Professional Documents
Culture Documents
Sau thời gian 5 năm học tại trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng, được sự
dạy bảo và hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, em đã tiếp thu những kiến
thức cơ bản mà thầy cô đã truyền đạt. Mỗi sinh viên trước khi ra trường cần phải
qua một đợt tìm hiểu thực tế để kiểm tra và bổ sung thêm những kiến thức đã
học. Do đó quá trình thực tập tốt nghiệp và làm đồ án tốt nghiệp là điều hết sức
cần thiết đối với mỗi sinh viên, nó không những giúp cho mỗi sinh viên tiếp xúc
và làm quen với những chi tiết, hệ thống đã được học trên lý thuyết mà còn giúp
cho ta biết phải giải quyết các vấn đề kỹ thuật có liên quan đến nó.
Đợt thực tập tốt nghiệp vừa qua em được giao tìm hiểu về xe bơm bê tông
tại Xí Nghiệp Vật Tư Vật Liệu Giao Thông Đà Nẵng. Sau đợt thực tập được sự
gợi ý của thầy hướng dẫn thực tập chọn xe bơm bê tông làm đề tài tốt nghiệp,
bản thân em nhận thấy đây là một đề tài có nhiều điều mới nên em đã chọn Khảo
sát xe bơm bê tông Putzmeister làm đề tài tốt nghiệp cho mình.
Do kiến thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều, tài liệu tham
khảo còn ít và điều kiện thời gian không cho phép nên đồ án tốt nghiệp của em
không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo trong bộ môn chỉ
bảo để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn đến thầy giáo hướng dẫn“Th.S Nguyễn
Văn Đông ”, đã tận tình hướng dẫn cho em hoàn thành đề tài này. Và em cũng
xin gởi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Cơ Khí Giao Thông cũng như
các bạn sinh viên lớp 02C4 đã giúp em hoàn thành đề tài này.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Mục luc 2
1. TỔNG QUAN. 6
1.1. Mục đích, ý nghĩa. 6
1.1.1. Mục đích. 6
1.1.2. Ý nghĩa. 6
1.2. Công dụng, phân loại bơm bêtông. 7
1.2.1. Công dụng. 7
1.2.2. Phân loại. 7
1.3. Giới thiệu chung về xe bơm bêtông Putzmeister. 11
1.3.1. Cấu tạo chung. 11
1.3.2. Các thông số kỹ thuật cơ bản của xe bơm bêtông Putzmeister. 12
1.4. Đối tượng công tác của xe bơm bêtông Putzmeister. 14
2. CÁC HỆ THỐNG CHÍNH TRÊN XE BƠM BÊTÔNG PUTZMEISTER. 15
2.1. Hệ thống động lực cơ sở. 15
2.1.1. Giới thiệu chung. 16
2.1.2. Nguyên lý làm việc. 16
2.2. Hệ thống bơm tạo áp suất dầu. 16
2.3. Hệ thống bơm bêtông. 17
2.4. Hệ thống cần và xilanh điều khiển cần bơm. 19
2.4.1. Cần. 19
2.4.2. Xilanh nâng hạ cần. 20
2.5. Hệ thống phân phối bêtông. 20
2.5.1. Máng trộn. 20
2.5.2. Xilanh điều khiển quả lắc. 21
1. TỔNG QUAN.
1.1. Mục đích, ý nghĩa đề tài.
1.1.1. Mục đích.
Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay các công trình xây dựng đã
phát triển một cách nhanh chóng và toàn diện ở nước ta. Chúng ta cần có những
cơ sở hạ tầng rộng khắp phục vụ đắc lực cho mọi hoạt động kinh tế và quốc
phòng của nước nhà . Các công trình lúc đầu được thực hiện chủ yếu bằng tay
chân, đến nay đã tiến lên cơ giới hoá ở mức cao nhằm giảm sức lao động và tăng
tính hiệu quả kinh tế.
Trước những nhu cầu đó, đòi hỏi chúng ta phải có những lựa chọn hợp lý
đối với các phương tiện thi công cơ giới cần thiết. Trong đó, xe bơm bê tông
đóng vai trò rất quan trọng và gần như không thể thiếu trong các công trình xây
dựng (cầu đường,dân dụng...) Xe bơm bêtông được sử dụng rộng rãi ở các xí
nghiệp sản xuất bêtông vì chúng nâng cao năng suất làm việc của cơ sở.
Để đáp ứng cho những công trình trên, hàng loạt xe bơm bêtông hiện đại
có tính năng tiên tiến được nhập vào Việt Nam chủ yếu từ các nước: Mỹ, Đức,
Ý .v.v...Tuỳ theo yêu cầu công việc và khả năng đầu tư mà các doanh nghiệp có
những lựa chọn phù hợp cho mình. Do giá thành của xe cao nên hầu hết các xe
được nhập về Việt Nam đều đã qua sử dụng dẫn đến hay bị hư hỏng. Chính vì
vậy việc tìm hiểu về xe bơm bêtông sẽ giúp cho biết được kết cấu và nguyên lý
làm việc của xe từ đó có thể sửa chữa được các hỏng hóc của xe, có thể cải tiến
được một số chi tiết để phù hợp với điều kiện làm việc Việt Nam.
1.1.2. Ý nghĩa.
Đề tài khảo sát xe bơm bêtông Putzmeister không những giúp em bước đầu
tìm hiểu được kết cấu, nguyên lí làm việc của xe mà còn tạo tiền đề cơ sở kĩ thuật
để tìm hiểu các xe máy công trình khác đang hoạt động. Từ đó giúp em có thể
biết được một số nguyên nhân hư hỏng của xe để biết được hướng sửa chữa bảo
dưỡng nằm mục đích tăng tuổi thọ cụng như khả năng làm việc của các thiết bị
trên xe. Có như vậy mới đem lại hiệu quả kinh tế cho đơn vị sản xuất.
1.2. Công dụng, phân loại xe bơm bêtông.
1.1. Công dụng.
Xe bơm bêtông dùng để vận chuyển bêtông theo một đường ống dẫn bằng
thép hoặc bằng vật liệu cao su từ xe vận chuyển bêtông đến vị trí thi công.
So với phương pháp vân chuyển bêtông dùng bơm đường ống và dùng cần
trục thì vận chuyển bằng xe bơm có những ưu điểm sau :
- Do quá trình vận chuyển liên tục nên năng suất cao, đối với bơm
bêtông thường có năng suất từ 30 ÷ 80m 3 / h .
- Do địa hình chập hẹp, xe bơm bêtông có thể đặt xa nơi đang xây
dựng, các đường ống vận chuyển có thể đặt tuỳ ý theo địa hình.
- Vận chuyển bằng đường ống đảm bảo: phạm vi hoạt động lớn,
chiều cao nâng lớn hơn xo với dùng cần trục với xilô chứa để vận chuyển bê
tông. Chiều cao nâng của cần bơm có chiều cao từ 20 ÷ 60m . Chiều dài vận
chuyển có thể lên đến hàng trăm mét.
Ngày nay xe bơm bê tông được sử dụng nhiều trong các công trình vận
chuyển và đổ bêtông tại chỗ trong xây dựng các công trình vĩnh cửu. Trong xây
dựng các cầu lớn xe bơm bêtông được dùng tương đối phổ biến để vận chuyển
bêtông phục vụ công tác đổ dầm, đúc trụ móng ở xa bờ. Tuy nhiên nhược điểm là
khó khống chế số lượng bêtông trong lúc vận chuyển, thành phần bêtông bị hạn
chế trong phạm vi nhất định (cốt liệu không được quá to, hỗn hợp bê tông không
được khô quá), phải vệ sinh cho máy và đường ống sau khi ngưng sử dụng, yêu
cầu trình độ của người điều khiển cao.v.v.
1.2.2. Phân loại.
- Theo cấu tạo của bơm người ta chia làm ba loại: bơm kiểu piston,
bơm kiểu rôto.
- Theo cách dẫn động bơm nguòi ta chia ra làm hai loại: dẫn động
thuỷ lực và dẫn động điện.
a) Bơm bêtông kiểu piston dẫn động bằng piston thuỷ lực.
Hình 1-1. Cấu tạo tổng thể cụm công tác của bơm
1-Máng trộn; 2-Quả lắc; 3-Ống dẫn bêtông; 4-Pittông bơm bêtông; 5-Xilanh
bơm bêtông; 6- Xilanh điều khiển quả lắc; 7-Tấm lắc.
Bêtông từ các xe vân chuyển được đưa vào máng trộn, khi một pison
chuyển động đi lên thì nó hút bêtông vào xi lanh của nó, piston kia sẽ đi xuống
phía dưới và đẩy bêtông quả lắc hình chữ C để đưa bêtông đến ống dẫn bêtông.
Sau khi bêtông đã được đẩy ra khỏi xilanh thì miệng của quả lắc C sẽ được đưa
qua miệng của xilanh kia để tiếp tục thực hiện quá trình đưa bêtông đến ống dẫn,
giúp cho bêtông được vận chuyển liên tục tròn đường ống.
b) Bơm bêtông kiểu rôto.
