You are on page 1of 20

Những nét độc đáo trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân

Hương
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học
dân gian
Tất cả các thành ngữ nói về những hoạt động xã hội khác nhau
như về hoạt động kinh tế “làm mướn không công”, “Thăm ván
bán thuyền”; về quan hệ ứng xử: “Bạc như vôi”, “Cố đấm ăn
xôi”, “Nóng nọc đứt đuôi”, “Cóc bôi vôi”, “Qua sông phụ sóng”,
khi vào thơ Hồ Xuân Hương đều có một chức năng thể hiện
duyên phận của người phụ nữ:
● Thành ngữ, tục ngữ trong văn học:
Có rất nhiều tác giả đã vận dụng vào trong thơ ca của mình
cũng như trước thời Hồ Xuân Hương tác gia Nguyễn Trãi đã
sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong thơ
của mình.
vd1: tác phẩm “Quốc âm thi tập” thì ông đã sử dụng khá linh
hoạt nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ, ca dao như :
“ Ở đấng thấp thì nên đấng thấp
Đen gần mực, đỏ gần son”
( Bảo kính cảnh giới, bài 21)
được lấy trong câu tục ngữ “ Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”
hay :
“ Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu, tốt thì đều rặp khuôn”
( Bảo kính cảnh giới, bài 21)
Được tác giả chuyển từ thành ngữ “ Ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài” hay trong bài “Mạn thuật, bài 10” tác giả viết:
“ Lòng người tựa mặc ai ai
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo”
Được tác giả lấy trong câu tục ngữ:
“ Nhìn mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo cổ lòng mới ngon”.
vd2: Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã sử dụng rất độc đáo
những thành ngữ, tục ngữ:
“Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào”
“Ở đây tai vách mạch dừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi”
Trong nhiều trường hợp, nhà thơ thường tách tực ngữ, thành
ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ, hoặc để
nhấn mạnh ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ, hoặc để làm cho
nó phù hợp với vần điệu của câu thơ như:
“Biết bao bướm lả ong lơi”
Hay:
“Nàng rằng: non nước xa khơi.
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”
Ca dao trong “Truyện Kiều” được nhà thơ sử dụng như một thứ
chất liệu nghệ thuật, chứ không phải như những trích dẫn.
Không có câu nào ông dùng lại nguyên vẹn, mà tất cả đều
được nhào nặn, cấu tạo lại cho phù hợp với phong cách của
nhà thơ trong tác phẩm.
● Thành ngữ, tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương:
Thành ngữ, tục ngữ, ca dao đi vào thơ của Hồ xuân Hương
một cách mộc mạc, giản dị và ngôn ngữ thơ của bà không
khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Có thể nói ngôn ngữ
trong thơ của Hồ xuân Hương là ngôn ngữ thuần túy Việt Nam.
Qua sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập thơ Hồ Xuân
Hương do tác giả Nguyễn Lộc tuyển chọn và giới thiệu được
nhà xuất bản văn học xuất bản 1987 đã phát hiện 15 trường
hợp có xuất hiện yếu tố thành ngữ, tục ngữ trong câu thơ, đây
quả là một con số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ,
ca dao trong thơ Nôm Hồ xuân Hương có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng. Việc đưa thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong
tác phẩm được bà xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn
vd1: bài “ Mời Trầu” có 2 câu thành ngữ “xanh như lá, bạc như
vôi” được dùng trong câu thơ
“ Đừng xanh như lá bạc như vôi”
vd2: bài “ Khóc Tổng Cóc” lại có 2 câu thành ngữ khác là
“nòng nọc đứt đuôi” và “gọt gáy bôi vôi” được vận dụng trong 2
câu thơ:
“ Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng chuộc dấu bôi vôi”
vd3: bài “ Quan Thị” thì hai câu thơ:
“ Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu”
Là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ 2 câu tục ngữ:
“Ngồi lá vông, chổng mông lá trốc” và “Đầu trỏ xuống, cuống
trỏ lên”.
vd4: Đặc biệt, trong bài “ Làm Lẽ” với 8 câu thơ ngăn nhưng lại
