Professional Documents
Culture Documents
Khảo Sát Kiến Thức Và Thực Hành Về an Toàn Truyền Máu Của Điều Dưỡng Tại Bệnh Viện Đa Khoa Thành Phố Cần Thơ
Khảo Sát Kiến Thức Và Thực Hành Về an Toàn Truyền Máu Của Điều Dưỡng Tại Bệnh Viện Đa Khoa Thành Phố Cần Thơ
Để hoàn thành tiểu luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn:
Quý thầy cô trong Ban Giám hiệu, phòng Đào tạo, khoa Dược - Điều dưỡng, các
phòng ban của trường Đại học Tây Đô đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi thực hiện tiểu luận này.
Cô Ths. Trần Trúc Linh, người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện tiểu luận.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Bác sĩ và Điều dưỡng tại bệnh viện
đa khoa Thành phố Cần Thơ đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập số
liệu.
Các bạn đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã động viên, ủng hộ tôi trong quá trình học
cũng như thực hiện tiểu luận này.
Sinh viên
i
LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu thu
được trong tiểu luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công
trình nghiên cứu nào khác.
Sinh viên
ii
TÓM TẮT
An toàn truyền máu là một trong những yêu cầu cơ bản của truyền máu. An toàn
truyền máu là một quy trình khép kín từ việc chỉ định truyền máu đúng, sử dụng đúng
máu và các chế phẩm phù hợp, theo dõi và xử trí tốt các biểu hiện trong quá trình
truyền máu, theo dõi các tai biến có thể xảy ra trong và sau khi truyền… nhằm hạn chế
và phòng ngừa các phản ứng bất lợi có thể ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân cũng
như sức khỏe của bệnh nhân về sau. An toàn truyền máu ngày nay được hiểu theo
nghĩa rộng là an toàn cho người cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền
máu và an toàn cho người nhận máu.
Hiện nay, tại các cơ sở điều trị, công tác truyền máu thường do điều dưỡng đảm nhận,
do đó người điều dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng, cuối cùng của việc thực hiện
truyền máu an toàn. Vì vậy, yêu cầu người điều dưỡng cần có đầy đủ kiến thức và kỹ
năng về an toàn truyền máu là điều rất cần thiết tại cơ sở y tế. Xuất phát từ thực tế trên
nên đề tài: “Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều
dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017” được tiến hành
nghiên cứu.
Đề tài được tiến hành nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa
khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017.
2. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa
khoa Thành phồ Cần Thơ năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Kết quả: kiến thức và thực hành của điều dưỡng về an toàn truyền máu còn rất hạn
chế, điều dưỡng có kiến thức đúng đạt chiếm 21,1%, điều dưỡng có thực hành đúng
đạt chiếm 42,2%; còn 9,2% điều dưỡng thỉnh thoảng hoặc không làm phản ứng chéo
tại giường trước khi truyền máu; 87,2% điều dưỡng có thực hiện phản ứng vi sinh vật
khi truyền máu; 42,2% điều dưỡng không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi
truyền; có 55% điều dưỡng biết được nhiệt độ thích hợp để bảo quản máu là 2-6 0C;
hơn 85% điều dưỡng biết được các chỉ định truyền máu và 99,1% điều dưỡng biết
truyền máu cùng nhóm là tốt nhất; đa số các điều dưỡng biết được các vấn đề cần theo
dõi trong suốt quá trình truyền máu chiếm gần 80% và có 94,5% điều dưỡng biết
ngừng truyền máu ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường; có 64,2% điều dưỡng biết
được thể tích máu cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu,….
Kết luận: việc nâng cao kiến thức và thực hành an toàn truyền máu cho điều dưỡng là
rất quan trọng, vì vậy cần tăng cường tập huấn và giám sát thường xuyên quy trình
truyền máu nhằm đảm bảo an toàn cho người bệnh.
iii
MỤC LỤC
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức về an toàn truyền máu ................................. 13
Bảng 3.2. Nội dung đánh giá kiến thức ......................................................................... 13
Bảng 3.3. Tiêu chuẩn đánh giá thực hành về an toàn truyền máu ................................. 14
Bảng 3.4. Nội dung đánh giá thực hành ........................................................................ 14
Bảng 4.1. Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu .................................................... 17
Bảng 4.2. Y lệnh truyền máu tại khoa ........................................................................... 17
Bảng 4.3. Nguồn tiếp nhận thông tin về an toàn truyền máu ........................................ 18
Bảng 4.4. Số nguồn tiếp nhận thông tin ........................................................................ 18
Bảng 4.5. Các chỉ định truyền máu ............................................................................... 19
Bảng 4.6. Nhóm máu truyền được an toàn .................................................................... 19
Bảng 4.7. Sơ đồ truyền máu hệ ABO ............................................................................ 19
Bảng 4.8. Số máu tối đa khi truyền máu khác nhóm..................................................... 20
Bảng 4.9. Nhiệt độ thích hợp khi bảo quản máu ........................................................... 20
Bảng 4.10. Các tai biến xảy ra khi truyền máu ............................................................. 20
Bảng 4.11. Thực hiện phản ứng chéo tại giường .......................................................... 21
Bảng 4.12. Thực hiện phản ứng sinh vật học trước khi truyền máu ............................. 21
Bảng 4.13. Thời gian cần thiết để làm nguội máu trước khi truyền .............................. 22
Bảng 4.14. Nhiệm vụ theo dõi bệnh nhân trong suốt quá trình truyền máu ................. 22
Bảng 4.15. Việc làm đầu tiên khi có dấu hiệu bất thường ............................................ 22
Bảng 4.16. Thể tích cần giữ lại trong túi máu khi kết thúc truyền máu ........................ 22
Bảng 4.17. Những vấn đề cần theo dõi khi truyền máu ................................................ 23
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
viii
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU
Trong thực hành y khoa, máu rất quan trọng và cần thiết cho việc điều trị nội khoa, cấp
cứu ngoại khoa và sản khoa; đồng thời nó cũng rất cần trong việc triển khai nhiều kỹ
thuật cao như ghép tạng, mổ tim,.... Nhờ có máu mà nhiều bệnh nhân đã được cứu
sống. Tuy nhiên, việc truyền máu có thể gây ra nhiều tai biến nghiêm trọng nếu không
được bảo đảm và tuân thủ các nguyên tắc về an toàn truyền máu [9]. Truyền máu là
một phương pháp điều trị không thể thiếu trong rất nhiều chuyên khoa. Bên cạnh việc
cứu sống bệnh nhân, mang lại hiệu quả điều trị mà chưa có một dược phẩm nào thay
thế được, các phản ứng miễn dịch của truyền máu có thể gây tử vong trước mắt và ảnh
hưởng sức khỏe người bệnh về sau nếu việc truyền máu không tuân thủ đúng quy chế
truyền máu [14].
Hàng năm toàn thế giới (176 nước) có trên 100 triệu đơn vị máu được thu thập để
truyền cho người bệnh, tuy nhiên con số này so với nhu cầu điều trị vẫn còn rất thiếu.
Mỗi năm có khoảng 500.000 phụ nữ chết khi sinh con, hầu hết những phụ nữ này
thuộc các nước đang phát triển và trong số các trường hợp trên có 25% người mẹ sinh
con bị chết vì mất máu nặng. Máu quan trọng như vậy nhưng truyền máu cũng có thể
làm lây truyền một số bệnh từ người cho máu sang người bệnh nếu các nguyên tắc về
an toàn truyền máu không được tôn trọng [6]. Báo cáo hàng năm tại Anh cho thấy việc
không xác định nhóm máu và các thành phần của nó, xác định sai bệnh nhân và không
kiểm soát bệnh nhân trong quá trình truyền máu là nguyên nhân chính xảy ra các nguy
cơ sai lầm nghiêm trọng của việc truyền máu [17].
Tại Việt Nam, vấn đề về an toàn truyền máu chưa được xác định đầy đủ. Có rất ít tài
liệu và giám sát về an toàn truyền máu được công bố. Tình hình ở nước ta nhu cầu
máu rất lớn, với gần 80 triệu dân, với số lượng người bệnh hàng năm chúng ta cần
khoảng 400.000 lít máu [14]. Năm 2013, tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ sử
dụng hơn 7.000 đơn vị máu để điều trị cho người bệnh cùng với sự phát triển các
chuyên khoa sâu, theo dự đoán số lượng máu sử dụng sẽ tăng hơn nữa vào những năm
mới. An toàn truyền máu là một chuỗi các hoạt động gắn kết chặt chẽ và đan xen với
nhau; bất kỳ một mắc xích nào trong chuỗi hoạt động này không được thực hiện bảo
đảm đúng nguyên tắc quy định thì sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của
người bệnh [9].
Hiện nay, tại các cơ sở điều trị, công tác truyền máu thường do điều dưỡng đảm nhận,
do đó người điều dưỡng giữ vai trò hết sức quan trọng, cuối cùng của việc thực hiện
truyền máu an toàn. Vì vậy, yêu cầu người điều dưỡng cần có đầy đủ kiến thức và kỹ
năng về an toàn truyền máu là điều rất cần thiết tại cơ sở y tế [14]. Xuất phát từ thực tế
trên nên đề tài: “Khảo sát kiến thức và thực hành về an toàn truyền máu của điều
1
dưỡng tại bệnh viện đa khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017” được tiến hành
nghiên cứu.
Đề tài được tiến hành nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa
khoa Thành phố Cần Thơ năm 2017.
2. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đúng về an toàn truyền máu tại bệnh viện đa
khoa Thành phồ Cần Thơ năm 2017.
2
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
5 bệnh nhiễm trùng theo yêu cầu của Tổ chức y tế thế giới: HIV, giang mai, sốt rét,
HBV, HCV.
- Truyền máu luôn được coi là một trong những chiến lược ưu tiên hàng đầu do dịch
HIV/AIDS ngày càng lan rộng trong cộng đồng và tỷ lệ nhiễm HIV từ 5-10% trên toàn
thế giới thông qua truyền máu và các chế phẩm máu. Việc lây nhiễm này có thể được
loại trừ nếu biết phối hợp và thực hiện tốt chương trình Truyền máu quốc gia [3].
- Ở Việt Nam, TM là một bộ phận của hệ thống huyết học và truyền máu [1]. Tại trung
ương Viện huyết học - truyền máu được đặt tại bệnh viện Bạch Mai, tại tuyến tỉnh,
thành phố bộ phận TM này thường được đặt trong khoa huyết học và truyền máu.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của hệ thống y tế trong toàn quốc,
công tác TM cũng ngày càng được củng cố và nâng cao nhờ sự quan tâm của Nhà
nước nói chung và của ngành y tế nói riêng [1].
2.2. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN TRUYỀN MÁU
2.2.1. Định nghĩa
2.2.1.1. Máu
Máu là một tổ chức di động được tạo thành từ thành phần hữu hình là các tế bào (hồng
cấu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Chức năng chính của máu là cung cấp các chất
nuôi dưỡng và cấu tạo các tổ chức cũng như loại bỏ các chất thải trong quá trình
chuyển hóa của cơ thể như khí carbonic và acid lactic. Máu cũng là phương tiện vận
chuyển của các tế bào và các chất khác nhau như amino acid, lipid, hormone giữa các
tổ chức và cơ quan trong cơ thể.
2.2.1.2. Truyền máu
Theo quy chế TM (2007), TM lâm sàng là các hoạt động liên quan đến việc đưa máu
và các chế phẩm máu vào trong mạch máu của người nhận [2]. TM là một khâu trọng
yếu của hệ thống cấp cứu và điều trị thương bệnh binh, BN và nạn nhân. Muốn TM
hiệu quả và an toàn (AT), điều cấp thiết là phải có đủ số lượng máu và đảm bảo đúng
chất lượng [7].
TM được sử dụng trong nhiều tình huống, nhiều chuyên khoa nhằm bổ sung cho sự
thiếu hụt một hoặc nhiều thành phần trong máu của người bệnh. BN thiếu máu có thể
được TM toàn phần hoặc các chế phẩm như: khối hồng cầu, khối bạch cầu, khối tiểu
cầu, các chế phẩm huyết tương,… tùy thuộc vào tình trạng bệnh [10].
2.2.1.3. An toàn truyền máu
ATTM là một trong những yêu cầu cơ bản của truyền máu [10]. ATTM là một quy
trình khép kín từ việc chỉ định truyền máu đúng, sử dụng đúng máu và các chế phẩm
phù hợp, theo dõi và xử trí tốt các biểu hiện trong quá trình TM, theo dõi các tai biến
(TB) có thể xảy ra trong và sau khi TM… nhằm hạn chế và phòng ngừa các phản ứng
bất lợi có thể ảnh hưởng đến tính mạng BN cũng như SK của BN về sau [14]. ATTM
5
ngày nay được hiểu theo nghĩa rộng là AT cho người cho máu, AT cho nhân viên làm
công tác TM và AT cho người nhận máu [9]. Những yêu cầu của ATTM là:
- An toàn về số lượng: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, thường xuyên, ổn định máu
và các chế phẩm máu có chất lượng cho điều trị, cấp cứu, dự phòng thảm họa. Đảm
bảo về số lượng máu bao gồm đảm bảo cơ số theo từng chế phẩm máu cần cho điều trị
và theo các NM (hệ ABO, hệ Rh,…) [10].
- An toàn về chất lượng: máu được lấy từ người hiến máu tự nguyện [10]. Phải được
ưu tiên lấy máu ở vùng có nguy cơ thấp nhất để tránh giai đoạn cửa sổ, lấy máu phải
được khám xét cẩn thận để tìm ra được các yếu tố bất thường, để chăm sóc SK và tư
vấn cho người hiến máu [7]. Máu và các chế phẩm của máu có chất lượng được cung
cấp cho các cơ sở y tế mọi khu vực nhằm đảm bảo công bằng cho người dân trong
hưởng thụ dịch vụ TM.
- An toàn cho người hiến máu: người hiến máu phải được tư vấn, khám lâm sàng, xét
nghiệm tuyển chọn, chăm sóc và hướng dẫn đầy đủ chu đáo trong quá trình hiến máu
nhằm giảm các TB. Người hiến máu là người khỏe mạnh, có đủ điều kiện theo quy
định và tự nguyện hiến máu toàn phần hay một số thành phần của máu [2].
- An toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu: được trang bị đầy đủ các kiến thức
về ATTM, được bảo hộ lao động và đảm bảo các vấn đề pháp lý.
- An toàn cho người nhận máu: đảm bảo AT về số lượng máu, đảm bảo mọi nhu cầu
về máu khi người bệnh cần, đảm bảo về chất lượng máu và thực hiện đầy đủ quy định
và quy trình về TM.
Tuy nhiên, những năm gần đây, ngày càng xuất hiện nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng
tới ATTM như: sự xuất hiện các mầm bệnh lây qua đường TM, sự xuất hiện và bùng
phát cá vụ dịch với các dạng biến thể của các chủng virus… làm nguồn người hiến
máu có xu hướng bị thu hẹp. Do đó, việc áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo ATTM
ở mỗi quốc gia càng trở nên cấp thiết [10].
2.2.2. Các trường hợp được và không được truyền máu
2.2.2.1. Các trường hợp được truyền máu
Có nhiều lý do mọi người được TM bao gồm phẩu thuật, bệnh tật, thương tích và bệnh
tật. Tùy vào nguyên nhân mà người nhận được TM toàn phần hay các chế phẩm của
máu.
- Phẫu thuật, chấn thương hay bệnh thiếu máu: mất máu trong khi phẫu thuật hoặc
chấn thương có thể yêu cầu truyền những gì được gọi là “đóng gói các tế bào máu đỏ”,
có nghĩa là máu nhất định có chứa một nồng độ của các tế bào máu chủ yếu là màu đỏ.
Ngoài ra, thiếu máu là khi có các tế bào máu quá ít màu đỏ, có thể yêu cầu truyền các
tế bào máu đỏ đóng gói.
6
- Xuất huyết: cần TM để bù lại lượng máu đã mất đồng thời cung cấp thêm các yếu tố
đông máu [4].
- Giảm tiểu cầu, thiếu hụt các yếu tố đông máu bẩm sinh hay mắc phải.
- Ung thư: ung thư có thể làm giảm sản xuất các tế bào máu đỏ, các tế bào bạch cầu và
tiểu cầu của cơ thể bằng cách tác động đến các cơ quan có ảnh hưởng đến máu, chẳng
hạn như thận, tủy xương và lách. Thuốc được sử dụng trong hóa trị liệu cũng có thể
làm giảm các thành phần của máu như vậy trong các loại bệnh ung thư thì rất cần phải
TM.
- Nhiễm trùng, suy gan hoặc các vết bỏng nặng: có thể cần truyền huyết tương là một
phần chất lỏng của máu.
- Các rối loạn máu: những người có bệnh về máu và những người cấy ghép tế bào gốc
có thể được truyền các tế bào hồng cầu và tiểu cầu.
2.2.2.2. Các trường hợp không được truyền máu
Bên cạnh những trường hợp nhất thiết phải truyền máu thì cũng có một số trường hợp
không nên trường máu vì sẽ rất nguy hiễm cho tính mạng của người nhận máu như:
- Phù phổi cấp
- Viêm tắc động mạch hay tĩnh mạch
2.2.3. Nguyên tắc trong truyền máu
- Truyền cùng NM đề tránh kháng nguyên và kháng thể tương ứng gặp nhau gây ra
hiện tượng các hồng cầu kết dính với nhau (ngưng kết).
- Ngoài việc xác định NM của người cho và người nhận máu, cần phải làm phản ứng
chéo bằng cách trộn hồng cầu của người cho với huyết thanh của người nhận và ngược
lạ, trộn hồng cầu của người nhận với huyết thanh của người cho. Nếu không có hiện
tượng ngưng kết hồng cầu thì máu đó mới được truyền cho người nhận.
- Kiểm tra chất lượng máu: nhóm máu, số lượng, màu sắc, vô khuẩn. Theo dõi quá
trình TM, dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân, dây TM, tốc độ chảy [4].
- Trong trường hợp cấp cứu không có máu cùng nhóm thì truyền máu khác nhóm theo
quy tắc sau đây và số lượng ít hơn 2 đơn vị máu.
10
Nghiên cứu kiến thức và thực hành về ATTM của ĐD tại bệnh viện đa khoa Tiền
Giang năm 2009 của Trịnh Xuân Quang và các cộng sự đã ghi nhận được kết quả: kiến
thức và thực hành của ĐD về ATTM còn hạn chế; 58,9% điều dưỡng không biết nhiệt
độ bảo quản máu, 20% điều dưỡng không làm phản ứng chéo tại giường trước khi
truyền máu, 50% ĐD không nhớ thời gian làm nguội máu trước khi truyền, 79,2% ĐD
không thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu [14].
Khảo sát kiến thức về ATTM của ĐD tại bệnh viện Đa khoa Khu vực Định Quán năm
2014 của ĐD Phan Thị Kim Hoa - Hứa Hồng Tài kết quả cho thấy rằng: có 79% đối
tượng trả lời sai về chỉ định truyền máu trong chấn thương sọ não (một kỹ thuật mới
mà bệnh viện đã triển khai và đạt nhiều kết quả khả quan), có 7% nhân viên được hỏi
không biết tắc mạch là một TB thường xảy ra do kỹ thuật tiêm truyền của người điều
dưỡng; trong thực hành truyền máu, thực hiện phản ứng vi sinh vật khi truyền máu là
một yêu cầu bắt buộc phải làm nhưng chỉ có 66% nhân viên trả lời có làm, 34% không
làm, chỉ có 88% nhân viên trả lời đúng thời gian làm nguội máu trước khi truyền, 18%
nhân viên không nhớ [11].
11
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
13
Liệt kê đủ 5 tai biến:
- Tán máu cấp
Chọn 1 tai
- Phản ứng quá mẫn
4. Tai biến trong truyền máu biến 1 điểm,
- Nhiễm khuẩn
tối đa 5 điểm
- Phù phổi cấp do quá tải tuần
hoàn
- Tắc mạch
5. Đơn vị tối đa khi
Chọn câu: 2 đơn vị 1 điểm
truyềnmáu khác nhóm
6. Nhiệt độ bảo quản máu Chọn câu: 2-6 0C 1 điểm
14
Liệt kê đủ 6 vấn đề:
- Theo dõi dấu hiệu sinh tồn 15 phút
- Phản ứng tán huyết
- Theo dõi tình trạng người bệnh Chọn 1 vấn
5.Vấn đề cần theo dõi trong
như lạnh run, nổi mề đai đề 1 điểm, tối
truyền máu
- Theo dõi và điều chỉnh tốc độ máu đa 6 điểm
chảy đúng y lệnh
- Ủ ấm cho người bệnh khi truyền
máu
- Phù phổi cấp
6.Việc làm đầu tiên khi có
Chọn câu: ngưng truyền máu ngay 1 điểm
dấu hiệu bất thường.
7.Thể tích giữ lại trong túi
Chọn câu: 5-10 ml 1 điểm
máu
16
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
17
6444862