You are on page 1of 60

Danh sách nhóm 7

Thành viên Nhiệm vụ Ý thức, thái độ họp


nhóm
Lê Thị Tuyết (nhóm Lập dàn ý, phân công nhiệm vụ Chủ động lên dàn ý, tích
trưởng) cho thành viên, tổng hợp và cực đưa ý kiến để nhóm
chỉnh sửa word. đóng góp
Hợp tác trong thảo luận
nhóm, tuy nhiên chưa
chủ động nhận nhiệm
vụ; hoàn thành chậm
tiến độ.
Chủ động nhận nhiệm
vụ và hoàn thành đúng
tiến độ
Chủ động nhận nhiệm
vụ và hoàn thành đúng
tiến độ; có tham gia
đóng góp ý kiến
Tích cực, chủ động đưa
ý kiến đóng góp.
Chủ động nhận nhiệm
vụ
Tích cực, hợp tác trong
thảo luận nhóm
Tích cực nhận nhiệm
vụ, hoàn thành đúng tiến
độ
Tích cực đóng góp ý
kiến, hoàn thành nhiệm
vụ đúng tiến độ
Chủ động nhận nhiệm
vụ,chậm deadline
Biên bản họp nhóm.

Buổi họp lần 1:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN BUỔI HỌP

Thời gian: 11/03/2021

Địa điểm: Phòng V101 - Đại học Thương Mại

Thành phần tham dự: Lê Thị Tuyết,

Chủ trì: Lê Thị Tuyết - nhóm trưởng

Nội dung (theo diễn biến buổi họp):

- Nhóm trưởng phổ biến và đưa ra dàn ý về đề tài chính và phụ, các thành viên hiểu đề tài
và nắm được cách làm, không có ý kiến đóng góp về dàn ý.

- Nhóm trưởng phân chia công việc, các thành viên tự nhận công việc của mình.

Nhóm trưởng Thư ký

Buổi họp lần 2:


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN BUỔI HỌP

Thời gian: 1/4/2020

Địa điểm: Phòng V101 - Đại học Thương Mại

Thành phần tham dự: Lê Thị Tuyết,

Chủ trì: Lê Thị Tuyết - nhóm trưởng

Nội dung (theo diễn biến buổi họp):

- Nhóm trưởng tổng kết phần Words và PowerPoint của bài thảo luận

- Các thành viên đánh giá và tự đánh giá về ý thức, thái độ tham gia họp nhóm; nhóm
trưởng tổng hợp ý kiến và đánh giá.

Nhóm trưởng Thư ký

_____MỞ ĐẦU_____
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, một danh nhân
văn hoá thế giới. Người là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam. Hồ Chủ tịch đã để
lại cho dân tộc và nhân loại một di sản đồ sộ, vô cùng quý báu, đó là cuộc đời, sự nghiệp,
tư tưởng, và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Và đặc biệt đó là tư tưởng của người,
cùng với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành kim chỉ nam cho
hành động của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho
dân tộc Việt Nam tiến về phía trước.

Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã
nhận được đông đảo sự quan tâm của những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước và đã
được tiến hành nghiên cứu từ mấy chúc năm trước. Trong quá trình nghiên cứu ấy, các
nhà lý luận đã làm rõ từng khái niệm, nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và chia sự
hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh thành những giai đoạn khác nhau, để
chúng ta có thể hiểu sâu sắc các mốc phát triển quan trọng, nắm được nội dung tư tưởng
quan trọng của Người trong từng thời kỳ. Từ đó nắm được quá trình phát triển liên tục,
nhất quán, có kế thừa, phát triển và loại bỏ những quan điểm không phù hợp. Vì vậy, tiêu
chí cơ bản để phân kỳ là dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh
trong từng thời kỳ cụ thể chứ không phải dựa vào các mốc thời gian hoạt động của
Người. Trên cơ sở phân tích trên, những nhà lý luận đã chia chia sự hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh thành năm thời kỳ như sau:

1.     Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911)

2.     Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 – 1920)

3.     Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1920 – 1930)

4.     Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và
quyền dân tộc cơ bản (1930 – 1945)

5.     Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc (1945 – 1969)
Trong đó, giai đoạn từ 1920 đến 1930 giữ một vai trò đặc biệt quan trọng với 10
năm hoạt động sôi nổi nhất và quyết liệt nhất của Hồ Chí Minh. Nếu nội dung chính của
Tư tưởng Hồ Chí Minh “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” thì giai đoạn này chính là giai đoạn hình thành
những tư tưởng cơ bản đó. Vì vậy việc nghiên cứu những hoạt động và tư tưởng Hồ Chí
Minh từ 1920 – 1930 là yêu cầu tất yếu trong quá trình tìm hiểu về tư tưởng của Người.
Trong bài thảo luận này nhóm 7 sẽ làm rõ những hoạt động thực tiễn và lý luận của Hồ
Chí Minh trong giai đoạn 1920 – 1930 để chúng ta hiểu rõ hơn về sự những hoạt động và
sự phát triển trong tư tưởng của Người trong thời kỳ này.

A. NỘI DUNG

I. Hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm
1930

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng có truyền thống yêu
nước; được trang bị những kiến thức cơ bản về học vấn, lại sớm tham gia phong trào yêu
nước và chứng kiến sự thất bại của các cuộc đấu tranh của nhân dân ở nhiều nơi đã hình
thành ở Nguyễn Tất Thành lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Người nhận thức được
nguyên nhân thất bại của các phong trào đấu tranh, sớm ý thức và mong muốn đi tìm con
đường cứu nước. Ngày 5/6/1911, Người rời Bến Nhà Rồng, lên đường sang Pháp. Lúc
này, Người chưa hình dung một cách rõ nét nhưng nó phải khác với những con đường mà
dân tộc đã trải qua, để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi. Cuộc hành trình
và thời gian sống ở nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc, những nhận thức về đời sống và
nguyện vọng của nhân dân lao động ở các nước mà Người đã tới là cơ sở thực tiễn để
Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa cộng sản một cách tự nguyện, tự giác.
Giai đoạn 1920-1930 giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc đời Hồ Chí Minh, cụ
thể:
1. Giai đoạn 1920-1923:
Đây là thời kỳ Người sống và làm việc tại Pháp. Những hoạt động tích cực của
Nguyễn Ái Quốc trong phong trào công nhân, nhân dân lao động nghèo khổ khắp phố
Pari, đặc biệt là các hoạt động kêu gọi nhân dân Pháp ủng hộ cuộc cách mạng của nước
Nga Xô viết chống lại cuộc bao vây của các nước đế quốc như: rải truyền đơn, tuyên
truyền vận động nhân dân Pháp quyên góp tiền ủng hộ nước Nga Xô viết,... đã làm cho
nhận thức về chính trị xã hội của Người được nâng cao. Những hoạt động thực tiễn và
tiếp thu chân lý ban đầu đã làm sáng tỏ hơn con đường cứu nước mà Người hướng tới.
Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Nguyễn Ái Quốc đã hướng gần với
Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lenin. Theo lời báo cáo của mật thám
Giăng và Đơveđơ, theo Báo L’Humanité các số ra ngày 13-14/1/1920, ngày 14/1/1920,
tại số 3 đường Chateau - Pari, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài “Sự tiến triển trong
xã hội các dân tộc Châu Á và những yêu cầu của nước Nam”. Ngày 11/2/1920, Người
thuyết trình đề tài “Chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á và đến đề ruộng đất công điền ở Trung
Quốc và Việt Nam” tại Hội nghị những người thanh niên Cộng sản Quận 2 (Pari).
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đăng trên báo L'Humanité (một báo chí
Pháp, đại diện cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa đến năm 1920, là cơ quan phát ngôn của
Đảng Cộng sản Pháp). Người đón nhận Luận cương này của V.I.Lênin với niềm phấn
khởi và tin tưởng của một người chiến sĩ cách mạng sau nhiều năm nghiên cứu lý luận,
khảo sát thực tiễn. Luận cương của V.I.Lênin đã có ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đối với
nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam. Người đi theo chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, tháng 12/1920, Người tham dự Đại hội
lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tour với tư cách là đại biểu Đông Dương, trở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng
sản đầu tiên của Việt Nam.
Trong những năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc có hoạt động thực tiễn hết sức
phong phú và sôi nổi trên địa bàn nước Pháp. Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Người
tham gia nhiều hoạt đông nhằm thúc đẩy phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Năm 1921, Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách
mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Trong thời gian này, người sử dụng báo chí
Pháp tấn công chủ nghĩa thực dân - đáng chú ý, Người là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo
Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài đăng trên các báo “Người cùng khổ”,
“Đời sống thợ thuyền”, ... Đặc biệt, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc
địa. Tất cả các bài viết của Người đều được bí mật chuyển về nước và lưu truyền trong
mọi tầng lớp nhân dân.
Không chỉ thế, Người còn tham gia Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg). Câu lạc bộ
này do một trí thức Pháp thuộc phái tả tên là Lêô Pônđe tổ chức, theo kinh nghiệm câu
lạc bộ thời cách mạng Pháp 1789. “Phôbua”, theo nghĩa tiếng Việt là ngoại ô, nhưng thật
ra, câu lạc bộ này không hề nằm ở ngoại ô Paris. Đây là một câu lạc bộ lưu động, không
có trụ sở chính thức, khi họp chỗ này, khi họp ở nơi khác. Mỗi tuần, câu lạc bộ họp một
lần, vào tối thứ bảy. Mỗi lần họp có khoảng hai, ba trăm người tới dự. Họ thuộc đủ loại
xu hướng chính trị, đủ loại nghề nghiệp. Rất nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà văn, nhà
bác học có tiếng sinh hoạt câu lạc bộ này. Nhờ việc tham gia đều đặn và hăng hái các
buổi sinh hoạt của câu lạc bộ, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tranh thủ được nhiều tình
cảm của các bạn bè Pháp, trong đó có Lêô Pônđe. Từ đó, Lêô đã tạo mọi điều kiện để
Người tham gia các cuộc thảo luận. Nguyễn Ái Quốc có tài gắn các vấn đề thảo luận với
những tội ác của bọn thực dân tại các nước thuộc địa và anh đã lên án bọn thực dân một
cách đanh thép. Những buổi sinh hoạt câu lạc bộ, với nội dung rất phong phú như vậy, đã
giúp Người mở rộng tầm nhìn, nâng cao kiến thức về nhiều mặt, hiểu sâu thêm tâm lý xã
hội, quan điểm của các diễn giả. Có lần, Người đã trình bày đề tài: Sân khấu Việt Nam,
có biểu diễn tiết mục minh họa. Tin này đã được đưa lên trang nhất của báo Người cùng
khổ (Le Paria) số 1. Nhằm đả kích tên vua bù nhìn Khải Định sang dự Hội chợ thuộc địa
tổ chức ở Mácxây tháng 6 – 1922, Nguyễn Ái Quốc đã viết một vở kịch ngắn rất công
phu “Con rồng tre”. Đại ý vở kịch sau: Từ những cây tre thân hình quằn quèo, những
người chơi đồ cổ đẽo gọt thành con rồng – chẳng qua nó cũng chỉ là một thứ đồ chơi,
không hơn không kém. Thế mà khúc tre ấy cứ hãnh diện là nó có dáng hình con rồng và
được gọi là rồng. Nhưng dù có là rồng đi nữa, nó cũng chỉ là một quái vật vô dụng mà
Khải Định chính là thứ quái vật đó.
Tháng 12 năm 1921, Đảng Cộng sản Pháp tổ chức Đại hội Macxây. Nghiên cứu
thuộc địa của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp bầu Nguyễn Ái Quốc đi dự Đại hội với tư
cách đại biểu chính thức. Để khủng bố ý chí chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng các
nước thuộc địa, bọn cảnh sát quyết định phải bắt Người. Chúng phái tới khu vực quanh
hội trường Bôvi, đường Sáctơrơ tới 500 tên cảnh sát. Người vừa rời khỏi tàu điện sắp
bước vào cửa Đại hội thì chúng ập tới. Nguyễn Ái Quốc phải chạy rất nhanh vào hội
trường. Bọn chúng hằn học đứng đợi ở ngoài cửa. Tại Đại hội này, Bác được bầu vào
Đoàn Chủ tịch, Người đã đọc bản tham luận lên án chủ nghĩa thực dân Pháp và nêu
những nhiệm vụ của Đảng đối với các thuộc địa. Tan phiên họp, đồng chí Ôrôlây, nghị sĩ
Quốc hội, các đồng chí là Ủy viên Hội đồng thị xã và một số đông đại biểu Đại hội phải
đi cạnh Bác để bảo vệ, chống sự can thiệp của bọn cảnh sát, đưa Bác về nhà trọ một cách
an toàn. Ngày hôm sau, một số báo chí tiến bộ ở Pari đã có bài phản đối hành động không
thể tha thứ được của cảnh sát Mácxây. Còn Lêô Pônđe, người bạn thân thiết của Nguyễn
Ái Quốc thì đã lên tiếng bênh vực Người, tố cáo bọn cảnh sát trong một bài Báo của nhân
dân.
Năm 1923, với tư cách là đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, Người tranh cử vào
Hạ viện Pháp nhưng thất bại. Trong lần đầu tiên tham gia bầu cử Quốc hội đó, Đảng
Cộng sản Pháp giành được tất cả 1,2 triệu phiếu ủng hộ trên tổng số 5 triệu phiếu cử tri,
những Nguyễn Ái Quốc trượt chân dân biểu Quốc hội.
Trong toàn bộ thời gian sống trên đất Pháp, Người trang trải cuộc sống bằng cách
làm việc nửa ngày. Thoạt đầu, Người làm thuê tại tiệm rửa ảnh và được Phan Văn
Trường nhượng quyền cho thuê lại một căn phòng. Sau đó người đi vẽ khoán cho một
xưởng vẽ truyền thần và thuê một phòng tại căn nhà số 9 ngõ Compoint, Quận 17, Pari.
Người theo học dự thinh tại Đại học Sorbone và được coi là mọt sách tại Thư viện Quốc
gia Pháp.
2. Giai đoạn 1923-1924:
Đây là giai đoạn Người ở Pari lần thứ nhất.
Ngày 13/6/1923, Người bí mật rời nước Pháp, ngày 30/6/1923 Người đến
Pêtơrôgrát và ít ngày sau Người lên xe lửa đi Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc đã trở thành
người Việt Nam đầu tiên có mặt trên đất nước Lênin, nơi nhân dân Liên Xô đã được tự
do và đang xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, bình đẳng. Người đến Liên Xô và bắt đầu
một thời kỳ hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lenin, và chế độ xã hội
chủ nghĩa ngay trên đất nước Lenin vĩ đại.
Nơi Người đến, Mátxcơva giờ đây là trung tâm của phong trào cách mạng, nơi
đóng trụ sở của Quốc tế cộng sản - Bộ tổng tham mưu của những người cộng sản thế
giới. Trong môi trường mới mà lúc đó trên thế giới không nơi nào có được, hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc như được tăng thêm sức, chắp thêm cánh. Các mối quan
hệ của Nguyễn Ái Quốc được mở rộng thêm ra. Nếu như ở Pháp, Người quan hệ với
những người mácxít Pháp, với những chiến sỹ chống thực dân đế quốc thuộc các thuộc
địa Pháp thì ở Mátxcơva mối giao tiếp của Người chẳng những gia tăng về số lượng mà
cả chất lượng nữa. Tại đây, Người có thể trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm với những
lãnh tụ nổi tiếng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với các chiến sĩ chống
đế quốc thực dân trên mọi miền của thế giới và được học tập, nghiền ngẫm những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Những yếu tố trên đã tạo nền tảng để Nguyễn Ái Quốc triển khai hoạt động tuyên
truyền của mình với nhiều hình thức phong phú hơn, chất lượng và sâu sắc hơn. Người đã
sử dụng nhiều phương tiện thông tin khác nhau để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, trước
hết phải kể đến phương tiện báo chí. Từ tháng 9/1923, trên các tờ báo cánh tả Pháp như
L’Humanité và La Vie Ouvrière đã xuất hiện các bài viết của Người. Riêng với tờ Le
Paria, khi còn ở Pháp, Người là chủ nhiệm, chủ bút thì ở Mátxcơva Người như một
phóng viên thường trú của báo. Những bài viết của Người gửi cho tờ Le Paria chứa đựng
những thông tin về nước Nga - đất nước vĩ đại có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với các nước
thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng. Người còn viết nhiều bài cho các ấn phẩm
định kỳ của Quốc tế cộng sản như tạp chí Thông tin quốc tế, tạp chí Quốc tế nông dân,
báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô như tờ Sự thật, Người công dân Bacu. Ngoài báo
chí, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sử dụng các phương tiện thông tin mới chưa có trước đó
như truyền đơn, sách báo, diễn đàn. Đó là các văn kiện, thư từ của Quốc tế cộng sản và
của Người nhân danh Quốc tế Cộng sản gửi cho nhân dân Việt Nam; là truyền đơn, là các
bài phát biểu, tham luận tại Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân, Công hội, Thanh
niên… Trong đó, đáng chú ý có hai tác phẩm mang tầm vóc tư tưởng lớn: “Trung Quốc
và thanh niên Trung Quốc” (Nhà xuất bản Mátxcơva Mới xuất bản năm 1924) và “Bản
án chế độ thực dân Pháp” (ra mắt lần đầu tiên năm 1925 tại thủ đô Pari, trên tập san
Inprékor của Quốc tế Cộng sản).
Và thời gian này, thời gian hoạt động ở Mátxcơva cũng là thời gian Người tham
dự nhiều hội nghị quốc tế lớn, có thể kể đến như Đại hội I Quốc tế Nông dân (12-
15/10/1923),  Đại hội V Quốc tế cộng sản (17/6 - 8/7/1924), Đại hội III Quốc tế công hội
đỏ, Đại hội IV quốc tế thanh niên… Tại các diễn đàn của các đại hội đó, Người đã nói lên
tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập
trường mácxít. Những lời phát biểu của Người đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong
lòng các đại biểu, đặc biệt là những đại biểu từ các nước thuộc địa và phụ thuộc Á, Phi,
Mỹ Latinh. Qua đó, đặt nền móng cho sự liên minh, tình đoàn kết vô sản quốc tế giữa
nhân dân Việt Nam và những người lao động thế giới.
Cùng với hoạt động thức tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn hiểu sâu sắc việc cần phải
học tập nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin. Cho nên, cuối năm 1923,
Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tham gia lớp học ngắn hạn của trường Đại học Phương
Đông. Được học ở ngôi trường này, Người đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của
việc đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ của phong trào cách mạng Việt Nam.
Học xong lớp ngắn hạn tại Đại học Phương Đông, trong khi chờ đợi Đại hội V Quốc tế
Cộng sản khai mạc và chờ lên đường về châu Á, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm
cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản (theo giấy xác nhận do Pêtơrốp ký ngày
14/4/1924). Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5/1924, Nguyễn Ái Quốc được mời đến Hồng
trường nói chuyện với những người đi biểu tình và được Tư lệnh thành phố Mátxcơva
cấp giấy phép tự do đi lại trên Hồng trường trong ngày hôm đó. Những hoạt động tích
cực này của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự có mặt của Người trong những nghi lễ quan
trọng cho thấy vai trò và uy tín của Người ngày càng được khẳng định ở trung tâm phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Sống và hoạt động ở Mátxcơva, điều mà Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rõ nhất, đó là
Quốc tế Cộng sản và các Đảng ở châu Âu hiểu biết rất ít về tình hình ở các thuộc địa. Đặc
biệt, Người nhận thức rõ rằng, không thể áp dụng một cách máy móc, rập khuôn những
nguyên lý về đấu tranh giai cấp của học thuyết Mác vào điều kiện cụ thể của các thuộc
địa. Vì vậy, Người xác định sẽ tận dụng mọi cơ hội để có thể giúp những người cộng sản
ở phương Tây hiểu rõ hơn về thuộc địa.
Bằng sự quan sát tinh tường tại nhiều thuộc địa của các đế quốc khác nhau,
Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các
thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc; các thuộc địa trở thành
nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Từ sự thấu hiểu đó, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục
tiến hành đấu tranh không mệt mỏi, phê phán những quan điểm sai trái của một số đảng
cộng sản trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí của cách mạng thuộc địa với
cách mạng ở chính quốc. Tại Phiên họp lần thứ 22 Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản,
ngày 1/7/1924, với tư cách là một đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, và nhân danh một
người dân thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình cả Đảng Cộng sản Pháp, Đảng
Cộng sản Anh và Đảng Cộng sản một số nước chưa quan tâm đến cách mạng ở các thuộc
địa: “sẽ không phải là quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chúng
ta chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề
cập đến quần chúng các nước thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng
đó vẫn không có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ không có hiệu quả gì vì nó trái với chủ
nghĩa Lênin”
Ngoài đề tài quen thuộc trên, ở thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu nêu ra
những vấn đề mới mẻ trước đó chưa từng có, với chủ đích rõ ràng là hướng cuộc đấu
tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam nói riêng, các dân tộc thuộc địa nói chung tới
Quốc tế cộng sản, tới Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin. Như vậy,
có thể thấy, ở thời kỳ này, chủ đích của Nguyễn Ái Quốc đã rõ ràng: hướng cuộc đấu
tranh của nhân dân các thuộc địa tới nước Nga Xô Viết, theo gương cách mạng Tháng
Mười. Hơn thế nữa, Người còn đặt cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong
quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, coi đó là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Tuy nhiên, khác với Lênin, khác với thời đại trước đó, Người cho rằng cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng
khít biện chứng với nhau, “nhịp nhàng như hai cánh của một con chim” nhưng không
phụ thuộc vào nhau.
Năm 1924, trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” được viết ở
Mátxcơva, Hồ Chí Minh tập trung vào 3 vấn đề chính: phát động chủ nghĩa dân tộc bản
xứ nhân danh Quốc tế cộng sản; đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo cán bộ cho
cách mạng Việt Nam; dự báo về khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương
và nó phải được sự ủng hộ của nước Nga Xô Viết, của giai cấp vô sản toàn thế giới. Có
thể nói, trong điều kiện lịch sử khi đó, những nhận định và ý kiến của Nguyễn Ái Quốc
được đưa ra trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” thể hiện một tư duy sắc
sảo, một thái độ dũng cảm của Người trong việc khẳng định: thực tiễn là tiêu chuẩn, là sự
kiểm nghiệm của chân lý. Mặt khác, báo cáo cũng thể hiện sự nắm vững linh hồn,
phương pháp và sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý của học thuyết Mác trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi phải có một giai cấp
công nhân giác ngộ, có tổ chức, được vũ trang bằng học thuyết cách mạng nhất - chủ
nghĩa Mác-Lênin. Thông qua một loạt bài viết như: “Phong trào công nhân”
(9/11/1923), “Nhật Bản” (9/11/1923), “Phong trào công nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ”(1/1/1924),
“Phong trào công nhân ở Viễn Đông”(25/1/1924)… Nguyễn Ái Quốc bắt đầu có ý thức
rõ ràng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Ghi nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời nhận rõ vai trò cách mạng của giai cấp nông
dân xuất phát từ thực tế lịch sử của đất nước và những nước cùng cảnh ngộ thuộc địa.
Người đã viết nhiều bài báo về tình cảnh nông dân Bắc Phi, nông dân Trung Quốc, nông
dân Việt Nam. Trong bài phát biểu tại Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc tố
cáo những thủ đoạn thực dân để biến nông dân thành nô lệ với hai bàn tay trắng. Trong
các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (nǎm 1924) Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ
rõ: “Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày
càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc
địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu”. Nguyên nhân là vì
“họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo”. Do đó, Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ
họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới
cách mạng và giải phóng. Nông dân nhất thiết phải tự nguyện đi với giai cấp công nhân
và kết thành một khối. Chỉ bằng cách đó nông dân mới phát huy đầy đủ sức mạnh của
mình.
Những hoạt động và kinh nghiệm tích lũy được đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc trở
về Tổ quốc, gánh vác sứ mệnh trọng đại mà lịch sử đã lựa chọn và giao phó cho Người:
chuẩn bị về chính trị và tư tưởng để tiến tới thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam.
Khi biết sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước
đang có mặt ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm điểm dừng chân
trên hành trình tiến gần về Tổ quốc để tổ chức, đoàn kết, huấn luyện những thanh niên
đầy nhiệt huyết đó, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập. Sau nhiều lần đề đạt, nguyện
vọng của Người đã được Quốc tế Cộng sản chấp nhận. Với tư cách là cán bộ Ban Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân,
Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước
châu Á. Cuối tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva và Người đến Quảng Châu
ngày 11/11/1924, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập chính đảng kiểu mới cho giai cấp công
nhân và dân tộc Việt Nam.
Như vậy, dù thời gian Người ở lại Mátxcơva không lâu (16 tháng) nhưng thời gian này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc mà cả đối với phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Việc học tập trên đất
nước Lê nin tươi đẹp, nơi đã vun đắp cho Nguyễn Ái Quốc thực tiễn về chính trị, kinh tế,
văn hoá phong phú và bổ ích; đối chiếu, so sánh những kiến thức thu nhận được với thực
tế mà Người đã trải qua, đã thu lượm được từ các thuộc địa để từ đó nâng cao nhận thức
sâu sắc về lý luận Mác-Lênin, có thêm những kinh nghiệm hoạt động cách mạng, trau dồi
phẩm chất, đạo đức uy tín của người cách mạng. Người đã nhận thức và lý giải sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đang đặt ra cho cách mạng vô sản thế giới cũng như
cho cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, từ đó Người đã hoàn thiện thế giới
quan và nhân sinh quan cách mạng của mình và phác thảo được những nét lớn về chiến
lược cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
3. Giai đoạn 1924-1927:
Sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng
vô sản, tháng 11- 1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có đông người Việt
Nam yêu nước hoạt động. Trong thời gian này cũng có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với
cách mạng Việt Nam: Nó đánh dấu thời kỳ Người trở về gần với đất nước “… đi vào
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lập…”
Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ thủ đô Mátxcơva đã đến
Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy, trên cương vị phái viên của Quốc tế Cộng
sản, trong Phái bộ của Cố vấn Borodin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn. Tại đây,
Nguyễn Ái Quốc đã khẩn trương tiến hành các hoạt động chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
và tổ chức cho sự ra đời chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Trong thời gian
này, Người cũng gặp ông cũng gặp mặt một số nhà cách mạng lão thành người Việt đang
sống và hoạt động lưu vong trên đất Trung Quốc, trong đó có Phan Bội Châu. Trong một
báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế Cộng sản đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, Người viết
về Phan Bội Châu: "Ông ấy không hiểu chính trị và lại càng không hiểu việc tổ chức
quần chúng,tôi đã giải thích cho ông ấy hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của
những hành động không có cơ sở. Ông ấy đã đưa tôi một bản danh sách của 14 người
Việt Nam đã cùng ông ta hoạt động bấy lâu.". Trong nhóm 14 người này có một số thành
viên của Tâm tâm xã - một tổ chức gồm những thanh niên đầy nhiệt huyết và chí khí, sẵn
sàng hy sinh tính mệnh vì nghĩa lớn nhưng vì chưa có người tổ chức, cương lĩnh chưa rõ
ràng, phần nào chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc. Trong đó, có
một số thanh niên ưu tú của hội như  Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê
Hồng Phong,... Năm 1925, Người lựa chọn một số phần tử tích cực của Tâm tâm xã, huấn
luyện thêm và trên cơ sở đó, lập ra Cộng sản đoàn, rồi tiếp tục dựa trên Cộng sản đoàn
mà thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (hay còn gọi là Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên) vào tháng 6. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội,
mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đạp tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi
sau đó làm cách mạng cho thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng
sản). Được sự giúp đỡ bí mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ cách mạng ở
Quảng Châu, hội sau khi thành lập đã tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh
niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo và bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ đầu năm
1926 đến tháng 4/1927, tại Trụ sở số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248
và 250) đối diện với Trường đại học Trung Sơn (nay là Bảo tàng Cách mạng Quảng
Châu), Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở ba khóa huấn luyện chính trị cách mạng cho lớp
thanh niên ưu tú của Việt Nam đang có mặt tại Quảng Châu với gần 10 lớp huấn
luyện, tổng số 75 người và mỗi khóa chỉ kéo dài 2-3 tháng. Kết thúc khóa học, có người
được giữ lại ở nước ngoài công tác, có người được cử đi học tiếp ở Liên Xô, hoặc Trường
Quân sự Hoàng Phố (Quảng Châu)... còn phần đông thì được cử về nước hoạt động, gây
dựng và tổ chức, phát triển các phong trào cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời cho xuất bản báo Thanh
niên làm cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Báo Thanh niên ra
hằng tuần, bằng tiếng Việt, số đầu tiên của báo ra ngày 21/6/1925. Báo có các chuyên
mục: xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc, v.v.. Những
bài viết của báo Thanh Niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề
cập những vấn đề chính: Đế quốc và thuộc địa; Cách mạng và cải lương; Thực tiễn của
cách mạng Việt Nam; Đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; Cách mạng dân tộc và cách
mạng thế giới; Cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; Học tập lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin, v.v.. Thông qua báo Thanh Niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội.
Là tờ báo đầu tiên trong lịch sử báo chí vô sản nước ta, báo Thanh Niên đã góp phần
quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Giai đoạn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng Châu 1924 -
1927 không chỉ có tác động trực tiếp đến phong trào cách mạng của Việt Nam mà còn
góp phần quan trọng trong phong trào cách mạng Trung Quốc cũng như Quốc tế Cộng
sản.
Ở Quảng Châu, bên cạnh việc tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cho
phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị tốt cho việc thành lập chính đảng của giai cấp
vô sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình trực tiếp tham gia các
hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc và cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
Trung Quốc.
Đối với Quốc tế Cộng sản, những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng
Châu trong giai đoạn 1924 - 1927 đã làm phong phú hơn về mặt lý luận và thực tiễn của
Quốc tế Cộng sản trong việc lãnh đạo cách mạng giai cấp vô sản toàn thế giới. Với vai trò
là thành viên của Quốc tế Cộng sản khu vực phương Đông và đại diện của Hội Nông dân
quốc tế, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tích cực liên lạc, tổ chức kết nối các nhà hoạt
động cách mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức tại Quảng Châu. Tháng
7/1925, Người đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông nhằm
đoàn kết các dân tộc bị áp bức ở châu Á trong một mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc đã đặt cơ sở cho việc xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam
với cách mạng các nước.
Tháng 5 năm 1927, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đặt những người cộng sản
ra ngoài vòng pháp luật, Người rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi sang Moskva. Tháng
11 năm 1927, Người được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên
đoàn chống chiến tranh đế quốc từ ngày 9 tháng 12 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927
tại Bruxelles, Bỉ. Sau đó, Người cũng qua Ý.
Thời kỳ 1924 - 1927 ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện được những
công việc hết sức trọng đại, cống hiến công lao to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân
tộc Việt Nam cũng như sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Người đã cải tổ Tâm tâm xã
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên để trực tiếp truyển bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập
chính Đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
4. Giai đoạn 1928-1930:
a. 1928-1929: Thời kì ở Xiêm ( Thái Lan)
Mùa thu 1928, Hồ Chí Minh từ châu Âu đến Thái Lan, với bí danh Thầu Chín,
với mục đích "đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu
tranh giành tự do độc lập". Trong thời gian hoạt động ở Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc đã
tích cực tuyên truyền, vận động, gây dựng cơ sở cách mạng và gây ảnh hưởng về trong
nước. Tại đây, Người đã mở các lớp huấn luyện ngắn hạn cho các hội viên chi bộ Việt
Nam Cách mạng Thanh niên; chọn dịch một số sách sang tiếng Việt; chỉ đạo xuất bản
báo để tuyên truyền, giáo dục, cổ vũ tinh thần yêu nước của Việt kiều; chỉ đạo mở trường
dạy học cho con em Việt kiều,… Trong thời gian hơn 1 năm sống và hoạt động ở Thái
Lan (7-1928 đến 11-1929), Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành những hoạt động tuyên truyền:
 Một là, Vận động Việt kiều vào các tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, Việt kiều ở Xiêm được tổ chức theo hai hình thức chủ
yếu đó là Hội Hợp tác và Hội Thân ái. Ngoài hai tổ chức trên, ở các địa phương còn
có Hội Phụ nữ, Hội Thiếu niên. Người không chỉ nói chuyện, đọc báo cho bà con tại
câu lạc bộ của Hội Hợp tác về tình hình và triển vọng của cách mạng Việt Nam và
cách mạng thế giới, phân tích tính chất trường kỳ gian khổ của cách mạng Việt
Nam, thậm chí người đã cùng tham gia lao động với bà con Việt kiều như gặt hái,
gánh nước, lấy củi, đào giếng, trồng cây, làm vườn, xẻ gỗ, đánh cá, bán hàng, v.v...
Người cũng bỏ giầy đi chân đất như mọi người, trực tiếp gặp gỡ, uốn nắn họ về nhận
thức, về tư tưởng, về tác phong. Để Việt kiều ở Xiêm, kể cả người lớn và trẻ em biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ, không quên tiếng mẹ đẻ, không quên cội nguồn dân tộc,
giác ngộ lòng yêu nước, giác ngộ cách mạng; thanh niên có trình độ văn hóa nhất
định, dựa vào pháp luật của Nhà nước Xiêm, Nguyễn Ái Quốc đã phát động một
phong trào học tiếng Việt và học tiếng Thái trong Việt kiều. Bản thân Nguyễn Ái
Quốc cũng rất tích cực học tiếng Xiêm. Người tự đặt ra cho mình, mỗi ngày học 10
chữ, dù bận đến đâu cũng phải sắp xếp học cho bằng được. Có người hỏi: Học ít như
vậy thì khi nào sẽ học xong chữ Xiêm. Người trả lời: Học ít biết nhiều tốt hơn học
nhiều biết ít. Thế mà chỉ trong 3 tháng, Người đã đọc được báo Xiêm và trong 4
tháng, Người đã sử dụng thành thạo tiếng Xiêm. Ngoài việc phát động phong trào
học tập, Nguyễn Ái Quốc còn vận động, giáo dục bà con Việt kiều xóa bỏ những
phong tục tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan, những thói hư, tật xấu trong sinh hoạt,
từng bước xây dựng lối sống mới trong cộng đồng người Việt. 
 Hai là, sử dụng báo chí để tuyên truyền trong Việt kiều. Để có điều kiện tuyên truyền
cách mạng trong Việt kiều, dựa vào pháp luật của Chính phủ Thái Lan lúc bấy giờ,
Nguyễn Ái Quốc đã dùng hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp để tiến hành tuyên
truyền, giáo dục Việt kiều bằng tờ báo Thân ái. Báo Thân ái, có các mục: Tin tức, Tự
do diễn đàn, giúp đỡ học vấn, phụ nữ đàm, văn uyển. Nội dung rất phong phú, cung
cấp nhiều thông tin quý báu về lịch sử đấu tranh của dân tộc, về phương pháp cách
mạng, kinh nghiệm hoạt động bí mật; vạch trần tội ác của đế quốc Pháp và phong
kiến Việt Nam, phản ánh nỗi thống khổ của đồng bào, khuyên nhủ đồng bào đoàn kết
cứu nước, giúp đỡ lẫn nhau;…
Với sự hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc, phong trào yêu nước của Việt kiều ở
Thái Lan có nhiều chuyển biến mới, tích cực: Các tổ chức cách mạng được củng cố và
phát triển; tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước được tăng cường; trình độ của cán bộ và
bà con Việt Kiều được nâng lên... Những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã
có ảnh hưởng tốt về trong nước.
b. 1929-1930: thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Vào cuối mùa thu nǎm 1929, đang hoạt động ở Thái Lan, được nghe báo cáo về
tình hình mâu thuẫn giữa các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, được sự ủy nhiệm của Quốc
tế cộng sản, Người đã trở lại Hồng Kông, triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản
để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Trở lại Hồng Kông lần này
với sứ mệnh lịch sử nặng nề, đồng chí Nguyễn ái Quốc phải suy nghĩ và giải quyết hàng
loạt vấn đề nóng bỏng và phức tạp trong quá trình chuẩn bị thống nhất Đảng: làm thế nào
xóa bỏ những bất đồng giữa các nhóm cộng sản, để đi tới thống nhất các nhóm đó trong
một tổ chức duy nhất? Tên Đảng nên đặt như thế nào cho đúng với tính chất đảng của
giai cấp công nhân và các nhóm có thể chấp nhận làm sao hoàn thành cho kịp các bản
Cương lĩnh, Sách lược Điều lệ của Đảng - Đó là những vǎn kiện cơ bản của Hội nghị hợp
nhất. Vấn đề bảo đảm bí mật cho Hội nghị cũng được Người rất quan tâm. Tầt cả những
vấn đề trên được tiến hành thận trọng, bí mật và khẩn trương để kịp khai mạc Hội nghị.
Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 nǎm 1930,
trong cǎn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long, gần Hồng Kông. Sau nǎm
ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các
tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là
Đảng cộng sản Việt Nam, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Hội nghị đã thông
qua các vǎn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng,... do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thảo ra.
Sự ra đời của Đảng ta là một tất yếu lịch sử, do những điều kiện trong nước và thế
giới lúc ấy quyết định, đồng thời là kết quả rực rỡ của cả một quá trình hoạt động sôi nổi
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Người đã đấu tranh kiên cường trong phong trào công
nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, kiên trì học tập tìm tòi nghiên cứu và rèn
luyện. Đó là kết quả to lớn của gần 10 nǎm chuẩn bị rất công phu và đầy đủ của Người về
các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng thời cũng chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam kéo dài suốt từ cuối thế kỷ XIX sang
đầu năm 1930.
II. Hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh thời kỳ từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930
Trong giai đoạn 1920 - 1930, hoạt động lý luận của Hồ Chí Minh vô cùng phong
phú, sâu sắc và đóng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam cũng như thế
giới. Các tác phẩm lý luận của Người trong giai đoạn này đến tay độc giả qua một số tờ
báo Pháp, đặc biệt là báo La Paria (Người cùng khổ) mà Người là biên tập kiêm chủ bút,
vở kịch hoặc các đầu sách được xuất bản. Các tác phẩm khắc họa rõ cách nhìn, hướng đi
và tư tưởng của Người về cách mạng dân tộc đồng thời thể hiện sự sáng tạo, thông minh
khi vận dụng những lý luận của Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam. Trong đó, nổi bật
nhất là các tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường Kách Mệnh” và các tác
phẩm được tập hợp trong “Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng”
1. Bản án chế độ thực dân Pháp
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
Hồ Chí Minh đã xuất bản cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” trong giai
đoạn Người hoạt động vô cùng nỗ lực và sôi nổi trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế tại Pháp. Tác phẩm nổi tiếng trên là sản phẩm tổng hòa của tất cả các tri thức,
chính trị, triết học, xã hội, lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn, được tiếp thu, bồi
bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” viết bằng tiếng Pháp vào những năm 1921-1925
và được xuất bản đầu tiên vào năm 1925 ở Pa-ri, Thủ đô nước Pháp trên Báo Imprékor
của Quốc tế Cộng sản. Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được xuất bản bằng
tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm 1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã xuất bản bằng
tiếng Việt.

b. Nội dung cơ bản:


Ngay từ khi mới ra đời “Bản án chế độ thực dân Pháp” lan truyền đi nhanh và
rộng khác thường. Rất nhiều người trong và ngoài nước biết đến nó. Hun đúc trong đấu
tranh cách mạng, tác phẩm ra đời như một luồng ánh sáng mới xé tan đám mây mù đang
bao phủ trên khắp đất nước Việt Nam và nhiều nước thuộc địa. Nó thỏa mãn cả lý trí và
tình cảm của hàng triệu quần chúng cách mạng đang ngưỡng vọng và khát khao một chân
trời mới; nó thu hút mạnh mẽ sự chú ý của nhiều lớp người tiến bộ đang mơ hồ, băn
khoăn về một con đường giải phóng sáng sủa.

Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12 chương và phần phụ lục

Chương 1: Thuế máu

Chương 2: Việc đầu độc người bản xứ

Chương 3: Các quan thống đốc

Chương 4: Các quan cai trị nước ta

Chương 5: Những nhà khai hoá


Chương 6: Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị

Chương 7: Bóc lột người bản xứ

Chương 8: Công lí

Chương 9: Chính sách ngu dân, hại nước

Chương 10: Chủ nghĩa giáo hội

Chương 11: Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ

Chương 12: Nô lệ thức tỉnh

Phụ lục: Gửi thanh niên Việt Nam

Chương I: Thuế máu. Ở mục I: Chiến tranh và " người bản xứ", Nguyễn Ái Quốc
đã lên án gay gắt chế độ thực dân Pháp đã gây ra chiến tranh và đẩy hàng chục vạn những
người dân thuộc địa vào cuộc chiến đẫm máu. Trước năm 1914, tức là trước chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, bọn thực dân gọi những người dân nô lệ ấy, " là những tên da đen
bẩn thỉu, những tên " Annamít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn
của các quan cai trị". Khi chiến tranh nổ ra thì lập tức họ biến thành những đứa "con
yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các
quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa, được nhà cầm quyền phong cho họ danh hiệu tối
cao là "chiến sỹ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng những người dân khốn khổ ấy, "phải
trả một giá khá đắt cho cái vinh dự đột ngột ấy", là phải" xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh
ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương đi phơi thây trên các bãi chiến trường
châu Âu". Cụ thể là nhiều người "được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các
loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng
Bancăng... một số khác thì đã anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông
Mácnơ, hoặc trong những bãi đầm lầy Sămpanhơ". Thật là vô nghĩa, chết đi "để lấy máu
mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên
những chiếc gậy của các ngài thống chế". Tại chiến trường là vậy, ở hậu phương những
người lính thợ "làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm. hít phải" khí độc đỏ
ối", mắc bệnh "khạc ra từng miếng phổi"...Cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy, đã đưa
"700.000 người lên đất Pháp; và trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông thấy
mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa !".

Mục II: Chế độ lính tình nguyện. Thật là mỉa mai khi "dân lao khổ bản xứ ở Đông
Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thuế khoá, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng
bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ năm 1915- 1916 tới nay, lại
phải "thêm cái vạ mộ lính nữa". Đâu có còn là chế độ tình nguyện, chiến tranh là cái cớ
"để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương...
săn bắt thứ " vật liệu biết nói " châu Á đem đi sử dụng ở châu Âu" . Chế độ tình nguyện
được tiến hành bằng mọi cách: bằng lệnh, bằng thủ đoạn tuyên tuyền, bằng vũ lực... Lệnh
của quan trên "phải nộp đủ một số người nhất định", các cấp thi hành mệnh lệnh, thoạt
tiên chúng "tóm những người khoẻ mạnh , nghèo khổ"; sau là con nhà giàu, không chịu đi
thì bắt giam, hoặc không đi thì "xì tiền ra". Không chịu được, những người bị bắt lính
luôn tìm cơ hội để trốn thoát hoặc tự gây ra các bệnh toét mắt chảy mủ bằng các thứ "vôi
sống đến mủ bệnh lậu". Chúng còn lừa bịp bằng cách tuyên truyền, hứa hẹn, tâng bốc
như tặng "phẩm hàm", "truy tặng", "các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không
ngần ngại rời bỏ quê hương...hiến dâng xương máu của mình... hiến dâng cánh tay lao
động của mình..."Thực tế thì những người An Nam, trên đất An Nam khốn khổ "tốp thì
bị xích tay, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt... có lính Pháp canh...". Người trốn lính
đào ngũ "tính ra có tới 50 phần trăm", rồi những cuốc binh biến nổ ra bị "đàn áp" bị dìm
trong biển máu. "Người trong trại thì chúng vừa dùng giọng lưỡi lừa phỉnh, vừa dùng
hình thức quản lý dã man thích vào tay, vào lưng những con số không thể tẩy xoá bằng "
dung dịch nitơrát bạc.". Chiến tranh là cơ hội cho bọn có chức có quyền bòn rút tiền bạc,
trong mọi hoàn cảnh và cả hình thức bắt mọi người dân "mua công trái tự nguyện". Hình
thức bắt lính còn diễn ra ở Tây Phi, cụ thể ở các nơi như  miền quê Xênêgan, bến cảng
Ruyphixcơ và Đaca, Đahômây...bọn thực dân Pháp mộ lính bằng vây bắt, bằng đàn áp dã
man cả đàn bà và trẻ em, bằng cướp phá và đốt sạch...Đối với cuộc chiến phi nghĩa do
bọn đế quốc gây ra, người dân các nước thuộc địa phải trả bằng máu, một thứ thuế máu
rất dã man, tàn bạo, không ai có thể kể hết được tội ác tày trời của chúng.

Mục III: Kết quả của sự hy sinh. Nguyễn Ái Quốc viết: "Khi đại bác đã ngấy thịt
đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng
nhiên im bặt như có phép lạ...", những người lính bản xứ mặc nhiên trở lại "giống người
bẩn thỉu". Mỉa mai thay: "Để ghi nhớ công lao những người lính An Nam, chẳng phải
người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ
bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ,v.v, trước khi đưa họ đến Mácxây xuống
tàu về nước, đó sao?". Tàn nhẫn thay!" người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát
và đánh đập họ...cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tầu ẩm ướt,
không giường nằm, không ánh sáng , thiếu không khí... Về đến xứ sở họ được một quan
cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: "Các anh đã bảo vệ
Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!". Đối với
thương binh, tử sỹ người Pháp thì được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện, tác giả đã kịch
liệt lên án bọn thực dân cá mập "đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại" là gây ra chiến
tranh huynh đệ tương tàn và đầu độc cả một dân tộc. Tại An Nam, ở Biên Hoà, Sài Gòn
chúng còn tổ chức ngày hội quyên góp để lấy tiền "xây dựng đài kỷ niệm người An Nam
trận vong", mở chợ phiên, khiêu vũ, chiếu phim mừng ngày 11 tháng 11 ngày "chiến
thắng" và "chính nghĩa" đã gây ra cảnh các ông bà chủ đánh đập những người dân hiền
lành, trong đó có cả trẻ em một cách tàn bạo.

Mục IV: Hành vi quân phiệt tiếp diễn. Tác giả tiếp tục phản ánh tình hình binh sỹ các
nước thuộc địa bị đối xử tàn tệ, bị xua đi tham gia các cuộc bình định ở xứ Marốc, ở Xiri,
tiếp tục đổ máu, tiếp tục bị đối xử tàn bạo bằng "đá đít hoặc roi vọt", giết chết họ bằng
đầu độc vô cớ…

Chương II: Việc đầu độc người bản xứ. Nguyễn ái Quốc đã lên án nền văn minh
"Đại Pháp", lên án chúng đã đặt nền cai trị độc quyền lên xứ Đông Dương "người ta có
thể hình dung Đông Dương như một con nai béo mập bị trói chặt và đương hấp hối dưới
cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi không thấy no". Chúng đã đầu độc các dân
tộc bằng bằng thuốc phiện và rượu cồn. Tác giả đưa ra lời phê nguyên Bộ trưởng Bộ
thuộc địa Xarô: “Thế mà người An Nam lại đã có: những 10 trường học, những 1500 đại
lý rượu và thuóc phiện cho 1000 làng kia đấy!” "Chúng ấn định mức rượu  phải uống
cho mỗi người" toàn bộ dân số, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em, cả đến đứa còn bú mẹ.
"Chúng đầu độc bằng rượu nồng độ cao từ 40 đến 45 độ làm bằng thứ gạo rẻ tiền, pha
thêm chất hoá học, có mùi vị nồng nặc khó chịu". Bọn chủ độc quyền còn ra thông tư
"bắt nhân viên của chúng pha thêm nước lã vào rượu đem bán; cứ mỗi héctôlít thêm 8 lít
nước lã." việc làm đó "mỗi năm công ty thu được món lãi nho nhỏ 432.000, hay  4 triệu
phrăng". Việc đầu độc người bản xứ là tội ác ghê tởm không thể dung thứ.

Chương III: Các quan thống đốc. Tác giả nêu, các quan thống đốc thường là các
nghị viên, các nhân vật cao sang nhất của chế độ thực dân, ở các thuộc địa như ông
Phuốc, ông Lông, ông Gácbi, ông Méclanh, ông Giơrêmi Lơme, ông Utơ rây. Họ đều
những tên thực dân cáo già làm việc quan liêu, theo thói quen, tự ý, vơ vét, thao túng,
biện thủ thuế, bóc lột dân bằng mọi hình thức, có những tên thống đốc là "những tên vô
lại trong cái giới thống đốc và nghị viên thuộc địa" từng bị truy tố trước toà.

Chương IV: Các quan cai trị. Tác giả cũng nêu đích danh các quan cai trị là ông
Xanh, ông Đáclơ, các ngài Buđinô, Bô đoanh và những ngài khác. Họ là những tên khâm
sứ, chánh sứ, công sứ chức quan dưới thống đốc, toàn quyền. Bọn họ là những tên quân
phiệt có tài đầu độc dân bản xứ, ức hiếp vua bù nhìn, dân lành, đàn áp dã man các cuộc
nổi dậy, nhiều tên có lý lịch khả ố, xuất thân từ thằng "hàng cháo" hay "con nợ"...Thế mà
chúng nắm trong tay mọi quyền hành "vừa là quan toà, vừa là mõ toà, vừa là người đốc
thuế", bóc lột, bắt bớ, giam cầm, bòn rút, đánh đập lính, đánh đập dân một cách tàn nhẫn..
Không những thế các quan cai trị còn ăn hối lộ, buôn bán thuốc phiện. Họ không bị trừng
trị mà vẫn được thăng chức toàn quyền, có thể được gắn bội tinh nữa.

Chương V: Các nhà khai hoá. Ta thấy tác giả giành nhiều trang hơn, kể tỷ mỷ
những tội ác của các nhà khai hoá thuộc địa. Họ là những cảnh binh, những viên chức với
con số khá đông, tây đoan, đốc công, mật thám, sỹ quan,, binh lính, những nhà truyền
giáo...Họ là những người Pháp sang An Nam, các xứ thuộc địa khác với mục đích "khai
hoá" và làm giàu. Họ trực tiếp khai hoá bằng giết người, đánh đập những người dân rất
dã man, tàn nhẫn, vơ vét của cải của họ, giành chiếm đất đai. Tác giả kể lại những câu
chuyện thương tâm như cảnh giội nước sôi vào người, cảnh bắn giết bừa bãi, cảnh trả thù,
đánh đập con người lương thiện một cách vô cớ... và đã lấy dẫn chứng của ông Vin hê
Đốctông ký nhà văn người Pháp viết: "Trên thế giới không có dân tộc chiến bại nào bị
đàn áp và hành hạ như người dân thuộc địa".

Chương VI: Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị. Nguyễn Ái Quốc đã nêu những
con số thu chi, chỉ ra tệ tham nhũng ở các xứ thuộc địa. Đó là những khoản chi cho
"những hành vi điên rồ" một cách phung phí vào các cuộc đón tiếp linh đình, các cuộc
triển lãm vô bổ, những cuộc đi lại của các quan, kinh phí đài thọ... làm hao hụt ngân sách,
mà mỗi đồng ngân sách là mồ hôi, xương máu của người dân thuộc địa. Tác giả đã nêu
lại lời một cựu nghị sỹ đi thăm thuộc địa về, đã phải kêu lên: "So với bọn viên chức thuộc
địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện!" Nguyên nhân sâu xa là
"quá nửa số viên chức ấy, từ các quan đầu tỉnh đến các quan chức khác, đều không đủ tư
cách cần thiết của những con người được giao phó những quyền hạn rộng rãi và ghê
gớm như thế”. Bọn thực dân cai trị, tên nào cũng có "cái tài phung phí công quỹ". Chúng
chi cho công việc xây các biệt thự, ở các thành phố lớn, ở các bãi biển nghỉ mát, "ngân
sách Đông Dương lại phải è lưng ra gánh". Các quan cai trị đều có cuộc sống đế vương
"họ là những ông vua con", chi phí cho việc đi lại tốn kém hàng trăm nghìn phrăng một
chuyến đi. mỗi người mua hàng 5,6 cỗ xe ngựa sang trọng đủ kiểu, xe hơi mỹ lệ...Chi phí
đón tiếp các quan chóp bu tốn kém hàng chục nghìn đồng, một lượt, thậm chí công quỹ
còn phải chi vào các cuộc ăn chơi, đài thọ tiền nhà, điện nước, nhà cửa, tiền mua báo chí,
tiền sưởi ấm...Nhờ tiền tham nhũng các nhà "khai hoá" đã sống một cuộc sống vương giả,
bắt lính phục dịch, thuê người quản gia, đầu bếp, hầu phòng, người giữ xe, giữ ngựa, làm
vườn, các loại thợ...Tham nhũng là một tên nạn trong xã hội thực dân phong kiến đã làm
gia tăng sự bần cùng hoá cuộc sống của nhân dân các nước thuộc địa.

Chương VII: Bóc lột người bản xứ . Tác giả đã trích lời của nhà văn người Pháp
Vin hê Đốctông như lời đề dẫn rằng: "Sau khi cướp hết những ruộng đất màu mỡ, bộn cá
mập Pháp đánh vào những ruộng đất cằn cỗi những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế đất
thời phong kiến". Tại An Nam nhân dân cũng chung số phận như vậy, Bọn thực dân cũng
tăng thuế ruộng đất tăng gấp đôi  rồi gấp rưỡi, dã man hơn chúng còn biểu khống diện
tích, bắt nhân ta phải đóng thuế cả khi thiên tai hạn hán, lũ lụt mất mùa. Chúng đề ra thuế
thân đánh vào tất cả người bản xứ "từ 18 tuổi đến 60 tuổi đều phải đóng một suất thuế
thân đồng loạt là 2 đồng rưỡi". Chúng đặt ra thuế lưu thông hàng hoá, bán các loại công
trái để thu lợi tức, đưa ra các khoản đóng góp, các loại phí vô lý. Ai không thực hiện
chúng đấnh đập bỏ tù. Bọn thực dân còn cướp không các ngân phiếu của các binh sỹ gửi
về. Nặng nề nhất, phải kể đến chế độ phu phen tạp dịch của chúng. Cảnh tượng những
người nông dân bị trưng tập đi phu làm những việc nặng nề như vét sông, mở đường, bị
chúng đưa đến những chốn xa xôi rừng xanh nước độc. "Bệnh hoạn, cực nhọc, hành hạ
tàn tệ đã gây nên chết chóc khủng khiếp". Tình cảnh thật thê thảm "người dân đi tạp dịch
hoặc đi phu trưng tập, lương thực thiếu thốn, có ngày không lấy một hột cơm vào bụng,
họ đã bỏ trốn từng đoàn, hoặc nổi dậy chống lại, và mỗi khi như thế là bị bọn lính áp
giải đàn áp ghê rợn, xác họ rải khắp dọc đường". Người An Nam nô lệ "là những người
lao khổ, làm để nuôi lũ ăn bám, bọn đi khai hoá và những bọn khác". Họ là nạn nhân của
chế độ thực dân “bị cướp giật từ mọi phía, bằng mọi cách, bởi nhà nước, bởi bọn phong
kiến tân thời, bởi giáo hội Thiên chúa”. Không những thế, những người nông dân còn bị
nạn mất ruộng đất, bị các quan cai trị cướp không, chúng còn bỏ tù những người chống
đối, khiếu kiện. Các chủ đồn điền ngang nhiên chiếm ruộng đất của họ, và cả các giáo hội
"đấng cứu thế phần hồn" của họ nữa. Tính riêng ở Nam Kỳ "hội thánh truyền đạo cũng
đã độc chiếm 1/5 ruộng đất trong vùng". Có nơi các quan cai trị và giáo hội cấu kết với
nhău cướp ruộng đất của nông dân, khiến họ không còn đất sinh sống "phải đi ăn xin".
Chính vì chính sách bóc lột tàn khốc người dân bản xứ của thực dân Pháp đã gây ra nạn
đói, nạn dịch ở khắp nơi trong xứ thuộc địa ở An Nam, ở Angiêri, Tuynidi... nhiều nơi
"nhiều người đói lả phải gặm xác một con lừa chết thối lâu ngày", nhiều bộ tộc có người
"giành giật xác thú vật với quạ", chịu thảm cảnh "mỗi ngày hàng chục người chết đói".
Để che đậy những tội ác chủ nghĩa thực dân luôn rêu rao những châm ngôn lý tưởng: Tự
do, bình đẳng, bác ái. Trên thực tế, người dân bản xứ làm gì có tự do, còn bình đẳng, bác
ái thì ngày càng xa vời. Chỉ hai từ "bình đẳng" cũng khó thực hiện được khi chế độ phân
biệt màu da còn đang tồn tại. Sự phân biệt dân chính quốc, dân bản xứ còn rất nặng nề
bất kể họ là trí thưc, binh lính, thợ thuyền hay là người dân bình thường. Tóm lại, chế độ
bóc lột người bản xứ là chế độ dã man thời trung cổ, những người bản xứ "họ bị hành
hình vừa bằng lười lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của
giáo hội sa đoạ làm ô danh chúa".

Chương VIII: Công lý . Tác giả đã phản ánh cái công lý mà chế độ thực dân thực
hiện ở các nước thuộc địa. Chúng nó có toàn quyền áp bức bóc lột, thả cửa bắn giết, bỏ
tù, đánh đập người dân thì làm gì có công lý nữa. Đúng như nhà văn Pháp Vinhê Đốctông
viết một cách mỉa mai rằng: "Pháp luật, công lý đối với người bản xứ ư ? Thôi đi! Chỉ có
ba tong, súng ngắn, súng dài, đấy mới là thứ xứng đáng với lũ ròi bọ ấy!". Chúng coi
"Annamít và Angiêriêng đâu phải là người!" Đó là bọn nhà quê bẩn thỉu, bày dê con bẩn
thỉu, "cần quái gì với cái giống ấy!". Toà án chính quốc bắt bỏ tù tội lạm dụng, tội đánh
đập người dân Pháp, thế mà ở xứ thuộc địa chúng tha hồ đánh đập người dân vô tội, bắn
giết họ không ghê tay, thậm chí chặt đầu cả trẻ em mà pháp luật không hề trừng trị. Cái
"công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay
cầm kiếm". Khi đến các xứ thuộc địa "người đàn bà tội nghiệp chỉ còn lại độc thanh kiếm
để chém giết. Bà chém giết đến cả người dân vô tội, và nhất là người vô tội.". Chúng đàn
áp thẳng tay các cuộc biểu tình, các cuộc khởi nghĩa chém giết một cách vô tội vạ, không
cần phải xét xử những người yêu nước thương nòi, những người chân chính ấy.Thậm chí
còn dựng nên những chuyện không có thật để mà chém giết, bỏ tù. Quan toà của chúng là
những tên tội phạm, đã từng giết người. Nếu mà được bình đẳng trước pháp luật thì chính
ông Xarô, toàn quyền Đông Dương phải chịu án phạt "một triệu ba mươi lăm vạn tháng
tù về tội mỗi năm bán cho người An Nam trên mười lăm vạn kilôgam thuốc phiện" . Thật
là khủng khiếp, khi chúng thẳng tay chém giết, bêu đầu những người dũng cảm chồng lại
chúng, và kể cả những người chúng nghi là có âm mưu chống lại, thế nên mới có hiện
tượng: "Trong vòng hai tuần lễ, một viên giám binh đã xử tử bảy mươi nhăm lý hào" vô
tội. Như vậy, ở các xứ thuộc địa làm gì có công lý, luật pháp nữa chỉ có là giết người,
đánh đập, bỏ tù, đầu độc những người dân vô tội mà thôi.

Chương IX: Chính sách ngu dân. Nguyễn Ái Quốc đã lên án chủ nghĩa thực dân
đã đầu độc người dân An Nam "bằng rượu và thuốc phiện mà còn thi hành một chính
sách ngu dân triệt để". Với báo chí phương tiện để năng cao dân trí, nắn bắt thông tin thì
bị kiểm duyệt, cấm lưu hành. "Báo tiếng Việt không được xuất bản, nếu không được phép
của quan toàn quyền" và "Giấy phép chỉ được cấp với điều kiện là các bài báo phải được
quan thống đốc duyệt trước. Giấy phép có thể bị rút lúc nào cũng được". Cấm tuyệt đối:
“Mọi cuộc trưng bày hoặc phổ biến những bài hất, biếm hoạ hoặc tranh ảnh làm thương
tổn đến sự tôn kính với các nhà cầm quyền đều bị trừng trị". Chúng làm như thế nhằm
mục đích gì, để "chính quyền Đông Dương có thể im được tất cả mọi vụ nhơ nhớp và tha
hồ mà lạm quyền". Chúng còn cấm thư từ, cấm gửi bài cho các tờ báo tiến bộ ở Pari, và
thư tín, báo chí tiến bộ từ Pháp gửi về. Nhân dân Đông Dương còn chịu cảnh không có
trường học, "trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường". Chính phủ thuộc địa tìm mọi
cách cấm không cho "thanh niên An Nam sang du học tại Pháp". Phương châm của
chúng "Làm cho dân ngu để dễ trị". Chúng bưng bít thông tin, cấm cả thư từ, bắt bớ các
nhà báo. Đấy là chính sách ngu dân, cũng là một kiểu thống trị dã man của chủ nghĩa
thực dân Pháp đối với các xứ thuộc địa của chúng.

Chương X: Chủ nghĩa giáo hội. Tác giả lên án "các sứ giả của chúa cũng hoạt
động chẳng kém", đàn áp cướp bóc, kẻ thì tiết lộ những bí mật, kẻ thì đi bắt người ta phải
theo đạo, có linh mục "chân đi đất, quần sắn đến mông, lưng thắt bao đạn, vai khoác
súng dài, hông đeo súng ngắn, dẫn đầu một đoàn con chiên" cùng với sự giúp đỡ của
quân đội đi phá các làng bên lương và đi cướp bóc. Có nhiều cha xứ còn bạo hành như
những tên côn đồ đánh người mà không hề bị kết tội. Giáo hội các xứ thuộc địa còn
chiếm đất đai để người dân rơi vào tình cảnh "chẳng bao lâu nữa, sẽ không còn rẻo đất
nào cho người An Nam có thể sinh cơ lập nghiệp nếu không cam chịu kiép sống nông
nô!", như lời của một đại tá thực dân viết trên báo. Nhân danh Chúa, họ đi làm gián điệp,
truyền giáo với mục đích thăm dò, nắm bắt các bí mật quân sự, dẫn đường cho quân đội
viễn chinh xâm lược. Tất cả các nước như Ăngtiơ, Mađagátxca, Tahiti và Đông Dương
đều là nạn nhân của các đoàn truyền giáo đó. Có vị linh mục đã làm thông ngôn, chỉ
điểm, ra lệnh đốt làng, nếu là làng chúng nghi là chống đối giáo hội. Tham vọng hơn, có
vị linh mục còn nói rõ ý đồ "muốn đánh chiếm hết cả nước và lật đổ triều đại đang trị
vì". Nếu họ chết thì họ trở thành "người tử vì đạo để phong thánh". Như vậy, giáo hội ở
các xứ thuộc địa Pháp thực chất đã làm ô danh Chúa đầy lòng nhân ái và toàn năng, đấng
sáng thế tối cao, mà ta đáng kính.

Chương XI: Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ. Trong các chương trên tác
giả đã lên án chế độ thực dân Pháp đã có những hành động dã man bạo ngược đối với
phụ nữ ở các xứ thuộc địa, chương này tác giả nói rõ hơn, cụ thể hơn các hành vi tội ác
của các nhà "khai hoá". Có tên "khai hoá" gọi người phụ nữ An Nam là "con đĩ, con bú
dù", có tên dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ, tự do hãm hiếp phụ nữ bất kể là người
già hay trẻ em. Không những thế , họ còn phá nhà cửa, bất súc vật, bắt giam họ không
cần lý do. Qua đó, chúng ta thấy chế độ thực dân là chế độ ăn cướp và chúng ta tán thành
với ý kiến tác giả lên án, tố cáo thêm chế độ thực dân "là hiếp dâm và giết người". Những
dẫn chứng xác đáng kể tội chúng. Đó là những vụ bạo hành ghê tởm như hành hung phụ
nữ, có tên thực dân đã đổ nhựa cao su vào âm hộ một phụ nữ, bắt phơi nắng tới chết. Có
nơi, binh lính còn vây làng, hãm hiếp phụ nữ, không từ bà già trẻ em; cảnh hãm hiếp một
cô gái "trói lại, nhét giẻ vào miệng, rồi một tên cầm lưỡi lê đâm vào bụng cô, chặt ngón
tay cô để lấy chiếc nhẫn và cắt đầu cô để lấy cái vòng cổ". Cảnh một tên thưc dân bắt
"một người phụ nữ An Nam phải hiến thân cho con chó của hắn. Chị không chịu. Hắn
liền đâm một nhát lưỡi lê vào bụng chị, chết tươi." Các nhà  "khai hoá" đủ hạng như Tây
đoan, binh lính, sỹ quan, bọn chủ hung ác đều gây tội ác ghê tởm đối với phụ nữ thuộc
địa làm cho họ phải chịu cực hình, làm cho họ phải chịu đói rách, tàn tạ...Tác giả lên án
nền tự do, công lý ấy còn "được tượng trưng bằng hình ảnh người đàn bà dịu hiền", thế
mà mọi tội ác lại đổ lên đầu người phụ nữ bản xứ, làm cho họ đã phải chịu thương đau vì
chồng con bị bắt đi lính chết thay cho bọn người thống trị da trắng, lại còn phải chịu nhục
nhã mà chẳng có pháp luật nào bảo vệ, chở che. Tác giả đã kêu gọi "Hỡi những người
mẹ, nhữmg người vợ, những người phụ nữ Pháp, chị em nghĩ gì về tình trạng đó? Và các
bạn, những người con, những người chồng, những anh em người Pháp nữa?" Hãy nhìn
vào những hành động dã man của bọn thực dân trên các xứ thuộc địa mà lên án, kết tội
chúng.

Chương XII: Nô lệ thức tỉnh. Nguyễn Ái Quốc đã phản ánh sự thức tỉnh của nhân dân các
nước nước thuộc địa. Thời kỳ này, tác giả đã gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tham gia sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp, đi theo con đường Cách mạng tháng Mười của Lê nin. Trong
những trang viết này, tác giả đã nêu lên sự tự ý thức của nhân dân các nước thuộc địa.
Trước tiên là ở Đông Dương, tháng 11 năm 1922, 600 công nhân thợ nhuộm Chợ Lớn
( Nam Kỳ) bị bớt lương đã quyết định bãi công. Cũng như thế, các cuộc bãi công, những
"cuộc phản công bọn chủ diễn ra khắp nơi và khắp nơi giai cấp công nhân đã bắt đầu
giác ngộ về quyền lợi và giá trị của mình". Giai cấp công nhân đã nhận thấy nỗi cực khổ
của bản thân mình, do sự áp bức bóc lột tàn nhẫn của bọn chủ tư sản, đã dần dần giác
ngộ, ý thức về giai cấp mình, biết đoàn kết, biết giác ngộ lẫn nhau, cần phải giáo dục cho
họ về ý thức tổ chức và phương pháp tổ chức. Nhân dân Đahômây bị áp bức, bị  bóc lột,
đã nổi dậy. Mặc dù bị đàn áp dã man, nhưng chứng tỏ họ cũng đã thức tỉnh.

Ở Xi ri, nhân dân đã bắt đầu có ý thức đòi giải phóng, họ coi các nước trong khu
vực là anh em một nhà, biểu tình chống chế độ uỷ trị, chính sách chia đề trị thâm độc của
bè lũ thực dân nhằm chia rẽ dân tộc, rồi lại kêu gọi "liên bang", hoặc lừa bịp bằng những
ngôn từ hoa mỹ, đưa ra những chiêu bài độc lập giả hiệu. Nhưng nhân dân Xi ri, đã có
những tổ chức đấu tranh cho độc lập và thống nhất chân chính. Họ bắt đầu gửi thư đến
Hội nghị Lôdannơ (hội nghị giữa các nước đồng minh và Thổ Nhĩ Kỳ) thể hiện nguyện
vọng chân chính của các dân tộc Xi ri; hoặc đã gửi thư cho thủ tướng Pháp đề nghị các
chính sách chính đáng của mình như công nhận nền độc lập, thống nhất thật sự, tiến hành
bầu cử theo hình thức phổ thông đầu phiếu để bầu ra quốc hội, thành lập một chính phủ
chịu trách nhiệm trước quốc hội và quốc hội có toàn quyền lập pháp...Và cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước thuộc địa đã bước vào thời kỳ quyết liệt hơn. Những quả bom đã
nổ ở Quảng Châu, ở Ăngtinơ, những cuộc đấu tranh, quyết liệt đẫm máu đã xảy ra ở
Ađơlúp, Bidéctơ, Hamănglíp và Tuynidi... Tát cả đã chứng tỏ nô lệ các nước thuộc địa
thực sự thức tỉnh.

Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã là một người cộng sản nên tác giả trực tiếp
tuyên truyền về Cách mạng tháng Mười Nga. Cách mạng vô sản Nga đã hoàn toàn thắng
lợi, do sự lãnh đạo tài tình của Lê-nin và Đảng Cộng sản Nga, ý nghĩa và ảnh hưởng của
nó rất lớn đến các dân tộc thuộc địa. Cách mạng tháng Mười đã mở ra con đường giải
phóng dân tộc như tuyên bố ủng hộ các dân tộc bị áp bức "dạy cho họ đấu tranh", " giúp
đỡ họ về tinh thần và vật chất", đúng như Lê nin đã viết trong luận cương của Người về
vấn đề thuộc địa. Cách mạng Nga đã triệu tập các đại biểu đến dự Đại hội Bacu. Tại đại
hội này, hai mươi mốt dân tộc phương Đông đã cử đại biểu đến dự, các đại biểu các đảng
công nhân các nước phương Tây cùng tham dự."Đó là lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp
vô sản ở các nước xâm lược và giai cấp vô sản ở các nước bị xâm lược đã nắm tay nhau
trong tình anh em và cùng nhau tìm cách đấu tranh có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản
là kẻ thù chung của họ". Tác giả nêu lên những cố gắng bước đầu của Cách mạng Nga là
thành lập Trường Đại học phương Đông. Tromg bài tác giả đã nêu mục tiêu đào tạo của
trường là giáo dục cho các chiến sỹ cách mạng trong tương lai nắm được nguyên lý đấu
tranh, giáo dục cho họ về tinh thần quốc tế vô sản, đặt cơ sở cho một liên minh công nông
vững chắc, phấn đấu nêu một tấm gương đấu tranh giải phóng các dân tộc bị nô dịch. Tác
giả là một nhà cách mạng đã có lời kêu gọi anh em vô sản và nông dân các nước thuộc
địa. Trong bài, tác giả đã phân tích tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Trên các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đã nổ ra "một loạt những cuộc bùng nổ cách
mạng", nhưng mới ở dạng tự phát, giai cấp tư sản dân tộc cũng đã nhận thấy sự  áp bức
bóc lột  tàn nhẫn "công nhân và nông dân của mình", không cam chịu, đã giương cờ đấu
tranh đã được nhân dân "hoan nghênh nhiệt liệt và ủng hộ mạnh mẽ". Để mọi người tin
tưởng hơn, tác giả đã khẳng định: "Quốc tế Cộng sản đấu tranh không ngừng chống bọn
cá mập tư sản, ở tất cả các nước trên thế giới". Tác giả đã trích Tuyên ngôn của Ban
Chấp hành Quốc tế thứ ba: "Quốc tế Cộng sản đã công khai tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ
cuộc đấu tranh ấy và trung thành với mục tiêu của mình; Quốc tế Cổng sản vẫn tiếp tục
ủng hộ cuộc đấu tranh ấy". Để củng cố niềm tin cho anh em nông dân lao động thuộc địa,
tác giả có trích: Một bản hiệu triệu của Quốc tế nông dân giử nông dân lao động các nước
thuộc địa. Bản hiệu triệu ấy, đã nói lên nỗi cực khổ của nông dân, họ bị bọn tư bản bóc
lột thậm tệ, bị đối xử tàn nhẫn, bị chìm trong cảnh tối tăn, bị đầu đọc bằng thuốc phiện và
rượu cồn, bị đẩy đi lính chết một cách đau thương. Hiện tai nông dân đã có tổ chức Quốc
tế nông dân. Vì vậy nông dân: "Hãy đoàn kết lại! Hãy tổ chức lại! Hãy phối hợp hành
động của anh chị em với hành động của chúng tôi, chúng ta cùng nhau đấu tranh cho
công cuộc giải phóng chung!"

Cuối cùng, tác giả nêu việc: Tổ chức công đoàn ở thuộc địa. Ý nghĩa của tổ chức
này rất lớn là chống lại sự áp bức bóc lột của tư bản thực dân, phá bỏ được nền móng của
chủ nghĩa đế quốc, đoàn kết giai cấp vô sản ở thuộc địa với giai cấp vô sản ở các nước tư
bản, các nước đế quốc, gắn kết phong trào công nhân, những người lao đông trên thế
giới, chú ý giúp đỡ các tổ chức công đoàn các thuộc địa dựa trên tình hữu ái giai cấp,
không phân biệt dân tộc, chủng tộc. Nhiệm vụ của các tổ chức công đoàn ở các nước tư
bản là ủng hộ và giúp đỡ các tổ chức công đoàn thuộc địa chống lại sự áp bức bóc lột của
bọn tư bản thực dân.

Phụ lục. Tác giả có lời nhắn gửi tới thanh niên An Nam, lực lượng cách mạng
tương lai của nước nhà. Đó là nỗi đau nhận thấy dân tộc ta bị chìm đắm trong đêm trường
nô lệ, khi mà các dân tộc, các nước khác như Nhật Bản, Trung Hoa, Nga đã có những
biến đổi sâu sắc bằng các cuộc cách mạng lớn lao; các dân tộc bị áp bức đã vùng lên đòi
giải phóng như người Airlan, Ai cập, Triều Tiên, Ấn Độ... "Riêng người An Nam thì vẫn
cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ". Tác giả đã phê phán lớp thanh niên trí thức đã không biết nỗi
nhục mất nước, cam phận làm nô lệ, ca ngợi nhà nước thực dân, bọn thực dân, có tên là
những tên tội phạm đã từng gây tội ác với dân tộc. Có thanh niên An Nam được đi du học
lại tìm đến chốn ăn chơi sa đoạ, chìm đắm trong sự ngu muội và biếng nhác. Trong khi
đó thì hơn hai nghìn thanh niên Trung Quốc ở Pháp và hơn năm chục nghìn thanh niên
Trung Quốc ở châu Âu, châu Mỹ đang lao động, học tập với mục đích lớn lao là để
"chấn hưng đất nước". Họ là những thanh niên sinh viên - công nhân "sinh sống bằng
lao động của bản thân và vừa học vừa lao động". Họ không xin tiền của chính phủ,
không xin tiền của gia đình coi đó là vấn đề danh dự. Họ sống có tổ chức, bảo vệ nhau,
lập quỹ tương tế giúp đỡ nhau, ra báo bằng chữ Hán để năng cao dân trí, trình độ hiểu
biết, ban ngày lao động, ban đêm học tập. Kiên trì, quyết tâm, đoàn kết như thế, chắc
chắn họ sẽ đạt được mục đích. Tác giả khẳng định rằng, không bao lâu nữa: "Trung Quốc
sẽ có một địa vị trong hàng các cường quốc công nghiệp và thương nghiệp thế giới." Để
khuyên thanh niên ta giác ngộ, hãy sống vì mục đích cao cả, không sống cam chịu thân
phận nộ lệ nữa, tác giả kêu gọi: "Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất,
nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh".

“Bản án chế độ thực dân Pháp” trước hết là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của
bọn thực dân Pháp không phải chỉ ở Đông Dương, ở Việt Nam mà ở khắp các thuộc địa:
An-giê-ri, Tuy-ni-di, Tây Phi… Trong tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã lên án bọn thực
dân, phong kiến đã đầu độc dân ta bằng thuốc phiện và rượu cồn, khiến người dân An
Nam trở nên suy đồi, mất hết ý chí và buộc phải phụ thuộc vào chúng. Đồng thời, Người
cũng tố cáo "chính sách ngu dân" của bọn xâm lược, cứ "1000 làng mới có 10 trường
học". Trẻ em phải chịu nạn thất học, dẫn đến kết quả 95%  người dân không biết chữ.
Một dân tộc mà hầu hết người dân đều không biết chữ thì càng dễ bề cai trị, bởi không
biết chữ đồng nghĩa với thiếu hiểu biết, thiếu kiến thức, khó mà tiếp cận với cách mạng
đúng đắn được.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” tố cáo tội ác bóc lột dã man của bọn chủ tư bản,
thực dân đối với nhân dân ta, kêu gọi nhân dân ta đứng lên chống lại, tiêu diệt chúng.
Trên tám mươi năm qua, bộ mặt thế giới đã thay đổi. Các nước châu Á, châu Âu, châu
Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương trên danh nghĩa đã giành được độc lập. Chế độ thực dân
cũ đã đổi bằng chế độ thực dân mới. Như vậy là chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc
vẫn còn đang tồn tại, đang thắng thế. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, ở
Đông Âu tan rã, cách mạng thế giới đang ở vào thời kỳ thoái trào. Cách mạng Việt Nam
nhờ đổi mới mà tồn tại và phát triển, nhưng thử thách không phải là nhỏ, chúng ta phải
tỉnh táo đề phòng trước những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc.

Không chỉ vậy, qua tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc còn chỉ mặt, gọi tên những kẻ đại
diện cho “nước mẹ” cho “tự do”,“công lý”, cho “sự nghiệp khai hóa” và “truyền bá
văn minh”, đang ra tay hoành hành ở khắp các thuộc địa. Tất cả bọn chúng, toàn quyền,
thống đốc, khâm sứ, công sứ… cho đến bọn đội lốt tôn giáo trong các giáo hội và bọn tay
sai mạt hạng của chúng, đều là lũ phản động, vô liêm sỉ, bóc lột tàn ác.

Sức tố cáo của tác phẩm càng mạnh mẽ thêm khi mô tả những nỗi khổ nhục của
người dân bản xứ, nhất là “nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ”(Chương XI). Dưới
nanh vuốt của bọn thực dân, mọi tầng lớp thuộc người bản xứ, vua quan, hào lý, tư sản,
trí thức, viên chức hay người dân lao động, từ cụ già đến trẻ em, đều bị coi là đám nô lệ
thấp hèn, đều bị đối xử như xúc vật và tính mạng đều “không đáng giá một trinh”. Bị
cướp đoạt, đốt phá, giết chóc, đánh đập, hãm hiếp là chuyện thường ngày xảy ra đối với
người bản xứ ở khắp các thuộc địa.

Từ việc mô tả sinh động, cụ thể những cảnh bần cùng, cơ cực của quần chúng, tác
phẩm tỏa ra một mối tình đồng cam cộng khổ, thương yêu dạt dào đối với quần chúng bị
áp bức, những con người cùng chung số phận với dân tộc mình.

Tóm lại với việc vạch trần tội ác của thực dân Pháp, “Bản án chế độ thực dân
Pháp” kêu gọi nhân dân bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng chính mình, giải phóng
dân tộc mình. Và để làm được điều đó theo Nguyễn Ái Quốc thì chỉ có đi theo con đường
bạo lực của cách mạng tháng Mười Nga, mà trước hết phải xây dựng tổ chức, xác định
lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó. Đây cũng là tư tưởng giải phóng dân tộc của chủ
nghĩa Mác-Lênin.

c. Ý nghĩa:
 Đối với thế giới:

Giữa những năm màn đêm còn bao phủ khắp các thuộc địa, bọn thực dân Pháp
cùng bè lũ cơ hội - mà đại biểu của nó là Quốc tế thứ 2, đang ra sức tuyên truyền những
luận điệu thực dân phản động, bênh vực chủ nghĩa đế quốc, thì “Bản án chế độ thực dân
Pháp” đã luận tội bọn chúng và đứng hẳn vào hàng ngũ những người vô sản tiên tiến
bênh vực cho quần chúng lao khổ và các dân tộc bị áp bức. Đó là một phương thức cơ
bản trong sách lược tấn công của cách mạng lúc ấy và tác phẩm trở thành tiếng nói tiêu
biểu cho cái thế tấn công của thời đại.

Đi xa hơn nữa, ở tầm nhìn cao hơn, “Bản án chế độ thực dân Pháp” còn vạch rõ
kẻ thù của quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức. Đó là chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc bản chất của chủ nghĩa tư bản là con đỉa có hai vòi một vòi hút máu của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc, một vòi hút máu của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa. Chính nó là cội nguồn của mọi thảm họa, mọi
đau khổ của nhân dân thuộc địa. Đồng thời, tác phẩm đã vạch ra cái mâu thuẫn không thể
điều hòa được giữa bọn thực dân, kẻ bóc lột với giai cấp vô sản và nhân dân bị áp bức.
Với tầm nhìn xa trông rộng ấy, tác phẩm cũng chỉ rõ chính quần chúng nhân dân là lực
lượng cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và những người vô sản là
lực lượng lãnh đạo cách mạng.

Từ trong đêm tối của cuộc đời lầm than đau khổ, tác phẩm đã mở ra cho quần
chúng nhân dân thấy cảnh tương lai tươi sáng. Tương lai đó là hiện thực trên đất nước
Nga Xô viết sau cách mạng tháng Mười. Tác giả khẳng định cho quần chúng một lòng tin
sắt son vào cái tương lai ấy, và chỉ rõ ràng, tương lai ấy đang được chuẩn bị ở Trường
Đại học Phương Đông, ngay trên đất nước Nga Xô viết. Trường này “đang ấp ủ dưới
mái của mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa”!

Tác phẩm đã vạch ra đường lối chiến lược và sách lược cho quần chúng nhân dân
đấu tranh quật ngã kẻ thù. Tác phẩm khẳng định đã là người mất nước thì ai ai cũng bị
sống kiếp nô lệ, dù là người Việt Nam, Angiêri, Đahômây, Xiri, Tây Phi… hay Xênêgan.
Tất cả những người vô sản và nhân dân lao động kể cả ở nước Pháp, đều có chung một
mối thù không đội trời chung với chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Vì vậy, tất cả hãy thực hiện
lời hiệu triệu của Các Mác: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. hãy đi theo con
đường Cách mạng tháng Mười, đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, cơm áo, danh dự cho con người!

Đồng thời, tác phẩm đã khẳng định rõ nhiệm vụ của giai cấp vô sản ở chính quốc
là vừa phải giác ngộ, tổ chức quần chúng ở chính quốc làm cách mạng, đồng thời “không
được quên rằng bổn phận của mình” là phải đoàn kết chặt chẽ, ủng hộ giai cấp vô sản và
nhân dân các thuộc địa, không phải chỉ bằng lời nói mà bằng hành động thực tiễn cách
mạng, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung.

Bên cạnh đó, tác phẩm còn thể hiện rõ sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam,
cũng như ở mỗi nước, phải là một bộ phận gắn liền với sự nghiệp cách mạng vô sản và
cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Trên tình đoàn kết quốc tế vô
sản, giữa những người, những dân tộc cùng chung một chiến tuyến, tác phẩm đã biểu
dương sức mạnh của những đợt sóng đấu tranh mang ý nghĩa thời đại đang dâng lên
mạnh mẽ trên các thuộc địa như Đahômây, Xiri, v.v…, ca ngợi các cuộc đấu tranh của
công nhân Việt Nam và coi đó là “dấu hiệu của thời đại”.

 Đối với cách mạng Việt Nam.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” ra đời là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự
trưởng thành trong ý thức cách mạng của nhân dân Việt Nam. Nó đáp ứng những đòi hỏi
bức thiết của cách mạng Việt Nam về một đường lối sáng suốt và đúng đắn, để thoát ra
khỏi tình trạng mơ hồ về phương hướng và mục tiêu cách mạng.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” là một đóng góp sáng tạo có ý nghĩa lịch sử lớn
lao vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Với tác phẩm này, ánh sáng
của chân lý cách mạng của thời đại đã soi rọi vào tâm trí nhân dân về con đường cách
mạng duy nhất đúng đắn, con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho mọi người thấy
rằng chủ nghĩa Mác – Lênin là cái mình đang mong đợi, khát khao.

Nhằm vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của thời đại, tác phẩm đã vạch rõ bạn
thù, vạch rõ mục tiêu cách mạng và bước đầu vạch ra chiến lược, sách lược của cách
mạng cho nhân dân ta và các dân tộc bị áp bức. Đồng thời, tác phẩm cũng đã gợi ra
phương hướng vận dụng những chân lý phổ biến vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.

Như vậy, trên bình diện chính trị, “Bản án chế độ thực dân Pháp” là sự chuẩn bị
về tư tưởng, nhận thức cho các dân tộc bị áp bức đi vào cuộc đấu tranh dành độc lập, tự
do, giành quyền thống trị xã hội vào tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng của cách mạng.

Ra đời trong bối cảnh lịch sử cụ thể của thế giới và của đất nước vào những năm
hai mươi của thế kỷ XX, “Bản án chế độ thực dân Pháp” có giá trị lịch sử to lớn, lý giải
một cách khoa học theo quan điểm Mác –Lênin những vấn đề cơ bản mà lịch sử loài
người đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết. Nó đề cập những vấn đề có quan hệ đến vận
mệnh lịch sử thế giới, đến con đường phát triển tất yếu của lịch sử loài người trong thời
đại hiện nay.

Riêng ở Việt Nam, cùng với việc chuẩn bị một đội ngũ tiên phong lãnh đạo cách
mạng để giải đáp những đòi hỏi của lịch sử, “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã góp phần
quan trọng thúc đẩy lịch sử Việt Nam tiến tới, thức tỉnh và thôi thúc dân tộc ta cùng hòa
nhịp với các dân tộc bị áp bức trên thế giới bước nhanh vào kỷ nguyên mới của loài
người: Kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

2. Đường Kách Mệnh


a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” được chuẩn bị vào những năm 1925-1926 và
được xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt động đầy sôi nổI và hiệu quả của
Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây,
Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm là mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ chức và hướng dẫn lớp học. Thời
gian từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được ba lớp đào tạo với
tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu chính cho học viên nghiên cứu,
trao đổi.

          Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp học tại Quảng Châu
được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp lại và
xuất bản thành sách với tên gọi “Đường Kách Mệnh”. Sách có khổ 13 x 18cm, in trên
giấy nến, kiểu chữ viết thường.

b. Nội dung cơ bản


 Những vấn đề lý luận chung về cách mạng xã hội

Trên tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là câu trích trong tác phẩm  “Làm gì?”
của V.I.Lênin, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của lý luận đối với sự phát triển của
phong trào cách mạng nói chung: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh
vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách
nhiệm cách mệnh tiền phong”.

Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Mục đích sách này là
để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì
sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3)
Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế
giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm
thế nào?”. Để rồi đạt đến mục đích cao nhất là: “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi
thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”.

“Đường Kách Mệnh” xác định chuẩn mục đạo đức của những người cách mạng,
những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp gian khổ, hy sinh, nhưng vẻ vang của dân
tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu thể hiện một quan niệm trở thành triết lý nhân sinh:
Lý luận cách mạng hàm chứa các giá trị nhân văn cao cả; cách mạng là sự nghiệp hào
hùng, oanh liệt, vẻ vang, người cách mạng phải có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh mới
tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản của một con
người.

(1) Đối với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho
vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật.

(2) Đối với người, có 5 chuẩn mực: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì
nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.

(3) Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng
cảm. Phục tùng đoàn thể.

Những phẩm chất này làm thành các giá trị về nhân cách con người, nhân cách
làm người- Một mẫu người mới đang định hình và xuất hiện trong phong trào cách mạng
của dân tộc.

Tác phẩm giải quyết các vấn đề về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, các loại cách
mạng và vai trò của nó trong lịch sử.

Về Đảng chính trị, “Đường Kách Mệnh” xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản là
nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng. Người viết: “Cách mệnh trước hết phải
có cái gì?” “Trước hết phải có đảng cách mệnh” - “Đảng có vững thì cách mệnh mới
thành công” - “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” - “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”. Luận điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một vấn đề
có tính nguyên tắc, đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng – lý
luận.

“Đường Kách Mệnh” chỉ rõ cách mạng là sự nghiệp của toàn dân tộc chứ không
phải của một vài cá nhân. Lần đầu tiên trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định
khái niệm lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, khoa học dựa vào tiêu chí “bị áp
bức”: “ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết”. Theo tiêu chí đó, Người xếp “công nông là gốc cách mệnh”, không chỉ họ chiếm
số đông trong dân chúng mà cơ bản là họ bị áp bức, bốc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất.
Nguyễn Ái Quốc coi “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của
công nông”. Những chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận hình thành khối liên minh
công nông và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam.

“Đường Kách Mệnh” coi đoàn kết như một nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Theo Người, “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư
bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp là giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và
nếu công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”. Mỗi
quan hệ đó chính là hai cánh của con chim cách mạng bay cao và bay xa.

 Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra bài học
cho cách mạng Việt Nam

“Đường Kách Mệnh” giới thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới, cách mạng Mỹ năm 1776, Cách mạng Pháp 1789, lịch sử cách mạng Nga
1917. Từ sự phân tích tính chất, nội dung các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đi đến kết luận mang tính so sánh với tiến trình vận động lịch sử: Mặc dầu có ý
nghĩa to lớn trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn
là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để. Trong quan niệm của Người,
chỉ có cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.

Việc phân tích các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đối chiếu với nhu cầu
khách quan của cách mạng Việt Nam là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn: Dân tộc ta phải đi theo con đường cách mạng
vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

 Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng


“Đường Kách Mệnh” giới thiệu công lao to lớn của Quốc tế I, Quốc tế II; phê phán
đường lối phi mác xít của những người cơ hội trong Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc vạch rõ
cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới và để
bảo đảm sự thắng lợi, cách mạng nước ta phải dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.

Học tập kinh nghiệm của thế giới, tác phẩm hướng dẫn cách thức tổ chức, vận
động quần chúng: Cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra các đoàn thể quần chúng như
công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên… theo đường lối Cách mạng Tháng Mười Nga,
của Quốc tế Cộng sản.

c. Ý nghĩa
Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam.

 Về tư tưởng: Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng sự
thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng. Tác phẩm khắc phục
tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa quốc gia; xác lập hệ
tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân.

 Về chính trị: Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân cho
cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của cách mạng
Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng “Cương lĩnh chính trị của Đảng”. Tác phẩm
“Đường Kách Mệnh” ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối của cách
mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào công nhân phát triển
mạnh mẽ.

 Về tổ chức: Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc thành
lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần
chúng như công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng tập hợp quần chúng,
chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam; tài
liệu mẫu mực trong việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào giải quyết cách
vấn đề thực tiễn, nhất là trong những giai đoạn lịch sử có sự thay đổi mang tính chất bước
ngoặt.

Nhiều vấn đề có liên quan đến con đường cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết
các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững
mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản vẫn giữ nguyên tính thời sự
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

3. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác.

“Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được
Hội nghị thành lập Ðảng (tháng 2/1930) thảo luận, thông qua.

Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia
thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đông
Dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày
03/02/1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Chương
trình tóm tắt” và “Điều lệ vắn tắt” của Đảng. Các văn kiện này hợp thành “Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng”.

b. Nội dung.
“Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng” đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ,
lực lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập
Đảng. Cụ thể:

- “Chánh cương vắn tắt”: xác định các giai đoạn, đối tượng và nhiệm vụ của cách
mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam.

Tác phẩm nêu rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tiến trình cách mạng Việt Nam gồm hai giai đoạn, giai
đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền cách mạng trong đó có nhiệm vụ thổ địa cách mạng và
giai đoạn thứ hai là thế giới cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng phải đánh đổ trong cách
mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này không thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong
kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước, nhằm tập trung vào kẻ thù
chính là bọn đế quốc xâm lược và bọn phong kiến tay sai.

- “Sách lược vắn tắt” đề ra đường lối tập hợp và lôi kéo quần chúng.

Sách lược vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, gồm năm điểm, xác
định Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình và làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời, Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên và Tân Việt, ..... để kéo họ đi vào phe giai cấp vô sản.
Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, rồi làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng thì phải đánh đổ.

Sách lược vắn tắt chủ trương thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức
mạnh đoàn kết rộng rãi của toàn dân tộc chống đế quốc. Đồng thời, Sách lược vắn tắt vẫn
nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của Đảng, trong khi liên lạc với các giai cấp, phải
thận trọng, không nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường
thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền và liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai
cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

- “Chương trình vắn tắt” nêu những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng
trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng.

Tác phẩm gồm năm điểm, trong đó xác định những nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách về xây dựng Đảng; về tập hợp quần chúng công nông chuẩn bị thổ địa cách mạng và
lật đổ bọn địa chủ và phong kiến; làm cho công nông thoát khỏi ách của tư bản; lôi kéo,
tập hợp các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản bậc trung, trí thức và trung nông v.v., đánh đổ bọn
phản cách mạng ....; đoàn kết, hợp tác giai cấp nhưng không hy sinh lợi ích của công
nông; nêu khẩu hiệu "Việt Nam tự do"; đoàn kết với vô sản và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới, nhất là vô sản Pháp

-“Điều lệ văn tắt” quy định những vấn đề quan trọng về mục tiêu, tổ chức, hoạt
động và kỷ luật của Đảng.

Xác định tên gọi, tôn chỉ mục đích, lệ vào Đảng, hệ thống tổ chức, trách nhiệm
đảng viên, quyền lợi đảng viên, các cấp uỷ Đảng, kinh phí và kỷ luật của Đảng. Những
vấn đề ghi trongĐiều lệ vắn tắt của Đảng đã xác định tính chất và nguyên tắc tổ chức của
chính đảng mácxít chân chính và cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam.

c. Giá trị.

 Giá trị lý luận

“Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng” đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất  xã hội thuộc địa nửa phong kiến
Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai
tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, đã xác định đường lối chiến lược
và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng,
nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và
sách lược đã đề ra.

 Giá trị thực tiễn

“Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng” là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
đường lối đổi mới của Đảng, dẫn đường cho thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tác phẩm đã chứng tỏ: Đảng ta mới ra đời nhưng đã nhìn xuyên suốt được con đường
cách mạng Việt Nam và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng
của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong “Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng”, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước
ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu
vực và trên thế giới.

II. Tổng kết.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành qua hoạt động thực tiễn và lý luận của Người
trong thời kì từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930.

Cuối năm 1920 - đầu năm 1930, cụ thể là tháng 12/1920 đến 3/2/1930 - ngày Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), là khoảng
thời gian hoạt động sôi nổi, nhiệt huyết nhất của Hồ Chí Minh, tức Nguyễn Ái Quốc lúc
bấy giờ. Giai đoạn này có vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí có thể ghi nhận là giai
đoạn quan trọng bậc nhất trong việc hình thành cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh - “ một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”.
Mười năm hoạt động cách mạng tại nước ngoài, nổi bật là Pháp, Liên Xô, Trung Quốc,
Thái Lan đã tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành và phát triển tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Nội dung của những tư tưởng đó chủ yếu dựa trên những hoạt động thực tiễn và lý
luận của Người, đặc biệt trong các tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925),
“Đường Kách Mệnh” (1927) và các tác phẩm được tập hơp trong “Cương lính chính trị
đầu tiên của Đảng” (1930).

1.1. Hình thành tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam.

Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát
triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các
nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh đều đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các
nước đế quốc. Giai đoạn này vẫn luôn tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản, đó là mâu thuẫn gay
gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa các nước tư bản với nhau, đồng thời, xuất
hiện mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Những mâu thuẫn này ngày càng phát triển và trở nên sâu sắc. Bên cạnh đó, thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã tạo tiền đề quan trọng, mở ra thời đại cách mạng
vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc, phát triển mạnh mẽ trên thế giới từ các nước
chính quốc (Anh, Pháp,…) cho đến nước thuộc địa, phụ thuộc (Trung Quốc, các nước
Mỹ-Latinh,…)

Trong khi đó, tại Việt Nam, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp vào
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nổ ra liên tiếp nhưng hầu như đều thất bại, điển hình là
Duy tân hội, phong trào Đông Du trong khuynh hướng bạo động của Phan Bội Châu và
khuynh hướng cải cách của Phan Châu Trinh. Trần Dân Tiên trong “Những mẩu truyện
về đời hoạt động Hồ Chủ tịch” đã ghi lại việc “người thiếu niên” Nguyễn Tất Thành
“khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội
Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”, cũng nhận xét
những đường lối, chủ trương đó là “sai lầm”, “nguy hiểm”, không phù hợp với tình hình
nước ta lúc bấy giờ. Cách mạng Việt Nam khi đó đang phải đối mặt với sự bế tắc, khủng
hoảng về đường lối cứu nước.
Sau đó, vào cuối thời kì dần hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc
Việt Nam từ ngày 5/6/1911 đến tháng 12/1920, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường duy
nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản. Con đường đó cần
phải được vạch ra rõ ràng để giải quyết vấn để cấp bách đó, Mục tiêu là gì, ai là người
lãnh đạo, lực lượng tham gia như thế nào, phương pháp cách mạng ra sao,…Trong giai
đoạn mười năm từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí
Minh đã tìm ra và xác định rõ phương hướng của con đường cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam.

a. Về mục tiêu và con đường cách mạng.

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là
trước hết, trên hết, đồng thời, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trong tình hình nước ta thời điểm đó đang phải đối mặt với sự khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước, Hồ Chí Minh hay người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi ấy
đã vượt qua tầm nhìn của những vị tiền bối đi trước, với mong muốn giải phóng đất nước,
giải phóng nhân dân khỏi xiềng xích nô lệ bằng lòng yêu nước thương dân, chí hướng
muốn bôn ba, tìm kiếm con đường cứu nước từ các nước phương Tây, đặc biệt từ chính
đế quốc Pháp, đất nước đã xâm lược Việt Nam. Tâm sự với một người bạn, Người nói:
“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.

Qua những tìm hiểu và trải nghiệm thực tế, Người không chọn con đường cách
mạng tư sản. Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917)
và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Trong đó, Người viết:

- Đối với Mỹ:

 ”Mỹ tuy rằng kách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông
vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính kách mệnh lần thứ hai.
Ấy là vì kách mệnh Mỹ là kách mệnh tư bản, mà kách mệnh tư bản là chưa phải
kách mệnh đến nơi”.

- Đối với Pháp

“Kách mệnh Pháp cũng như kách mệnh Mỹ, nghĩa là kách mệnh tư bản, kách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Kách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp
hẵng còn phải mưu kách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”

Cùng sự kiên mang tính bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng Hồ Chí Minh:
tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin, Người tìm ra con đường cho cách mạng ta,
con đường cách mạng vô sản, khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Trong tác phẩm
“Đường Kách Mệnh”, khi viết về cách mạng Nga, Người đã kết luận: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có kách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng
giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam…..Nói tóm lại là phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê-nin.” Hồ Chí Minh từ người thanh niên quyết định rời
quê hương ra đi tìm đường cứu nước đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên trên
thế giới.

Đồng thời, tác phẩm được cho là đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam là cách mạng "giải phóng dân tộc", giải phóng dân tộc là điều tiên quyết,
gắn liền với giải phóng giai cấp, đồng thời nêu lên điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh khi
vẫn dụng tư tưởng của Mác-Lênin vào Việt Nam. Theo Mác và Ăngghen, con đường
cách mạng vô sản châu Âu là đi từ giải phóng giai cấp - giải phóng dân tộc - giải phóng
xã hội - giải phóng con người. Tuy nhiên, bối cảnh Việt Nam và các nước thuộc địa khi
đó không giống như các nước châu Âu, cho nên, thứ tự phải là giải phóng dân tộc - giải
phóng xã hội - giải phóng giai cấp - giải phóng con người.
Trong văn kiện Đại hội VI Quốc tế cộng sản, khái niệm “cách mạng tư sản dân
quyền” không bao hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, đồng thời,
theo Quốc tế cộng sản, hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải được thực
hiên đồng thời, khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau. Tuy nhiên, trong “Chánh
cương vắn tắt của Đảng” năm 1930, Hồ Chí Minh khẳng định đế quốc và phong kiến
đều là đối tượng phải đánh đổ trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này
không thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải đặt lên
hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện
từng bước, nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế quốc xâm lược và bọn phong kiến
tay sai (“chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”).
Điều đó thể hiện sự sáng suốt, độc đáo của Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, cần phải nhấn mạnh: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Trong “Đường Kách Mệnh”, Người đã nói: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không
có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.”. Đồng thời,
Người cũng khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, Kách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.”. Chủ nghĩa Mác-
Lênin đã khai sáng, mở đường cho hành trình tìm kiếm độc lâp, tự do cho dân tộc đầy
chông gai, gian khổ của Hồ Chí Minh, Người đã đi từ Chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa
Mác-Lênin. “Chánh cương vắn tắt của Đảng” năm 1930 do Người soạn thảo đã khẳng
định phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.”. Phương hướng này vừa phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại vừa hướng tới giải quyết một cách triệt để những
yêu cầu khách quan, cụ thể mà Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

b. Về lực lượng lãnh đạo cách mạng.

Đối với lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng
định cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải
do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, sớm nhận ra được tầm
quan trong của Đảng đối với cách mạng mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: Đảng cộng
sản là nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ
chức quần chúng đấu tranh. Trong “Đường Kách Mệnh”, Người đặt vấn đề:

“9. Kách mệnh trước hết phải có gì?

Trước hết phải có đảng Kách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.”

“D- Dân thường chia rẽ(13) phái này bọn kia, như dân ta người Nam thì nghi
người Trung, người Trung thì khinh người Bắc, nên nỗi yếu sức đi, như đũa mỗi chiếc
mỗi nơi.

Vậy nên sức Kách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng Kách
mệnh.”

Bằng những ngiên cứu lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra: Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng
lợi.

Người cũng đã nhận định trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”: “Đảng có vững
Kách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.” và khi
rút ra vai trò của “kách mệnh Nga” đối với “kách mệnh An Nam”: “Kách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì…phải có đảng vững bền.”

Trong “Sách lược vắn tắt của Đảng” và “Chương trình vắn tắt của Đảng” năm
1930, Nguyễn Ái Quốc xác định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản.” Chủ
nghĩa Mác-Lênin mà Người tiếp nhận cũng đã chỉ ra: Giai cấp công nhân phải tổ chức ra
chính đảng, đảng phải thuyết phục, giác ngộ và tập hơp đông đảo quần chúng, huấn luyện
quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân: “Đảng là đội tiên phong của
vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai
cấp của mình lãnh đạo được dân chúng” (“Sách lược vắn tắt của Đảng”); “Đảng là đội
tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ
đủ năng lực lãnh đạo quần chúng” (“Chương trình vắn tắt của Đảng” ).

Đồng thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh Đảng Cộng sản Việt nam ra đời là sự kết hơp
của chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Tháng 6/1925,
Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên với mục đích truyền bá lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, khuấy động tinh thần yêu nước và phát triển giai
cấp công nhân. Năm 1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, hội đã đi tới những hầm
mỏ, xí nghiệp,… tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai
cấp công nhân, phong trào công nhân càng phát triển mạnh, trở thành nòng cốt của phong
trào dân tộc trong cả nước, nổ ra tại các trung tâm kinh tế, chính trị.

Đây cũng là một bước phát triển mới trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi
Lênin, bằng sự quan sát thực tiễn cách mạng châu Âu, cho rằng Đảng ra đời kết hợp bởi
chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân thì Hồ Chí Minh, với sự hiểu biết đất nước mình
– một dân tộc thuộc địa cho rằng cần cộng thêm vào đó cả phong trào yêu nước. Và Đảng
cộng sản Việt Nam thực sự “là đảng của dân tộc”.

c. Về lực lượng tham gia cách mạng.

Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên (1) lực lượng đại đoàn kết toàn dân
tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng. Trong giai đoạn cuối năm 1923 đầu năm
1930, bằng những trải nghiệm cá nhân về thực tiễn, lý luận và kế thừa tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cách mệnh là việc chung của dân chúng
chứ không phải việc của một hai người”.
Đặc biệt, trong thời kỳ này, không khó để nhận ra mỗi tác phẩm lý luận của Người
đều nhắc nhở việc “lấy dân làm gốc”, có dân là có tất cả, trên đời này không gì quý bằng
dân, được lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân thì mất tất cả.

Trong “Đường Kách Mệnh”, Người nhắc nhở nhân dân đoàn kết, đứng lên chống
thực dân, đấu tranh cho đất nước. Khi lý giải về vấn đề “Vì sao mà sinh ra dân tộc Kách
mệnh”, Người kết luận: “Đến khi dân nô lệ ấy chịu không nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết
lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp
bức mình đi; ấy là dân tộc Kách mệnh.”; “dân tộc Kách mệnh thì chưa phân giai cấp,
nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. “ hay “Nhưng biết
cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó.”; “Dân
khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại.”