có 3 thành ngữ
“ Năm thì mười họa chăng hay chớ”
lấy từ ý của câu thành ngữ “Năm thì mười họa”, hay câu
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”
lấy từ ý của câu thành ngữ “ Cố đấm ăn xôi” hay câu
“cầm bằng làm mướn, mướn không công”
lấy từ ý của thành ngữ “mướn không công”. Ngoài ra còn có
những bài khác cũng được vận dụng từ ý của thành ngữ, tục
ngữ như:
“ Tài tử văn nhân ai đó tả” (Tự tình I),
lấy ý của thành ngữ “tài tử, giai nhân”
“ ấy ai thăm ván cam lòng vậy” ( Tự Tình III)
lấy ý thành ngữ “ thăm ván bán thuyền” hay
“ Bảy nổi ba chìm với nước non” ( Bánh trôi nước)
lấy của thành ngữ “ba chìm bay nổi”,
“mỏi gối chôn chân vẫn muốn trèo” (Đèo Ba Dội)
ý của thành ngữ “mỏi gối chôn chân”…..
Đối với bài thơ "Bánh trôi nước", qua việc sử dụng thành ngữ
tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ một quan niệm tiến
bộ đó là con người (người phụ nữ) dù cuộc sống có gặp muôn
và khó khăn, gian khổ, tưởng chừng như là ngõ cụt buộc phải
đầu hàng số phận nhưng đằng sau tấm thân mảnh mai, yếu ớt
ấy là một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ nữ luôn
có ý thức tự vươn lên trước sự nghiệt ngã của cuộc đời. Hay
trong bài thơ "Làm lẽ", Hồ Xuân Hương đã phản ánh chân
thực và xúc động những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ
trong thân phận làm lẽ mọn. Tỏ thái độ bất bình, phản kháng
chế độ đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có
một chồng) một tập tục đã ngự trị dai dẳng và nghiệt ngã trong
xã hội phong kiến…
Bà không sử dụng hoàn toàn câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ
của dân gian mà chỉ chắt lọc lấy những chi tiết nổi bật, cần thiết
từ những từ ngữ, thành ngữ; qua đó bộc lộ tình cảm và cảm
xúc của nhà thơ. Vận dụng ý tưởng “ngủ ngày” trong câu tục
ngữ "Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen
mồm" để làm bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”. Bài thơ “Thiếu nữ
ngủ ngày” ta thấy Hồ Xuân Hương đã vẽ ra những nét chấm
phá rất "hoàn thiện" và "toàn bích" trước vẻ đẹp trên thân thể
của người thiếu nữ. Trong tục ngữ và theo lối suy nghĩ của
nhân dân ta, kẻ hay ngủ ngày là những kẻ lười nhác, đây là
thói quen xấu cần phải phê phán. Đến với Xuân Hương lại
khác, khai thác ở một khía cạnh ngủ ngày nhưng ở một tư thế
rất đẹp, đầy sức thanh xuân:
“Đôi gò Đồng Đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.”
Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, cái đẹp lý tưởng. Đôi gò
đẹp tròn căng trên nương long ấy là đôi Bồng Đảo, cái lạch bên
dưới là một lạch Đào Nguyên. Cả hai đều là tiên cảnh, ở đó là
một sự sống tràn đầy, đây chính là cái đẹp hình thể cái đẹp của
sự sống.
=> Như vậy những câu thành ngữ, tục ngữ qua ngòi bút tài hoa
của Hồ xuân Hương dường như đã trở thành một thứ công cụ
hết sức đắc trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không
cần nhờ tới những thứ mĩ từ khác. Bà “chúa thơ Nôm” Hồ
Xuân Hương đã rất giỏi và thành công ở biệt tài trong việc vận
dụng thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ nôm đường luật. Hồ
Xuân Hương đã “tâm trạng hóa” thành ngữ, làm cho thành ngữ
in đậm dấu ấn ca tính sáng tạo của bà
- Hồ Xuân Hương sử dụng sáng tạo ngôn ngữ đời
sống.
+ Ngôn ngữ bình dân, lời ăn tiếng nói của quần chúng
nhân dân lao động trong thơ Hồ Xuân Hương
Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật gần gũi
với đời sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng
nhân dân lao động.Trong văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân
Hương gần như là trường hợp duy nhất không viết dưới bất cứ
ánh sáng của học thuyết tôn giáo nào, một học thuyết chính trị
nào từ phía tư tưởng chính thống. Thơ Hồ Xuân Hương là sự
giải tỏa hoàn toàn khởi giáo điều phong kiến, là sự đoạn tuyệt
khá triệt để với tinh thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với thơ Hồ
Xuân Hương, Đường luật Nôm không còn ở địa vị “đẳng cấp
trên” trong hệ thống thể loại văn học trung đại. Đến thơ Hồ
Xuân Hương, Đường luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách tân
đầy ý nghĩa: cuộc đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã
trở thành đối tượng thẩm mỹ. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục
vốn xa lạ với phong cách trang trọng, cao quý của Đường luật
bỗng trở nên thích dụng với phong cách trữ tình trào phúng
của thơ Hồ Xuân Hương. Những ngôn ngữ bình dân, những lời
ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được Hồ Xuân Hương
sử dụng rất thành công:
“Này của Xuân Hương đã quyệt rồi.”
“Lại đây cho chị dạy làm thơ.”
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
“ Này chị em ơi chớ vội cười…”
Ngôn ngữ đời sống dưới tay Bà chúa thơ Nôm biến hóa khôn
lường. Bà đúng là nghệ sĩ ngôn từ, biểu diễn ngôn ngữ trên
những dòng thơ như nghệ sĩ xiếc dây. Ngôn ngữ đời sống
trong thơ bà là ngôn ngữ thông tục nhất mà đắt nhất, hay nhất :
“Thân này đâu đã chịu già tom?”
(Tự tình I)
“Ai về nhắn bào phường lòi tói,
Muốn sống đen vôi quét trả đền”.
(Mắng học trò dốt-II)
Thơ Hồ Xuân Hương phát ra tự nhiên như những lời giao tiếp
thường ngày, ta không thấy trong ngôn ngữ Bà sự gò bó, trau
chuốt, gọt giũa hay gia công công phu nào để ép ngôn ngữ thơ
vào khuôn khổ của thể thơ Đường Luật ngôn ngữ (thơ Hồ
Xuân Hương khác ngôn ngữ thơ Bà Huyện Thanh Quan rất
chuẩn mực bà là người có sự dụng vốn từ Hán Việt nhiều
nhất).những từ Hán Việt làm đậm phong vị Đường thi cho thơ
Bà Huyện Thanh Quan cả nội dung cảm hứng nghệ thật biểu
hiện: “các từ Hán Việt nữ thi sĩ dùng đẩy ta vào thế giới muôn
đời. Trên đời chỉ có những ông chài, những thôn vắng, những
trẻ chăn trâu, những bến xe, những người đài cao, những
người khách trọ, cảnh ấm lạnh của cuộc đời. Thơ Bà Huyện
Thanh Quan tiêu biểu cho một tân hồn hoài cổ. Ngược lại,
ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương cũng như thơ Hồ Xuân
Hương là mang đậm đà phong vị dân giã, bình dân.
+ Âm thanh, màu sắc, hình khối của đời sống trong thơ
Hồ Xuân Hương.
Những động từ trong thơ Hồ Xuân Hương giữ vị trí “đầu não”,
vị trí “chúa tể”, nó là cuộc sống, hòn đá tảng của nhịp thơ; nó
có khả năng gây biến động, gây “tai biến”, bất chợt và hùng hổ:
“gió thốc”, “sương gieo” (Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, Đầm
đìa lá liễu giọt sương gieo.), “nảy” (nảy vừng quế đỏ, nảy nét
ngang), “nhô” (nhô đầu dọc), “nổi chìm” (Bảy nổi ba chìm với
nước non), “chành ra khép lại”…
→ Các động từ trên gây những cú sốc, những phá huỷ và cả
những xây dựng kế tục nhau, là những nhịp mạch hay linh hồn
của thơ Hồ Xuân Hương.
Thơ Hồ Xuân Hương tràn trề màu sắc và hầu như không mấy
khi có những màu sắc ở độ không mà “đỏ loét”, “xanh rì”, “tối
om”, “đỏ lòm lòm”, “chín mõm mòm”... Các trạng từ đẩy màu
sắc đến mức cực độ, nó tạo trong văn bản cái không đồng
nhất, cái bất ngờ, nó gãy khúc. Nó có tác dụng chuyển nghĩa,
từ cái bình thường sang cái ẩn dụ cơ thể người phụ nữ. Bằng
một từ, có khi bằng một âm thanh hoặc một nhịp điệu bất bình
thường, nhà thơ nói cái này song ý nghĩa của nó lại là cái khác:
“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm”. “phòm” mở đầu các từ “hom”,
“dòm”, “khom”, “dom” ở bên dưới khiến cho người đọc “giật
mình”, ngạc nhiên, nghĩa ngay đến “cái động” khác “Động
Hương Tích”.
Thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới âm thanh rộn rã, náo
động: “tiếng trống canh dồn”, tiếng “mõ khua”, chuột “rúc rích”,
ong “vo ve” quạt “phì phạch” sóng vỗ “long bong”, gió “lách
cách”, rồi “lõm bõm”, “phập phòm”, tiếng tiêu, chũm choẹ và
“giọng hì”, giọng hỉ”, “giọng hi ha”…Những âm thanh ấy xâm
nhập lẫn nhau, “cãi nhau chí choé”, cao thấp, nặng nhẹ vô
cùng ồn ào… Hồ Xuân Hương như nghe thấy lớp âm thanh
thứ hai của đêm vắng từ xa đứ tới, từ mông lung, từ vô vọng
và sâu thẳm của trái tim.

Hệ thống các từ tượng thanh trong thơ Hồ Xuân Hương như


“rúc rích”, “phập phòm”, “lõm bõm”, “lắc rắc”, “long bong”… cho
thấy, chúng được phát ra trong tâm thế một kẻ du ca, luôn có ý
thức phá vỡ cái nghiêm trang, giả tạo chốn cung đình, khuê
các, mà hồn nhiên ăn nằm, cười khóc với nhân gian lấm láp,
nhọc nhằn. Qua cách sử dụng từ ngữ nêu trên, nhà thơ cũng
cho ta thấy cái tâm trạng, tâm thế của người viết thật trẻ trung,
hóm hỉnh và tinh nghịch.

Hồ Xuân Hương là nhà thơ sử dụng ngôn ngữ để tạo hình.


Không gian thơ Hồ Xuân Hương đầy ắp sự vật, mỗi sự vật
mang một hình thù, mỗi bài thơ như một công trình kiến trúc
nghệ thuật. Thơ Hồ Xuân Hương có rất nhiều hình học: “Vầng
trăng khi khuyết lại khi tròn” , “Kẻ lạ bầu tiên”, “Khối tình cọ mãi
với non sông”, “Mảnh tình một khối thiếp xin mang”, “Chành ra
ba góc da còn thiếu”, “Giữa in chiếc bánh khuôn còn me, Ngoài
khép đôi cung cánh vẫn khòm”. Rồi “rộng”, “hẹp”, “ngắn”, “dài”,
“nông”, “mỏng”, “dày”, và “sù sù”, và “tùm hum”, và “lam nham”,
và “lúng phún”…Các hình thù kì lạ, đủ các cỡ ấy chuyển động,
nó “uốn éo” (Ba chạc cây xanh hình uốn éo), nó “lom khom”
(Con thuyền vô trạo cái lom khom), “khom khom”, “ngửa ngửa”,
“doc”, “ngang”, “cúi”, “giang thẳng cánh”, “duỗi song song”; các
hình thù ấy khi “lơ lửng”, khi “cheo leo”…Các hình thù ấy động
đậy, cựa mình đâm lên, chọc xuống, tạo nên một không gian
động trong một thời gian động. Nó thức tỉnh, khua động, gọi
dậy sức sống, cái đẹp, tiềm năng của con người.

+ Tiếng chửi và tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương


a. Tiếng chửi trong thơ Hồ Xuân Hương
Đã thế nàng lại sinh ra vào cái thời xã hội rối loạn, nhố nhăng
cuối đời Lê. Con người Hồ Xuân Hương bị ném vào cái xã hội
đó và rồi ta thấy đời nàng đã phải giãy giụa trong truỵ lạc lụt
ngập của xã hội. Người ta nói: tất cả các yếu đuối của xã hội
đương thời đã kết tinh lại ở nàng, nhào nặn với cá tính nàng
mà làm nên một thi sĩ độc đáo. Xã hội Việt Nam thời ấy không
hề chờ đợi có một người như Hồ Xuân Hương đến, nhưng
nàng đã đến trong cái xã hội ấy ngay giữa lúc bọn đồ gàn ít
chờ đợi nhất. Nàng đã đến với một trái tim và một đầu óc trọn
vẹn nhất, với tất cả mọi giác quan còn tinh khôi, và đặc biệt là
với đôi mắt tinh đời ấy, ta cứ tưởng tượng như chỉ cần một cái
nhìn nàng đã thấy được tận gan ruột. Nữ sĩ đã vạch rõ cái
chân tướng của cả những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc
trượng phu, anh hùng và đã đặt họ lại những chỗ ngồi đúng với
giá trị thực của họ giữa lúc cả bọn đang múa máy quay cuồng,
tâng bốc bợ đỡ nhau.
Chứng kiến và nếm trải những bất công của xã hội thối nát
như vậy, Hồ Xuân Hương đã bật ra những tiếng chửi. Hồ Xuân
Hương là người có biệt tài sử dụng tiếng chửi trong thơ. Trong
thơ bà có đến 4 lần bà thốt lên tiếng chửi. Hồ Xuân Hương với
bản tính nghệ sĩ, giao tiếp rộng, không tránh được những va
chạm trong xã hội phong kiến:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”
Xuân Hương bị gia đình chồng đè nén vì thân phận làm làm.
Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi, thân phận
Xuân Hương cũng như hoàn cảnh của kiếp đàn bà làm lẽ mọn:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,”
Cảnh chùa Quán Sứ thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ
người đã xuất gia, tu lâu năm lên làm “Sư Cụ” như “phiến đá vĩ
đại “ bao che đệ tử gây nên nghiệp chướng, không lo làm tròn
phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng teo. Thời Hồ
Xuân Hương, cuối đời Lê Trịnh, Phật giáo trước đã suy, nay lại
càng suy đốn, số sư ngày càng đông ăn hại của dân, làm điều
bậy bạ. Xuân Hương đay nghiến họ:
“Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo”
(Chùa Quan Sứ)
Bọn quan thị Thị vào chầu thị đứng xem, thị thấy thèm thị
không có ấy chỉ vì “không có ấy” mà được làm quan, lại nhiều
lúc làm quan to. Hồ Xuân Hương vặt trụi họ ra:
“Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Đố ai biết đó vông hay trốc
Còn kẻ nào hay cuống vàu đầu
Thôi thế thì thôi, thôi mặc thế.
Nghìn năm còn khỏi tiếng nương dâu.”
(Quan thị)
Như vậy, so với các nhà thơ khác thì thơ Hồ Xuân Hương có
nhiều tiếng chửi hơn các nhà thơ khác. Nguyễn Du thì có 1 lần
chửi: “Chém cha cái kiếp hoa đào”. Nguyễn Công Trứ thì cũng
có 1 lần chửi: “Đéo mẹ nhân tình”. Tú Xương cũng thốt lên 1
lần chửi: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Và tiếng chửi trong thơ
Hồ Xuân Hương có nguyên do chính đáng cũng như có đối
tượng cụ thể với những hàm ý khác nhau.
b. Tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương
Bên cạnh tiếng chửi thì tiếng cười cũng đi vào thơ Hồ Xuân
Hương hết sức đặc sắc. Tiếng cười trong văn học dân gian
khác với tiếng cười của nền văn học chính tống. Do quan niệm
thế giới luôn đổi mới, luôn luôn tái sinh...Tiếng cười dân gian
vừa phủ định vừa khẳng định, vừa huỷ diệt vừa tái sinh, vừa
phê phán vừa tái tạo…Khi Nguyễn Du viết:
“Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”
Hay Tú Xương viết:
“Thật là vừa dốt lại vừa ngu”
thì đó là những tiếng cười đả kích, “một nhát chết tươi”, không
cho gượng gạo. Hồ Xuân Hương thì không. Khi bà viết:
“Quân tử dùng dằn đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong”
Hay:
“Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo”
Hay:
“Chúa giấu vua yêu một cái này”
là bà đã vừa bỉ mặt các đầng, các bậc ấy cũng “như ma”như ai
chứ có thần thánh gì đâu: vừa dẫn dắt họ trở về con người trần
thế, tái tạo họ trong thế giới của đời người.
Trong bức tranh chạm khắc “Quan quân ghẹo gái” tạo trên đình
làng thế kỉ XVII, quan quân nghi vệ trẩy qua làng mà ai cũng”
lom lom dòm” cô gái tắm dưới ao chỉ che có mỗi chiếc lá seb ở
chỗ ấy…Hay câu chuện tiếu lâm “Đẻ ra sư”…Đó là vừa “huỷ
diệt” vừa tái sinh” và cũng là phép “kéo xuống”, kéo từ Niết bàn
xuống trần gian, kéo từ thượng tầng xuống hạ tầng phồn thực.
Hồ Zxua6n Hương đã sử dụng thao tác đó trong nhiều bài thơ
của mình. Bà đã kéo tất cả xuống, “hoàn tục” cho họ, cho họ
“làm người” trở lại. Cái cười “hai chức năng” ấy, cái thao tác
nghệ thuật ấy đã biến cải hẳn thể loại Đường luật nghiêm
trang, đăng đối và đã làm nảy sinh một thế giới thơ mới, một mĩ
học mới.
+ Đại từ nhân xưng, từ cảm thán trong thơ Hồ Xuân
Hương
Bà chúa thơ Nôm cũng rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng,
các từ để hỏi, các từ cảm thán. Riêng về cách dùng đại từ
nhân xưng trong thơ của Hồ Xuân Hương cho ta thấy hình ảnh
một Hồ Xuân Hương “nổi loạn”:
“Khéo léo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.”
các từ cảm thán cũng được nữ sĩ sử dụng khá nhiều trong
sáng tác của mình, mang lại những giá trị biểu cảm độc đáo:
“nhé”, “nhỉ”, “thi thôi”, “thế thôi”…
“Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?”
“Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?”
(Bà Lang khóc chồng)
“Thân này ví biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
(Lấy chồng chung)

“Thôi thế thì thôi, thôi cũng được,”


(Quan thị)
Có cả khẩu ngữ , ví dụ như: sáng banh, trưa trật..
" Không có nhưng mà có mới ngoan"
“ Không chồng mới chửa ấy mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường”
hoặc:
“ Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướ , mướn không công”
Hoặc:
“Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha...”
Những từ thuộc phong cách khẩu ngữ nhưng khi vào thơ Hồ
Xuân Hương đã trở thành phong cách Hồ Xuân Hương. Với tài
năng dùng chữ của mình Bà đã sáng tạo nên những dòng thơ,
bài thơ rất dân dã, rất Việt Nam. Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân
Hương bình dị như chính cuộc sống đời thường vậy. Ngôn ngữ
trong thơ bà phần lớn dùng ngôn ngữ bình dân, rất hạn chế sử
dụng từ ngữ Hán Việt.
- Tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ của Hồ Xuân
Hương
+ Cách nói lấp lửng, nói lái, chơi chữ và sử dụng từ láy
tạo nên tính đa nghĩa trong thơ Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương có biệt tài sử dụng ngôn ngữ lấp lửng,
cách nói lái, nói kiểu chơi chữ, sử dụng nhiều từ láy để tạo nên
tính chất đa nghĩa.
a. Cách nói lấp lửng.
Hồ Xuân Hương sử dụng lối nói ỡm ờ, lấp lửng:
“Hiền nhân quân tử ai mà chẳng”
“Chúa dấu vua yêu một cái này”
“Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa”
“Đá kia còn biết xuân già dặn”
“Chả trách người ta lúc trẻ trung”
Nói úp mở:
“Vị gì một chút tẻo tèo teo”
“Càng nóng bao nhiêu thời càng mát”
“Thịt da đâu cũng thế mà thôi”
“Của em bưng bít vẫn bùi ngùi”
“Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi...”
b. Sử dụng hình thức chơi chữ và nói lái
Trong hai câu thơ sau, tác giả đã dùng chữ “chửa” và
chữ “mang” ở cuối câu đều là những chữ có thể hiểu hai nghĩa:
“Cái nghĩa trăm năm chàng có chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang”.
Từ “chửa” vừa có nghĩa “chưa”, vừa mang nghĩa “có thai”, vừa
“mang” vừa có nghĩa “có bầu, mang thai”, vừa có nghĩa “xin
chịu, chấp nhận, gánh vác”.
Dùng từ Hán Việt:
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ơi vị quế chi
Thạch nhũ, trần bì sao để lại.
(Bà lang khóc chồng)
“Cam thảo, quế chi, thạch nhũ, trần bì” là những từ chỉ vị thuốc
nhằm tạo ra tính hai nghĩa cho câu thơ. Một mặt giúp người
đọc tiếp nhận theo đúng nghĩa đen, mặt khác lại khiến cho
người đọc liên tưởng đến tầng nghĩa sâu xa hơn. Phải chăng
đó chính là những "sản phẩm" đáng được trân trọng mà trời đã
ban cho các chị em phụ nữ chúng ta?
Trong bài thơ "Khóc tổng cóc", nghệ thuật chơi chữ ở đây
là sử dụng một lớp từ đồng nghĩa hay đúng hơn là trong một
trường nghĩa chỉ các con vật lưỡng cư: cóc, chàng (chẫu,
chàng), bén (nhái), nòng nọc, chuộc (chuộc chuộc), thể hiện
độc đáo và cảm động nỗi đau khổ, tuyệt vọng của người vợ
trước tang chồng.
Hồ Xuân Hương sử dụng lối chơi chữ, lối nói lái một cách
rộng rãi. Nhưng lối chơi chữ, nói lái của Hồ Xuân Hương không
phải như của bọn nho sĩ phong kiến, chơi chữ là chơi chữ nho
nhằm để khoe chữ, phô trương tri thức sách vở. Còn Xuân
Hương chơi chữ hoặc để trào lộng, hoặc mỉa mai châm biếm
làm cho câu thơ trở nên "duyên dáng" vô cùng.
c. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương.
Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân
gian nói chung và trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo
thống kê của Lã Nhâm Thìn trong tổng số 268 câu thơ có 79 từ
láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có nhiều tác dụng, nó có
chức năng hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu thơ trở
nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc hơn và góp phần thể hiện
phong cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống
của chân đạp, tay vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống
con người, thơ của tâm trạng. Từ láy trong thơ Hồ Xuân
Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể hiện con
người tác giả.
Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương rất phong phú: từ láy phụ âm
đầu:
“Da nó xù xì, múi nó dày”,
“Xin đừng mân mó nhựa ra tay”,
“Nâng niu ướm hỏi người trong trướng”,
“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền”,
“Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”,
“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”
từ láy phần vần:
“Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”,
“ Ai về nhắn bảo phường lòi tói”,
“Con thuyền vô trạo cúi lom khom”,
“Lách khe nước rỉ mó lam nham”,
“Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn”...;
Vần trong từ láy trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng được
dùng rất độc đáo. Chẳng hạn khuôn vần "un" "um" dùng để cấu
tạo một số từ mang nghĩa tập hợp nhiều sự vật, nhiều biểu
hiện ở cả dáng vẻ và hành vi: “tùm hum”, “lún phún”, “um tùm”,
“khúm núm”.
"Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
hòn đá xanh rì lún phún rêu"
(Đèo Ba Dội).
→ Câu thơ thể hiện rõ gam màu "đỏ tùm hum", với hàng loạt
những rêu xanh đang mọc "lún phún" trên đỉnh đèo. Bên cạnh
lớp nghĩa đen là miêu tả cảnh vật hoang sơ, thanh tịnh, cảnh
núi non hiểm trở của đèo của hang. Nhà thơ còn ngầm sử
dụng một lớp nghĩa bóng đó là những hình ảnh biểu hiện tính
phồn thực. Hình ảnh đèo, hang, giếng nước...đó chính là
những bộ phận trên cơ thể người phụ nữ, một sự kết hợp âm
dương hài hòa, mang đậm giá trị nhân văn nhân bản. Khuôn
vần "eo" dùng để cấu tạo một số từ láy miêu tả tâm trạng buồn
rầu, nhỏ bé, hiu quạnh, hàm ý chỉ sự khó khăn cách trở: Cheo
leo, hắt heo, khéo khéo, leo teo, leo léo, tẻo tèo teo, lộn lèo, lắt
lẻo..
Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương còn có từ láy phần vần và
phụ âm đầu:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi!”,
“Thương chồng nên mới khóc tỉ ti”,
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”
Từ láy hoàn toàn, chủ yếu là láy từ:
“ Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm”,
“Con đường vô ngạn tối om om”,
“Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai”…;
Từ láy ba âm tiết trở lên: “tẻo tèo teo”, “hỏm hòm hom”…Về
phương diện biểu hiện, từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương gồm:
từ láy tạo thanh: “Phì phạch”, “ thánh thót”, “long bong”, “lõm
bõm”…; từ láy chỉ màu sắc: “phau phau” (trắng phau phau ),
“om om” (tối om om)…; từ láy chỉ hình dáng: “xù xì”, “khom
khom”, “ngửa ngửa”, “nho nhỏ”…; từ láy thể hiện trạng thái,
tính chất: “ Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, “lều mái cỏ tranh xơ
xác”…; từ láy thể hiện hành động: “Dắt díu”, “Nâng niu”, Của
em bưng bít vẫn bùi ngùi”, “Lợp “mân mó”...
=> Chính cách dùng ngôn ngữ lấp lửng, lối chơi chữ, nói lái và
sử dụng nhiều từ láy đã tạo nên tính đa nghĩa trong thơ bà.
Người ta thường nói yếu tố tục trong thơ Hồ Xuân Hương.
Nhưng về mặt ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương chưa bao giờ tục.
“cái miêu tả” và “cái ẩn dụ” trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hồ
Xuân Hương không phải hòa quyện vào nhau, tan biến vào
nhau như nhiều ngôn ngữ khác.
- Nghệ thuật trào phúng:
Đối tượng lên án của bà rất đa dạng nhưng đều có đặc điểm
chung là những tên “bụng đầy kinh sách” hay những hạng
“quyền cao chức trọng” nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ thanh cao.
vd1: Đó là những tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, đã ham ghẹo
gái lại còn võ vẽ làm thơ, lại còn thích để thơ trước cửa đền
chùa khoe mẽ:
“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên,
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền”
(Bọn Đồ Dốt)
Trong các giai thoại tương truyền về Hồ Xuân Hương, có ý kiến
cho rằng bài “Mắng học trò dốt – I” ra đời khi Hồ Xuân Hương
đi thăm chùa Trấn Quốc về, đang lững thững bên bờ hồ Tây thì
thấy mấy thần khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các
thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng trí
tung cả chữ nghĩa ra nữa. hồ Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo
thì vẫn im lặng, nhưng đến khi nghe cái thơ thẩn nửa mùa ấy
thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các
thầy một bài thơ rằng:

“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ.

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”

Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như
tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên
phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc
khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những
bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên,
xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí
cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn
ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng
qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm
hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là
thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ
ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu
ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống
bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm,
khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm
phục, khẩu phục.
vd2: Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả
thực rất sâu cay:
“Mười bảy hay là mười tám đây

Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.

Mỏng dày từng ấy, chành ba góc

Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.

Chúa dấu vua yêu một cái này.

(Vịnh cái quạt II)

Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ
pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa
hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh: một
hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu
nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng
cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái
suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình
tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên
những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây
người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua
thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là
cái“Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn
thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I.

Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái
này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có
thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong
mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng
da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay
sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ.

vd3: Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ
Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình:
“Chẳng phải Ngô chẳng phải ta

Đầu thì trọc lóc, áo không tà.”

Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các
vị sư hổ mang một cách trớ trêu: Chẳng phải giặc, cũng không
phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối
quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta (quần thù – đất
nước), và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng
hiểu là Ngô hay ta của sư: đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi,
mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc
đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh
ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không
phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải
dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác.

Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành
tiếng văng tục:

“Đầu sư há phải gì… bà cốt

Bá ngọ con ong bé cái nhầm”.

Ở đây, cũng phải thấy rõ rằng, Hồ Xuân Hương không hề đả


kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập với tôn giáo.
Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn
của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình
ảnh thanh tịnh của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng
tới châm chích, đả kích các đối tượng ấy, cũng là một cách đòi
lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao hơn cả, như đã
nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương
không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ
cuộc sống, trốn tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của
chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc
bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm biếm rấu sâu
cay như thế.

You might also like