (tỉnh miền núi và tỉnh có huyện
miền núi) trong các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông có một số
trường nội trú. Theo thống kê năm 2005, tổng số trường nội trú dành cho con
em dân tộc thiểu số là 325; trong đó có 11 trường dân tộc nội trú trung ương với
4.400 học sinh; 48 trường tỉnh (trung học phổ thông) với khoảng 20 nghìn học
sinh; và 266 trường huyện (trung học cơ sở) với khoảng 60 nghìn học sinh. [9]
[19]
Triển khai chương trình phân ban ở trung học phổ thông là một nội dung
đổi mới quan trọng ở giáo dục phổ thông. Từ năm học 2006-2007, cấp trung học
phổ thông có ba ban: (i) Ban cơ bản, (ii) Ban khoa học tự nhiên, (iii) Ban khoa
học xã hội và nhân văn. Chương trình của cả ba ban đều gồm các môn học: Văn
học, Lịch sử, Địa lý, Toán học, Vật lý, Hoá học, Ngoại ngữ, Chính trị và Giáo
dục công dân, Thể dục thể thao... Yêu cầu của ban cơ bản chính là chuẩn kiến
thức và kỹ năng (nghĩa là yêu cầu tối thiểu cần thiết) đối với tất cả các môn học
thuộc chương trình của cấp học. Yêu cầu của Ban khoa học tự nhiên là nâng cao
đối với bốn bộ môn: Toán, Vật lý, Hoá học và Sinh học. Yêu cầu của ban khoa
học xã hội và nhân văn là nâng cao đối với bốn bộ môn: Văn học, Lịch sử, Địa
lý và Ngoại ngữ. [14]
Đối với một trường, việc giảng dạy, học tập theo mấy ban, là ban nào tuỳ
thuộc sự lựa chọn của hiệu trưởng/ hội đồng nhà trường sau khi báo cáo và
được giám đốc sở giáo dục và đào tạo đồng ý. Đối với những trường chọn ban
cơ bản thì để tăng cường khả năng lựa chọn của học sinh, nhà trường có thể có
tổ chức thực hiện các chương trình tự chọn đối với các môn học được nâng cao
ở hai ban: Ban khoa học tự nhiên (và toán), Ban khoa học xã hội và ngoại ngữ.
* Mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông đến năm 2010 là: Thực
hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; thu hút 99% trẻ em trong độ tuổi 11-15
đi học trung học cơ sở, 50% trẻ em trong độ tuổi 15-18 đi học trung học phổ
thông; giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học; bảo đảm tất cả học sinh đều được học một
ngoại ngữ liên tục từ lớp 6 đến lớp 12. [15]
5. Giáo dục nghề nghiệp - trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
Mục tiêu giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức và
kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức và lương tâm, có ý thức kỷ luật và tác phong
công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho người lao động có thể tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. [12]
Giáo dục nghề nghiệp có ba trình độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng. Đào tạo trình độ sơ cấp thực hiện trong thời gian dưới một năm; đào tạo
trình độ trung cấp và cao đẳng thực hiện trong thời gian từ một đến ba năm tuỳ
theo đặc điểm, yêu cầu nghề nghiệp và trình độ của người học ở đầu vào. [12]
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm các trường trung cấp chuyên nghiệp
thuộc quyền quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường dạy nghề và các
trung tâm dạy nghề thuộc quyền quản lý của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội. Theo thống kê năm 2006, trong cả nước có 1.688 cơ sở dạy nghề phân bố ở
tất cả các tỉnh, bao gồm 236 trường dạy nghề (tăng gấp đôi so với năm 1998),
404 trung tâm dạy nghề và trên 1.000 các lớp dạy nghề 18. [19] [20] Trong hệ
thống các trường dạy nghề, ngoài các trường công lập, có trường tư thục, trường
có vốn đầu tư của nước ngoài và trường của quân đội để thực hiện việc dạy
nghề cho bộ đội xuất ngũ. Về các trường trung học chuyên nghiệp (thuộc quyền
quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo), mặc dầu nhiều trường mạnh lần lượt
chuyển thành trường cao đẳng nhưng trong 5 năm (từ 2001 đến 2005) tổng số
các trường trung học chuyên nghiệp vẫn tăng. Cụ thể, năm học 2001 có 253
trường đến năm học 2005 có 285 trường, với 283.335 học sinh. Trong đó, có
238 trường công lập và 47 trường tư thục; có trường thuộc các bộ và có trường
thuộc địa phương, mỗi tỉnh trung bình có từ 3 đến 5 trường (trừ 3 tỉnh mới
thành lập)19. [19] [20]

Nguồn: Dự thảo báo cáo tình hình thực hiện giai đoạn một (2001-2005) chiến lược phát triển Giáo dục 2001-
1818

