Professional Documents
Culture Documents
Hương
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học
dân gian
Tất cả các thành ngữ nói về những hoạt động xã hội khác nhau
như về hoạt động kinh tế “làm mướn không công”, “Thăm ván
bán thuyền”; về quan hệ ứng xử: “Bạc như vôi”, “Cố đấm ăn
xôi”, “Nóng nọc đứt đuôi”, “Cóc bôi vôi”, “Qua sông phụ sóng”,
khi vào thơ Hồ Xuân Hương đều có một chức năng thể hiện
duyên phận của người phụ nữ:
● Thành ngữ, tục ngữ trong văn học:
Có rất nhiều tác giả đã vận dụng vào trong thơ ca của mình
cũng như trước thời Hồ Xuân Hương tác gia Nguyễn Trãi đã
sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ
của mình.
vd1: tác phẩm “Quốc âm thi tập” thì ông đã sử dụng khá linh
hoạt nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, ca dao như :
“ Ở đấng thấp thì nên đấng thấp
Đen gần mực, đỏ gần son”
( Bảo kính cảnh giới, bài 21)
được lấy trong câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”
hay :
“ Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu, tốt thì đều rặp khuôn”
( Bảo kính cảnh giới, bài 21)
Được tác giả chuyển từ thành ngữ “ Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài” hay trong bài “Mạn thuật, bài 10” tác giả viết:
“ Lòng người tựa mặc ai ai
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo”
Được tác giả lấy trong câu tục ngữ:
“ Nhìn mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo cổ lòng mới ngon”.
vd2: Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã sử dụng rất độc đáo
những thành ngữ, tục ngữ:
“Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào”
“Ở đây tai vách mạch dừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi”
Trong nhiều trường hợp, nhà thơ thường tách tực ngữ, thành
ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ, hoặc để
nhấn mạnh ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ, hoặc để làm cho
nó phù hợp với vần điệu của câu thơ như:
“Biết bao bướm lả ong lơi”
Hay:
“Nàng rằng: non nước xa khơi.
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”
Ca dao trong “Truyện Kiều” được nhà thơ sử dụng như một thứ
chất liệu nghệ thuật, chứ không phải như những trích dẫn.
Không có câu nào ông dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều
được nhào nặn, cấu tạo lại cho phù hợp với phong cách của
nhà thơ trong tác phẩm.
● Thành ngữ, tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương:
Thành ngữ, tục ngữ, ca dao đi vào thơ của Hồ xuân Hương
một cách mộc mạc, giản dị và ngôn ngữ thơ của bà không
khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Có thể nói ngôn ngữ
trong thơ của Hồ xuân Hương là ngôn ngữ thuần túy Việt Nam.
Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập thơ Hồ Xuân
Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được
nhà xuất bản văn học xuất bản 1987 đã phát hiện 15 trường
hợp có xuất hiện yếu tố thành ngữ, tục ngữ trong câu thơ, đây
quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ,
ca dao trong thơ Nôm Hồ xuân Hương có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng. Việc đưa thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong
tác phẩm được bà xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn
vd1: bài “ Mời Trầu” có 2 câu thành ngữ “xanh như lá, bạc như
vôi” được dùng trong câu thơ
“ Đừng xanh như lá bạc như vôi”
vd2: bài “ Khóc Tổng Cóc” lại có 2 câu thành ngữ khác là
“nòng nọc đứt đuôi” và “gọt gáy bôi vôi” được vận dụng trong 2
câu thơ:
“ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng chuộc dấu bôi vôi”
vd3: bài “ Quan Thị” thì hai câu thơ:
“ Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu”
Là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ 2 câu tục ngữ:
“Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc” và “Đầu trỏ xuống, cuống
trỏ lên”.
vd4: Đặc biệt, trong bài “ Làm Lẽ” với 8 câu thơ ngăn nhưng lại
có 3 thành ngữ
“ Năm thì mười họa chăng hay chớ”
lấy từ ý của câu thành ngữ “Năm thì mười họa”, hay câu
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”
lấy từ ý của câu thành ngữ “ Cố đấm ăn xôi” hay câu
“cầm bằng làm mướn, mướn không công”
lấy từ ý của thành ngữ “mướn không công”. Ngoài ra còn có
những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục
ngữ như:
“ Tài tử văn nhân ai đó tả” (Tự tình I),
lấy ý của thành ngữ “tài tử, giai nhân”
“ ấy ai thăm ván cam lòng vậy” ( Tự Tình III)
lấy ý thành ngữ “ thăm ván bán thuyền” hay
“ Bảy nổi ba chìm với nước non” ( Bánh trôi nước)
lấy của thành ngữ “ba chìm bay nổi”,
“mỏi gối chôn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội)
ý của thành ngữ “mỏi gối chôn chân”…..