3
4 5
Hình 1-2. Bơm bêtông kiểu rôto.
1-Ống đẫn bêtông cao áp; 2-Ống đàn hồi của bơm; 3-Thùng cấp liệu; 4-Ống
dẫn bê tông từ thùng vào ống; 5-Rôto của bơm.
Khi rôto của thùng cấp liệu (3) quay, bêtông từ thùng chứa sẽ bị rôto cuốn
theo và được đẩy chạy dọc theo ống đàn hồi (4). Rôto (5) của bơm sẽ quay nén
bêtông từ ống (4) vào ống đàn hồi (2) và đẩy vào ống cao áp (1) để dẫn bêtông
đến nơi sử dụng.
Ống dẫn bêtông của bơm rôto thường hay dùng loại ống cao su (ống mền),
chất lượng cao. Nhờ sự đàn hồi của ống mà bêtông vận chuyển trong ống được
đều đặn, nên chất lượng phun bêtông khi bơm tốt hơn so với ống cứng.
c) Bơm bêtông kiểu piston dẫn động kiểu tay quay.
1 5 6
7 2
a) b)
Hình1-3. Sơ đồ nguyên lý làm việc của bơm bêtông kiểu tay quay tròn.
Vị trí hút bêtôngvào xylanh; b) Vị trí đẩy bêtông ra ống dẫn.
1-Van hút; 2-Van đẩy; 3-Thiết bị dẫn vật liệu; 4-Cánh trộn; 5-Xilanh; 6-Piston;
7-Phiễu tiếp liệu; 8-Ống dẫn; 9-Cơ cấu tay quay.
Thân bơm gồm xilanh (5) và hòn van, trong đó hòn van đặt van hút (1) và
van đẩy (2). Xilanh gồm hai lớp, lớp ngoài và lớp trong gọi là xilanh và áo
xilanh. Để tránh mài mòn áo xilanh được làm bằng một hợp kim rất tốt và được
tôi luyện kỹ.
Bên trong xilanh đặt pittông (6) có đầu bọc cao su chống. Như vậy khi làm
việc chỉ có áo xilanh tiếp xúc với bêtông nên khi bị mài mòn ta chỉ cần thay thế
áo xilanh và vẫn giữ nguyên vỏ ngoài xilanh. Phiễu cấp liệu (7) có bố trí thiết bị
dẫn vật liệu (3) để đưa hỗn hợp bêtông chảy từ từ và điều đặn vào trong bơm qua
cửa van hút (1). Trong phiểu có cánh khuấy (4) để duy trì chất lượng bêtông và
tránh hiện tượng phân tầng. Van hút và van đẩy thuộc loại van xoay để đóng mở
đường dẫn bêtông vào xilanh và đẩy bêtông vào ống dẫn. Hai van làm việc nhờ
cơ cấu liên động gồm vít truyền lực cho cơ cấu cam (12), (13), thanh kéo (16) và
(17) (hình 1-4). Theo hình vẽ hai van hút và đẩy sẽ làm việc ngược nhau: tức là
khi van hút mở thì van đẩy đóng, tương ứng với quá trình pittông kéo ra (hình 1-
3a), khi van hút đóng thì van đẩy mở tương ứng với quă trình pittông chuyển
động từ phải sang trái (hình 1-3b) để đẩy bê tông vào ống dẫn. Để tránh hiện
tượng kẹt đá làm hư hỏng van và để cho hỗn hợp bêtông luôn luôn ở trạng thái
lưu động, không bị phân tầng, người ta điều chỉnh sao cho van không bao giờ
đòng hoàn toàn mà luôn có khe hở nhỏ.
14 15 13 21 17
12 20 16
6
4 5 19
1 3 18
10
7
11
11 9
8
Hình 1-4. Hệ thống truyền động của bơm bêtông kiểu tay quay tròn.
1-Động cơ điện; 2-Truyền động đai; 3-Bánh răng truyền động; 4-Trục khuỷu; 5-
Thanh truyền;6-Pittông; 7-Trục trộn; 8-Vít truyền lực; 9-Động cơ điện quay trục
trộn; 10-Trục thiết bị dẫn liệu; 11-Xích; 12,13-Trục cam; 14,15-Thanh nối;
16,17-Thanh kéo; 18-Van hút; 19-Van đẩy.
Hệ thống truyền động cho bơm bêtông gồm hai động cơ điện, trong đó
một động cơ (9) dùng để quay cơ cấu trộn (10), động cơ (1) dùng để kéo đẩy
piston bơm (6), đóng mở van (18) và (19) và quay cơ cấu dẫn liệu.
1.1.3. Giới thiệu chung về xe bơm bê tông Putzmeister
1.3.1. Cấu tạo chung.
2 3 4
6
7
3840
Trang 12
khiển quả lắc; 11-Ụ đỡ cần bơm; 12-Ống dẫn bêtông; 13-
Thùng chứa dầu; 14-Chân chống.
Đồ án tốt nghiệp Khảo sát xe bơm bê tông Putzmeister
Xe bơm bêtông Putzmeister 28Z là xe có các hệ thống làm việc được đều
khiển bằng thuỷ lực, sản xuất năm 2001 tại hãng Putzmeister (Mỹ) thuộc nhóm
kích thước 28Z, quả lắc hình chữ C, cơ cấu di chuyển bằng bánh lốp.
Xe sử dụng động cơ điezen 8 xilanh, hộp số gồm 8 số, sử dụng hệ thống
phanh khí nén, hai cầu chủ động. Quá trình mở li hợp, phanh dùng trợ lực khí
nén, hệ thống lái được trợ lực bằng thủy lực.
Hệ thống nâng hạ cần bơm gồm: 4 xilanh thuỷ lực có nhiệm vụ điều khiển
cần bơm đến các vị trí làm việc. Để quay cần bơm thì trên trụ xoay đặt hai xilanh
song song có các pittông làm việc theo hai hướng ngược nhau, trên thân các
pittông có các răng ăn khớp với bánh răng lắp trên trụ quay khi các xilanh được
cấp chất lỏng vào thì các pittông chuyển động ngược chiềulàm bánh răng quay
theo dẫn đến cần quay. Hệ thống chống lún giúp cho xe được ổn định trong khi
làm việc. Cả hai hệ thống này được dẫn động bằng dầu thuỷ lực từ bơm pittông
rôto hướng trục thân nghiêng.
Hệ thống bơm bêtông có nhiệm vụ hút bêtông vào từ máng trộn và đẩy
chúng đến đường ống dẫn bêtông, bơm chính tạo áp suất dẫn động cho hệ thống
là bơm piston rôto hướng trục kiểu đĩa nghiêng đảo chiều cung cấp được. Để đảo
chiều làm việc của các pittông trong bơm bêtông người ta lắp trên xilanh bơm
các cảm biến hành trình khi các pittông trong bơm bêtông đến cuối hành trình
làm việc thì cảm biến sẽ phát tín hiệu để điều khiển đĩa nghiêng trong bơm chính
nhằm thay đổi hướng cung cấp chất lỏng đến hai xilanh bơm bêtông.
Ngoài hộp số chính, tên xe còn lắp thêm hộp số phụ ngay sau nó. Hộp số
phụ này có hai chế độ lầm việc. Chế độ thứ nhất: truyền công suất từ động cơ qua
hộp số chính đến trục cácđăng qua hộp số phụ và đưa ra cầu sau (khi xe đang di
chuyển trên đường). Chế đô thứ hai: truyền công suất từ động cơ qua hộp số
chính đến trục cácđăng qua hộp số phụ và đưa vào các bơm để tạo áp suất dầu.
Quá trình điều khiển chế độ làm việc của hộp số phụ dùng bằng khí nén.
1.3.2. Các thông số kỹ thuật cơ bản của xe bơm bêtông Putzmeister.
nhất nên ngăn cản không cho nước chảy qua. Chất lượng và khối lượng của hỗn
hợp ở thể huyền phù có ảnh đến việc tạo thành dòng bêtông trong đường ống.
Nếu trong hỗn hợp bêtông, thể huyền phù xuất hiện với sồ lượng ít hơn so với số
lượng cần thiết để điền đầy thể tích rỗng của hỗn hợp, lúc này dòng bêtông trong
các đường ống không được tạo thành.
Trong vùng chưa được điền đầy, áp suất của bơm không đủ để tạo thành
dòng hỗn hợp vật liệu mà chỉ chèn ép các hạt. Chính điều này làm xuất hiện hiện
tượng ùn tắc trongđừng ốngvà việc bơm hỗn hợp không thể thợc hiện được.
Nếu như hỗn hợp bêtông được tạo thành một dòng liên tục, không có lỗ
hổng không khí (ta gọi bêtông ở thể huyền phù) thì dòng chất lỏng không chịu
nén sẽ đảm bảo cho bêtông di chuyển thành dòng không bị ùn tắc. Áp suất của
bơm sẽ truyền lực thuỷ tĩnh trực tiếp tác dụng lên hỗn hợp đã hoà trộn đều (thể
huyền phù), hỗn hợp này trong lúc di chuyển thành dóngẽ thưỡnguyen phủ lên bề
mặt trong của đường ống tạo thành lớp bôi trơn.
Như vậy để bơm bêtông đạt năng suất cao và áp suất vận chuyển có thể
nhỏ là cần phải tạo ra một hỗn hợp bêtông vận chuyển ở dạng huyền phù. Một
điều cần lưu ý đối với các hỗn hợp bêtông có sử dụng các chất phụ gia như chất
làm đông kết, chất làm chậm đông kết, phụ gia liên kết hoặc phụ gia làm tăng
tính đầm lèn cần phải kiểm tra tại chỗ xem có ảnh hưởng đến khả năngbơm
bêtông hay không?
dùng loại bơm thủy lực pittông rôto hướng trục đĩa nghiêng đảo chiều được, bơm
pittông rôto hướng trục thân nghiêng dùng để dẫn động cần bơm và chân chống,
bơm bánh răng để tăng cường cho hệ thống khi làm việc với công suất lớn, bơm
pittông hướng trục đĩa nghiêng được để dẫn động quả lắc.
2.3. Hệ thống bơm bêtông.
Sơ đồ nguyên lý của hệ thống bơm bêtông được thể hiện trên hình 2-4. Hệ
thống này có nhiệm vụ tiếp nhận dầu thủy lực có áp suất cao từ bơm chính và
biến nó thành cơ năng để thực hiện quá trình chuyển động tịnh tiến trong thân
xialnh (8) đẩy bêtông từ máng trộn đến đường ống dẫn bêtông.
Bộ phận công tác của bơm gồm hai cụm xilanh pittông thủy lực. Hai cụm
này được nối thông với nhau và được dẫn động bằng bơm thủy lực. Có hai
phương pháp nối ống dẫn dầu từ bơm chính đến bơm bêtông .
- Phương pháp nối ở đầu cần pitttông: cho phép nâng cao năng suất
làm việc của bơm bêtông lên 109m 3 / h trong khi đó áp suất làm việc của bơm chỉ
đạt đến giá trị 7 MPa do đó thường nối ống kiểu này đối với nhưng vị trí bơm
bêtông không quá xa hoặc quá cao so với tầm với của cần.
- Phương pháp nối ở sau đuôi pittông (hình 2-4): làm năng suất làm
việc của bơm bêtông chỉ đạt còn 65m 3 / h nhưng áp suất làm việc của bơm rất
lớn, vào khoảng 11MPa . Thường nối ống kiểu này để bơm bêtông ở những vị trí
tương đối cao và xa so với cần bơm.
Có thể giải thích được nguyên nhân trên như sau: ứng với số vòng quay
nhất định của động cơ thì tốc độ của bơm chính cũng đạt một giá trị nhất định.
Lưu lượng và áp suất dầu lại phụ thuộc vào số vòng quay của bơm giá trị của
chúng cũng không thay đổi. Lưu lượng Q = S × v trong đó S là tiết diện của
xilanh, v là vận tốc chuyển động của dòng chất lỏng. Khi nối ống ở đầu cần
pittông thì dầu được đưa từ bơm chính vào trực tiếp ở đây, do tiết diện S bé mà
lưu lượng Q lại có giá trị không đổi nên làm cho vận tốc dòng chất lỏng tăng lên
dẫn đến làm tăng tốc độ của bơm bêtông lên. Lưc tác dung lên diện tích mặt
pittông F = p × S trong đó p áp suất dầu từ bơm chính. Khi nối ống ở cần pittông
do tiết diện S bé mà áp suất p lại không đổi nên làm giảm lực tác dụng lên mặt
pittông (7) dẫn đến làm giảm lực tác dụng lên pittông (8). Đối với phương pháp
nối ống ở đuôi pittông thì giải thích ngược lại.
Pittông bơm bêtông (2) và pittông thủy lực (5) được nối với nhau thông qua
khớp nối (3). Trong quá trình làm việc pittông (2) tiếp xúc thường xuyên với
bêtông bám trên thành xilanh (1) nên dễ bị ăn mòn, khi đó ta tháo khớp nối để
thay mới pittông bơm. Do làm việc liên tục nên thành xilanh bơm bêtông (1)
xilanh (4) nóng lên và chúng truyền nhiệt qua pittông bơm bêtông (2) và pittông
thủy lực (5) đến cần (8). Để làm giảm nhiệt độ của hệ thống hai cần pittông được
đặt trong bể chứa nước (7) và nó sẽ giảm nhiệt độ cho hệ thống.
Nguyên lý làm việc của hệ thống: (đối với cách lắp ống ở đầu cần pittông
như hình 2-4). Dầu có áp suất cao từ bơm chính được đưa đến pittông (5) phía
trên thực hiện quá trình đẩy trong xilanh (1) vào quả lắc (9) đồng thời do hai cụm
xilanh pittông thủy lực (5) được nối thông với nhau nên khi pittông (5) phía trên
đi qua phải thì nó đẩy pittông (5) phía dưới về bên phải để thực hiện quá trình hút
bêtông vào trong xilanh bơm bêtông (1) bên dưới. Sau khi pittông (2) phía trên
đã đẩy hết bêtông ra khỏi xilanh, cảm biến điện từ đặt ở cuối hành trình của
pittông sẽ đưa tín hiệu đến để điều khiền van phân phối điện từ thực hiện quá
trình đảo chiều làm việc của bơm bêtông. Lúc dầu cao áp lại được đưa đến xilanh
(5) bên dưới để thực hiện việc đẩy bêtông ra khoải xilanh.Quá trình này được lặp
đi lặp lại liên tục nhờ đó bêtông được vận chuyển đến đường ống điều đặn.
1 2 3 4 5
Chuyãøn
Naûp
9 8 7 6
2 3 4 5
1
6
8 7
B
A
A - A ( 2:1 ) B - B ( 2:1 )
thiết kế thường dùng ổ đỡ trược. Ổ đỡ này cho phép quay quanh (một góc không
lớn) chốt trong mặt phẳng bất kỳ, đảm báo sự lắp, tháo dễ dàng và loại trừ khả
năng kẹt khi có sự vênh lệch nào đó do việc chế tạo không chính xác các thành
phần của thiết bị công tác. Các kích thước của xilanh giảm dần theo thứ tự từ trụ
xoay đến đầu cao su phun bêtông. Bốn xilanh có nhiệm vụ điều khiển việc nâng
hạ cần bơm, trụ xoay có nhiệm vụ đưa cần bơm xoay quanh trụ của nó theo chiều
kim đồng hồ hặc ngược chiều kim đồng hồ một góc tùy ý.
2.5. Hệ thống phân phối bêtông.
2.5.1 . Máng trộn.
Là nơi hỗn hợp bêtông tươi được tập trung lại và được trộn đều trước khi
được hút vào bơm bêtông. Phía trên của máng trộn đặt tấm lưới sắt để ngăn
không cho các vật liệu có kích thước lớn hơn mắt lưới lọt xuống máng làm hỏng
bơm. Để thuận lợi cho việc bơm bêtông người ta đặt máng trộn phía sau cùng của
xe, với cách bố trí này thì các xe vận chuyển bêtông có thể đổ trực tiếp bêtông từ
bồn chứa sang xe bơm mà không cần đường ống dẫn. Vật liệu chế tạo máng là
thép không gỉ chịu áp lực cao, được hàn từ các tấm thép lá. Do hai miệng hút của
bơm bêtông đặt phía trên đáy máng nên sau khi bơm xong vẫn còn sót lại bêtông
ở đáy đông kết lại và làm giảm thể tích buồng chứa của máng. Để khắc phục hiện
tượng này thì một cửa thoát được đặt bên dưới đáy máng, sau khi vệ sinh máng ta
chỉ cần mở cửa là vật liệu được đưa ra khỏi máng.
3 4
5
2 6
9
10 8 7
1-Trục cánh khuấy; 2-Ống dẫn dầu bôi trơn trục; 3-Ống dẫn dầu bôi trơn đầu
xilanh; 4-Bộ chia dầu; 5-Bình chứa dầu bôi trơn; 6-Thanh nối, 7-Cửa xả; 8-
Máng trộn; 9-Xilanh điều khiển quả lắc; 10-Tấm chịu mài mòn hình gọng kính.
2.5.2. Xilanh điều khiển quả lắc.
Quả lắc phân phối được điều khiển bởi hai xilanh đặt đối xứng và làm việc
ngược nhau. Khi dầu thủy lực được cung cấp đến một trong hai xilanh làm việc
thì hộp nối hai đầu xilanh sẽ chuyển động qua lại làm cho tấm lắc chuyển động.
Do tấm lắc nối với vai quả lắc bằng bulông nên quả lắc chuyển động theo để đảm
bảo miệng của quả lắc luôn tì vào miệng của bơm bêtông. Đầu pittông và xilanh
điều khiển có dạng cầu để đảm bảo cho chúng có thể xoay một góc tương đối
nhỏ mà không bị bó kẹt. Tại các đầu liên kết này luôn có đường dẫn dầu đến để
bôi trơn.
2.5.3. Cánh khuấy.
Cánh khuấy được đặt trong máng trộn và được dẫn động bằng bơm thủy
lực. Cánh khuấy làm việc liên tục vừa để đảm bảo cho bêtông không bị đông kết
vừa đảm bảo cho quá trình hút bêtông được dễ dàng. Do kích thước máng trộn
tương đối bé nên chỉ có thể bố trí hai cánh khuấy, các cánh khuấy được làm từ
thép hợp kim có khả năng chịu mài mòn và va đập. Cánh khuấy nối với trục của
nó bằng bulông tạo điều kiện thuận lợi cho việc thay thế khi cánh bị hư hỏng.
2
1
3
3 4 5 6 7
A
2 8
1
12 9
11
13 A 10
Hình 2-10. Quả lắc
1-Máng trộn; 2-Quả lắc; 3- Cửa kiểm tra; 4-Bulông nối quả lắc với ống bêtông;
5-Ống dẫn bêtông; 6-Bulông nối tấm lắc với quả lắc; 7-Vai quả lắc; 8-Tấm lắc;
9-Xilanh điều khiển con lắc; 10-Bộ phận nối khung xe; 11-Hộp nối hai đầu
pittông; 12-Xilanh bơm bêtông;
2.6. Hệ thống chân chống.
Hệ thống chân chống giúp tăng độ ổn định cho toàn bộ xe khi bơm bêtông.
Trên xe bơm bêtông Putzmeister bốn chân chống được bố trí hai bên thành xe.
Các chân chống được nâng hạ nhờ các xilanh thủy lực lắp bên trong nó, động cơ
thủy lực bánh răng giúp cho các chân chống quay được một góc quanh trục của
nó. Hệ thống chân chống được điều khiển hoàn toàn bằng tay, nó được điều
khiển trước khi bắt đầu bơm bêtông và sau khi bơm phải điều khiển các chân
cống về đúng vị trí ban đầu.
2.7. Hệ thống đường ống dẫn bêtông.
Có nhiệm vụ vận chuyển bêtông từ bơm đến vị trí thi công. Toàn bộ đường
ống là những đoạn ống thép cong và thẳng được nối lại với nhau, để các ống thép
nối với nhau được kín khít và tháo dễ lắp dễ dàng người ta dùng vòng kẹp đặt
biệt để nối các mặt bích của ống. Riêng ống cong tại cuối điểm quay cuối cùng
có tác dụng làm giảm tốc độ phun của bêtông và giảm mài mòn ống cao su
đường ống. Nhờ kết cấu có lõi thép, ống cao su chịu được áp lực bêtông đến
8,5MPa . Các đường ống được bố trí chạy song song với cần bơm.
3
2
1
6
Hình 3-1. Sơ đồ truyền động thuỷ lực thể tích, chuyển động tịnh tiến.
1-Bơm; 2-Van an toàn; 3-Van phân phối; 4-Xi lanh; 5-Pittông; 6-Thùng
chứa.
Trong hệ thống truyền động thuỷ này, cơ năng của bơm được biến thành
áp năng của chất lỏng. Sau đó, trong xi lanh 4 hay xi lanh lực hoặc động cơ thuỷ
lực, áp năng của chất lỏng được biến thành cơ năng làm cho pittông dịch chuyển.
Truyền động thuỷ lực thể tích, có chuyển động quay:
3
2
1 4
Hình 3-2. Sơ đồ truyền động thuỷ lực thể tích, chuyển động quay.
1-Bơm; 2- Van an toàn; 3-Van phân phối; 4-Động cơ thuỷ lực rô to; 5-
Thùng chất lỏng.
Trong hệ thống truyền động thuỷ này, cơ năng của bơm được biến thành
áp năng của chất lỏng. Sau đó, trong động cơ rô to, áp năng của chất lỏng lại biến
thành cơ năng, làm cho rô to chuyển động quay.
Ưu điểm của truyền động thuỷ lực:
- Điều chỉnh được vận tốc bộ phận công tác.
- Truyền được công suất lớn.
- Dễ đảo chiều chuyển động.
- Làm việc ổn định, êm và không phụ thuộc vào tải trọng.
- Cấu tạo gọn nhẹ, lực quán tính nhỏ.
- Độ chính xác cao, nhạy, an toàn.
- Biến chuyển động quay thành chuyển động tịnh tiến dễ dàng.
- Dễ tiêu chuẩn hoá và tự động hoá.
Nhược điểm của truyền động thuỷ lực:
- Giá thành cao, do yêu cầu chế tạo phải chính xác, khó khắc phục
rò rỉ.
- Tốn năng lượng, khi dầu phải chuyển động trong đường ống dài.
- Yêu cầu rất cao về chất lượng chất lỏng (phải sạch, không ăn mòn,
bôi trơn tốt, độ nhớt nhỏ).
b) Truyền động thuỷ lực thuỷ động: chất lỏng có áp suất thấp và vận tốc
cao.
Hệ thống truyền động thuỷ lực thuỷ động là một thiết bị tổ hợp trong đó
chủ yếu có hai máy thuỷ lực cánh dẫn: bơm ly tâm và tuabin thuỷ lực.
Khớp nối thuỷ lực: dùng để nối “mềm” và truyền công suất từ trục chủ
động sang trục bị động nhờ chất lỏng, mà không thay đổi mômen quay.
Biến tốc thuỷ lực (biến mô): dùng để nối “mềm” và truyền công suất từ
trục chủ động sang trục bị động nhờ chất lỏng, có biến đổi mômem và thay đổi số
vòng quay của trục bị động so với trục chủ động.
Ưu điểm của biến tốc là phạm vi điều chỉnh tốc độ rộng; cải thiện được
điều kiện khởi động, vì truyền động thuỷ lực thuỷ động cho phép khởi động máy
ngay cả khi có tải. Giảm tải trọng động và dao động xoắn do nối “mềm” với bộ
phận công tác hay tua bin. Do đó nâng cao độ tin cậy của các chi tiết của cơ cấu
hoặc máy, vì có khả năng quá tải cao, nên tuổi thọ của máy tăng Dễ điều khiển tự
động.
Nhược điểm của truyền động thuỷ động là hiệu suất thấp do có sự trượt.
Chế tạo khó và đắt hơn bộ truyền cơ khí. Phải có hệ thống làm mát và cung cấp
chất lỏng.
3.1.2. Yêu cầu của hệ thống truyền động thủy lực.
- Truyền được công suất lớn.
- Làm việc phải êm.
- Kết cấu gọn nhẹ, quán tính nhỏ.
- Tỷ số truyền ổn định.
- Hiệu suất cao.
- Giá thành rẻ.
- Dễ áp dụng điều khiển tự động.
- An toàn khi quá tải.
Hệ thống truyền động thuỷ lực trên xe bơm bêtông Putzmeister được chia
làm ba mạch thuỷ lực nhỏ, mỗi mạch được điều khiển độc lập với nhau. Bao
gồm:
- Mạch thuỷ lực điều khiển bơm bêtông, quả lắc phân phối, cánh
khuấy,bơm nước (mạch chính).
- Mạch thuỷ lực điều khiển nâng, hạ và xoay cần bơm.
- Mạch thuỷ lực điều khiển chân chống.
3.2. Các sơ đồ mạch thuỷ lực.
3.2.1. Sơ đồ mạch thuỷ lực chính.
28 26 21
37
7
T P
9 14 4 3 11
22 27
13
23
P A B T B T
T B A P A P
B T
24
A P
36
34 35
6 40 32
8
20 30 19
12
18 38 15 25
16
1 2 5 31
29
A
90 C
17
39
10 33
năng; 17-Bơm cung cấp dầu thuỷ lực cho cánh khuấy; 18-Bơm tăng cường; 19-
Bộ làm mát dầu thuỷ lực; 20-Bộ lọc dầu thuỷ lực ; 21- Thùng chứa dầu thuỷ lực;
22-Đồng hồ đo áp suất dầu thùng chứa; 23-Cơ cấu tiết lưu không điều chỉnh
được; 24-Tiết lưu điều chỉnh được; 25-Van giảm áp; 26-Lọc dầu thùng chứa;
27-Van bảo vệ hệ thống làm mát; 28-Ống chỉ thị mức dầu thùng chứa; 29-Cảm
biến nhiệt độ dầu mạch chính; 30- Cảm biến nhiệt độ bộ làm mát dầu; 31-Môtơ
dẫn đọng bơm nước; 32- Van an toàn của bơm tích năng; 33-Xilanh điều khiển
đảo chiều bơm; 34-Cánh khuấy; 35-Mánh trộn; 36-Van phân phối của cánh
khuấy; 37-Van phân phối của bơm nướ; 38-Van một chiều bổ sung; 39-Van tràn;
40-Van kết nối.
Nguyên lý làm việc:
Dầu cao áp từ bơm (15) được đưa trực tiếp đến một trong hai xilanh thuỷ
lực(1) để thực hiện quá trình đẩy bêtông vào miệng quả lắc. Do hai xilanh thuỷ
lực được nối thông với nhau nên khi một xilanh tiến về phía trước để đẩy bêtông
thì xilanh kia sẽ di chuyển theo hướng ngược lại để thực hiện quá trình hút
bêtông vào trong khoang chứa. Tại vị trí pittông đẩy hết bêtông thì cảm biến
hành trình gắn trên thân xilanh sẽ phát tín hiệu để điều khiển đảo chiều cung cấp
dầu cao áp đến các xilanh thuỷ lực, quá trình đảo chiều của các xilanh (1) được
lặp đi lặp lại liên tục giúp cho bêtông được vận chuyển ổn định đến đường ống.
Cảm biến nhiệt độ (29) có nhiệm vụ kiểm tra nhiệt độ dầu cung cấp từ bơm chính
(15) đến xilanh thuỷ lực (1), khi nhiệt độ dầu lên đến 90 0 C thì nó sẽ phát tín hiệu
làm cho toàn bộ hệ thông ngừng hoạt động. Cảm biến nhiệt độ (30) sẽ đưa tín
hiệu đến để quay quạt làm mát trong bộ làm mát dầu khi nhiệt độ dầu trong mạch
đạt 65 0 C .Bơm này đồng thời cũng đưa một đường dầu đến khối điều chỉnh áp
suất (9) để điều chỉnh áp suất dầu cung cấp cho van phân phối (4), áp suất dầu do
bơm tạo ra được hiển thị trên đồng hồ đo áp suất (6).
Bơm (16) đưa dầu từ thùng chứa (21) qua bình tích năng (12) đến cửa van
phân phối (3) van phân phối (3) đến xilanh điều khiển quả lắc (5), nhiệm vụ van
phân phối là đảo chiều đường cung cấp dầu đến hai xilanh thuỷ lực điều khiển
quả lắc. Việc điều khiển vị trí con trược của van phân phối do dòng dầu từ van
điều khiển đảo chiều kiểu điện từ (4) cung cấp đến. Sự đảo chiều đường dầu cung
cấp của bơm chính (15) và đảo chiều con lắc có liên hệ mật thiết với nhau sao
cho khi bơm bắt đầu đẩy bêtông thì miệng của van phân phối phải trùng với vị trí
miệng bơm bêtông, hai quá trình này được van phân phối (4) điều khiển nhờ tín
hiệu từ cảm biến hành trình. Khi áp suất của bơm vươt quá 25MPa thì van an
toàn (32) đưa dầu về thùng chứa làm cho áp suất dầu cung cấp từ bơm (16) đến
bình tích năng, van phân phối và xilanh thuỷ lực không vượt qúa giá trị cho phép
nhờ vậy sẽ đảm bảo an toàn cho các phần tử thuỷ lực trong mạch.
Bơm (17) đưa dầu từ thùng chứa đến khối điều khiển cánh khuấy (7). Khối
điều khiển này bao gồm van phân phối (37) đưa dầu đến môtơ dẫn động bơm
nước (31) và van phân phối (36) đưa dầu đến hai môtơ dẫn động cánh khuấy (8),
những môtơ thuỷ lực này đảo chiều được là do sự thay đổi vị trí làm việc của con
trượt trong các van phân phối.Trong quá trình vận chuyển bêtông đến đường ống
thì cánh khuấy và bơm nước có thể hoạt động hoặc không hoạt động tuỳ thuộc
vào người sử dụng điều khiển van phân phối, việc này hoàn toàn dùng tay.
Trong quá trình vận chuyển bêtông thì bơm thuỷ lực tăng cường (18) cũng
làm việc đồng thời để đưa dầu theo hai đường, một đường dầu cung cấp cho bơm
chính và một đường dầu đến khối điều chỉnh công suất.Tuỳ theo vị trí làm việc
của van (40) trong khối điều chỉnh mà nó có thể ngắt đường dầu đến van phân
phối (4) hoặc bổ sung thêm dầu đến van phân phối (4) làm tăng lưu lượng qua
van này dẫn đến quá trình đảo chiều đường dầu cung cấp của bơm chính và quả
lắc xảy ra nhanh hơn nâng cao công suất làm việc của hệ thống bơm bêtông.
Dầu từ bình chứa được đưa qua bầu lọc đến bơm chính, dầu cao áp ra khỏi
bơm được đưa đến bơm bêtông để thực hiện quá trình hút đẩy bêtông, đồng thời
cũng có một lượng dầu từ xilanh thủy lực được đưa từ bơm bêtông hồi về lại
bơm. Trong quá trình làm việc dầu sẽ bị nóng lên làm giảm năng suất làm việc
của bơm, chính vì có một lượng dầu nhỏ từ bơm chính không đưa qua bơm
bêtông mà được đưa vào thùng làm lạnh rồi đưa về thùng chứa dầu.
3.2.2. Sơ đồ mạch thuỷ lực điều khiển cần bơm bêtông.
1 4 5
2
6
A B 10
P
T
T
A B A B A B A B A B
P
11
12
21 20 19 18 17 16 15 14 13
Chất lỏng từ thùng chứa (12) được bơm thuỷ lực (14) đưa đến cụm van
phân phối thuỷ lực (20). Cụm van này bao gồm các van phân phối và van giảm
áp điều khiển quá trình nâng, hạ, quay cần và điều khiển chân chống. Để điều
khiển nâng hạ cần thì hai cửa ra của bốn van phân phối (18) được nối với đến hai
cửa của bốn xilanh nâng hạ cần (1), do đó khi có chất lỏng từ bơm đưa qua van
phân phối đến các xilanh sẻ làm cho các pittông trong các xilanh này di chuyển
dẫn đến cần bơm bêtông được điều khiển. Để điều khiển quay cần bơm thì hai
cửa ra của van phân phối (17) được nối với các cửa của hai xilanh quay cần (5).
Các pittông trong các xilanh nâng, hạ, quay cần bị hạn chế hành trình tại điểm
chết trên và điểm chết dưới, khi pittông đến các điểm chết này thì xảy ra hiện
tương va đập làm rung động có thể dẫn đến hư hòng chi tiết, để làm giảm chấn
động thì ở cửa vào của xilanh lắp bộ giảm chấn (3) thực chất đây là van tiết lưu
một chiều không điều chỉnh nhằm hạn chế lưu lượng chảy qua nó nên khi pittông
gần đến cuối hành trình thì toóc độ của nó bị giảm xuống. Trước cửa vào của mỗi
van phân phối lắp van giảm áp (21) có nhiệm vụ điều chỉnh áp suất của bơm
thuỷ lực (14) đến một giá trị phù hợp với điều kiện làm việc của mỗi cần bơm.
Van tràn (16) đảm bảo an toàn cho toàn bộ mạch thuỷ lực khi bị quá áp bằng
cách nối đường dẫn chất lỏng từ bơm về thẳng thùng chứa (12) khi áp suất trong
mạch vượt quá giá trị cho phép.
Tuỳ thuộc vào vị trí làm việc của các van trong cụm phân phối mà chất
lỏng được đưa đến các xilanh thuỷ lực hoặc đưa qua bộ làm mát (13) về thùng
chứa. Khi con trược trong van phân phối ở vị trí trung gian thì bơm thuỷ lực sẽ
đưa chất lỏng đến các van phân phối rồi theo đường nối chung hồi về buồng
chứa. Lúc này các khoang trong xilanh thuỷ lực không được cung cấp chất lỏng,
để giữ cho các pittông trong xilanh không bị rơi khi không có chất lỏng cung cấp
vào thì trước đường cung cấp chất lỏng đến xilanh được lắp van một chiều có tác
dụng khoá lẫn (2) có tác dụng ngắt không cho chất lỏng chảy về thùng. Khi con
trược trong van phân phối nằm ở một trong hai vị trí làm việc thì xilanh thuỷ lực
sẽ được cung cấp chất lỏng làm cho pittông trong nó dịch chuyển và cần bơm sẽ
chuyển động. Tương tự như trên, khi con trược trong van phân phối (17) ở vị trí
trung gian thì cần bơm không quay được. Nhưng khi con trược trong van phân
phối nằm ở một trong hai vị trí làm việc thì chất lỏng sẽ được cung cấp đến hai
đầu của xilanh (vị trí cung hai đầu cung cấp chất lỏng ngược nhau) làm cho
pittông trong xilanh (7) chuyển động ngược nhau, liên kết giữa xilanh và trụ quay
(6) theo kiểu thanh răng và bánh răng ăn khớp nên làm cho trụ quay chuyển động
quay xung quanh trục của nó dẫn đến cần bơm quay được.
Van phân phối trong cụm phân phối là kiểu van có ba trạng thái làm việc
được điều khiển bằng điện từ, giữa các van có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Để điều khiển van làm việc thì phải cần hai tín hiệu: tín hiệu thứ nhất báo các
van còn lại đang ở vị trí trung gian, tín hiệu thứ hai là tín hiệu điều khiển trạng
thái làm việc của van.Nếu van không nhân được tín hiệu thứ nhất thì không thể
điều khiển được các van, như vậy trong toàn bộ mạc nâng hạ và quay cần bơm
thì người điều khiển chỉ có thể điều khiển được một đoạn vần làm việc. Nếu
muốn điều khiển một đoạn cần khác hoặc quay cần thi các đoạn cần còn lại phải
đứng yên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận hành, điều khiển của người công
nhân.
3.2.3. Sơ đồ mạch thuỷ lực điều khiển chân chống.
1 2 3
4 5 6
A B A B A B B A B A B A
P T T P
1-Động cơ thuỷ lực; 2-Xilanh trụ chân chống; 3-Van một chiều khoá lẫn; 4-Van
phân phối điều khiển động cơ thuỷ lực; 5-Van phân phối điều khiển xilanh thuỷ
lực; 6-Van ngắt dòng; 7-Van an toàn; 8-Cụm van điều khiển chân chống.
Chất lỏng được bơm (15) đưa đến van phân phối nằm trong cụm van (20) và
được chia làm hai nhánh khi đi ra khỏi van phân phối. Nhánh thứ nhất đưa đến
cụm điều khiển chân chống (8) bên phải, nhánh thứ hai được đưa đến cụm điều
khiển chân chống bên trái. Cụm điều khiển bao gồm hai van phân phối (5) bốn
cửa ba trạng thái làm việc được điều khiển bằng tay, mỗi van dùng để điều khiển
một trụ chân chống nâng lên hay hạ xuống và một van phân phối (4) dùng để
điều khiển chiều quay của động cơ thuỷ lực để điều khiển cho chân chống quay
vào hoặc ra.
Hai van an toàn (7) bảo vệ cho toàn bộ mạch khộng bị quá áp khi xảy ra sự
cố. Nó luôn duy trì một áp suất làm việc ổn định cho mạch niếu vượt quá giá trị
cho phép thì van sẽ mở để đưa bớt chất lỏng về thùng chứa. Van ngắt dòng (7)
đóng hoặc ngắt dòng chất lỏng cung cấp đến mạch, thông thường van này được
ngắt khi đã điều chình vị trí làm việc của chân chống và nó sẽ giữ nguyên trạng
thái làm việc của các chân chống cho dù tiến hành điều khiển van phân phối.
Điều này rất quan trọng vì xe bơm bêtông đòi hỏi xe luôn phải có tính ổn định
cao trong mọi điều kiện làm việc.
Khi các van phân phối ở vị trí trung gian chất lỏng qua van phân phối được
đưa trở lại thùng chứa theo hai đường hồi chất lỏng riêng biệt. Lúc này động cơ
thuỷ lực (1) và xilanh thuỷ lực (2) không được cung cấp chất lỏng do đó chúng sẽ
giữ nguyên trạng thái làm việc. Để giữ cho các pittông trong xilanh (2) không bị
rơi tự do thì người ta lắp van một chiều có tác dụng khoá lẫn (1) trên đường ống
dẫn chất lỏng vào xilanh (2).
1.3. Các thành phần cơ bản của hệ thống truyền động thuỷ lực xe bơm bêtông
Putzmeister.
3.3.1. Bơm thuỷ lực.
Bơm là một bộ phận của truyền động thuỷ lực, nó biến đổi cơ năng của
động cơ thành năng lượng dòng chất lỏng công tác. Chất lỏng công tác chảy theo
ống dẫn đến động cơ thuỷ lực và được biến đổi thành cơ năng của khâu bị động
động cơ thuỷ lực để làm cho cơ cấu chấp hành hoạt động.
Hiện nay, hầu hết các loại xe bơm bêtông đều sử dụng hai loại bơm thể
tích: Bơm bánh răng và bơm pittông rôto để cung cấp chất lỏng cho hệ thống
truyền động thuỷ lực. Gọi chung là bơm thể tích vì trong bơm,môi trường chất
lỏng chuyển động bằng cách thay đổi thể tích theo chu kì mà nó chiểm chỗ của
buồng từ khi chất lỏng đi vào cho đến lúc ra. Bơm pittông rôto được sử dụng
nhiều là do nó có một số ưu điểm phù hợp:
- Tạo được áp suất cao cho chất lỏng với lưu lượng không lớn
- Làm việc với số vòng quay tương đối lớn thích hợp với số vòng
quay của động cơ dẫn động (chủ yếu động cơ Điezen).
- Có khả năng thay đổi lưu lượng một cáh dễ dàng,trong khi vẫn giữ
nguyên áp suất và số vòng quay làm việc.
Bơm pittông rôto có thể chia ra làm hai loại chính :
- Bơm pittông rôto hướng kính.
- Bơm pittông rôto hướng trục.
So với bơm pittông rôto hướng kính thì bơm pittông rôto hướng trục
thường sử dụng trên xe bơm bêtông hơn bởi vì :
- Trọng lượng trên một đơn vị công suất của máy bơm piston-rotor
hướng trục nhỏ hơn khoảng 2÷ 3 lần so với bơm pittông rôto hướng kính do đó
kích thước của bơm piston hướng trục nhỏ gọn hơn, dể bố trí dưới gầm xe.
- Mômen quán tính của rôto tương đối nhỏ cho phép nâng cao số
vòng quay để có lưu lượng lớn hơn cung cấp cho hệ thống.
Đối với bơm pittông rôto hướng trục thì có thể chia ra các loại :
- Theo kết cấu bơm :
+ Bơm pittông rôto hướng trục thân nghiêng: loại bơm này thân
xilanh được bố trí lệch góc so với đường tâm trục chủ động.
+ Bơm pittông rôto hướng trục đĩa nghiêng: tương tự trên đĩa
phân phối của bơm được bố trí nghiêng so với đường vuông góc với đường
tâm trục.
6 5 4 3
2
7
1
9
14
13
10 11 12
A
C
3 4 5 6
2
7
1
8
14 13
12 10
11
2 3 4 5 6
10
9 8 7
Hình 3-7. Bơm dẫn động quả lắc.
1- Trục; 2-Đĩa nghiêng; 3-Thân bơm; 4-Pittông; 5-Xilanh; 6-Đế bơm; 7- Đường
dẫn chất lỏng; 8-Vành ma sát ;9-Lỗ xã chất bẩn; 10-Ổ đỡ trục.
Cấu tạo của bơm gồm trục (1) có hai đầu gôid trên hai ổ đỡ (10). Bên trong
thân bơm (3) là cụm xilanh thủy lực (5) được gắn trên trục. Các pittông thủy lực
(4) đặt ở trong cụm xilanh và đầu các pittông này tì đĩa nghiêng (2) thông qua
vành ma sát (8). Chất lỏng vào và ra khỏi bơm theo đường (7). Đế bơm được lắp
vào thân nhờ các đai ốc. Lỗ (9) dùng để xả chất bẩn ra khỏi bơm.
b) Nguyên lí làm việc.
Khi trục (1) quay làm cho cụm xilanh và pittông thủy lực gắn trên nó quay
theo. Các pittông ở phía trên có xu hướng chuyển động ra xa xilanh làm cho thể
tích buồng xilanh tăng lên đồng thời áp suất giảm xuống nên chất lỏng từ buồng
chứa được hút vào trong bơm. Còn các pittông bên dưới chuyển động theo hướng
ngược lại để đẩy chất lỏng có áp suất cao từ bơm đến cơ cấu chấp hành.
3.3.1.4. Bơm tăng cường.
a) Cấu tạo:
5 6 7 8 9
10
Để điều khiển công việc của thiết bị dẫn động thuỷ lực trong xe bơm bêtông
thì người công nhân sử dụng trực tiếp các cơ cấu điều khiển: áp lực trong ống
dẫn và trong hệ thống thiết bị dẫn động thuỷ lực, hướng chuyển động của dòng
chất lỏng công tác, trong đó bao gồm cả việc phân phối dòng này vào trong động
cơ thuỷ lực, lượng cung cấp (lưu lượng) chất lỏng tới các động cơ thuỷ lực.
Có hai chế độ điều khiển một số trong số các cơ cấu điều chỉnh tác dụng tự
động vào hệ thống điều khiển, còn một số khác thì đặt dưới sự kiểm soát của
người điều khiển.Cơ cấu để điều chỉnh áp lực thông thường là các thiết bị điều
chỉnh tự động. Trong đa số các trường hợp thì người công nhân điều khiển các cơ
cấu dùng để điều chỉnh hướng chuyển động và lượng tiêu thụ chất lỏng. Sự thay
đổi hướng chuyển động và lượng chất lỏng công tác đưa vào động cơ thuỷ lực sẽ
quyết định sự thay đổi tương ứng và tốc độ chuyển động của các cơ cấu trong hệ
thống bơm trên xe bơm bêtông.
Cơ cấu dùng để điều chỉnh áp suất, lưu lượng hoặc hướng của dòng chất
lỏng thường là các van và cụm van. Căn cứ vào chức năng của van, có thể chia
chúng thành ba nhóm chính: van một chiều, van an toàn và van giảm áp.
- Van một chiều :dùng để giữ cho chất lỏng chỉ chảy theo một chiều
nhất định. Theo kết cấu van một chiều bao gồm các loai :
+ Loại bi cầu.
+ Loại hình nón (côn).
+ Loại pittông.
Với hai loại trên tuy có kết cấu đơn giản, ít gây sức cản
nhưng khó đóng khít gây nên hiện tượng rò rỉ chất lỏng. Mặc dù van loại piston
đóng khít hơn vì khi đóng có thành xylanh dẫn hướng nhưng ma sát lớn hơn do
đó tổn thất thuỷ lực nhiều hơn.
- Van an toàn được sử dụng để bảo vệ các cơ cấu làm việc và các
thành phần thuỷ lực không bị quá tải và hạn chế áp lực chất lỏng trong hệ thống
ở một phạm vi cho phép. Phân loại theo chức năng làm việc chia các loại sau:
+ Van chống đỡ.
+ Van tràn.
Dựa vào nguyên lý hoạt động, ta chia van an toàn ra làm hai loại :
+ Van an toàn tác dụng trực tiếp : là van mà trong đó kích thước hình
học của cửa lưu thông được thay đổi chỉ do tác dụng của chất lỏng làm việc
Van bi: đây là loại van có kết cấu đơn giản, giá thành chế
tạo rẽ.
Nguyên lý làm việc của van này dựa vào sự cân bằng áp lực của
chất lỏng và ứng lực lò xo tác dụng lên viên bi. Phạm vi sử dụng của loại van này
bị hạn chế bởi vì nó khó đóng khít, đồng thời khi đóng va đập vào đế van.
Van côn: Mặc dù có cấu tạo hoàn thiện hơn so với van bi
nên độ kín khít tốt hơn. Tuy nhiên, khi đóng nắp van va đập vào đế van làm cho
bề mặt đế và van bị mài mòn nhanh chóng. Vì thế, ống dẫn và ống nối bị giản nỡ
ảnh hưởng đến tuổi thọ của hệ thống.
Van pittông: Tương tự như van một chiều kiểu pittông và
thường được sử dụng trong hệ thống có lưu lượng chất lỏng lớn. Tuy nhiên, trong
trường hợp áp suất cho phép của hệ thống cao nhằm giảm bớt lực tác dụng
và kích thước của lò xo người ta thường sử dụng van pittông có tác dụng vi sai,
vì lúc này áp lực chỉ tác dụng lên một phần diện tích của van.
- Van an toàn tác dụng gián tiếp (hay tác dụng tuỳ động): là van mà
trong đó kích thước hình học của cửa lưu thông và số cửa lưu thông được thay
đổi không chỉ do tác dụng của dòng chất lỏng qua nó mà còn do tác dụng của cơ
cấu phụ. Người ta còn gọi van này là van an toàn có tác dụng tuỳ động.
+ Ưu điểm: van an toàn có tác dụng tuỳ động không những bảo vệ
cho hệ thống không bị quá tải mà còn ổn định được áp suất làm việc trong hệ
thống và không gây va đập trong van.
+ Nhược điểm: kết cấu phức tạp hơn so với van tác dụng trực tiếp.
Phạm vi ứng dụng: thường sử dụng để hạn chế áp lực khi truyền dẫn công suất
lớn.
- Van giảm áp: duy trì ở đường ra một áp lực cố định mà không phụ
thuộc vào áp lực ở đường vào của van.
Cũng như các hệ thống thuỷ lực khác, để đảm bảo chế độ làm việc ổn định
và truyền động theo ý muốn nên trong hệ thống truyền động thuỷ lực của xe bơm
bêtông người ta trang bị các van : van an toàn, van một chiều, van giảm áp .v.v...
Tuỳ theo cơ cấu chấp hành và áp lực của chất lỏng mà ta bố trí cho phù hợp.
Mặc dù, van an toàn có tác dụng tuỳ động vừa bảo vệ cho hệ thống khỏi
quá tải vừa ổn định được áp suất làm việc nhưng do kết cấu phức tạp, giá thành
đắt nên với việc truyền dẫn công suất không quá lớn, trên xe bơm bêtông
Putzmeister , ta có thể sử dụng van an toàn có tác dụng trực tiếp.
3.3.2.1. Cơ cấu điều chỉnh dòng chảy.
a) Van một chiều.
Được dùng để cho chất lỏng chảy theo một chiều và không cho chất lỏng
chảy theo chiều ngược lại. Chúng được phân chia theo kết cấu (kiểu bi và kiểu
côn) và theo nguyên tắc tác dụng (không điều khiển được và điều khiển được).
Hệ thống truyền động thuỷ lực xe bơm bêtông Putzmeister sử dụng loại van một
chiều không điều chỉnh được.
a.1) Kết cấu:
1 2 3
4
A
6
B 5
Chất lỏng có áp suất cao đi đến khoang A, dễ dàng thắng trở lực của lò xo
(5) và chảy vào khoang B lớn hơn áp lực trong khoang A, sực chênh lệch áp lực
trong đó càng lớn chừng nào, thì van pittông (2) càng bị ép mạnh vào đế tựa (6)
chừng ấy. Như vậy, chất lỏng chỉ có thể chảy từ khoang A sang khoang B. Quá
trình chảy ngược lại của chất lỏng không thể xảy ra vì áp lực của chính chất lỏng
đó sẽ ép chặt mặt trong của van sau khi đã đi qua lỗ khoan trên thân van pittông..
a.3) Vị trí đặt van và công dụng của nó.
Van mäüt chiãöu
B1 B1 B1 B1
A1 A1 A1 A1
chất lỏng cũng tác dụng lên pittông (4) dịch sang phải làm cho cân pittông đẩy
viên bi dịch chuyển theo ép lò xo áp lực lại khi đó sẽ có một dòng chất lỏng
chảy từ B2 về A2 .
b.3) Vị trí đặt van và công dụng của nó.
Chất lỏng từ bơm trước khi đến động cơ thuỷ lực thường bộ phân phối, đây
là nơi tập trung các đầu mối lưu thông của chất lỏng. Nói chung nó có hai phần
chính : vỏ và bộ phận đổi nhánh. Ở vỏ khoét các lỗ lưu thông nối với các lưới
ống của hệ thống thuỷ lực. Bộ phận đổi nhánh có thể di chuyển tương đối so với
vỏ để phân phối chất lỏng vào các cửa lưu thông. Bộ phận đổi nhánh có thể là
pittông bật, ngăn kéo, núm xoay…
Dựa vào kết cấu có thể chia bộ phân phối thuỷ lực ra làm hai loại:
- Loại con trược phân phối.
- Loại khoá phân phối
Dựa vào phương pháp điều khiển bộ phân phối thuỷ lực chia làm ba loại:
- Loại điều khiển bằng tay.
- loại điều khiển bằng thuỷ lực.
- Loại điều khiển bằng nam châm điện.
Dựa vào số cửa và vị trí làm việc bộ phân phối thuỷ lực chia ta làm nhiều
loai:
- Loại hai cửa hai vị trí.
- Loại ba cửa hai vị trí.
- Loại bốn cửa hai vị trí.
- Loại ba cửa ba vị trí.
- Loạibốn cửa ba vị trí.
Trên xe bơm bêtông Putzmeister sử dụng chủ yếu là các loại con trược
phân phối được điều khiển bằng tay, thuỷ lực, nam châm điện với nhiều vị trí làm
việc và cửa khác nhau.Ta gọi chúng là các van đảo chiều.
d.1) Van phân phối bốn cửa hai trạng thái điều khiển bằng nam châm
điện.
d.1.1) Cấu tạo.
1 2 3 4 5 6
T AP B
P A B T T B
T B A P P A
Hình 3-16. Vị trí đặt van phân phối điều khiển bằng điện từ.
Van phân phối điều khiển bằng điện từ được đặt trước các van phân phối
thủy lực đảo chiều cung cấp chất lỏng đến xilanh điều khiển quả lắc và xilanh
đảo chiều cung cấp của bơm chính. Khi nhận tín hiệu từ cảm biến hành trình thì
van phân phối điều khiển đảo chiều đồng thời các van phân phối thủy lực làm
cho bơm bêtông và quả lắc luôn luôn làm việc đúng vị trí.
d.2.) Van phân phối bốn cửa ba trạng thái điều khiển bằng tay.
d.2.1) Cấu tạo.
2 3 4 5
T A P B
8 7
4:1
Hình 3-17. Van phân phối điều khiển bằng tay.
1-Nắp van; 2-Cần điều khiển; 3-Vít; 4-Thân van; 5-Con trượt; 6-Lò xo; 7- Vòng
làm kín; 8-Cơ cấu định vị con trượt.
Cấu tạo của van gồm con trượt phân phối (5) được đặt trong thân của van,
hai đầu của nó có hai lò xo (6) tì lên nắp van (1) để giữ cho con trượt luôn ở vị trí
trung gian khi van không làm việc. Cần (2) có nhiệm vụ điều khiển vị trí làm
việc của con trượt. Cơ cấu định vị (8) giữ cho con trượt luôn ở vị trí do cần điều
khiển.
d.2.2) Nguyên lí làm việc.
Ban đầu khi người điều khiển chưa điều khiển cần thì con trượt (5) sẽ ở vị
trí trung gian và được định vị bởi hai lò xo (6) và cơ cấu định vị (8). Lúc này các
đường dẫn chất lỏng không được đưa qua van.Giả sử người công nhân gạt cần
sang phải tạo áp lực thắng được áp lực của lò xo (6) bên trái làm cho con trượt
(5) dịch chuyển sang trái lúc này đường cấp Psẽ được nối thông với đường A để
đưa chất lỏng đến cơ cấu chấp hành, đường B sẽ được nối thông với đường hồi T
để đưa chất lỏng về thùng chứa.
d.2.3) Vị trí lắp đặt và công dụng.
Các van loại này được đặt ở cửa vào của các cơ cấu chấp hành như: môtơ
thuỷ lực dẫn động cánh khuấy,môtơ thuỷ lực dẫn động bơm nước, xilanh thuỷ
lực chân chống, môtơ thuỷ lực quay chân chống. Do điều khiển bằng tay nên các
van này được bố trí bên ngoài thân xe, và chúng được điều khiển khi bơm bêtông
chưa làm việc hoặc đã làm việc xong. Mục đích của van laọi này làm đảo chiều
hoạt dộng của cơ cấu chấp hành.
Van phán phäúi âiãöu
khiãøn bàòng tay
P T
Hình 3-18. Vị trí đặt van phân phối điều khiển bằng tay.
d.3) Van phân phối bốn cửa ba trạng thái điều khiển bằng thuỷ lực.
d.3.1) Cấu tao.
1 2 3 4
T A P B
6
Hình 3-19. Van phân phối điều khiển bằng thuỷ lực.
1-Nắp van; 2-Thân van; 3-Con trược phân phối; 4-Đường dẫn chất lỏng điều
khiển; 5-Lò xo định vị; 6- Đệm làm kín.
Cấu tạo của van gồm con trược phân phối (3) được đặt trong thân van, con
trược này được định vị nhờ hai lò xo (5) ép lên vai trục của nó.Hai đầu của thân
van được bắt hai nắp để thuận lợi cho việc tháo lắp.Trên thân van được khoan hai
lỗ (4) để dẫn chất lỏng đưa đến điều khiển con trược. Giữa mối ghép của thân và
nắp van được lồng vào đệm làm kín (6) để ngăn không cho chất lỏng rò rỉ ra bên
ngoài.
d.3.2) Nguyên lí làm việc.
Ở trạng thái bình thường, khi chưa có chất lỏng đưa đến đường ống (4) thì
con trược sẽ được hai lò xo ở hai đầu con trược định vị cho nó ở vị trí trung gian.
Lúc này chất lỏng không được cung cấp đến các xilanh thủy lực. Khi có chất
lỏng đưa đến điều khiển con trược thì chất lỏng có áp suất cao sẽ được đưa đến
một xilanh đồng thời chất lỏng ở xilanh kia sẽ đưa qua van về thùng chứa.
d.3.3) Vị trí đặt van và công dụng của nó
B T
A P
Hình 3-20. Vị trí đặt van phan phối điều khiển bằng thủy lực trong mạch.
Van phân phối điều khiển bằng thủy lực được lắp trước cửa vào của các
xilanh điều khiển quả lắc và nó có nhiệm vụ đảo chiều cung cấp chất lỏng đến
các xilanh này, qua đó đảo vị trí làm việc của quả lắc.
3.3.2.2. Cơ cấu điều chỉnh áp suất.
a) Van an toàn.
a.1) Cấu tạo.
1 2 3 4 5 6 7 8 9
và lò xo (8) được lắp trong cốc. Nút (2) trượt trong thân đế tựa (3) nhằm đảm bảo
cho sự đồng trục của van. Để thay đỗi ứng lực lò xo người ta điều chỉnh bằng vít
(10) và được cố định bởi nắp đậy (12). Sau khi điều chỉnh xong tiến hành niêm
chì (9) để giữ ở vị trí không đổi.
a.2) Nguyên lý làm việc :
Van an toàn được lắp đặt ống dẫn của hệ thống thuỷ lực. Chất lỏng có áp
lực đi vào thân (1), tác động lên mặt đầu của van.
Nếu áp lực chất lỏng nhỏ hơn ứng lực của lò xo thì lúc này van chưa làm
việc, chất lỏng tiếp tục đi vào cung cấp cho các khoang công tác của các cơ cấu
làm việc.
Nếu áp lực của chất lỏng đủ lớn thắng được ứng lực của lò xo, lúc này van
an toàn hoạt động cho phép chất lỏng chảy qua van (4) thông với đường tháo
chất lỏng tránh được quá tải cho hệ thống.
a.3) Vị trí lắp đặt và công dụng của nó.
Van an toaìn
B T
A P
250 bar
360 bar
giảm bớt áp suất dòng chất lỏng từ bơm đưa đến và khi áp suất đạt giá trị giới
hạn thì van an toàn sẽ đóng lại để duy trì áp suất ổn định trong mạch.
Khi các pittông đến cuối hành trình thì nó sẽ đảo chiều chuyển động sẽ có
thời điểm pittông dừng lại trước khi đảo chiều trong khi đó bơm vẫn tiếp tục
cung cấp chất lỏng đến các xilanh, do chất lỏng không có khả năng chịu nén nên
làm cho áp suất trong mạch tăng lên một cách đột ngột dẫn đến làm hư hỏng
bơm, cơ cấu điều khiển và cơ cấu chấp hành. Lúc này van an toàn sẽ làm việc để
giữ cho áp suất trong mạch luôn ổn định và không vượt quá giá trị giới hạn.
b) Van giảm áp.
b.1) Cấu tạo.
1 2 3 4
8 7 6 5
Khi áp suất ở cửa ra tăng lên nghĩa là áp lực tác dụng lên viên bi (5) và vượt
quá ứng lực của lò xo (7) thì viên bi được mở. Khi đó chất lỏng từ buồng B chảy
về phía nút (8) và đi vào lỗ trong van pittông (2) qua van bi thoát về thùng chứa.
Do áp lực khi đi qua tiết lưu ở đầu lỗ trong van pittông (2) bị tổn thất áp suất nên
áp lực trong pittông về phía trước tiết lưu lớn hơn so với áp lực buồng trên van
pittông (2). Do đó pittông (2) được đẩy sang bên phải cho đến khi cân bằng áp
lực chất lỏng và ứng lực lò xo tác dụng lên nó.
Khi pittông (2) được nâng lên, diện tích cửa lưu thông giữa buồng A và
buồng B bị hẹp lại, kết quả áp suất trong buồng A cao hơn áp suất trong buồng B.
Nếu vì một lý do nào đó, áp suất trong buồng B bị giảm xuống thì sự cân
bằng lực tác dụng lên van pittông (2) bị phá vỡ. Sở dĩ như vậy là vì áp lực tác
dụng lên van pittông (2) về phía đuôi giảm đi xo với trường hợp cân bằng trước.
Do đó lò xo (3) đẩy pittông (2) sang bên trái, mở rộng thêm diện tích lưu thông
giữa buồng A và buồng B. Kết quả là áp suất trong buồng B được tăng lên cho
đến khi trở về vị trí cũ.
Nếu trong quá trình làm việc, ta luôn luôn để cho một ít chất lỏng tháo qua
van bi tùy động thì nhờ hoạt động của van giảm áp tùy động mà áp suất sau van
được giữ luôn luôn không đổi và có trị số nhỏ hơn áp suất do bơm tạo ra. Có thể
tạo được áp suất ra theo ý muốn bằng cáhc điều chỉnh ứng lực của lò xo (7).
b.3) Vị trí đặt van và công dụng của nó.
Các van giảm áp nằm giữa các xilanh điều khiển cần bơm và van phân
phối của nó.
Do áp suất làm việc của các các xilanh thủy lực nâng hạ cần bơm khác nhau
nên trong mạch được lắp các van giảm áp trước cửa vào của van phân phối. Áp
suất ở cửa ra của các van giảm áp được điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện
làm việc của các xilanh thủy lực. Trong quá trình làm việc áp xuất trong các
xilanh thủy lực có thể tăng lên khi các pittông đến cuối hành trình làm việc, hoặc
áp suất có thể giảm xuống do tác dụng của các lực bên ngoài do đó van giảm áp
được lắp trong mạch với mục đích giảm áp suất được cấp từ nguồn xuống sao
3195989