You are on page 1of 39

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CHỦ QUAN HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Giảng viên: Nguyễn Thị Lan Phương

Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh


LHP: 232_HCMI0111_05

Nhóm: 3

Hà Nội - 2024
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT Họ và tên MSV Nhiệm vụ Đánh giá

1 Vi Thị Hồng Hạnh 21D170204 IV. Kết luận + word

2 Cao Thúy Hằng 21D170250 Powerpoint

3 Lê Thị Thu Hằng 21D170013 2. Tài năng hoạt động - d

4 Nguyễn Thị Hằng 21D170160 1. Phẩm chất - c

5 Nguyễn Thị Hằng 21D170205 1. Phẩm chất - b


III. Vận dụng nhân tố chủ
6 Nguyễn Thị Hằng 21D170251
quan

Nguyễn Thị Mai Hằng Cơ sở thực tiễn + Thuyết


7 21D170295
(Nhóm trưởng) trình

Cơ sở lý luận + Thuyết
8 Đinh Lê Công Hậu 21D170296
trình
9 Vũ Thị Hiền 21D170116 2. Tài năng hoạt động - b

10 Phạm Trung Hiếu 21D170014 2. Tài năng hoạt động - a

11 Nguyễn Thị Hoa 21D170207 1. Phẩm chất - d

12 Đinh Thị Thu Hoài 21D170253 1. Phẩm chất - a

2
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM


Lớp học phần: 232_HCMI0111_05 - Tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

I. Thời gian, địa điểm


Thời gian: 8h – 9h30, ngày 27/2/2024
Địa điểm: phòng họp Google Meet

II. Thành viên tham dự


 Vi Thị Hồng Hạnh
 Cao Thúy Hằng
 Lê Thị Thu Hằng
 Nguyễn Thị Hằng – N2
 Nguyễn Thị Hằng – N3
 Nguyễn Thị Hằng – N4
 Nguyễn Thị Mai Hằng (Nhóm trưởng)
 Đinh Lê Công Hậu
 Vũ Thị Hiền
 Phạm Trung Hiếu
 Nguyễn Thị Hoa
 Đinh Thị Thu Hoài

III. Nội dung


• Các thành viên trong nhóm cùng thảo luận, phân tích và nêu ý kiến về đề
tài thảo luận
• Nhóm trưởng thu thập ý kiến và phân chia nhiệm vụ cụ thể, đồng thời gia
hạn thời gian cần hoàn thành

3
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM


Lớp học phần: 232_HCMI0111_05 - Tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm 3

I. Thời gian, địa điểm


Thời gian: 10h, ngày 10/3/2024
Địa điểm: phòng họp Google Meet

II. Thành viên tham dự


 Vi Thị Hồng Hạnh
 Cao Thúy Hằng
 Lê Thị Thu Hằng
 Nguyễn Thị Hằng – N2
 Nguyễn Thị Hằng – N3
 Nguyễn Thị Hằng – N4
 Nguyễn Thị Mai Hằng (Nhóm trưởng)
 Đinh Lê Công Hậu
 Vũ Thị Hiền
 Phạm Trung Hiếu
 Nguyễn Thị Hoa
 Đinh Thị Thu Hoài

III. Nội dung


• Các thành viên kiểm tra bài chéo, nhận xét và chỉnh sửa (nếu cần)
• Thuyết trình thử trước các thành viên
• Hoàn thành bản nội dung cuối cùng và hoàn chỉnh

4
MỤC LỤC
I. Khái quát cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ........ 6
1. Cơ sở thực tiễn....................................................................................................... 6
a) Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ........................................... 6
b) Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ............................................. 7
2. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 7
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ............................................. 7
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại ................................................................................. 8
c) Chủ nghĩa Mác- Lênin ......................................................................................... 9
II. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. ........................................................................................................... 9
1. Phẩm chất Hồ Chí Minh ....................................................................................... 9
a) Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước, Người có ý chí,
nghị lực to lớn, phi thường ........................................................................................ 10
b) Là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới
và cách mạng ............................................................................................................. 12
c) Có tầm nhìn, chiến lược, bao quát thời đại, có năng lực tổng kết thực tiễn, năng
lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác ..................................................................... 15
d) Suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
Cách mạng Việt Nam và của cách mạng thế giới. ..................................................... 20
2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận............................... 26
a) Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường
.................................................................................................................................... 26
b) Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xây dựng Đảng Cộng Sản và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. .............. 28
c) Là nhà tổ chức vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người đã hiện thực hóa tư tưởng,
lý luận cách mạng thành hiện thực; đồng thời tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, tư tưởng cách mạng. ..................................................................................... 31
III. Vận dụng nhân tố chủ quan Hồ chí minh cho giới trẻ trong quá trình phát triển
đất nước hiện nay.............................................................................................................. 34
IV. Kết luận lại vai trò nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh ............................................... 37

5
I. Khái quát cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Cơ sở thực tiễn
a) Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực
dân Pháp. Việt Nam từ một nước phong kiến trở thành nước “thuộc địa nửa phong kiến”.
Có sự biến đổi về giai cấp: thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
với khoảng 95% dân số là nông thôn; giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố tăng cường
thêm các điền chủ người pháp và người nước ngoài. Bên cạnh tầng lớp thủ công, tiểu
thương, trong xã hội Việt nam xuất hiện những giai tầng mới, đó là giai cấp công nhân,
giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị.

Các mẫu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam ngày càng gay gắt: bên cạnh mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới: Mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.

Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đều thất bại: các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều thất bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản
Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của
phong trào chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.

Trong bối cảnh đó, sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào của giai cấp
công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất
hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời.

Phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX tạo
điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá, xâm nhập vào đất nước ta. Hồ
Chí Minh chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng Sản

6
Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam. Mở ra con
đường cứu nước mới (con đường cách mạng vô sản).

b) Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa và giai
cấp công nhân thế giới.

Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ
nghĩa Mác - Lênin ở một nước lớn, rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng tháng 10
Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới
– xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tháng 10 Nga mở ra một thời đại mới cho lịch sử loài
người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Quốc tế Cộng sản ra đời 2-3-1919 do V.I Lênin lập ra, trở thành bộ tham mưu, lãnh
đạo phong trào cách mạng thế giới.

2. Cơ sở lý luận
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á, một vùng đất được hình thành
từ thời cổ sinh trong lịch sử. Quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo nên một dân tộc
Việt Nam là một dân tộc thống nhất, gồm nhiều thành phần cùng chung sống trên một
lãnh thổ. Đã hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp như: truyền thống yêu nước, truyền
thống nhân văn nhân ái, nhân nghĩa, đoàn kết, v.v. Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát
triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất, vì độc lập vì tự do của Tổ quốc, nhằm bảo
vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

7
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại
❖ Tinh hoa văn hóa phương Đông

Tinh hoa văn hóa phương Đông kết tinh trong 3 học thuyết lớn đó là: Nho giáo, Phật
giáo, Lão giáo.

Về Nho giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị
để quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một
xã hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, tín, liêm được coi trọng để
đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có chiến tranh, các dân tộc có mối
quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển
tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con
người.

Đối với Phật giáo: Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương
con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của
con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước. Những
quan điểm tích cực đó được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo
đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và
giàu mạnh.

Đối với Lão giáo: Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con
người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo
vệ môi trường sống. Trong đó chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của
vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng ham muốn về vật
chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư hành động theo đạo lý với ý nghĩa
là hành động đúng với quy luật của tự nhiên, xã hội.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa và phát huy nhiều ý tưởng của các trường phái
khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác cũng như các trào lưu tư
tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã phát

8
triển sáng tạo các quan điểm về dân tộc dân quyền dân sinh của Tôn Trung Sơn trong
cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
của con người Việt Nam theo cách mạng vô sản.

❖ Tinh hoa văn hóa phương Tây

Hồ Chí Minh đã quan tâm đặc biệt tới khẩu hiệu nổi tiếng của đại Cách Mạng Pháp
năm 1789: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Khi sang phương Tây, Người quan tâm tìm hiểu
những khẩu hiệu nổi tiếng trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp, Mỹ. Người đã
kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc
lập (1776) của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của Pháp và đã
đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc.

c) Chủ nghĩa Mác- Lênin

Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”. Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới và phát triển những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp
với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành một hệ thống các quan điểm
cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề khủng hoảng trong đường lối cứu nước
và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề lý luận
quan trọng nhất có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã
vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin.

II. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1. Phẩm chất Hồ Chí Minh

9
a) Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước, Người có ý chí,
nghị lực to lớn, phi thường
❖ Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trên quê hương Nghệ An giàu truyền thống văn hiến
và cách mạng. Không chỉ giàu truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động, trọng tình
nghĩa trong cuộc sống, người dân nơi đây còn giàu truyền thống yêu nước, kiên cường,
bất khuất chống giặc ngoại xâm. Chính vì vậy mà từ rất sớm, Nguyễn Tất Thành đã bộc
lộ một tính cách lớn: Sống có lý tưởng, có hoài bão lớn và trung kiên. Ngay từ thuở niên
thiếu, Người đã có ý thức gắn vận mệnh cá nhân mình với vận mệnh chung của đồng
bào, đất nước. Khi còn là học sinh của Trường Quốc học Huế, Người đã tham gia phong
trào biểu tình chống thuế vào các năm 1907-1908 và đã trăn trở về con đường cứu nước.

Chính trong cảnh nước mất, nhà tan, ý chí, hoài bão cách mạng của Hồ Chí Minh đã
sớm bộc lộ: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Tự do, Bình
đẳng, Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì
ẩn giấu đằng sau những chữ ấy; nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi,
lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp?
Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho
rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.”

Với những mong muốn, khát khao ấy, cùng tâm niệm: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự
do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”, người
thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.

❖ Hồ Chí Minh có ý chí, nghị lực to lớn, phi thường

Ngày 5/6/1911, tại Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn - Gia Định, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khi mới vừa tròn 21 tuổi đã lên chiếc tàu mang tên
Amiral La Touche De Tréville, ra đi tìm đường cứu nước. Dù chỉ với hai bàn tay trắng
nhưng lại có nghị lực to lớn, phi thường, Nguyễn Tất Thành đã vượt qua 3 đại dương, 4

10
châu lục, đến hàng chục quốc gia, sống bằng nhiều nghề khác nhau để hoạt động cách
mạng, tìm ra con đường cứu nước, cứu nòi.

Hành trình bôn ba nước ngoài của Người kéo dài hơn ba mươi năm, với đủ những
phong ba, bão táp nhưng vẫn không làm chùn ý chí của con người yêu nước, thương
dân vô bờ bến. Dù vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật với
gần 20 nghề khác nhau (bồi tàu, quét tuyết, rửa chén, xúc than, bồi bàn, bán báo…),
nhưng Người vẫn chăm chỉ học ngoại ngữ, viết báo, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin,
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Chính ý chí nghị lực bền bỉ đã thôi thúc
Người học tập, nghiên cứu không nghỉ, từ đó tôi luyện nên một người trí thức yêu nước
hiểu biết sâu rộng, am hiểu tinh tường về nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, dẫu không
qua một trường đào tạo chính quy nào, Hồ Chí Minh vẫn biết và sử dụng thông thạo
trên mười ngoại ngữ và phần lớn là nhờ vào việc tự học từ sách báo, đồng nghiệp, bạn
bè, nhân dân. Người còn tự học hỏi những kinh nghiệm về tổ chức và lãnh đạo các
phong trào cách mạng từ thực tiễn sinh động ở các nước đế quốc, nước thuộc địa trên
thế giới.

Hai lần ngồi tù, một lần mang án tử hình vắng mặt, 10 lần thoát khỏi lưu đày và máy
chém, 25 năm hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh vẫn luôn cố gắng tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin và những quan điểm cách mạng của mình về trong nước, không ngừng tập
hợp lực lượng cách mạng và huấn luyện cán bộ và hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt
Nam.

Sau tháng 8/1945, Người lại tiếp tục đương đầu với những đế quốc vô cùng lớn trên
thế giới như Pháp, Mỹ,... Trong 30 năm đầy bền bỉ và kiên cường để thỏa mãn “ham
muốn tột bậc” của mình, “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”

Lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước chính là động lực thúc đẩy ý chí đấu
tranh cho tự do, độc lập và phát triển của dân tộc Việt Nam, từ đó tạo nên một con người

11
với nghị lực to lớn, phi thường; một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam - Hồ Chí
Minh.

b) Là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới
và cách mạng
❖ Một là, tư duy độc lập, sáng tạo, tự chủ

Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của Hồ Chí Minh trong cuộc sống. Tư chất
thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những
đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện,
phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn
phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình
huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành
những luận điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa
thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Thế giới hiện nay
là thế giới của tri thức sáng tạo, trong đó phong cách tư duy Hồ Chí Minh là điểm nhấn
đáng chú ý. Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh là học tập tinh thần sáng tạo để
hành động cho phù hợp với mục tiêu cách mạng đã đề ra. Sáng tạo là trên cơ sở nắm
vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh rồi đưa vào
thực tiễn phù hợp hoàn cảnh cụ thể.

Độc lập, tự chủ, có nghĩa là Hồ Chí Minh không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào một luồng
ý kiến nào. Trên cơ sở tiếp thu nhiều luồng tư tưởng tiến bộ của Việt Nam và thế giới,
trong từng thời kỳ, Người đúc kết, tổng hòa thành cái riêng mà không sao chép, giáo
điều, máy móc. Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin bằng toàn bộ cái tâm trong
sáng, sự khát vọng giải phóng: dân tộc, xã hội - giai cấp và con người, thông qua hoạt

12
động trong phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, chứ
không theo kiểu kinh viện, tầm chương trích cú.

Một số người cho rằng sự sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp”, tức
là gộp tất cả những gì là tốt đẹp, tinh túy đã có để vượt lên phía trước, nhằm phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng. “Vượt gộp” không phải là việc dễ dàng trong tư duy, phải
biết gộp những gì và làm thế nào để gộp đã khó, nhưng biết vượt thì lại càng khó hơn.
Con đường phát triển tư tưởng, tri thức của cá nhân hay một dân tộc và toàn nhân loại
luôn là sự “vượt gộp” như vậy. Điều này đã được nhiều nhà tư tưởng nêu lên từ lâu: thế
hệ sau phải biết đứng lên vai những người khổng lồ đi trước thì xã hội mới phát triển
được.

Hồ Chí Minh là người tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ở trong nước và thế giới, kết
hợp nhân tố chủ quan rồi tạo thành tư tưởng của mình, nhưng tư tưởng của Người không
phải là con số cộng của nhiều luồng tư tưởng, học thuyết, mà là sự kết tinh luồng ánh
sáng trí tuệ của dân tộc và nhân loại. Để đạt được như thế, chính là do Hồ Chí Minh có
tư duy độc lập, tự chủ, biết kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà
lý luận, nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế giới.

❖ Hai là, khả năng tư duy giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng của Hồ Chí
Minh

Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên
cứu Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm sự
hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những
thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.

Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có những quan
sát, nhưng họ chưa nhận thấy hoặc chưa nhận thức đúng về sự thay đổi của dân tộc và
thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận
động xã hội, đời sống văn hoá và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể

13
để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí
Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.

Hồ Chí Minh là người tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ở trong nước và thế giới, kết
hợp nhân tố chủ quan rồi tạo thành tư tưởng của mình. Nói như vậy không có nghĩa là
tư tưởng của Người là con số cộng của nhiều luồng tư tưởng, học thuyết, mà là sự kết
tinh luồng ánh sáng trí tuệ của dân tộc và nhân loại. Được như thế là bởi Hồ Chí Minh
có tư duy độc lập, tự chủ, biết kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các
nhà lý luận, nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế giới.

Bên cạnh đó, Người còn là một thành viên của tổ chức chính trị. Do đó, Người phải
có trách nhiệm chấp hành những quyết định của tổ chức. Nhưng với Người, chấp hành
không có nghĩa là máy móc, mà là vận dụng những quyết định, nghị quyết của tổ chức
cho phù hợp với điều kiện cụ thể.

Thực tiễn cho thấy, Quốc tế Cộng sản đã có những quyết định đúng đắn trong lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng thế giới và phong trào giải phóng dân tộc do đảng cộng sản lãnh
đạo ở các nước thuộc địa, phụ thuộc. Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản có lúc không tránh
khỏi những hạn chế trong nhận định, đưa ra chủ trương chưa hẳn phù hợp đối với cách
mạng ở các nước thuộc địa. Vì thế, Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội Việt Nam để vận dụng nghị quyết, quyết định của Quốc tế Cộng sản cho sát
hợp, mặc dù có lúc bị hiểu sai. Quá trình xây dựng xã hội mới, trên cơ sở nguyên lý
chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã có quan điểm thực tiễn để vận dụng cho
phù hợp với một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, tiểu nông lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề và trong điều kiện vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược. Tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh biểu hiện
rõ ở chỗ, khi cho rằng, Việt Nam “không thể giống Liên Xô” và “có thể đi con đường
khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là con đường tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội,

14
không phải tiến hành ngay cuộc cách mạng vô sản và đi ngay vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội như ở nhiều nước khác.

c) Có tầm nhìn, chiến lược, bao quát thời đại, có năng lực tổng kết thực tiễn, năng
lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác

Tầm nhìn của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tư duy mẫn tiệp với trái tim
yêu nước nồng cháy, được phát triển gắn với tư duy biện chứng duy vật, hòa với sự phát
triển trong dòng chảy của tư duy, trí tuệ nhân loại. Tầm nhìn của Hồ Chí Minh được thể
hiện trong những nhận định, tiên đoán về nhiều lĩnh vực, nhất là sự nghiệp đấu tranh
cách mạng của dân tộc Việt Nam và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

❖ Có tầm nhìn, chiến lược, bao quát thời đại, có năng lực tổng kết thực tiễn, năng
lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác

Người tham gia nhiều sự kiện lớn của thế giới, ủng hộ các cuộc cách mạng xã hội,
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc và tham gia các buổi
diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học; tiếp xúc văn hóa và các danh nhân văn
hóa, chính trị của Pháp, tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo, nhân văn qua văn học
Pháp, Nga, Anh, Mỹ,…

Tại Pa-ri (lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”), Người
đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Từ năm
1911 đến năm 1920, bằng việc khảo cứu các nước thuộc địa và các nước tư bản lớn, như
Mỹ, Anh, Pháp, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức quan trọng trong việc tìm kiếm
con đường giải phóng và mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Giữa nhiều
học thuyết, quan điểm khác nhau, Người đã phân tích, lựa chọn để cuối cùng đi tới chân
lý: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.”

15
❖ Cuộc tìm kiếm con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc
đã thể hiện tầm nhìn thời đại trong việc xác lập, kiến tạo mô hình xã hội gắn với các
thiết chế hiện đại.

Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh đã sang châu Á, châu Âu và các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây,
phương Đông… để tìm hiểu và nắm bắt chính xác đặc điểm, xu thế phát triển của thời
đại. Với năng lực nhìn xa trông rộng, bao quát lịch sử và thời đại, Người đã khai phá ra
con đường cách mạng chưa từng có trong lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc đó là “Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”
- Đây là điểm nổi bật về sức sáng tạo và bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Người cho rằng, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu
người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ
cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp
tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”. Do vậy, phải gắn cách mạng giải phóng dân
tộc với cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi
đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người đã
tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ các nước lớn của phương Tây, như Mỹ, Anh, Pháp để tạo
nên mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Đó là mô hình Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Thể chế chính trị Việt Nam dân chủ cộng hòa là mô hình nhà
nước mà ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế chính trị - xã hội của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.

❖ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận về vấn đề xây dựng đảng cầm
quyền của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam:

16
“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”. Người cũng đã vận dụng sáng tạo lý luận về nhà nước vô sản vào tình hình
cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái - trai, giàu - nghèo, giai cấp. Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không phải nhà nước “siêu giai cấp”,
mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, được tổ chức
và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân.

❖ Nhận định sáng tạo của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một trong những nhân tố bảo đảm thành công
của cách mạng Việt Nam.

Đó cũng là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững trên lập trường
mác-xít. Người đã phát triển và vận dụng hết sức sáng tạo lý luận mác-xít vào cách
mạng ở các nước thuộc địa, nhất là với cách mạng Việt Nam.

Không phải ngẫu nhiên mà Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của
đất nước”. Theo đó, “thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng,
mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể
đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”; “chúng ta phải đoàn
kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa
nóng”.

17
Người nhấn mạnh, giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc phải được giải quyết
trên lập trường giai cấp vô sản. Nếu không giành được độc lập dân tộc thì không thể giải
phóng giai cấp, không thể nói đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ có kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cuộc
đấu tranh của nước mình với trào lưu cách mạng của thế giới mới tạo ra được sức mạnh
to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển tiến bộ xã hội.

Với tầm nhìn thấu suốt và kinh nghiệm của một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, một
lãnh tụ anh minh, Hồ Chí Minh đã dự đoán chính xác nhiều sự kiện lịch sử quan trọng
trên thế giới và ở Việt Nam.

Một là, Dự đoán chính xác việc bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-
1945). Năm 1924, trong bài “Đông Dương và Thái Bình Dương”

Người đã dự báo về nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và tiên đoán:
“Thế nào rồi cũng có ngày nước Nga cách mạng phải đọ sức với chủ nghĩa tư bản đó”;
“Vì đã trở thành một trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hướng cả vào nhòm ngó,
nên Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai
có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai
lưng ra gánh”. Thực tế cho thấy, 15 năm sau (năm 1939) điều đó đã trở thành hiện thực
- chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phát-xít Đức tấn công Liên Xô, các nước khu vực
Thái Bình Dương trở thành chiến trường ác liệt.

Hai là, dự đoán chính xác về thời cơ giành độc lập và ngày độc lập của đất nước

Trong bài viết trên Báo Việt Nam độc lập, số 114, ngày 1/1/1942, trả lời câu hỏi:
Năm nay tình hình thế giới và trong nước sẽ thế nào? Người đã đưa ra dự báo về thời
cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền: “Ta có thể quyết đoán rằng, Nga
nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh - Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp

18
rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta được độc lập, tự
do”

Khi viết “Lịch sử nước ta” do Việt Minh Tuyên truyền Bộ xuất bản, tháng 2/1942,
trong mục “Những năm quan trọng”, Hồ Chí Minh đã viết “1945 Việt Nam độc lập”.
Đúng như dự đoán của Người, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Ba là, dự đoán việc đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam.

Một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trong thư khen ngợi bộ đội, dân công,
thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thắng lợi tuy
lớn nhưng mới là bắt đầu” và “Nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc kháng chiến chống
Mỹ”. Trong thời điểm đó, đế quốc Mỹ vừa bị tổn thất nặng nề trong chiến tranh Triều
Tiên, vì vậy, ít ai nghĩ rằng, Mỹ lại có thể thay chân Pháp tiến hành chiến tranh xâm
lược Việt Nam. Song, lịch sử đã diễn ra đúng như sự tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.

Bốn là, dự đoán chính xác việc Mỹ đưa B52 đánh phá Hà Nội và thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không
quân, Hồ Chí Minh đã dự báo rằng: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra
đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống càng sớm càng
tốt, để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc
Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua. Nhưng nó chỉ chịu thua
sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

Trong bản Di chúc ngày 10/5/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cuộc chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song
nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Đồng thời, Người cũng khẳng
19
định: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế
quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà
đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào
phong trào giải phóng dân tộc”.

d) Suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
Cách mạng Việt Nam và của cách mạng thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh với trí tuệ của
dân tộc và trí tuệ thời đại. Chính sự vận động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX, khi bắt gặp chủ nghĩa Mác -
Lênin, đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tiếp thu, vận dụng sáng tạo, Hồ Chí
Minh từng bước góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin
bằng những luận điểm mới, được rót ra từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình. Vì
vậy khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể không gắn liền với việc nghiên
cứu nhân tố khách quan “Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân,
suốt đời tranh đấu cho Đảng, cho cách mạng”

Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước, văn
hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông:
Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm người một cách thành thật, đúng
nghĩa. Người cũng bộc lộ rất sớm một nét tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong tâm
hồn, trung kiên trong bản chất. Gia đình, quê hương, đất nước đã hình thành nên một
Hồ Chí Minh mang nhân cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước, thương dân, nhất là những
người nghèo khổ, giúp Người thấu hiểu được sức mạnh của ý chí tự cường, tinh thần tự
tôn dân tộc. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào
tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người khẳng định:

20
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.

Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán
trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm
mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng bào
mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và Hồ Chí Minh đấu tranh không ngừng,
không nghỉ, thậm chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do
cho đồng bào.

Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân, yêu đồng bào. Không thể
nói yêu nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu
của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Là lãnh tụ dân tộc, là người đứng đầu
Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của cá nhân là lo cho
dân, cho nước từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh
thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển mọi mặt xã hội, đến việc tương, cà, mắm,
muối... để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, để mọi người đều có cơm ăn,
có áo mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám, chữa bệnh.

“Trung” và “Hiếu” là những khái niệm đã có trong đạo đức Nho giáo, chứa đựng
một nội dung hạn hẹp: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Hồ Chí Minh đã mượn khái
niệm “Trung” “Hiếu” trong quan niệm đạo đức phong kiến và đưa vào đó một nội dung
mới có ý nghĩa khoa học, cách mạng và nhân văn, đó là “trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.

Bác Hồ đã gọt bỏ điều cốt lõi nhất trong đạo đức Nho giáo là lòng trung thành
tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến, Hồ Chí Minh không chấp nhận
lòng trung thành của Nhân Dân bị áp bức lại dành cho chính kẻ áp bức mình. Người đã
đảo ngược thế đứng trong quan niệm đạo đức cũ. Người nói: “Đạo đức cũ như người
đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngẩng lên trời”.
21
“Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ giữa người cách mạng với đất
nước với dân tộc, thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát
triển của đất nước, là phẩm chất đạo đức chủ chốt nhất. Đảng là đại diện trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân Dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam,
mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là chủ nghĩa
cộng sản và trong giai đoạn hiện nay là phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Theo Người, dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng khác nhau,
nhưng yêu cầu về trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng là luôn nhất quán. Đảng
ta từ khi mới được thành lập, Người luôn nhắc nhở mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới
đều phải hiểu rằng mình vào Đảng để làm “đầy tớ” cho Nhân Dân và Bác nhấn mạnh:
“Làm đầy tớ Nhân Dân chứ không phải làm quan cách mạng”. Khi Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa kháng chiến vừa kiến quốc, dù ở đâu, làm gì,
Người cũng chỉ tâm niệm một điều rằng: “Đảng ta là Đảng cách mạng. Ngoài lợi ích
của Nhân Dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Chúng ta thấy, khi làm lễ kết nạp
Đảng, đảng viên mới đứng dưới cờ Tổ quốc, cờ Đảng và chân dung Chủ tịch Hồ Chí
Minh để đọc lời tuyên thệ; trong đó, điều đầu tiên: “Tuyệt đối trung thành với mục đích,
lý tưởng của Đảng…” và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ có hàng
ngàn cán bộ, đảng viên đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ lý tưởng này.

Hiếu với dân là phải thương yêu, quý trọng và tin dân. Hiếu với dân trước hết là
phải hiếu với cha mẹ, không chỉ hiếu với cha mình mà còn hiếu với cha mẹ người, phải
làm cho mọi người đều biết yêu thương cha mẹ và theo Bác với người cán bộ chữ hiếu
đó còn mở rộng tới toàn thể dân tộc Việt Nam, vượt qua biên giới lãnh thổ để yêu thương
cả dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới.

Nghĩa là cán bộ phải nhìn thấy được sức mạnh vô cùng, vô tận của Nhân Dân và
nhận thấy được Nhân Dân chính là chủ thể của quyền lực nhà nước, cán bộ chỉ là người
được ủy quyền, được Nhân Dân trao quyền để giải quyết các công việc chung của đất

22
nước. Từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của ông cha ta đã tổng kết: “Chở thuyền là dân, lật thuyền
là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước” và từ việc thấm nhuần quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng. Hồ Chí Minh có lòng tin vô tận đối với quần chúng, theo Người “nước lấy
dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân Dân”. Cả
cuộc đời Hồ Chí Minh hành động tất cả vì Nhân Dân.

Hiếu với dân còn là hết lòng phục vụ Nhân Dân. Suốt đời vì nước, vì dân đến
cuối đời, tuy nằm trên giường bệnh nhưng Bác vẫn làm việc, hàng ngày Người vẫn nghe
các đồng chí trong Bộ Chính trị đến báo cáo công việc ở hậu phương và tiền tuyến, vẫn
đọc sách báo và bản tin, những ngày cuối cùng trên giường bệnh, khi Bác sốt cao, có
lúc bị cơn đau tim hành hạ nhưng khi tỉnh dậy Bác lại hỏi thăm: miền Bắc chống bão
lụt tới đâu rồi? Miền Nam mấy hôm nay đánh trận thế nào? Ngay trong những giờ phút
sinh tử, Người vẫn quên đi nỗi đau của bản thân mà nghĩ cho tất cả.

Trong “Di chúc” để lại, về việc riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Suốt đời tôi
hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân Dân. Nay dù phải
từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Như vậy, “Trung với nước, hiếu với dân” phải thể hiện bằng hành động thiết thực,
phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo theo tinh thần “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Đó mới thật sự là đạo đức
mới, đạo đức cách mạng.

“Suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp CMVN và của cách mạng thế giới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp Cách mạng Việt Nam
(CMVN) với mục tiêu giành độc lập, tự do và công bằng xã hội cho dân tộc Việt Nam.

23
Người đã dành hầu hết thời gian và nỗ lực của mình để xây dựng và phát triển CMVN
thông qua các giai đoạn và cuộc đấu tranh khác nhau.

Đấu tranh chống thực dân Pháp: Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cách mạng của
mình bằng việc tham gia phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi thực dân Pháp,
Người đã điều hành cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 và thành lập Đảng Cộng sản
Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) năm 1930. Trong suốt giai đoạn này,
ông đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh dân tộc và xây dựng mạng lưới cách mạng trong
nước.

Đấu tranh chống chiến tranh thế giới và thực dân Nhật: Khi Chiến tranh thế giới
thứ hai bùng nổ và Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sử dụng cơ hội này
để mở rộng sự đấu tranh cho độc lập. Người còn thành lập Việt Minh, một phong trào
quốc gia đa chính trị, nhằm thúc đẩy phong trào giải phóng và độc lập dân tộc.

Đấu tranh chống thực dân Pháp trở lại: Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc, Hồ Chí Minh tiếp tục đấu tranh chống lại sự thống trị của Pháp. Vị lãnh tụ đã lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, gọi là Cuộc chiến tranh Đông Dương (1946-1954).
Cuộc chiến này đã đẩy Pháp rút lui và dẫn đến Hiệp định Geneva năm 1954, chia cắt
Việt Nam thành hai miền Bắc và Nam.

Đấu tranh thống nhất đất nước: Hồ Chí Minh tiếp tục đấu tranh cho sự thống
nhất đất nước bằng cách lãnh đạo phong trào giải phóng miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (NVA) và Bộ Chính trị miền Nam, và
dẫn đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Đấu tranh chống chiến tranh Mỹ: Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam (1955-
1975), Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ và đồng minh miền Nam.
Người đã sử dụng chiến lược đồng thời chiến lược chính trị và quân sự để chống lại sự
xâm lược và thể hiện sự kiên nhẫn và quyết tâm của dân tộc Việt Nam.

24
Sự đấu tranh liên tục và kiên trì của Hồ Chí Minh đã đóng góp quan trọng vào
thành công của Cách mạng Việt Nam. Vị đã trở thành biểu tượng của sự độc lập, tự do
và cách mạng Việt Nam và được tôn vinh như là một người lãnh đạo kiên cường và tầm
nhìn. Đóng góp của ông trong việc hình thành sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không
chỉ là một nhân tố chủ quan trọng mà còn là nguồn cảm hứng và tư tưởng cho hàng triệu
người dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập và thống nhất đất nước.

Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết
tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ" và “không có gì quý hơn độc lập, tự do".

Người khẳng định vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ lẫn
nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành được thì vấn
đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng
giai cấp. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng
lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời
đại mới phải do đảng cộng sản lãnh đạo. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức, trong
đó vai trò động lực cách mạng là của công nhân và nông dân, lực lượng nòng cốt trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phản ánh tính triệt để cách mạng
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc
của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng. Độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
con đường cách mạng Việt Nam có 2 giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao
động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộc một cách hoàn toàn triệt để. Hồ Chí Minh khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ

25
nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức bởi ách nô lệ; chỉ có cách
mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.

2. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận
a) Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường

Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là một tấm gương sáng về vốn
sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Cuộc đời Người là một hành trình
dài đầy gian khổ, hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước.

Kiến thức uyên thâm: Bác là một nhà văn hóa lớn, am hiểu nhiều lĩnh vực như: lịch
sử, văn học, triết học,... Bác cũng là một nhà báo tài ba, một nhà thơ, nhà văn xuất sắc.

Những Năm Tháng Sớm: Hồ Chí Minh, vốn mang tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh
vào ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Kim Liên, xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong
một gia đình truyền thống yêu nước. Ông đã trải qua những năm tháng học tập và tiếp
xúc với những ý tưởng về tự do, công bằng và độc lập.

Hành trình cứu nước: Hồ Chí Minh đã dành phần lớn cuộc đời của mình cho sự
nghiệp giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Ông đã lãnh đạo phong trào cách mạng tại
nhiều quốc gia, và trong quá trình này, ông đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, bao
gồm sự truy đuổi của các thế lực thực dân và quân đội thù địch.

Tầm nhìn và tư tưởng: Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo quân sự, mà
còn là một triết gia, nhà lãnh đạo tinh thần. Ông đã có tầm nhìn xa xứ và tư tưởng sâu
sắc về cách mạng xã hội, chính sách kinh tế, và xây dựng quốc gia.

Trước khi trở thành Chủ tịch nước, vào năm 1911 với ý muốn học tập lý luận và
kinh nghiệm cách mạng của các nước để về giải phóng nước nhà khỏi ách thống trị thực
dân, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã sống, học tập, hoạt động,
công tác ở khoảng 30 nước, không những thế Người còn tham gia cuộc vận động cách

26
mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do
của dân tộc mình. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ
thực dân không chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách, báo, radio mà còn hiểu biết
sâu sắc về chúng qua cuộc sống và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc.
Người đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu
hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc
ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.

Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường giải phóng của giai
cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Từ một người yêu nước chân chính, Người đã trở
thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc.

Để kết hợp cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào công nhân
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, Người tham gia thành lập Hội
Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp (1921). Năm 1923, Người được bầu vào Ban chấp
hành Quốc tế cộng sản và được chỉ định là ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực
tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở châu Á, xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: “Bản án chế độ thực
dân Pháp” (1925) và “Đường Kách mệnh” (1927). Để chuẩn bị tiến tới thành lập đảng
của những người Cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập Việt Nam Thanh niên
cách mạng Đồng chí hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản Đoàn" làm
nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào nước ta. Không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua những hoạt động
ấy, Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về
xây dựng đảng cộng sản,...

Ngày 3-2-1930, được sự ủy quyền của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, Người
triệu tập "Hội nghị hợp nhất" để thống nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam thành

27
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó, đồng chí Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự
nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức khác trong điều kiện
vô cùng gian khổ và khó khăn.

Hồ Chí Minh không chỉ là người tìm đường, Người còn là người mở đường và
dẫn đường cho cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch luôn luôn dạy chúng ta phải kết hợp
nhiệm vụ cách mạng trong nước với nhiệm vụ cách mạng quốc tế. Người chỉ thị cho
toàn Đảng và toàn dân ta phải tích cực góp phần bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa, khôi
phục đoàn kết, nhất trí trong phe ta và trong phong trào Cộng sản Quốc tế trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa Quốc tế vô sản, ra sức góp phần vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chủ tịch
đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra
đường lối đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,
Người kết hợp tài tình truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam với tư tưởng cách
mạng triệt để của giai cấp công nhân, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Sự nghiệp cách mạng
của Đảng ta và của Hồ Chủ tịch đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam đánh thắng các thế lực đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ
nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

b) Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xây dựng Đảng Cộng Sản và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Hồ Chí Minh, với tư duy cách mạng và tầm nhìn chiến lược, đã đóng góp quan trọng
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ
cách mạng của Người, Việt Nam đã tiến những bước nhảy vọt vĩ đại, mở đầu bằng cuộc
Cách mạng tháng Tám và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945.
Người đã kết hợp tài tình chủ nghĩa Mác - Lênin với giá trị triết lý lịch sử phương Đông
và tư tưởng văn hóa Việt Nam, tạo nên cơ sở tư tưởng cho mọi hành động cách mạng
của Đảng và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn của dân tộc.

28
❖ Về phong trào giải phóng dân tộc:

Nhận thức sớm con đường giải phóng dân tộc. Từ khi còn trẻ, Người nhận thấy
sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước
tư bản phương Tây. Trong xã hội thuộc địa, các giai cấp có sự khác nhau ít nhiều, nhưng
đều chung một số phận: mất nước và chịu số phận là người nô lệ.

Người phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư bản chủ
nghĩa, và kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm lược thuộc địa và ủng hộ
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Từ những áp bức mà người dân trên thế giới phải chịu, Người đã nhận thức được
con đường giải phóng dân tộc duy nhất là con đường cách mạng vô sản, mở ra bước
ngoặt trong tiến trình giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam.

Người đã dành nhiều thời gian đi học tập và nghiên cứu lý luận cách mạng của
các nước khác như Pháp, Liên Xô, Trung Quốc,... để áp dụng vào việc giải phóng Việt
Nam khỏi ách thống trị thực dân. Ngoài ra, Người còn tham gia hoạt động trong các
đảng cộng sản, học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ kinh nghiệm với các đồng chí cách mạng;
hợp tác với các cách mạng khắp thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người thấu hiểu tình hình
của các thuộc địa Pháp tại Trung Đông và châu Phi, và kết hợp kinh nghiệm đó để đưa
ra quyết sách cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.

Lãnh đạo thành công Cách mạng tháng Tám: Dưới sự lãnh đạo của Người, Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.

Lãnh đạo nhân dân Việt Nam chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ: Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Người đã áp dụng tư tưởng của
chủ nghĩa Mác-Lênin để phân tích tình hình Việt Nam và đưa ra quyết sách đúng đắn.
29
❖ Về xây dựng chủ nghĩa xã hội:

Xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam: Người đã xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt Nam, đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ. Cách
mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội mới.

Khơi dậy tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân: Người luôn khơi dậy tinh thần
lao động sáng tạo của nhân dân, động viên mọi người hăng hái thi đua lao động sản
xuất, xây dựng đất nước.

❖ Về xây dựng Đảng cộng sản:

Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: Người là người sáng lập ra Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, có khả năng
đoàn kết và lôi kéo các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng. Người đã định
hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng gắn kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách
mạng Việt Nam. Đảng luôn phục vụ Tổ quốc và nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi
ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc. Người coi Đảng Cộng sản là yếu tố quyết
định thành công của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đảng phải lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tư tưởng.

Rèn luyện Đảng về bản lĩnh chính trị, tư tưởng và đạo đức: Năm 1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để tăng cường xây dựng Đảng, làm trong
sạch bộ máy nhà nước. Cuốn sách hướng tới bồi đắp cho cán bộ, đảng viên bản lĩnh
chính trị, niềm tin; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng; nâng cao tinh thần đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân và những căn bệnh phát sinh từ chủ nghĩa cá nhân.

❖ Về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân:


30
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu rằng việc xây dựng một nhà nước phải dựa trên ý muốn
và lợi ích của Nhân dân. Ngay từ khi còn trẻ, Người đã nhận thấy bản chất thực sự của
nhà nước thực dân phong kiến. Hồ Chí Minh đã lên án gay gắt hình thức nhà nước xấu
xa, tồi tệ nhất mà nhân loại từng biết đến. Từ đó, Người đã đặt vấn đề về sự cần thiết
phải lật đổ nhà nước thối nát đó và tìm kiếm một hình thức nhà nước mới, phục vụ cho
phát triển của dân tộc Việt Nam theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội.

Nhà nước do Nhân dân làm chủ: Hồ Chí Minh coi trọng vai trò của Nhân dân trong
xây dựng và hoàn thiện nhà nước. Người đã khẳng định rằng nhà nước phải phục vụ cho
Nhân dân, làm chủ bởi Nhân dân và vì Nhân dân. Điều này là nội dung cốt lõi trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước phục vụ lợi ích của Nhân dân: Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm “Dân”
nội hàm mới rộng rãi hơn. Đó là tất cả những ai nhận mình là con dân nước Việt, con
Lạc cháu Hồng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh bản chất của Nhà nước Việt Nam là: “Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân”.

c) Là nhà tổ chức vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người đã hiện thực hóa tư tưởng,
lý luận cách mạng thành hiện thực; đồng thời tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý
luận, tư tưởng cách mạng.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của Cách mạng Việt Nam

Người đã thực hiện hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sống động,
đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng.
Cùng với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác-
Lênin, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo chủ
nghĩa Mác-Lênin. Người sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập quân đội nhân

31
dân Việt Nam; khai sinh nhà nước kiểu mới ở Việt Nam - nhà nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Hồ Chí Minh đã nêu ra hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc đầy tính sáng tạo
về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…

Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong
thời đại mới trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng
tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết định đúng đắn, sáng
tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi. Bên cạnh đó, năng lực hoạt động thực tiễn cũng
phát huy hiệu quả khi nhìn ra được những hạn chế của phong trào đấu tranh của nhiều
nước trên thế giới.

Hiện thực hóa tư tưởng Cách mạng:

Cuộc đời của Hồ Chí Minh gắn liền với hoạt động thực tiễn. Nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn từ những cuộc đấu tranh của cách mạng Việt Nam chống thực dân Pháp
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Người nhận ra một chân lý: nếu dân tộc mà chưa giành
được độc lập, thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Mặc dù rất khâm phục
lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các bậc cách mạng tiền bối cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng từ thực tiễn, Người đã nhận thấy những hạn chế và bế
tắc về mục tiêu, đường lối và phương pháp cách mạng của các nhà yêu nước đương thời.
Thực tế đó đã thôi thúc Người đi ra nước ngoài để xem cho rõ thực chất của xã hội các
nước phương Tây là thế nào. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã dấn thân vào thực tiễn
đầy chông gai và nguy hiểm - đi tìm đường cứu nước.

Năm 1920, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy chân lý
giải phóng cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Đây là dấu mốc của bước chuyển
trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc từ lập trường yêu nước chân chính sáng lập trường cách
mạng vô sản.

32
Tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh đã hình thành
tư tưởng vĩ đại, có đóng góp to lớn vào lý luận Mác - Lênin. Người đã vận dụng sáng
tạo lý luận Mác - Lênin vào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và phong trào đấu
tranh ở các nước thuộc địa.

Đó là kết quả của cả một quá trình nghiên cứu công phu, đầy sáng tạo của Người,
thâu thái những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên mọi lĩnh vực và tìm ra điểm tương
đồng, hướng tới giải phóng nhân loại. Điều quan trọng trong quan điểm của Hồ Chí
Minh là không phải nghiên cứu để tiếp thu một cách máy móc, nguyên xi, mà tiếp thu
có chọn lọc, sáng tạo, vận dụng vào thực tiễn cách mạng có hiệu quả.

Với Hồ Chí Minh, không chỉ nghiên cứu, học tập lý luận và dừng lại ở tổng kết,
mà phải biến lý luận đó, sự tổng kết đó thành những chủ trương chính sách có hiệu quả.
Người là tấm gương tiêu biểu cho việc gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với
định hướng đường lối, chính sách. Sau khi tổng kết thực tiễn sự phát triển của thế giới,
tiếp thu lý luận Mác - Lênin, Người chủ trương đưa vào nội dung học tập tại các khóa
huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu gồm: “Lịch sử
các cuộc cách mạng, ba quốc tế, các phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, lịch
sử Cách mạng tháng Mười Nga, Cách mạng Tân Hợi, cách mạng đang diễn ra ở Trung
Quốc với Tam dân chủ nghĩa và Tam đại chính sách” nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ
hướng tới thành lập một chính đảng cho cách mạng ở Việt Nam.

Từ tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
trong từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra các chủ trương đúng đắn và
những chính sách hết sức khoa học, linh hoạt. Chẳng hạn, với chính sách “thêm bạn, bớt
thù”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc,
Hồ Chí Minh đã linh hoạt, sáng tạo, khéo léo tìm ra lời giải cho sách lược cách mạng
của Việt Nam sau năm 1945 một cách thần kỳ, đưa dân tộc thoát khỏi cảnh “ngàn cân
treo sợi tóc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối kháng chiến toàn
33
dân, toàn diện, trường kỳ, đánh bại thực dân Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954, đưa
miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.

Đi qua gần 30 quốc gia, vượt qua muôn vàn gian khổ, làm rất nhiều nghề để kiếm
sống, với quyết tâm cháy bỏng tự do cho đồng bào mình, độc lập cho Tổ quốc mình; với
khối tri thức lý luận khổng lồ, nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã hình thành đường lối, chính sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt sự
nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh gắn chặt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
với việc đề ra đường lối, chính sách. Đó chính là cơ sở để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi đến xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

III. Vận dụng nhân tố chủ quan Hồ chí minh cho giới trẻ trong quá trình phát triển
đất nước hiện nay

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh thì tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, của dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ tuổi trẻ không chỉ là những người kế tục các thế hệ trước mà còn là
tương lai của đất nước, của dân tộc. Người đã ví tuổi trẻ như mùa xuân, bắt đầu của một
năm. Trong tư tưởng, giới trẻ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội. Có thể nói, sự phát triển của xã hội phần lớn phụ thuộc vào thanh niên. Vì vậy nên
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chủ quan cho giới trẻ trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Đầu tiên, vận dụng nhân tố chủ quan trong tư tưởng Hồ Chí Minh giúp giới trẻ nâng
cao ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tự chủ và khát
vọng cống hiến cho đất nước. Bên cạnh đó, nó tạo động lực mạnh mẽ để giới trẻ rèn
luyện đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, năng lực và sức khỏe, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước khi mà thế giới đang trong cuộc Cách mạng Công nghiệp
4.0. Không những vậy, phát huy nhân tố chủ quan cũng góp phần xây dựng một thế hệ

34
trẻ Việt Nam có đủ phẩm chất và năng lực để tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

Chính vì việc vận dụng nhân tố chủ quan trong tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò
quan trọng trong giáo dục khơi dậy lòng yêu nước giới trẻ để phát triển đất nước, đưa
quốc gia sánh vai với cường quốc năm châu nên những giải pháp được đề xuất dưới đây
là một số cách thức để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chủ quan cho giới
trẻ.

Trước hết, điều mà chúng ta luôn được nghe ở trường học cho đến các phương tiện
truyền thông hay thậm chí là từ gia đình, bạn bè là học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Giới trẻ cần học tập những phẩm chất cao quý của Bác Hồ như lòng
yêu nước, sự cống hiến, tinh thần giản dị, thanh liêm. Điều này vừa dễ lại vừa khó. Dễ
bởi đó không phải là những gì quá cao siêu. Khó bởi phải thật sự có một tấm lòng thật
trong sáng thì mỗi người mới có thể vượt qua các cám dỗ của quyền lực, tiền tài, danh
vọng… luôn diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Do đó, mỗi người trẻ chúng ta phải
học tập, tu dưỡng và rèn luyện mình một cách tự giác, thường xuyên các đức tính quý
báu ấy.

Tiếp đến là nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng. Thế giới đang không ngừng phát
triển qua từng giờ, từng ngày. Để phát triển đất nước thì không thể thiếu các nhà tri thức
có khả năng và trình độ cao. Do đó, giới trẻ cần trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng
để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Đồng thời, phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của người trẻ trong học tập cũng như làm việc. Bồi dưỡng nâng cao
hệ thống tri thức kỹ năng là điều kiện để giới phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của mình trong hoạt động học và làm. Trong đó, để hoàn thành nhiệm vụ chủ
thể nhận thức phải phát huy năng động của những yếu tố “nội lực”, tích cực, chủ động
trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức được trang bị và rèn luyện kỹ năng kỹ xảo để vươn
tới chiếm lĩnh mục tiêu.