Đối với bài thơ "Bánh trôi nước", qua việc sử dụng thành ngữ
tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ một quan niệm tiến
bộ đó là con người (người phụ nữ) dù cuộc sống có gặp muôn
và khó khăn, gian khổ, tưởng chừng như là ngõ cụt buộc phải
đầu hàng số phận nhưng đằng sau tấm thân mảnh mai, yếu ớt
ấy là một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ nữ luôn
có ý thức tự vươn lên trước sự nghiệt ngã của cuộc đời. Hay
trong bài thơ "Làm lẽ", Hồ Xuân Hương đã phản ánh chân
thực và xúc động những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ
trong thân phận làm lẽ mọn. Tỏ thái độ bất bình, phản kháng
chế độ đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có
một chồng) một tập tục đã ngự trị dai dẳng và nghiệt ngã trong
xã hội phong kiến…
Bà không sử dụng hoàn toàn câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
của dân gian mà chỉ chắt lọc lấy những chi tiết nổi bật, cần thiết
từ những từ ngữ, thành ngữ; qua đó bộc lộ tình cảm và cảm
xúc của nhà thơ. Vận dụng ý tưởng “ngủ ngày” trong câu tục
ngữ "Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen
mồm" để làm bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”. Bài thơ “Thiếu nữ
ngủ ngày” ta thấy Hồ Xuân Hương đã vẽ ra những nét chấm
phá rất "hoàn thiện" và "toàn bích" trước vẻ đẹp trên thân thể
của người thiếu nữ. Trong tục ngữ và theo lối suy nghĩ của
nhân dân ta, kẻ hay ngủ ngày là những kẻ lười nhác, đây là
thói quen xấu cần phải phê phán. Đến với Xuân Hương lại
khác, khai thác ở một khía cạnh ngủ ngày nhưng ở một tư thế
rất đẹp, đầy sức thanh xuân:
“Đôi gò Đồng Đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.”
Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, cái đẹp lý tưởng. Đôi gò
đẹp tròn căng trên nương long ấy là đôi Bồng Đảo, cái lạch bên
dưới là một lạch Đào Nguyên. Cả hai đều là tiên cảnh, ở đó là
một sự sống tràn đầy, đây chính là cái đẹp hình thể cái đẹp của
sự sống.
=> Như vậy những câu thành ngữ, tục ngữ qua ngòi bút tài hoa
của Hồ xuân Hương dường như đã trở thành một thứ công cụ
hết sức đắc trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không
cần nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Bà “chúa thơ Nôm” Hồ
Xuân Hương đã rất giỏi và thành công ở biệt tài trong việc vận
dụng thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ nôm đường luật. Hồ
Xuân Hương đã “tâm trạng hóa” thành ngữ, làm cho thành ngữ
in đậm dấu ấn ca tính sáng tạo của bà
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ đời
sống.
+ Ngôn ngữ bình dân, lời ăn tiếng nói của quần chúng
nhân dân lao động trong thơ Hồ Xuân Hương
Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi
với đời sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng
nhân dân lao động.Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân
Hương gần như là trường hợp duy nhất không viết dưới bất cứ
ánh sáng của học thuyết tôn giáo nào, một học thuyết chính trị
nào từ phía tư tưởng chính thống. Thơ Hồ Xuân Hương là sự
giải tỏa hoàn toàn khởi giáo điều phong kiến, là sự đoạn tuyệt
khá triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với thơ Hồ
Xuân Hương, Đường luật Nôm không còn ở địa vị “đẳng cấp
trên” trong hệ thống thể loại văn học trung đại. Đến thơ Hồ
Xuân Hương, Đường luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách tân
đầy ý nghĩa: cuộc đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã
trở thành đối tượng thẩm mỹ. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục
vốn xa lạ với phong cách trang trọng, cao quý của Đường luật
bỗng trở nên thích dụng với phong cách trữ tình trào phúng
của thơ Hồ Xuân Hương. Những ngôn ngữ bình dân, những lời
ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được Hồ Xuân Hương
sử dụng rất thành công:
“Này của Xuân Hương đã quyệt rồi.”
“Lại đây cho chị dạy làm thơ.”
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
“ Này chị em ơi chớ vội cười…”
Ngôn ngữ đời sống dưới tay Bà chúa thơ Nôm biến hóa khôn
lường. Bà đúng là nghệ sĩ ngôn từ, biểu diễn ngôn ngữ trên
những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc dây. Ngôn ngữ đời sống
trong thơ bà là ngôn ngữ thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất :
“Thân này đâu đã chịu già tom?”