2010, viện CL&CTGD


* Mục tiêu phát triển của giáo dục nghề nghiệp đến năm 2010 là:
- Thiết lập hệ thống đào tạo nghề nghiệp thực hành đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, chú trọng đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân
lành nghề, đội ngũ kỹ thuật viên và cán bộ chuyên môn ở trình độ cao đẳng từ
những người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề.
- Thu hút 30% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học các trường
trung cấp4 và 10% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học các cao
đẳng nghề. [15]
6. Giáo dục đại học
Giáo dục đại học đào tạo bốn trình độ: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Cụ
thể:
- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ 2-3 năm, đối với người tốt
nghiệp trung học phổ thông hoặc trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề; 1-2
năm đối với người tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; [12]
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4-6 năm đối với người tốt
nghiệp trung học phổ thông hoặc trung cấp; từ 2 1/2- 4 năm đối với người tốt
nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ 11/2- 2 năm đối với người tốt nghiệp cao
đẳng cùng chuyên ngành; [12]
- Đào tạo trình độ thạc sĩ thực hiện từ 1-2 năm đối với người tốt nghiệp đại
học; [12]
- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm đối với người tốt
nghiệp đại học; từ 2-3 năm đối với người có bằng thạc sĩ. [12]
Mục tiêu giáo dục của cấp đại học là đào tạo sinh viên thành những người
có phẩm chất chính trị, có đạo đức và ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và
năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [12]
Các cơ sở giáo dục đại học của nước ta gồm:
- Các trường cao đẳng (junior college);
- Các trường đại học (university), trong đó có đại học gồm nhiều trường
thành viên (colleges), có đại học chỉ có các khoa;
- Các học viện;
Theo thống kê năm 2006, cả nước có 322 trường đại học, cao đẳng với
1.53.846 sinh viên; trong đó có 275 trường công lập với 1.310.375 sinh viên và
193.471 sinh viên. Về đào tạo sau đại học có gần 150 cơ sở với 38.461 học viên
1919
Năm 2004, trong số 286 trường có 246 trường công lập, 40 trường ngoài công lập. Nếu chia theo chủ thể
quản lý thì, địa phương quản lý 211 trường, các bộ, ngành TW quản lý 75 trường.
4
Trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 quy định: Thu hút 15% học sinh tốt nghiệp THCS vào THCN
(theo Luật giáo dục 2005 là TCCN) và 15% vào học trường dạy nghề dài hạn, ở đây xin gộp chung thành 30%
vào học trung cấp (TCCN và TC nghề)
cao học20 và 4.518 nghiên cứu sinh21. Tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân là 179.
[19]
* Mục tiêu phát triển của giáo dục đại học đến 2010 và 2020 là:
- Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2010
và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó có 70-80% sinh viên theo
học các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng và khoảng 40% sinh viên thuộc
các trường ngoài công lập. [17]
- Bảo đảm đến năm 2010 đạt 40% giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ
thạc sĩ và 25% có trình độ tiến sĩ; tỉ lệ sinh viên/giảng viên của cả hệ thống giáo
dục đại học không quá 20. [17]
- Áp dụng các phương thức và công nghệ quản lý hiện đại trong các cơ sở
giáo dục đại học, đặc biệt là áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông; hình
thành trung tâm dữ liệu quốc gia về đào tạo và nghiên cứu khoa học, và hệ
thống thư viện điện tử. [17]
- Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả của các hoạt động khoa học công
nghệ trong các trường đại học. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm
nghiên cứu khoa học mạnh của cả nước. Nguồn thu từ các hoạt động khoa học -
công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt khoảng 15% tổng nguồn thu của các trường.
Nhà nước dành hơn 1% ngân sách để các trường đại học thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học. [17]
- Bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường về tất cả các
mặt. Bảo đảm vai trò quản lý của nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã
hội đối với các hoạt động của nhà trường. [17]
7. Giáo dục thường xuyên
Trong suốt một thời gian dài, nhân dân ta kiên trì tiến hành công cuộc
chống nạn mù chữ, phát triển giáo dục người lớn (lúc đầu là giáo dục bình dân,
rồi giáo dục bổ túc và ngày nay là giáo dục thường xuyên). Kết quả là hàng
chục triệu người đã thoát khỏi nạn mù chữ. Hàng triệu người, thông qua các lớp
bổ túc văn hoá và các khoá đào tạo tại chức mà tiếp tục mở mang sự hiểu biết,
vươn tới ánh sáng của tri thức.
Ngày nay, giáo dục thường xuyên có chức năng giúp mọi người vừa làm
vừa học, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm
việc làm và tự tạo việc làm, thích nghi với đời sống xã hội. [12]
Trong phạm vi chức năng, giáo dục thường xuyên có các chương trình sau:
- Chương trình xoá mù chữ và sau xoá mù chữ;

2020
Người được đào tạo thành thạc sĩ
2121
Người được đào tạo thành tiến sĩ
- Chương trình giáo dục cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công
nghệ theo yêu cầu của người học;
- Chương trình đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ;
- Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
[11]
Hệ thống tổ chức thực hiện giáo dục thường xuyên gồm các trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp tỉnh, các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện và
các trung tâm học tập cộng đồng. Đồng thời các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học cũng tham gia thực hiện chương trình giáo
dục thường xuyên. [12]
Trong năm học 2008-2009, tính chung cả nước có 66 trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh, 583 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, 24
trường bổ túc văn hoá, 1.300 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 10.997 trung tâm
học tập cộng đồng ở xã (thuộc địa bàn nông thôn). [13] [19]
* Mục tiêu của giáo dục thường xuyên đến 2010 và 2015 là:
- Nâng cao kết quả xoá nạn mù chữ, tăng tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi
15-35;
- Mở rộng cơ hội học tập cho người lớn, người lao động, giúp mọi người
tiếp cận và thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết, khả năng
lao động và chất lượng cuộc sống
- Phấn đấu để mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên phủ kín các địa bàn
trong cả nước. [13]

You might also like