35
Bên cạnh đó, mỗi người trẻ chúng ta cần phải tham gia vào các hoạt động xã hội.
Giới trẻ cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội để rèn luyện ý thức trách nhiệm,
lòng yêu nước và tinh thần cống hiến. Mỗi cá nhân là một thực thể gắn bó trong một
cộng đồng, con người và xã hội phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại, có ảnh hưởng tương quan
lẫn nhau. Mọi người đều hướng tới cùng xây dựng một cộng đồng mạnh mẽ, chia sẻ
hạnh phúc, thịnh vượng.

Đối với cuộc sống, việc rèn luyện sức khỏe cũng là điều hết sức cần thiết cho mỗi
người trẻ chúng ta. Giới trẻ cần rèn luyện sức khỏe để có thể cống hiến cho đất nước.
Bởi tuổi trẻ luôn tràn đầy nhiệt huyết trên con đường khám phá và xây dựng cuộc sống,
hành trang cần thiết trên con đường ấy không thế thiếu sự "trong sạch từ thể chất đến
tinh thần, từ lời nói đến việc làm". Đó là sự phát triển bình thường, đầy đủ về sức khỏe.
Muốn có điều đó thì phải biết cách giữ gìn sức khỏe, rèn luyện thân thể thường xuyên,
không bệnh tật… Về tinh thần, cần chăm lo bồi dưỡng tinh thần về nhiều mặt, đặc biệt
là bồi dưỡng và bổ sung nguồn kiến thức về đạo đức, về văn hoá - xã hội, về khoa học
- công nghệ, về thẩm mỹ…

Thế hệ trẻ ngày nay sinh ra và lớn lên trong hòa bình. Là lớp người trẻ tuổi, đang
khát khao lý tưởng, có nhiều ước mơ hoài bão cao đẹp, trong sáng. Họ đang tiếp tục
thực hiện những quan điểm định hướng cho việc giáo dục đào tạo thanh niên của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, của Đảng để xứng đáng trở thành những chủ nhân tốt của đất nước
trong giai đoạn cách mạng mới. Thanh niên Việt Nam học tập và thấm nhuần sâu sắc
những chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng lý tưởng sống vì Tổ quốc, vì
Nhân dân; kiên quyết vượt qua mọi khó khăn thử thách, luôn xung phong, gương mẫu
trong mọi công việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ, thực hiện khẩu hiệu “đâu cần thanh niên
có, đâu khó có thanh niên”.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố chủ quan là một nhiệm vụ quan trọng
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Các cấp, các ngành cần quan tâm giáo dục, rèn
luyện cho thế hệ trẻ về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh, năng lực và sức khỏe. Gia đình cần tạo

36
điều kiện cho con em mình phát triển toàn diện. Bản thân mỗi thân mỗi người trẻ là mỗi
công dân của Việt Nam ta cần phải xây dựng cho mình một lòng yêu nước và lan tỏa
tình yêu nước đó đến với mọi người. Đề cao tinh thần tự hào dân tộc, đóng góp sức lực
của bản thân để xây dựng đất nước.

IV. Kết luận lại vai trò nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản lý luận quý báu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta; là ngọn cờ lý luận mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam - con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì vậy, không một thế lực thù địch, phản động nào có thể phủ nhận được vai trò,
giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam cả trong lịch sử, hiện tại
và tương lai.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó bao hàm những
yếu tố chủ quan và khách quan. Trí tuệ, phẩm chất đạo đức và khả năng hoạt động thực
tiễn là những nhân tố chủ động quan trọng góp phần cấu thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước, Người có ý chí,
nghị lực to lớn, phi thường; có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê
phán, đổi mới và cách mạng. Bên cạnh đó, Người còn có tầm nhìn, chiến lược, bao quát
thời đại. có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác;
yêu nước, thương dân và suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp Cách mạng Việt Nam và của
cách mạng thế giới. Ngoài những phẩm chất tốt đẹp, Hồ Chí Minh còn xuất sắc trong
tài năng hoạt động.

Chính những phẩm chất cá nhân đặc biệt đã quyết định việc Nguyễn Ái Quốc tiếp
nhận, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư
tưởng đặc sắc của mình. Những phẩm chất cá nhân đó đã theo Hồ Chí Minh đến cuối
cuộc đời, nó đã được trải nghiệm qua thực tiễn cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh oanh

37
liệt của Hồ Chí Minh. Nó lý giải vì sao trong điều kiện nước mất nhà tan, trong khi
nhiều nhà yêu nước Việt Nam còn đang lúng túng, băn khoăn, mơ hồ về con đường cứu
nước theo khuynh hướng tư sản thì Hồ Chí Minh đã nhận thức được một cách rõ ràng
về mục tiêu, lý tưởng của cách mạng đồng thời chỉ rõ con đường cho cách mạng Việt
Nam tiến lên.

Tóm lại, nhân tố chủ quan là yếu tố quyết định để Hồ Chí Minh có thể tiếp thu, phát
triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại, chủ nghĩa Mác
- Lênin để xây dựng và hoàn thiện tư tưởng của mình, biến nó thành sức mạnh tinh thần
to lớn dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.

38
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho
bậc đại học, không chuyên ngành lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tấm gương trọn đời vì dân, vì nước. (2017). Truy
cập ngày 25/3/2024, từ https://baodongkhoi.vn/chu-tich-ho-chi-minh-mot-tam-
guong-tron-doi-vi-dan-vi-nuoc-17052017-a41546.html
3. Đặng Quang Định (30 /6 /2023), Tư duy chiến lược và tầm nhìn thời đại của
Hồ Chí Minh, Tạp chí điện tử Lý luận Chính trị.
4. Lê Minh Thành (16/12/2022), Các yếu tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hành chính Học – Luật – Kinh tế.
5. Nguyễn Thị Mai (1/17/2021), Nhớ về lời dạy “Trung với nước, Hiếu với dân”
Của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tuồi trẻ Bình Dương.
6. Những nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh (18/06/2022), Hội chữ thập
đỏ tỉnh Kiên Giang.
7. Trương Thị Thu Thanh - Phạm Ngọc Trạng (03-09-2021), Tầm nhìn thời đại
và tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc, Tập chí Cộng Sản.
8. Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh trong quá trình tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. (2021). Truy cập ngày 25/3/2024, từ
http://daihocchinhtri.edu.vn/vi/news/Hoat-dong-CTD-CTCT/Y-CHI-VA-NGHI-
LUC-CUA-NGUYEN-TAT-THANH-HO-CHI-MINH-TRONG-QUA-TRINH-
TIM-DUONG-CUU-NUOC-GIAI-PHONG-DAN-TOC-1812/

39

You might also like