(Tự tình I)
“Ai về nhắn bào phường lòi tói,
Muốn sống đen vôi quét trả đền”.
(Mắng học trò dốt-II)
Thơ Hồ Xuân Hương phát ra tự nhiên như những lời giao tiếp
thường ngày, ta không thấy trong ngôn ngữ Bà sự gò bó, trau
chuốt, gọt giũa hay gia công công phu nào để ép ngôn ngữ thơ
vào khuôn khổ của thể thơ Đường Luật ngôn ngữ (thơ Hồ
Xuân Hương khác ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan rất
chuẩn mực bà là người có sự dụng vốn từ Hán Việt nhiều
nhất).những từ Hán Việt làm đậm phong vị Đường thi cho thơ
Bà Huyện Thanh Quan cả nội dung cảm hứng nghệ thật biểu
hiện: “các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn
đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những
trẻ chăn trâu, những bến xe, những người đài cao, những
người khách trọ, cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Thơ Bà Huyện
Thanh Quan tiêu biểu cho một tân hồn hoài cổ. Ngược lại,
ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng như thơ Hồ Xuân
Hương là mang đậm đà phong vị dân giã, bình dân.
+ Âm thanh, màu sắc, hình khối của đời sống trong thơ
Hồ Xuân Hương.
Những động từ trong thơ Hồ Xuân Hương giữ vị trí “đầu não”,
vị trí “chúa tể”, nó là cuộc sống, hòn đá tảng của nhịp thơ; nó
có khả năng gây biến động, gây “tai biến”, bất chợt và hùng hổ:
“gió thốc”, “sương gieo” (Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, Đầm
đìa lá liễu giọt sương gieo.), “nảy” (nảy vừng quế đỏ, nảy nét
ngang), “nhô” (nhô đầu dọc), “nổi chìm” (Bảy nổi ba chìm với
nước non), “chành ra khép lại”…
→ Các động từ trên gây những cú sốc, những phá huỷ và cả
những xây dựng kế tục nhau, là những nhịp mạch hay linh hồn
của thơ Hồ Xuân Hương.
Thơ Hồ Xuân Hương tràn trề màu sắc và hầu như không mấy
khi có những màu sắc ở độ không mà “đỏ loét”, “xanh rì”, “tối
om”, “đỏ lòm lòm”, “chín mõm mòm”... Các trạng từ đẩy màu
sắc đến mức cực độ, nó tạo trong văn bản cái không đồng
nhất, cái bất ngờ, nó gãy khúc. Nó có tác dụng chuyển nghĩa,
từ cái bình thường sang cái ẩn dụ cơ thể người phụ nữ. Bằng
một từ, có khi bằng một âm thanh hoặc một nhịp điệu bất bình
thường, nhà thơ nói cái này song ý nghĩa của nó lại là cái khác:
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm”. “phòm” mở đầu các từ “hom”,
“dòm”, “khom”, “dom” ở bên dưới khiến cho người đọc “giật
mình”, ngạc nhiên, nghĩa ngay đến “cái động” khác “Động
Hương Tích”.
Thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới âm thanh rộn rã, náo
động: “tiếng trống canh dồn”, tiếng “mõ khua”, chuột “rúc rích”,
ong “vo ve” quạt “phì phạch” sóng vỗ “long bong”, gió “lách
cách”, rồi “lõm bõm”, “phập phòm”, tiếng tiêu, chũm choẹ và
“giọng hì”, giọng hỉ”, “giọng hi ha”…Những âm thanh ấy xâm
nhập lẫn nhau, “cãi nhau chí choé”, cao thấp, nặng nhẹ vô
cùng ồn ào… Hồ Xuân Hương như nghe thấy lớp âm thanh
thứ hai của đêm vắng từ xa đứ tới, từ mông lung, từ vô vọng
và sâu thẳm của trái tim.
Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như
tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên
phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc
khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những
bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên,
xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí
cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn
ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng
qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm
hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là
thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ
ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu
ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống
bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm,
khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm
phục, khẩu phục.
vd2: Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả
thực rất sâu cay:
“Mười bảy hay là mười tám đây
Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ
pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa
hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh: một
hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu
nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng
cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái
suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình
tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên
những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây
người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua
thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là
cái“Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn
thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I.
Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái
này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có
thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong
mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng
da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay
sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ.
vd3: Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ
Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình:
“Chẳng phải Ngô chẳng phải ta
Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các
vị sư hổ mang một cách trớ trêu: Chẳng phải giặc, cũng không
phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối
quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta (quần thù – đất
nước), và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng
hiểu là Ngô hay ta của sư: đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi,
mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc
đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh
ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không
phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải
dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác.
Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành
tiếng văng tục: