You are on page 1of 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH


------

BÀI THẢO LUẬN

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và sự vận dụng
của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Giáo viên hướng dẫn: Th.S Ngô Thị Minh Nguyệt

Lớp HP: 2288HCMI0111

Nhóm 8

Hà Nội – 2022
Danh sách nhóm

Họ và tên Chức danh Nhiệm vụ Ý thức tham gia


thảo luận
Lê Uyên Nhi Nhóm trưởng - Phân công công - Có ý thức tham gia
việc thảo luận
- Tổng hợp word,
hoàn thiện sản phẩm
báo cáo

Nguyễn Hồng Nhi Thành viên - Hỗ trợ tìm nội - Có ý thức tham gia
dung, thông tin thảo luận
- Thuyết trình
Lò Thanh Như Thành viên - Tìm nội dung, - Có ý thức tham gia
thông tin thảo luận
Đặng Huyền Nhung Thành viên - Làm lời mở đầu - Có ý thức tham gia
- Tìm nội dung, thảo luận
thông tin
Vũ Thị Hồng Nhung Thành viên - Tìm nội dung, - Có ý thức tham gia
thông tin thảo luận
Trần Kim Oanh Thành viên - Tìm nội dung, - Có ý thức tham gia
thông tin thảo luận
Hoàng Minh Phương Thành viên - Làm phần kết luận - Có ý thức tham gia
- Tìm nội dung, thảo luận
thông tin
Lê Thu Phương Thành viên - Tìm nội dung, - Có ý thức tham gia
thông tin thảo luận
Lê Tuấn Phương Thành viên - Làm powerpoint - Có ý thức tham gia
thảo luận

Page 1
MỤC LỤC

Lời mở đầu 3

CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI 4

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người 4

1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người 5

1.2.1. Con người là mục tiêu của cách mạng 5

1.2.2. Con người là động lực của cách mạng 8

1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người 9

1.3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người 9

1.3.2. Nội dung xây dựng con người 12

1.3.3. Phương pháp xây dựng con người 23

CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN 27

HIỆN NAY

2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của Đảng ta trong 27

giai đoạn hiện nay

2.2. Những thành công của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh 35

về con người của Đảng ta

2.3. Một số hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh 37

về con người của Đảng ta

2.4. Giải pháp khắc phục những hạn chế và nâng cao phát huy 39

tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Page 2
Lời mở đầu

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, được
vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn,
được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng
của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng
phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất
cả đều toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào
con người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng
đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp
đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó
cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.

Tầm quan trọng của đề tài

Giúp người nghiên cứu cũng như người đọc có những kiến thức cơ bản, thấm nhuần
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ đó tự rèn luyện bản thân, biết vận dụng vào thực
tiễn, thể hiện trách nhiệm xây dựng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam ta, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì xuất
phát điểm phải là nhiệm vụ xây dựng con người, phát triển con người toàn diện.

Trên cơ sở nhận thức khoa học, mỗi chúng ta có niềm tin về giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi; đồng
thời chống lại các quan điểm sai trái, luận điệu thù địch nhằm phủ nhận xóa bỏ tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung cũng như tư tưởng của Bác về con người nói riêng.

Page 3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người

Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể
lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã,
quan hệ giai cấp, dân tộc...) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo
đức, tôn giáo...). Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải thích “chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước;
rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên
của một cộng đồng xã hội. Như vậy, con người không phải là những cá thể biệt lập. Chỉ
có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội con người mới có lao động,
ngôn ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao động, mới thật sự trở thành con người đúng nghĩa.

Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại...
Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà còn những nhu cầu tinh
thần, văn hóa là những đặc trưng của con người. Tất cả nhu cầu về vật chất và tinh thần
đó được đáp ứng hay không, lại hoàn toàn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái
kinh tế - xã hội mà con người đang sống. Người nói: "đồng bào ai cũng có ăn, có mặc,..."
vì đây là những điều thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ và thường nhắc lại "Dân dĩ thực
vi thiên" (Dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời). Lại có câu "Có thực
mới vực được đạo" (Không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả). Từ đó ta thấy việc quan
tâm đến cái ăn, cái mặc, cái ở của nhân dân luôn đặt lên hàng đầu trong mối quan tâm của
Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh cũng chỉ ra yếu tố sinh vật của con người. Theo Người, “dân dĩ thực vi
thiên”; “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Theo
Người, trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay làm
cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành. Người căn dặn: "chính sách của Ðảng và
Chính phủ là phải hết sức chăm nom, đến đời sống của nhân dân". Nếu dân đói, dân rét,
dân dốt là Ðảng có lỗi.

Page 4
Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã hội (là
một thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự
nhiên (một bộ phận không tách rời).

Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, Hồ Chí Minh nhìn nhận con
người lịch sử - cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí, đảng viên, công
dân..., trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm
con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh tế, xã
hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất
sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.

Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc dù nhỏ bé sẽ không bị một dân tộc lớn
gấp hàng chục lần thôn tính và đồng hóa nếu dân tộc ấy phát huy được sức mạnh con
người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và văn hóa. Ðối với dân tộc Việt Nam,
con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ thể của lịch sử, là chân lý cụ thể, sinh động đã
được Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh này đã
được phát huy và đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện đại của dân tộc. Phải
đương đầu với hai đế quốc lớn, trong khi lực lượng ta yếu về nhiều mặt, nhưng Hồ Chí
Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, biến ít thành nhiều, nhỏ thành
lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế và lực để giành thắng lợi.

Lòng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân là do thấm nhuần sâu sắc truyền thống lịch
sử dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Ðó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".

1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người

1.2.1. Con người là mục tiêu của cách mạng

Page 5
Con người là chiến lược đầu tiên trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục
tiêu này được chi tiết hóa qua 3 giai đoạn cách mạng (giải phóng dân tộc, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên xã hội chủ nghĩa) để nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập
cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc nói riêng là con người Việt Nam còn nói
chung mở rộng phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.

Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội không có chế độ bóc lột,
một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến, mọi người là
chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã
hội đó phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp
khác, xóa bỏ sự bất bình đẳng xã hội, sự bất công, xóa bỏ nền tảng xã hội - kinh tế sản
sinh ra sự bóc lột giai cấp, dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự
phân chia xã hội thành giai cấp và xác lập một xã hội không có giai cấp. Con người trong
giải phóng giai cấp là những người lao động bị bóc lột, trước hết là giai cấp công nhân và
nông dân. Phạm vi thế giới là giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.

Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng nô lệ hóa con người, xóa bỏ các điều kiện
xã hội có thể làm tha hóa con người, làm cho mọi người đều được hưởng tự do, hạnh
phúc, có quyền làm chủ bản thân và làm chủ xã hội, được quyền phát triển toàn diện theo
hướng tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi
người. Phạm vi thế giới là giải phóng loài người.

Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích
trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với
hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân, dù nhỏ mấy - ta phải hết sức tránh.

Page 6
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của
quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất
cả". Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân
với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ
không đủ lực lượng: nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường”.

Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao
nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối
quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời cộng sản
thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản.
Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.

Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh
nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu
thương nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh
nguy hiểm - bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc".

Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem
lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong
điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn bị nô lệ, bị áp bức thì
mục tiêu hàng đầu đó là giành độc lập tự do, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị. Khi
mà nhân dân ta đã được giải phóng, tự do thì mục đích đó là xây dựng một xã hội hạnh
phúc, tiến bộ, bình đẳng: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân có học hành. Người nói rằng "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”

Page 7
1.2.2. Con người là động lực của cách mạng

Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là động lực, là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, Người nhấn mạnh rằng “mọi
việc đều do người làm ra”; “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân” ; “ý dân là ý trời”; “dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của toàn
thể nhân dân, mọi cuộc cách mạng cũng lấy lợi ích, quyền lợi con người làm động lực
phát triển. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua những hoạt
động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị-xã hội, sáng tạo ra
các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt,
niềm tin và đó chính là gốc rễ, động lực cách mạng.

Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh lấy công - nông - trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại
mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và
riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp công
nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực
lượng hùng mạnh.

Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được
giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng
trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính
trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động
lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -

Page 8
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người - động lực
thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.

Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó
là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm,
không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.

1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người

1.3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người

Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách
vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp
thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự
cần thiết xây dựng con người.

 Thứ nhất, “Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người” ”

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi các vấn đề của con người, các công việc của con
người, sự nghiệp trồng người là mục tiêu, là mối quan tâm thường trực, là trách nhiệm vẻ
vang trong cuộc đời hoạt động của mình. Người luôn đặt con người vào vị trí trung tâm
của sự phát triển. “Trồng người" được hiểu là một công việc lâu dài, gian khổ, đòi hỏi
tính kiên nhẫn cao trong công cuộc phổ biến văn hóa giáo dục. Xây dựng con người trước
hết và cơ bản dựa trên giáo dục và đào tạo. Giáo dục con người trong thời cuộc cách
mạng hay trong hiện tại đều là công cuộc mang tính cấp thiết. Thực chất nội dung xây
dựng con người là xây dựng về mặt nhân cách, cụ thể là xây dựng một hệ thống giá trị về
đạo đức, trí tuệ, thể lực, kỹ năng, tâm hồn… làm cho con người có những phẩm chất và
năng lực mới đáp ứng được những yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Tác phẩm "Đường
cách mạng" của Nguyễn Ái Quốc chính là minh chứng của một “cuốn sách giáo khoa”
mở đầu cho nền giáo dục cách mạng. Người hướng tới việc đào tạo những con người có
đạo đức và trí tuệ, có lý tưởng và tinh thần yêu nước đúng đắn.

Page 9
Đối với nền giáo dục thực dân, Người thẳng thắn phê phán: “Một nền giáo dục đồi
bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát... dạy cho thanh niên yêu một tổ quốc không
phải là tổ quốc của mình và đang áp bức mình, khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình”.
Năm 1935, trong lá thư thống thiết gửi cho Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc từng viết:" Tôi thấy tuyệt đối cần thiết là chúng ta phải giúp đỡ các
đồng chí của chúng ta khắc phục khó khǎn bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp
thu những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ đều phải có". Người cũng nhấn mạnh
rõ: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước,
một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tri thức là sức mạnh của mỗi con
người và của cả dân tộc. Muốn tạo nên sức mạnh ấy, phải thông qua giáo dục”. Hồ Chí
Minh coi giáo dục có vai trò to lớn trong việc hình thành lý tưởng, củng cố lòng yêu
nước, phát triển nhân cách. Do đó, Người rất chú trọng xây dựng con người một cách
toàn diện.

Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở “bồi dưỡng cách mạng cho thế hệ đời sau” chính là công
việc “rất cần thiết”, “rất quan trọng” và phải làm đầu tiên. Mục tiêu của “trồng người”
cũng là vì “lợi ích trăm năm”, lợi ích cho đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh luôn dành
một sự quan tâm rất lớn và nhất định cho công cuộc giáo dục đào tạo và rèn luyện con
người, trang bị cho con người đầy đủ về cả mặt tri thức và đạo đức. Bởi, con người là đối
tượng góp phần xây dựng nên đất nước, là mục tiêu cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng con người bằng hình thức giáo dục, nâng cao dân trí là một quá trình đấu
tranh rất sôi động và không biết mệt mỏi. Do đó, “trồng người” mang tính chiến lược,
không phải ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải trải qua lâu dài nhưng cũng rất cấp bách.

“Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng.
Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người” là công việc “trăm
năm”, do đó không được nóng vội, không phải làm một lúc là xong, cũng không được tùy
tiện đến đâu hay đến đó. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực,
bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người và trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nó vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã
hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
Page 10
 Thứ hai, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con
người xã hội chủ nghĩa”

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người, các nhân cách vừa là sản phẩm của
lịch sử, vừa là động lực phát triển lịch sử con người sinh ra trong xã hội. Vì lẽ đó, khi
kiến tạo một xã hội mới, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải tích
cực, chủ động xây dựng những con người, những nhân cách cho xã hội đó vì mục tiêu
phấn đấu cách mạng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, "muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo
ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội.

“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa" được hiểu là cần có những
con người với những nét tiêu biểu của xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống,
tác phong xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội là
“những con người mới xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người “có tư tưởng và tác
phong xã hội chủ nghĩa”, “có ý thức làm chủ Nhà nước”, “thấm nhuần sâu sắc tinh thần
tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “chăm lo
việc nước như chăm lo việc nhà”, “biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không
ngồi chờ, đùn đẩy công việc”; đồng thời, phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân, lợi
mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác”, bởi nó là “kẻ địch
nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội”.

Không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều lớn lao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải
xây dựng được nền tảng, vật chất của chủ nghĩa xã hội. Mà muốn xây dựng được nền
tảng, vật chất cho chủ nghĩa xã hội, điều quan trọng nhất lại phải có những con người xã
hội chủ nghĩa theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.

Page 11
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số
đông là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa
trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”. Người yêu cầu ngay từ đầu là phải
xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản như vậy thì mới làm gương lôi cuốn
người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Con người mới xã hội chủ nghĩa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà đồng
thời phải hình thành nên những phẩm chất mới. Xây dựng con người cần thiết suy xét
đến mọi mặt, như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… mới chính là đang xây dựng chủ
nghĩa xã hội đích thực. Chủ nghĩa xã hội có thể xây dựng thành công trên đất nước ta hay
không phụ thuộc vào việc chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không, bởi
vậy vai trò xây dựng con người xã hội chủ nghĩa ngày càng được coi trọng và thể hiện rõ
rệt.

1.3.2. Nội dung xây dựng con người

Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó
là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ
nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu
sau:

 Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi
người, mọi người vì mình”

Người lý giải như sau: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động.
Vậy công nhân, nông dân, trí thức cách mạng cần nhận rõ rằng: Hiện nay nhân dân lao
động ta là những người làm chủ nước ta, chứ không phải là những người làm thuê cho
giai cấp bóc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình
xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân dân lao động là những người chủ
tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi
người vì mình”.

Page 12
Người thẳng thừng phê phán: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ
chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm của chủ nghĩa xã hội. Từ
đó kết luận hết sức cụ thể về vai trò trách nhiệm của từng cá nhân: Đã là người chủ Nhà
nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà. Người công nhân phải yêu quý
máy móc như yêu quý con mình, người nông dân phải yêu quý trâu bò của hợp tác xã
như bản thân của mình. Mọi người phải biết giữ gìn của công, phải chăm lo việc tập thể
như chăm lo việc gia đình. Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không
ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà.
Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn
đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Người khẳng định: Cán bộ và đảng viên phải gạt bỏ những thái độ sai lầm như: Thỏa
mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều
tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi những sáng kiến bình thường của
quần chúng; lười biếng, không tích cực học tập cái mới...Chúng ta phải làm đúng lời dạy
của Lênin vĩ đại: Giữ gìn sự thống nhất của Đảng như con ngươi của mắt mình. Phải hết
lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ; tuyệt đối không được độc đoán cá nhân,
tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật. Càng có công lao,
càng phải khiêm tốn. Chớ vì có ít nhiều công lao mà sinh bệnh công thần, kèn cựa, địa vị.
Phải nhớ rằng: Mọi thành công là do sức phấn đấu, hy sinh của toàn Đảng, toàn dân,
không phải của một cá nhân anh hùng nào. Đối với Đảng, đối với nhân dân, chúng ta có
một nghĩa vụ vẻ vang là: Suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận
tụy của nhân dân. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ
chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao
tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối
không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai
cấp, đi đúng đường lối quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào
quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết
điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo; phải thực sự
cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải

Page 13
“chí công vô tư”, và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Đó là đạo đức của
người cộng sản. Trái lại, đối với kẻ địch, người cộng sản phải luôn luôn tỉnh táo, giữ
vững lập trường, quyết không được vì hoàn cảnh hòa bình mà mất cảnh giác; phải luôn
luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ địch, bảo vệ những thành quả cách
mạng, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân. Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài, thì
trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân.

 Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.

Cần kiệm bao giờ cũng là hai yếu tố không thể tách rời, Hồ Chủ tịch lý giải: Nước ta
còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có tinh thần tự lực cánh sinh, cần cù lao động. Phải
cố gắng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của
chúng ta. Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ có những kẻ lười biếng, ỉ lại
mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư nếu làm tròn
trách nhiệm thì đều vẻ vang như nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”,
người đó mới là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa. Mỗi thứ của cải chúng ta
làm ra phải tốn bao nhiêu mồ hôi và sức lao động. Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết
kiệm thì khác nào gió vào nhà trống. Cho nên phải biết giữ gìn của công. Tham ô, lãng
phí tài sản của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà ai cũng
phải thù ghét, phải trừ bỏ. Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta. Chúng ta
cần hết lòng chăm sóc sức khỏe và sử dụng hợp lý sức lao động của nhân dân ta. Cán bộ
và đảng viên cần phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương “cần kiệm liêm chính”,
không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân; phải chống bệnh
quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí. Trong mọi công việc phải
tính toán, cân nhắc cẩn thận. “Thì giờ là vàng bạc”. Phải kiên quyết chống thói hội họp lu
bù, mất thì giờ, hại sức khỏe mà không kết quả thiết thực.

Hăng hái bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung mang ý nghĩa sâu sắc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc được thể hiện qua các điều sau. Thứ nhất, bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan thể hiện ý chí quyết tâm của nhân dân ta.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được
thể hiện và khẳng định rất rõ qua nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định. Ý chí quyết tâm

Page 14
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của
Hồ Chí Minh. Cụ thể Người đã nhấn mạnh nhiều lần với nhân dân cả nước rằng “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Trong lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, Người nói: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…Hỡi đồng bào! Chúng
ta phải đứng lên! …” Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”. Trước khi đi xa trong bản di chúc Người căn
dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải
hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến
thắng lợi hoàn toàn”. Thứ hai, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung giai cấp và nội dung thời đại. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi
thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người kêu gọi: Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Thứ ba, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức
mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng người dân,
của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính trị,
quân sự, kinh tế, an ninh, ngoại giao, văn hoá – xã hội, sức mạnh truyền thống với sức
mạnh hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong sức mạnh tổng hợp đó, Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng sức mạnh nhân dân, sức mạnh lòng dân. Người khẳng định,
phải “dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân”, “toàn dân Việt Nam chỉ có một
lòng, quyết không làm nô lệ; kết hợp với sức mạnh thời đại”. Thứ tư, Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta là
người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và chính
phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa
xã hội, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ
Page 15
bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hòa bình ở Á đông và trên thế
giới” và khẳng định “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn kết
nhất chí, lòng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh của mình, với sự giúp
đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế
giới nhất là nhân dân các nước Á Phi, nhân dân ta nhất định khắc được mọi khó khăn,
làm tròn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ đã đề ra”.

 Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” và "chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi
người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ sở cho sự thống nhất để Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của một dân tộc, đất không
rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế, quân sự không lớn song đã đoàn kết, đồng lòng
dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế
quốc, giành độc lập, tự do; tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó khăn, thử thách, truyền
thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao
đời, trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy
mạnh mẽ, tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy
cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra
sức trừ cho kỳ hết”, để luôn chủ động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Để đất nước vững bước trên hành trình đã chọn và nhất là để phát
huy tinh thần yêu nước của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban,
ngành chức năng cùng cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về lòng yêu nước, về lý tưởng cách mạng và sự kiên định
Page 16
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cụ thể hóa thành các chính sách và các
phong trào thi đua yêu nước cụ thể, thiết thực.

Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người
khỏi ách áp bức, bóc lột. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Giúp bạn là tự giúp
mình”. Người cho rằng giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính
là bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Ðây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô
sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Người đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh
thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham
gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và
tinh thần quốc tế không trong sáng có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ
nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc..."

Có thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình
thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con người. Từ
chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng
nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới,
góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.

 Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương

Phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương trong tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời vì nhân dân của vị
lãnh tụ vĩ đại kính yêu của cách mạng Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.

 Phong cách quần chúng

Phong cách quần chúng trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu
sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có lòng tin vô tận đối với
quần chúng. Người luôn luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là
nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Phong cách quần chúng

Page 17
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bằng phong cách sâu sát quần chúng, vì lợi ích của
quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, của những
người chiến sĩ cộng sản suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.

Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên gần dân, thấu hiểu tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân và bản thân Người luôn là tấm gương sáng về phong cách
gần dân. Sự gần gũi đó được thể hiện ngay từ phút đầu tiên Người ra mắt quốc dân. Khi
vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn Độc lập, Người đã dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe
rõ không?” Chỉ là một câu hỏi thôi, một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc
động trái tim hàng chục triệu đồng bào toàn quốc! “Cả muôn triệu một lời đáp: Có! Như
Trường Sơn say gió Biển Đông”. Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi,
thân thiết hiếm có giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang
trọng nhất.

Hai là, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải đi đúng đường lối quần
chúng, đồng thời bản thân Người nêu cao tấm gương về lòng yêu mến và tin tưởng hết
mực vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Bác nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có
vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Bác thường xuyên căn dặn các
tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, và
phải thể hiện tinh thần phụ trách trước nhân dân. Chính phong cách đi đúng đường lối
quần chúng của Người có sức hút kỳ lạ, làm cho quần chúng đến với Người không chút e
ngại, bình dị, tự nhiên. Tác phong ấy làm cho lãnh tụ và quần chúng dễ dàng hoà nhập
với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc nhất. Nhờ vậy, mọi người có thể nói hết những suy
nghĩ, trăn trở của mình, còn Người thì lắng nghe để có thể hiểu được nhịp đập của cuộc
sống chung quanh. Phong cách quần chúng không chỉ là phong cách cần thiết của cán bộ,
đảng viên trong quan hệ với dân, mà còn cần thiết trong quan hệ của cấp trên với cấp
dưới, của cán bộ lãnh đạo với cán bộ, đảng viên bình thường. Đối với người lãnh đạo cấp
trên, hiểu dân và hiểu cấp dưới đều có tầm quan trọng đặc biệt. Hiểu dân là để hiểu cấp
dưới được chính xác hơn, hiểu cấp dưới là để hiểu dân được đầy đủ hơn. Càng hiểu dân
và càng hiểu cấp dưới, người lãnh đạo càng hiểu chính mình và càng rút ra được những
điều bổ ích để bổ sung cho chủ trương, chính sách đã được đề ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Trong bầu trời, không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh

Page 18
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng
phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Vì vậy, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc
gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước
hết phải yêu dân, kính dân, phải thân dân, gần dân để hiểu dân.

Ba là, cán bộ, đảng viên phải biết phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của tập thể, lợi ích của
nhân dân. Bác nói: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần
chúng... Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì ta
phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại...”

Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “từ nơi quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Người đã nhiều lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên
mặt “làm quan cách mạng”, “quan nhân dân”, không thấy mình là đầy tớ, người học trò
của nhân dân. Bác đã nêu ra một quan điểm rất rõ: Không phải cứ viết lên trán hai chữ
“cộng sản” thì đương nhiên sẽ được mọi người quý trọng. Quần chúng nhân dân chỉ quý
trọng những người có đức, có tài, hết lòng phụng sự nhân dân. Phải yêu dân, kính dân thì
dân mới dành sự yêu kính cho mình. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với cán bộ,
đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Làm cho dân kính, dân yêu, dân tin, dân phục là vấn
đề thuộc về lòng người. Nếu cứ ỷ vào quyền lực chỉ có thể làm cho người ta sợ, ngại, xa
lánh và khinh ghét chứ không thể giành được sự tin yêu, kính phục của người khác. Nhân
dân từ già đến trẻ thuộc mọi tầng lớp, dân tộc, mọi thế hệ đều gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh
bằng hai tiếng: Bác Hồ. Bác đến với mọi người một cách rất tự nhiên và bình dị. Mọi
nghi thức đối với Người đều trở thành không cần thiết.

 Phong cách dân chủ

Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý
kiến của tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Trước hết, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên phải gắn bó với tập thể, tôn
trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời tinh thần ấy
cũng thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của Người. Hồ Chí Minh không bao giờ đặt
mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn tranh thủ sự
Page 19
bàn bạc với tập thể Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ và Quốc hội, khi cần thiết,
triệu tập cả Hội nghị chính trị đặc biệt - một hình thức Diên Hồng của thời đại mới, để
xin ý kiến các đại biểu quốc dân.

Thứ hai, là phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Người thường
nói: “Đề ra công việc, đề ra nghị quyết, không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện?
- Tập thể, quần chúng”. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng thông suốt, nhất trí,
mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Sở dĩ xảy
ra mất đoàn kết vì người đứng đầu ở nơi đó còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ
quan, trong hội nghị thì mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị, nếu đã không
thông thì sẽ không quyết tâm thực hiện. Vì vậy, Người yêu cầu: "Phải thật sự mở rộng
dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình". "Có dân chủ thì mới làm cho cán
bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"; "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể
giải quyết mọi khó khăn". Bản thân Người là tấm gương mẫu mực về thực hành dân chủ.

Thứ ba, là nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó
và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Là người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh thường
xuyên có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Người giải thích: "Tập thể lãnh đạo là
dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là
dân chủ tập trung". Tác phong tập thể - dân chủ của Bác luôn luôn tạo ra được không khí
làm việc hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo. Cương vị lãnh đạo càng cao, thì
càng đòi hỏi phải có tác phong tập thể - dân chủ thật sự, chứ không phải hình thức. Bởi vì
mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể. Mọi thói hình thức chủ nghĩa,
sớm muộn, sẽ làm xói mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ. Nhiều lần, Người đã phê bình
cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, do đó mà người có ý kiến không dám
nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên, cấp dưới cách biệt
nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn hăng hái, không còn sáng kiến trong
khi làm việc.

Từ thực hành dân chủ cho nhân dân đến thực hành dân chủ trong Đảng, trong cơ
quan, tổ chức, phong cách dân chủ của Bác Hồ là sự thể hiện nhất quán của tư tưởng đạo
đức vì dân, vì nước, như Người từng khẳng định 5 điểm đạo đức mà người đảng viên

Page 20
phải giữ gìn cho đúng, đó là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Ra sức phấn
đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống
mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục,
không chịu cúi đầu. Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết. Hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng.

 Phong cách nêu gương

Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ
nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, nói phải đi đôi với làm.

Trước hết, cần nêu gương trên ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với
công việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu
tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự
phê bình mình như rửa mặt hàng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù
trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc "dĩ công vi thượng" (để việc công lên trên, lên
trước việc tư). Trước nạn đói năm 1945 đang đến gần, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân diệt
"giặc đói" bằng một hành động cụ thể, mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy số gạo đó cứu
những người bị đói và chính Người đã làm gương thực hiện trước. Hồ Chí Minh đã tiếp
thu truyền thống "thương người như thể thương thân" của dân tộc, nâng lên thành triết lý
hành động cách mạng vì dân, vì nước trong mỗi con người.

Thứ hai, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm và trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng đầy gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một tấm
gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Ở Người đã đạt tới sự thống
nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt tới sự
nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. Khi địa
vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ Chí Minh càng ra sức tự hoàn thiện, trở thành tấm gương
đạo đức trọn vẹn. Hồ Chí Minh cho rằng: "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều
giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền". Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công

Page 21
tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
Hồ Chí Minh từng dạy: "Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng
chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương
cho dân. Làm gương cả về ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá. Không có gì là khó.
Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: quyết
tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất
là các đồng chí phải thành công". Hồ Chí Minh cho rằng, con người nói chung, đặc biệt
là người phương Đông, coi trọng thực tiễn hơn lý thuyết. Chính vì thế, Người nhắc nhở
đảng viên: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người bắt chước". Tự mình phải
chính trước, mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính
là vô lý.

Thứ ba, để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người chủ trương: "Lấy gương
người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để
xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống
mới". Trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối
với các em; trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ quan,
tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho
người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người cán bộ, đảng viên chẳng những phải có
trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, mà còn phải là
tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói
hư, tật xấu. Hồ Chí Minh thấy được một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng
ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho
dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám
chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu
đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà
nhân dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh
phúc của nhân dân. Tư tưởng đạo đức ấy đã tạo nên một phong cách nêu gương, tự giác
gương mẫu của Hồ Chí Minh, người lãnh tụ kính yêu của cách mạng Việt Nam, người

Page 22
suốt đời phấn đấu, hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản
dị, người mà cả cuộc đời là một tấm gương lớn cho các thế hệ con cháu mãi mãi noi theo.

Có thể nói, phong cách quần chúng, phong cách dân chủ và phong cách nêu gương
trong tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện xuyên suốt mọi
hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân của
Người.

1.3.3. Phương pháp xây dựng con người

 Nêu gương nhất là người đứng đầu có ý nghĩa rất quan trọng

Theo Người, nêu gương là thể hiện phương thức và phong cách lãnh đạo của Đảng ta,
của mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao càng phải coi trọng
nêu gương, nêu gương một cách thiết thực, chân thành, nêu gương trong mọi hoàn cảnh,
từ việc nhỏ đến việc lớn; từ việc học tập, rèn luyện, tu dưỡng cho đến việc làm cụ thể
trong thực tiễn, trong quan hệ với công việc, với mọi người tại công sở đến các quan hệ
trong gia đình, người thân, nhân dân và trong xã hội, tóm lại là nêu gương trong ba mối
quan hệ cơ bản: với mình, với người và với việc. Đó là sự tận tâm, tận lực thực hiện
những nhiệm vụ, vai trò mà mình đóng vai. Nếu mọi cán bộ, đảng viên đều nêu gương
tốt, chắc chắn công việc được vận hành có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy:
“Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”; “Muốn cho
quần chúng nghe lời mình, làm theo mình thì người đảng viên từ việc làm, lời nói cho
đến cách ăn ở phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu”. Với ý nghĩa đó, cán bộ, đảng
viên nêu gương tốt sẽ tạo động lực trong công việc, góp phần đẩy lùi những biểu hiện trì
trệ, lười biếng, ỷ lại và những tiêu cực khác, qua đó làm trong sạch tổ chức đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của từng cấp ủy, tổ chức đảng và của toàn Đảng.
Nêu gương còn là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Là người
đứng đầu mà không nêu gương là không có trách nhiệm với cấp dưới, với nhân viên của
mình và với nhân dân, với Tổ quốc và với chính bản thân mình; là không xứng đáng với
vị trí lãnh đạo, đứng đầu. Nêu gương còn là nhân cách của người cách mạng, thuộc phận
sự của mỗi cán bộ, đảng viên của một đảng chân chính cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ ra
rằng: “Nhân dân thường nói đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen
chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta”.

Page 23
Để nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc,
trung thực, thật thà tự phê bình; có khuyết điểm thì gương mẫu nhận trách nhiệm về
mình, không đổ lỗi, tranh công. Đó là bản chất của người cộng sản, người đảng viên. Cán
bộ, đảng viên là đầy tớ của dân nên càng tự phê bình trước dân chừng nào, dân càng bằng
lòng phục vụ mình chừng ấy. Thông qua nêu gương trong tự phê bình nghiêm túc, trung
thực thì dân tin, dân theo, uy tín của cán bộ, đảng viên càng cao. Mà dân tin, dân theo thì
chế độ ta còn, Đảng ta còn. Với ý nghĩa đó, nêu gương hiện nay của cán bộ, đảng viên là
dũng cảm đấu tranh với những biểu hiện “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối
sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính bản thân mình và trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên; là phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xa
rời thực tế, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về quyền lực, địa vị, xa rời quần chúng.

 Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng “hiền, dữ
phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”.

“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”, theo quan niệm của
Hồ Chí Minh con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là tốt, nhưng chỉ sau do ảnh
hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà
hình thành những con người thiện, ác khác nhau.

Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới. Giáo
dục là quá trình đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao động, thành các công
dân đủ năng lực làm chủ - những con người Việt Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ và có
nghề thông qua việc dạy và học. Việc dạy và học không chỉ giới hạn trong các trường đào
tạo, mà còn là quá trình tự học, tự đào tạo và đào tạo lại, học trong cuộc sống, học suốt
đời. Trong giáo dục không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà chủ yếu dạy làm người.

Muốn vậy, cần chú ý các điểm sau: Thứ nhất, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện:
đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hóa giáo dục. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia cho giáo dục. Xây dựng
danh mục ngành nghề và chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Tiếp tục đổi
mới chương trình giáo dục. Tập trung đổi mới phương pháp dạy và học. Xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tiếp tục thực hiện
chương trình kiên cố hóa trường, lớp học. Tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục đại học và

Page 24
giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng liên thông. Tạo điều kiện
để duy trì, củng cố và phát triển các trường ngoài công lập. Tiếp tục triển khai đề án xây
dựng xã hội học tập. Lấy Hội khuyến học và các đoàn thể làm nòng cốt để thực hiện đề
án này. Tổng kết, rút kinh nghiệm việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng để tiếp
tục phát triển có hiệu quả. Củng cố tăng cường phát triển hệ thống giáo dục cho người
lớn. Xây dựng kênh giáo dục truyền hình và các nội dung giáo dục trên mạng để phát
triển giáo dục từ xa. Thứ hai, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát
triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục đối với trẻ em bị thiệt
thòi. Thứ ba, đẩy lùi những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục. Thứ tư, nâng cao khả năng
chủ động hội nhập quốc tế. Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục.

 Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng thông qua
các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”.

Phát động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người mới. Trong
lời kêu gọi “Thi đua yêu nước”, Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập đến vấn đề xây
dựng con người mới trong phong trào thi đua. Song, trên thực tế chỉ đạo thực hiện phong
trào và chủ đích thực sự của Người chính là: “Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là những bông
hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Nghĩa là qua phong trào thi đua và trải qua
rèn luyện, thử thách trong thi đua đã hình thành mỗi người những việc tốt, phẩm chất tốt
để hình thành một lớp người tốt, lớp người mới để “dân tộc ta là một rừng hoa đẹp". Điều
này cũng đồng nghĩa với việc mỗi chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người
Việt Nam mới thì chỉ có gắn mình vào phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và chính qua
phong trào đó bản thân tự đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở thành người
tốt.

Bởi vì, đối với mỗi người cách mạng, mỗi người lao động chân chính, chắc không ai
có thể tự cho mình đã có được trọn vẹn những tiêu chuẩn của con người mới và bản thân
mình không có gì phải làm cho tốt đẹp hơn nữa. Thực ra, ở mỗi người đều có mặt mới
mặt cũ, có cái tốt cái xấu. Vấn đề chỉ là ở chỗ mặt nào nhiều hơn và mỗi người phải phấn
đấu sao cho những mặt tốt ngày càng nhiều hơn, những cái xấu ngày càng ít. Quá trình
phấn đấu để trở thành người tốt, con người mới chính là quá trình đấu tranh để xóa bỏ cái
cũ, cái xấu, xây dựng cái tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện. Đó cũng chính là quá trình tham gia thi đua, tranh đua và hợp tác không
Page 25
ngừng vươn lên của mỗi người. Đó cũng là quá trình làm cho cái mới ngày càng trở thành
phổ biến trong đông đảo những người lao động, trong toàn dân tộc, ngược lại làm cho cái
cũ, cái xấu càng bị thu hẹp và mất dần đi trong đời sống xã hội chúng ta.

Page 26
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay

Ngay từ ngày xây dựng chính quyền, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát
triển văn hóa, con người, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình
xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ
gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong suốt quá trình thực hiện
đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.

Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước,
trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên
hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu không ngừng
vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình độ chung của nhân
loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu và hợp
tác quốc tế. Nền văn hóa này vừa đảm bảo được sự thống nhất của quốc gia - dân tộc, tạo
nên sự đoàn kết dân tộc, vừa tôn trọng và phát huy sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh
em trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc các giá trị nhân văn,
dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển đất nước.

Tại hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998), Đảng ta đã
nêu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với những hệ giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đó là con người cần nâng cao tinh
thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý
chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Không chỉ vậy, con người cũng cần phải có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi

Page 27
trường sinh thái. Ngoài ra, lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật,
sáng tạo, năng suất cao; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực. 

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 9-6-2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng định
hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh, động lực
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây
dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền
thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.

Quan điểm của Đảng về xây dựng con người phát triển toàn diện được thể hiện thông
qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII như sau:

Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành mục
tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước
5 năm 2016 – 2020, đó là “xây dựng con người phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đây là một
bước tiến quan trọng của Đảng ta không chỉ coi trọng phát triển con người về mặt nhận
thức, về mặt lý luận, mà còn biến thành nhiệm vụ cụ thể và hoạt động thực tiễn. Căn cứ
để đưa ra nhiệm vụ tổng quát dựa trên sự đúc kết những giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Đảng tạo điều kiện để con người giai đoạn hiện nay phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật một cách toàn diện. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tự
hào dân tộc, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi những hành vi
sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người, sự
xuống cấp về đạo đức xã hội, để xây dựng thành công một xã hội tốt đẹp, văn minh và
phát triển.

Page 28
Thứ hai,  gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con người.

Đại hội XII của Đảng khẳng định chủ trương gắn việc xây dựng văn hóa, con người
với xây dựng và phát triển đất nước. Đây là bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng
về lĩnh vực phát triển con người sau 30 đổi mới. Đại hội XII khẳng định phương hướng
phát triển văn hóa là: “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người... Gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”, bởi vì con người vừa
là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn hóa do mình sáng
tạo ra. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, nói tới văn hóa là nói tới con
người, con người giữ gìn phát huy giá trị văn hóa, nhưng chính con người cũng có thể
làm mất đi giá trị tốt đẹp của văn hóa. Cho nên, việc xây dựng, phát triển văn hóa không
thể tách khỏi xây dựng, phát triển con người. Qua cách diễn đạt này, Đảng đã khẳng định
và nhấn mạnh vấn đề trọng tâm, cốt lõi của việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện
với nhân cách, lối sống, đạo đức tốt đẹp.

Thứ ba, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong sáu nhiệm vụ
trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII.

Vấn đề xây dựng con người được xem là nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ này.
Trong đó có hai nhiệm vụ đề cập tới phát triển năng lực cho con người. Ngay ở nhiệm vụ
đầu tiên về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta nhấn mạnh cần phải: “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm
chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Ở nhiệm vụ thứ ba, về tập trung các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, Đảng ta yêu cầu tiếp tục thực hiện có
hiệu quả ba đột phá chiến lược, trong đó có: “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao”, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Với quan điểm nguồn nhân lực là vốn quý của đất nước, trong nhiệm vụ thứ năm, Đại
hội XII của Đảng xác định: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo
của nhân dân”. Khi đề cập tới vấn đề đạo đức, lối sống, nhân cách của con người để xây

Page 29
dựng con người phát triển toàn diện, trong nhiệm vụ thứ sáu, Đảng ta khẳng định: “Phát
huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con
người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc”. Việc cụ thể hóa
những yêu cầu trong xây dựng và phát triển con người toàn diện là thể hiện sự nhận thức
đúng đắn của Đảng trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, của quá trình hội nhập quốc tế
và xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên
mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực
con người. Đó là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản
lý và dịch vụ. Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng,
đào tạo con người có trình độ tay nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản
xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, lao động sáng tạo.

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi người lao động phát triển
cả đạo đức và nhân cách. Đó là đạo đức trung thực, đạo đức trong hành động, tự giác
trong lao động. Biểu hiện của đạo đức cách mạng là sự thống nhất giữa lời nói với việc
làm, giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hiệu quả. Đạo đức đó đáp ứng được
chuẩn mực đạo đức của xã hội mới, là điều kiện cơ bản để thực hiện thành công công
cuộc đổi mới đất nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến
phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cần được giải quyết trong bảo vệ độc lập, chủ
quyền. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong những năm đổi
mới cũng còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào một số đảng viên có chức vụ trong
Page 30
bộ máy Nhà nước… Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là,
mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình” chống phá cách mạng nước ta bằng các thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm, nhất là
triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá.

Vấn đề phát triển văn hóa, con người được Đảng ta định hướng rất rõ trong các Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng về tính
định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “tập trung nghiên cứu, xác
định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con
người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Theo
đó, phải phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển toàn diện,
đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc,
vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế.... Để thực hiện thành công quan điểm phát triển văn hóa, con người
trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu trong văn
hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các đơn vị... khuyến khích, tạo
điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống
kinh tế xã hội. 

Nhằm định hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình
mới, Đảng ta nêu rõ các quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện. Đầu tiên là về quan
điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan
điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình
trạng coi nhẹ yếu tố văn hóa so với kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.

Page 31
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mô hình hài hòa giữa đặc trưng “tiên
tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa
dạng.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng
tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người .
Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định
rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ
xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng
tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách
con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây
dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ trọng của văn
hóa Việt Nam hiện nay.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây
dựng môi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng yếu có vai trò to lớn, là nguồn lực
và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững của đất nước.

Tương ứng với mỗi quan điểm trên, Đảng ta đã đưa ra 6 nhiệm vụ cơ bản và bao quát
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động liên quan đến văn hóa, con người. Sáu nhiệm
vụ đó là:

Page 32
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về đạo đức, tâm hồn, thể
chất đến trí tuệ, năng lực;
2.  Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh;
3.  Xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế;
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa;
5. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa;
6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;

Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ trong đại hội lần thứ XIII, dưới đây là một
số giải pháp được Đảng đưa ra:

Một là, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phức tạp trong
tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát
triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận
lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam
là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.

Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cả
về mặt nhận thức và cách thức.
Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ đổi mới. Tăng cường công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí,
vai trò của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mỗi cán bộ,
đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu và động viên, tổ chức cho Nhân dân thực hiện
nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người.
Về cách thức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng hài hòa, vừa bảo
đảm để văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm
quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục

Page 33
đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự
do sáng tạo.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa thông qua việc thực
hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 33-NQ/TW.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò quản
lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để nâng cao năng lực, hiệu quả,
hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa, Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh các yêu cầu
sau: Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn
hóa bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa,
nghệ thuật, quyền tác giả và các quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn
Việt Nam. Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ,
tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra văn hóa,
gắn với trách nhiệm cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Chủ động đấu tranh
phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, tích cực tiếp thu và ứng dụng
hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa công tác quản lý nhà nước về văn hóa, không ngừng đổi mới và nâng cao trình độ
quản lý.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nói riêng và người Việt Nam
nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực.
Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trò quan trọng, là động lực của
sự phát triển đất nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết Trung ương 9,
khóa XI yêu cầu phải xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm
xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy
môn đào tạo. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo
hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi
ngộ, tôn vinh cán bộ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.
Trong giai đoạn hiện nay, cần đẩy mạnh xây dựng con người Việt Nam có lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá
nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, cần cù, sáng
Page 34
tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; giàu trí tuệ, phong phú
về đời sống tinh thần, trong sáng về đạo đức, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức, lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tuân thủ pháp luật,
chăm lo xây dựng cộng đồng; biết suy nghĩ độc lập, tự chịu trách nhiệm, có tinh thần hợp
tác, làm việc có hiệu quả; có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, không ngại với khó
khăn và gian khổ, có ý chí vươn lên, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu. Xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương,
nền nếp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, lành mạnh; có tinh thần tương thân,
tương ái, tự nguyện, tự quản, dân chủ, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã hội
hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực phát
triển con người toàn diện.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất nước.
Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản sắc, cốt
cách dân tộc. Con người là nguồn lực quan trọng nhất .giữ vai trò quyết định sự phát triển
kinh tế - xã hội Ngày nay, văn hóa, con người còn được xác định là một trong những yếu
tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc trên trường quốc tế.
Vì thế, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững đất
nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam hiện
nay.

2.2. Những thành công của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của
Đảng ta

Đảng ta đã ban hành một số văn bản góp phần cụ thể hóa chủ trương xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Hệ thống
chính trị và các tầng lớp xã hội đã chủ động hơn trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, nhân
văn, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.

Page 35
Các cơ quan Trung ương và địa phương đã khẩn trương triển khai tuyên truyền, ban
hành các văn bản chỉ đạo, quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo cơ sở pháp lý
và điều kiện để các tổ chức trong xã hội tập trung trí tuệ, công sức xây dựng con người.
Nhận thức về quan điểm, nhiệm vụ xây dựng con người phát triển toàn diện trong Đảng
và các tầng lớp nhân dân ngày một rõ ràng, cụ thể hơn. Vai trò của con người ngày càng
thể hiện và tác động lớn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bước đầu tạo được sự
gắn kết phát triển văn hóa với xây dựng con người, lấy việc chăm lo xây dựng con người
có nhân cách, lối sống tốt đẹp làm trọng tâm.

Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân được phát
huy. Dân chủ xã hội được mở rộng cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và tiếp
cận với các phương tiện truyền thông mới đã làm cho con người Việt Nam luôn đổi mới
tư duy, năng động, sáng tạo hơn, có nhiều cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Các
giá trị đạo đức truyền thống được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo hướng phù hợp với
nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hình thành nếp sống văn minh, tác phong công
nghiệp, tính chuyên nghiệp, thiết thực, hiệu quả, đề cao, tôn trọng con người; quan tâm
nâng cao trí tuệ, cải thiện chất lượng sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. 

Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được triển khai
thực hiện rộng khắp trên các địa bàn từ thành thị đến nông thôn. Năm 2018, số người tập
luyện thể dục thể thao thường xuyên trên toàn quốc đạt 32,35%; số gia đình tập luyện thể
thao thường xuyên đạt 23,41% tổng số hộ. Thể lực, tầm vóc con người Việt Nam được cải
thiện, ý thức bảo vệ môi trường sống được nâng lên.

Công tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển biến, góp phần xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường văn hóa, xã hội lành
mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của cán bộ,
đảng viên, nhân dân; tạo niềm tin của nhân dân đối với chế độ.

2.3. Một số hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của Đảng
ta

Page 36
Có thể thẳng thắn nhìn nhận, công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển con
người chưa đều khắp các lĩnh vực, vùng miền. Nhận thức chung của xã hội về vai trò, vị
trí của con người còn chung chung. Quan điểm xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp chưa được triển khai mạnh mẽ.

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên, chưa thực sự được đẩy lùi. Một số mặt đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp
nghiêm trọng (như quan liêu,tham nhũng,lãng phí,xa rời nhân dân). Ở một số nơi, vẫn
còn tình trạng kẻ xấu lợi dụng sự ngộ nhận về lòng yêu nước của một bộ phận người dân
phục vụ mục đích chống phá chế độ.

Hệ giá trị chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai trong thực
tiễn chưa được ban hành. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính ngoại, tiêu dùng
sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh hưởng đến giữ gìn
truyền thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước thách thức toàn cầu hóa. Chất
lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn ở mức thấp so với khu vực Đông Nam Á.

  Sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người chưa
thường xuyên. Công tác giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực thẩm mỹ trong các tầng
lớp nhân dân chưa được coi trọng. Nhiều hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa công
cộng bị “thương mại hóa”, hạ thấp tính giáo dục, chiều theo thị hiếu tầm thường của một
bộ phận người dân, gây hậu quả xấu trong xây dựng con người. Công tác xã hội hóa xây
dựng con người chưa động viên tối đa. Một số phong trào biểu dương, tôn vinh gương
người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, danh hiệu thi đua chưa đi vào thực chất, chạy theo
số lượng và hình thức. Những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống phai nhạt lý tưởng,
những tiêu cực, tệ nạn xã hội, thói giả dối, bệnh thành tích chạy chọt đang có xu hướng
lan rộng.

Cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, tiêu cực xã hội chưa thường xuyên,
liên tục. Một số nơi còn coi nhẹ việc đấu tranh, phòng chống các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa,
ảnh hưởng đến nhiệm vụ xây dựng con người. Những giải pháp mang tính đột phá khắc
phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam chưa được đề xuất.

Page 37
2.4. Giải pháp khắc phục những hạn chế và nâng cao phát huy tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam thời đại mới một
cách thật chi tiết, cụ thể, có lộ trình rõ ràng. Đảng ta đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng
định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và
phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo
dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Chủ trương, chính sách
này phải cụ thể, rõ ràng trong việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ
chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại mới, coi đó là
một nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm
giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc
xây dựng con người. Và xây dựng được ý thức, cũng như sức mạnh của cả xã hội, cả dân
tộc vào mục tiêu xây dựng toàn diện con người Việt Nam thời đại mới.

  Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam, tức là phải: “Đúc kết
và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Phải xây dựng được hệ giá trị văn
hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ
để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người
Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải
phù hợp với những giá trị văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với
đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa có
khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
  Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện trong quá trình hội nhập
toàn diện hiện nay đã đem lại để phát triển con người Việt Nam. Theo đó, chủ động, tích
cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý
nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do công cuộc hội nhập đem lại để thúc
đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc
Page 38
lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những
điều kiện vật chất phục vụ cho con người phát triển. Đây là những cơ hội cho con người
cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển toàn diện. Tuy
nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền
vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa.
Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị
của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển
toàn diện. Từ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán
triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị quyết TW 9 khóa XI
đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo
xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Như vậy, để có thể tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cần phải tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của các thiết chế văn hóa.
  Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới,
có kĩ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra  quyết
định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu.  Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị
cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết
một vấn đề nan giải. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kĩ năng, cách
tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm
người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có
khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc.

Page 39
Kết luận

Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm
con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh tế, xã
hội cụ thể. Qua cách tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến việc giải quyết mối quan
hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt
con người.

Thông qua quá trình tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người, đặc biệt khi
nhắc tới vai trò của con người, ta có thể thấy rằng nhân dân là những người sáng tạo chân
chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất. Nói đến nhân dân là nói
đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin và đó chính là gốc, là động lực cách
mạng của Việt Nam ta.

Hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, dân tộc Việt Nam thấu hiểu sự vô giá của độc
lập, tự do. Để giành được độc lập, tự do ấy, dân tộc ta đã phải đổi bằng xương máu và
nước mắt của lớp lớp các thế hệ. Đó là sự hy sinh tự nguyện và anh dũng, là biểu tượng
sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước ấy được dẫn dắt bởi
nhà tư tưởng lỗi lạc Hồ Chí Minh với tư tưởng phát huy cao độ nhân tố con người. Trong
quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, tư tưởng này của Người vẫn còn nguyên giá trị.
Trong điều kiện mới, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát huy nhân tố con người để biến truyền thống, bản lĩnh, khí phách và trí tuệ
người Việt Nam thành sức mạnh to lớn nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ
quốc.

Page 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục vả Đào tạo, NXB Chính trị quốc gia –
Sự thật

2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 10 tr.453

3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 12 tr.358

4. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 3 tr.413

5. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 5 tr.338

6. Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương và ý nghĩa đối với việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Mặt trận

7. Hồ Chủ tịch nói về tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa, Trang Thông tin Điện tử
tỉnh Phú Thọ

8. Tinh thần quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Báo Điện tử VTV News

9. Phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương của chủ tịch Hồ Chí Minh, Trang Thông
tin Điện tử Hội nông dân tỉnh Bắc Kạn

10. Phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí
Ban Tuyên giáo Trung ương

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.143

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.115 – 116

13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.262 – 263

Page 41
Page 42

You might also like