Trong “Sách lược vắn tắt của Đảng” năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn dân:

“ Đảng phải thu phục đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ
địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến.

Đảng phải làm cho các đoàn thê thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở
dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia.

Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, vv.
Để kéo họ và phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập Hiến,vv.) thì phải đánh
đổ.”

Trong “ Bản án chế độ thực dân Pháp”, với 12 chương vạch trần tột ác của chủ
nghĩa thực dân đối với người dân thuộc địa, để lộ ra bộ mặt tàn bạo, giả dối, những thủ
đoạn đê hèn để bóc lột, chèn ép nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã khơi dậy sự căm thù, phẫn
nộ không chỉ trong lòng người dân Việt Nam mà còn với những người yêu chuộng hòa
bình ở chính quốc cũng như thế giới. Chính sự căm phẫn ấy là động lực để nhân dân đoàn
kết một lòng, hướng về cách mạng giải phóng dân tộc. Đồng thời, Người chỉ ra mâu
thuẫn gay gắt, không thể điều hòa giữa thực dân, tư sản với nhân dân các nước thuộc địa
và phụ thuộc. Chính từ tầm nhìn xa trông rộng của Người trong tác phẩm, người đọc cso
thể hiểu được rõ quần chúng nhân dân là lực lượng cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản
mà chủ đạo là công nhân và nông dân, những giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Một trong
những mục đích của Hồ Chí Minh khi viết và truyền bá tác phẩm chính là xây dựng được
thế trận lòng dân, khiến nhân dân giác ngộ và đồng lòng hướng về đất nước. Như Người
đã từng nói:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”

Điều quan trọng không kém khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân mà Hồ
Chí Minh đã lưu ý, đó là “công nông là chủ cách mệnh…là gốc cách mệnh.”

Nhìn nhận tình cảnh của Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc, không khó để chỉ ra
sự khốn khổ, khốn cùng của nhân dân, mà biểu hiện rõ rệt nhất chính là nông dân và công
nhân. Thực dân Pháp cướp không ruộng đất, bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, lập những đồn
điền cao su mà môt tác giả khuyết danh đã từng khắc họa bằng những câu thơ : “Cao su
đi dễ khó về / Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”, chúng bóc lột công nhân vô cùng tàn
nhẫn, bần cùng hóa dân ta với sự ngu dốt, nghèo đói của hàng trăm thứ thuế vô lý. Nông
dân Việt Nam bị dồn ép đến đường cùng, nếu không bị “tha hóa” như Chí Phèo thì cũng
phải chọn cái chết như Lão Hạc; một số khác không thể làm nông nữa lựa chọn trở thành
công nhân, cứ ngỡ con đường đó tươi sáng hợn nhưng thực ra còn đen tối, khổ ải hơn rất
nhiều. Giai cấp nông dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, hai tầng áp bức,
một bên là phong kiến, bên kia là thực dân; trong khi đó, giai cấp công nhân còn non trẻ
không những phải chịu cảnh giống giai cấp nông dân mà còn thêm tầng bóc lột của tư
bản. Bởi vậy, hai giai cấp trên luôn có tinh thần yêu nước cao nhất và sẵn sàng đứng lên
lật đổ ách thống trị.

Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” đã giải thích rõ cho luận điểm “Ai là những
người Kách mệnh”:

“Vì bị áp bức mà sinh ra Kách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì
lòng Kách mệnh càng bền, chí Kách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp
bức cho nên nó Kách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông
là người chủ Kách mệnh.

1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,

2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,

3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc
Kách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không
cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn Kách mệnh của công nông thôi.”

Đồng thời, khi rút ra bài học từ cách mạng các nước, Người cũng chỉ ra:

“Kách mệnh Pháp dạy cho chúng ta:

1. Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không lợi
dụng được dân chúng nữa, thì nó phản cách mệnh.”
“Kách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn kách mệnh thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải
thống nhất.”

d. Về phương pháp cách mạng.

Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bao lực
cách mạng. Dựa trên cơ sở quan điểm về bạo lực cách mạng của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm rút ra từ các vị tiền bối đi trước cùng những hoạt
đông thực tiễn và lý luận phong phú, Hồ Chí Minh đã lựa chọn chính xác phương pháp
cách mạng và vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm lý luận của Người trong giai đoạn này không nêu rõ ràng luận điểm về
phương pháp bạo lực cách mạng, nhưng thông qua việc nhìn nhận và tìm hiểu hoạt động
thực tiễn cũng như lý luận của Người trong giai đoạn cuối năm 1920 đầu năm 1930 này,
ta hoàn toàn có thể nhận thức được luận điểm đó.

Trong khoảng thời gian bôn ba nước ngoài, đặc biệt khi ở Pháp, Nga, Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu, tìm hiểu và học hỏi được rất nhiều điều mà mang ý nghĩa quan
trọng nhất có lẽ là chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong bộ “Tư bản”, quyển I, tập thứ nhất, xuất
bản lần đầu tiên năm 1867, C.Mác viết : “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ
đang thai nghén một chế độ mới”. Năm 1878, trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực còn đóng vai trò khác trong lịch sử, vai trò cách mạng;
nói theo C.Mác, bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới;
bạo lực là công cụ mà mọi sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan
tành những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng.” Trên cơ sở tiếp thu quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen, với kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng
thế giới, V.I.Lênin khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng, làm sáng tạo hơn vấn
đề bạo lực cách mạng trong học thuyết về cách mạng vô sản; không có bạo lực cách
mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được.

Người nhận định dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng là
điều tất yếu, cần thiết. Bởi, thứ nhất, hành động mang quân đi xâm lược của thực dân đế
quốc đối với các nước thuộc địa, như Người chỉ rõ: “Chế độ thực dân, tư bản thân nó đã
là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”; thứ hai, sau khi xâm chiếm
các nước thuộc địa, bọn thực dân đế quốc đã thực hiện chế độ cai trị vô cùng tàn bạo.

Về hình thức bạo lực cách mạng, theo Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng ở đây là bạo lực
của quần chúng với hai lực lượng chính trị và quân sự, hai hình thức đấu tranh là đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; chính trị và đấu tranh chính trị của quần chúng là cơ
sở, nền tảng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang; đấu tranh vũ
trang có ý nghĩa quyết định đối với việc tiêu diệt lực lượng quân sự và âm mưu thôn tính
của thực dân đế quốc, đi đến kết thúc chiến tranh. Trong lịch sử Việt Nam thời kì Pháp
thuộc, vô số phong trào cứu nước nổ ra nhưng hầu như đều bị thực dân Pháp dập tắt và
thất bại. Tất cả đều mang tinh thần yêu nước và ý chí giải phóng dân tộc, tuy nhiên lại lựa
chọn không đúng con đường đấu tranh. Hồ Chí Minh đánh giá các cụ Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là những vị anh hùng dân tộc,
yêu nước thương dân nhưng phương pháp đấu tranh của các cụ chưa đúng và Người
không đồng tình. Trong “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Trần
Dân Tiên đã phân tích nhận định của Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước
như sau:

“Anh (Trần Dân Tiên dùng để gọi Nguyễn Tất Thành) khâm phục các cụ Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn
tán thành cách làm của một người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu Người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là
sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng
khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo
người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

Anh thấy rõ và quyết định chọn con đường nên đi…”.

Có thể thấy, trong lịch sử, Phan Châu Trinh đi theo con đường cải cách, hòa hoãn
với Pháp, có thể nói là đấu tranh chính trị nhưng lại sai hướng khi mong chờ Pháp nhân
nhượng với nhân dân An Nam; Phan Bội Châu theo con đường bạo lực cách mạng,
nhưng lại muốn dựa vào tư bản để đánh tư bản; Hoàng Hoa Thám với khởi nghĩa Yên
Thế kéo dài gần 30 năm có những thành tựu nhất định nhưng vẫn mang hơi hướng phong
kiến và tự phát, không triệt để. Tất cả đều theo con đường dân chủ tư sản hoặc phong
kiến, không phù hợp với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh không những nhận định
chính xác về phương pháp đấu tranh của người đi trước, mà còn từ đó, rút ra kinh nghiệm
từ những phương pháp đó, tiếp thu điều đúng đắn và loại bỏ sai lầm của họ mắc phải, lựa
chọn chính xác để đưa cách mạng đến thành công.

e. Xác định mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc. Cách
mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới.

Cách mạng thuộc địa ở Việt Nam và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối liên
hệ bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau và cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.

Nếu như Quốc tế Cộng sản có lúc đã xem nhẹ cũng như đánh giá không đúng vai
trò của cách mạng thuộc địa , ví dụ như trong đại hội V năm 1924: “ Vận mệnh của giai
cấp vô sản thế giới và đặc biệt là của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa
gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa” hay trong đại hội VI năm
1928: chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai
cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến thì Hồ Chí Minh lại có những
luận điểm vô cùng sáng tạo và đúng đắn. Tư tưởng đó thể hiện sâu sắc nhất thông qua
luận điểm nổi tiếng trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có hai vòi, “một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi
khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa”. Vậy nên, “nếu muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt
lại sẽ mọc ra”. Việc so sánh chủ nghĩa tư bản với hình ảnh “con đỉa hai vòi” thể hiện lối
tư duy vô cùng thông minh của Người. Bên cạnh đó, trong tác phẩm “Đường Kách
Mệnh”, Người cũng đưa ra nhưng câu nói mang đậm tư tưởng trên: “Thí dụ: An Nam
dân tộc Kách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp
làm giai cấp Kách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp Kách mệnh thành công, thì
dân tộc An Nam sẽ được tự do.Vậy nên Kách mệnh An Nam với Kách mệnh Pháp phải
liên lạc với nhau.”

Đồng thời, Hồ Chí Minh trong giai đoạn này cũng xác định cách mạng Việt Nam
là bộ phận của cách mạng thế giới. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh”, Người khẳng
định “Kách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong kách mệnh thế giới. Ai làm kách
mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả.”, rồi “xem quy tắc Đệ tam
quốc tế trong 21 điều, điều thứ 8 nói rằng: "Các đảng cộng sản, nhất là Đảng Cộng sản
Pháp... phải hết sức giúp dân thuộc địa làm cách mệnh"….Xem những việc ấy thì đủ biết
rằng An Nam muốn kách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Cũng trong
đó, Người lại chỉ rõ: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình
đã.” Phải có sự đoàn kết liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, nhưng cũng
cần sự chủ động trong cách mạng dân tộc. Trong quá trình soạn thảo “Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng” năm 1930 cũng như suốt quãng thời gian lãnh đạo về sau, Hồ Chí
Minh đều khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, và
Người yêu cầu phải đoàn kết chắt chẽ cùng vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp. Trong
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người cũng ngầm ám chỉ điều đó khi đề cập
đến rất nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc đang phải chịu bóc lột và mong muốn đứng lên
đấu tranh.

Cùng với những hoạt động lý luận khắc họa sâu sắc luận điểm đó thì hoạt động
thực tiễn trong giai đoạn này cũng thể hiện chân thực lý tưởng này của Hồ Chí Minh. Đó
là tinh thần đoàn kết quốc tế thông qua rất nhiều hoạt động sôi nổi, tích cực của Người,
đặc biệt khi Người hoạt động trong Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, hay khi đi sâu
vào các phong trào công nhân, thợ thuyền ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc,…Chính hoạt
động thực tiễn đã giúp cho Hồ Chí Minh có được sự cảm thông, và Ngừơi dễ dàng tiếp
nhận và hưởng ứng tinh thần của Quốc tế cộng sản “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại”.

1.2. Phát triển tư tưởng yêu nước và mở rộng hiểu biết văn hóa thế giới
Hồ Chí Minh luôn gìn giữ và bồi đắp thêm tư tưởng yêu nước của Người. Tư
tưởng đó thể hiện ở tất cả mọi khía cạnh trong mọi hoạt động của Người trong giai đoạn
này, nổi bật nhất là tố cáo chế độ thực dân Pháp. Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài đăng báo
Người cùng khổ, Nhân đạo,… để vạch trần những lý thuyết suông, âm mưu thâm độc
của chủ nghĩa thực dân, những tội ác đã thực hiện ở Việt Nam. Người khẳng định thực
dân không chỉ là kẻ thù của dân tộc bị áp bức mà còn là kẻ thù của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng này nhất là “Bản án chế độ thực dân
Pháp” như lời buộc tôi, vạch trần tất cả tôi ác mà thực dân Pháp đã bóc lột, dồn ép nhân
dân thuộc địa với rất nhiều luận điểm nổi tiếng.

Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng tố cáo cả sự thối nát, mục ruỗng của chính quyền
nhà Nguyễn đã góp phần biến nước ta thành thuộc địa của thực dân Pháp qua rất nhiều
những tác phẩm văn học khác như: Vi hành (1923), Con người biết mùi hun khói (1922),
Những lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922)… Nổi bật nhất cho tư tưởng này là vở kịch
ngắn “Con rồng tre” (1922) được Người dàn dựng rất công phu nhằm đả kích ông vua bù
nhìn Khải Định.

Bên cạnh đó, Người còn nêu lên nỗi thống khổ của nhân dân.

Cùng với việc phát triển thêm tư tưởng yêu nước, trong thời gian hoạt động ở
nước ngoài, Người cũng tìm hiểu và học hỏi được nhiều điều, bổ xung thêm cho Người
vốn hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực. Đồng thời, Người cũng học thêm được rất nhiều
ngôn ngữ khác, “biết các thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung, Ý, Đức, Nga, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha” và nói được nhiều tiếng khác. Theo thống kê, Người có thể nói được 29 thứ
tiếng “chưa kể tiếng đồng bào dân tộc nước Việt”.

2. Lý giải tại sao đây là thời kỳ hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng Việt Nam.
Với 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải
phóng dân tộc trong nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sôi nổi. Được sự giúp
đỡ nhiệt tình của các đồng chí, bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các quy luật
vận động và phát triển của phong trào cách mạng trong nước và thế giới. Từ đó Người
tiếp cận với ánh sáng Chủ nghĩa Mác-Lênin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt
Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động. Người đi từ người
yêu nước chân chính đến người cộng sản. Trong quá trình ấy, các tư tưởng cơ bản về
cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển. Những tư tưởng ấy được
chính Người vận dụng và rèn dũa, trong đó có nhiều điểm sáng tạo với Chủ Nghĩa Mác
Lê nin .

B. KẾT LUẬN

Thời kì từ cuối năm 1920 đến đầu năm 1930 là thời kì quan trọng, hình thành cơ bản tư
tưởng về Cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Các tác phẩm như Bản án chế độ thực
dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927). Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (Chánh cương
vắn tắt. Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt) (1930) và nhiều bài viết khác của Người
trong giai đoạn này là sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng, cách mạng về giải
phóng dân tộc. Những quan điểm của Người được thể hiện rất rõ ràng và cụ thể qua từng
tác phẩm đã vạch trần bản chất chủ nghĩa thực dân, nhấn mạnh vai trò tích cực, chủ động
của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, Người luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân và
Đảng lãnh đạo, lí tưởng cao đẹp giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong
thời điểm này đã tạo ra một xung lực mới, một chất men kích thích, thúc đẩy phong trào
dân tộc phát triển theo xu hướng mới của thời đại.

You might also like