You are on page 1of 6

Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao xưa 

Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng.Nó bồi đắp tâm
hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bông sen trong đầm,
gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên ruộng đồng. Nó bồi đắp tâm hồn ta
từ những ngày thơ bé qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nỗi
nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao
khang của những con người quê chân chất, mộc mạc.
Trong thế giới đó, lắng sâu hơn cả vẫn là hình ảnh của những người phụ nữ xưa – đau khổ, cay đắng đến cùng
cực nhưng cũng đẹp đẽ, cao quý đến vô ngần. Có thể nói, ca dao đã làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ
những nỗi lòng của người phụ nữ bình dân xưa và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, trong khổ đau cũng
như những vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng.
 Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành
mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như
xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:
- “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
- “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
- “Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”
Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”,
“ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về
tinh thần, nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”,
được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm
nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức
được vẻ đẹp và phẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng
những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong
sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung,
ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ
ngựa, con chão chuộc thôi”.
Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là
“tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi
còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:
- “Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”
- “Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”
 Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà
chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về
quê mẹ:
- “Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò”
- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
- “Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”
  Nhớ nhà nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đày đoạ của gia đình nhà chồng,
đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những
nàng dâu vì xã hội phog kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua
người lànm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:
- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”
- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người
con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án,
bị không ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:

“Cô kia đội nón đi đâu


Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”
  Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại còn chịu thêm nỗi
khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ
có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng. Nhân dân hướng về những người vợ lẽ - những người chịu nhiều
thua thiệt hơn cả để cảm thông, để lắng nghe những tiếng giãi bày xót xa, cay đắng:
- “Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
Mong chồng chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con”
- “Thân em làm lẽ chẳng nề
Có như chính thất, ngồi lê giữa đường”
Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những
khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:
- “Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
- “Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.
Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao
thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ,
thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà
vẫn toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người
thuỷ chung son sắt, giàu nghĩa tình.
 Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút
giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:
- “Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
 
Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:
“Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầungười”
Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:
- “Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”
- “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”
Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút
lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:
- “Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm , sông hương mặc người”
- “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ
trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia
đình đầm ấm yên vui.
Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu,
là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những
viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.
 Văn học, nghệ thuật ngày nay cũng rất chú ý đến việc lưu giữ những vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhưng những
làn điệu dân ca từ thuở sơ khai vẫn chính là kho tàng vô giá lưu giữ trọn vẹn nhất về những con người kì lạ ấy:
càng trong đau khổ lại càng ngời sáng, thanh cao.
Sẽ còn mãi lắng đọng trong tâm hồn những người dân đất Việt hình ảnh những người phụ nữ sáng lấp lánh trong
những câu ca dao tự ngàn xưa.
 

……………………………………………………………………………………………..
Người phụ nữ Việt Nam trong dòng chảy thi ca

Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thật, họ đã đi vào những trang viết chảy suốt
trong văn học từ trước đến nay, để rồi không chỉ làm nên một nửa, mà là trọn vẹn tấm hình trong sâu thẳm tâm
hồn thế hệ người đọc hôm nay và cả mai sau.
Hình ảnh người phụ nữ đẹp theo quan niệm thẩm mĩ Việt Nam trong văn chương
Cái đẹp là nhu cầu rất quan trọng. Nó là nhu cầu có tính bản chất của con người. Dù ở đâu, làm gì, khi nào, con
người luôn có xu hướng vươn lên cái đẹp. Người xưa có câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Lời dạy đó không
phải chỉ là nói về đạo lý mà còn có ý nghĩa mỹ học sâu sắc.
Trong bản chất sâu xa của nó, nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu về cái gì lý tưởng, sự hoàn thiện. Thoả mãn nhu cầu
đó là thoả  mãn khao khát của con người về sự hài hoà, về những giá trị chân, thiện cao quý nhất. Do đó, đòi hỏi
về cái đẹp là nhu cầu rất cao ở con người, nó nói lên sự tiến hoá và phong phú của con người trong hoạt động
thực tiễn, nó gắn liền với quá trình phát triển thể chất và tinh thần của con người.
Cái đẹp với dân tộc ta là cái đẹp không xa rời cuộc sống, một cái đẹp chân thật, bình dị, không tô vẽ. Cái đẹp ấy
có mặt khắp mọi nơi. Văn học chỉ là một phương tiện phản ánh cái đẹp và quan niệm về cái đẹp của con người.
Và quan niệm thẩm mỹ về cái đẹp của người phụ nữ trong các sáng tác văn học là một trong những bình diện thể
hiện nhu cầu thẩm mỹ của người Việt ta. Vậy, quan niệm này được biểu hiện thế nào qua các thời kì văn học
Việt Nam?
 
1. Trong văn học dân gian
Từ những chuẩn mực thẩm mỹ còn đơn giản buổi ban đầu được hình dung: Đẹp như tiên, xấu như ma, hiền như
Bụt, dữ như quỷ, người Việt đã bước đầu phản ánh được nhu cầu thẩm mỹ của mình đó là những ước vọng giản
đơn của họ trước sự sống này. Vì là những chuẩn mực thẩm mỹ buổi ban đầu nên nó chưa thể hiện một cách cụ
thể, rõ ràng diện mạo của cái đẹp. Theo thời gian, diện mạo cái đẹp được hình dung rõ ràng hơn.
Nói đến cái đẹp thì đã bao hàm ý nghĩa về sự hài hoà, cân đối và dường như còn có cả sự hoàn thiện trong đó
nữa. Vì vậy, không có gì phải bàn cãi khi người Việt hình dung về một vẻ toàn diện, toàn mỹ từ trong ra ngoài
của người thiếu nữ đẹp:
Cổ tay em trắng như ngà,
Đôi mắt em sắc như là dao cau,
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Cô Tấm trong truyện Tấm Cám cũng có thể xem là một trong những hình mẫu tiêu biểu cho quan niệm này của
người. Mặc dù ngày nay chúng ta đang có nhiều ý kiến trái ngược nhau về nhân vật này, nhất là ở cái kết của câu
chuyện, nhưng cũng không thể vì thế mà phủ nhận tình cảm mến yêu của người Việt bao đời đã dành cho Tấm.
Công chúa Vân Dung trong Chử Đồng Tử, cô út trong Sọ Dừa, công chúa Quỳnh Nga trong Thạch Sanh… đều
là những người phụ nữ đẹp trong quan niệm của dân gian xưa.
Tuy nhiên, nếu phải lựa chọn cái nào cần hơn, cái nào đẹp hơn giữa hình thức và nội dung, bề ngoài và bề trong,
nhan sắc và đức hạnh, thể chất và tinh thần thì người Việt đã có một sự lựa chọn đầy quyết liệt tạo nên dòng
chảy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại, nó cho thấy chiều sâu và chiều cao trong quan niệm của dân ta:
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Hay:
Cái nết đánh chết cái đẹp.
 2. Trong văn học trung đại
Cùng trong dòng chảy quan niệm Việt Nam, người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại cũng hiện diện trong một
vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Đó là một sự kết hợp hài hoà giữa sắc – tài – tâm, giữa nhan sắc và
đức hạnh với “tam tòng, tứ đức”. Như vậy, ngay trong cái nền chung trong quan niệm về người phụ nữ đẹp của
người Việt đã có một sự “dị biệt” qua từng thời kì văn học. Đó là vì quan niệm thẩm mỹ vốn là một phạm trù
“phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ” (Chủ nghĩa Mác – Lênin), cho nên, mỗi một thời đại, tuỳ vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể mà có những quan niệm khác nhau. Thời trung đại, với sự tiếp biến văn hoá đặc biệt là văn hoá Trung
Hoa, tư tưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo đã chi phối đến quan niệm thẩm mỹ của thời đại. Người
phụ nữ có đức hạnh theo quan niệm của Nho gia (lễ giáo phong kiến) là người phải hội tụ đủ “tam tòng, tứ đức”
(Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; và công, dung, ngôn hạnh).
Tuỳ theo cái nhìn chủ quan của tác giả mà vẻ đẹp mỗi nhân vật nữ lại được biểu hiện không giống nhau. Đó là
nàng Kiều (Truyện Kiều), người được xem là người đàn bà xinh đẹp nhất trong văn học Việt Nam. Nếu đặt Kiều
vào trong vòng cương toả của lễ giáo phong kiến thì Kiều không phải là người phụ nữ đức hạnh, nhưng không vì
thế mà dân tộc ta phủ nhận vẻ đẹp của Kiều từ ngoại hình đến tài năng, tâm hồn, tính cách. Như vậy, Kiều đẹp
còn bởi tấm lòng nhân hậu, bao dung vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà đã Nguyễn Du  kế thừa.
Nguyễn Đình Chiểu thì đưa ra một quan niệm về nguời phụ nữ lý tưởng theo quan niệm của lễ giáo phong kiến:
“Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”(Lục Vân Tiên).
Những người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm  hay Cung oán ngâm cũng là những đại diện tiêu biểu cho quan
niệm về người phụ nữ đẹp trong thời đại họ. 
Nhưng với Hồ Xuân Hương, người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, thì bà lại có cái nhìn mới về vẻ đẹp người phụ
nữ đứng ở vị trí là người phát ngôn cho vẻ đẹp của giới mình. Bà tìm thấy vẻ đẹp thực sự của họ, nêu bật vẻ đẹp
bên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ( Bánh trôi nước, Con ốc nhồi, quả mít); ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong
các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); đi vào đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể (Thiếu nữ)…
Tuy nhiên, trong quan niệm của dân tộc ta thời kì này thì người phụ nữ đẹp thường gắn liền với số phận bất
hạnh. Điểm lại gương mặt nhân vật nữ thời kì này ta thấy một điểm chung ở họ là có một cuộc đời đầy sóng gió,
bẽ bàng, không mấy người có được hạnh phúc thật sự. Đặc điểm này phải chăng là do quan niệm “hồng nhan bạc
mệnh” chi phối?
3. Trong văn học hiện đại
Dưới tác động của các trào lưu văn học phương Tây và ảnh hưởng của không khí  thời đại đầy những biến động,
văn học thời kì này để lại những “tượng đài” về người phụ nữ cho thấy quan niệm của dân tộc về mẫu hình
người phụ nữ đẹp. Do tính chất phức tạp của thời đại này, có thể tìm hiểu quan niệm này qua các giai đoạn văn
học như sau:
3.1 Trước Cách mạng tháng Tám 1945
Người phụ nữ đẹp trong giai đoạn này dường như được xây dựng trong quan niệm về “hồng nhan bạc mệnh” có
từ thời trung đại: Tố Tâm trong (Tố Tâm), chị Dậu (Tắt đèn), dì Hảo (Dì Hảo)… Những nhân vật nữ này phản
ánh tình trạng bế tắc trong tư tưởng người Việt Nam trước Cách mạng trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa
phong kiến.
3.2 Từ 1945 đến 1975
Cùng với không khì hào hùng của một thời lịch sử đầy “máu và hoa” của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đã có
một diện mạo mới bên cạnh những nét đẹp truyền thống bao đời của người phụ nữ Việt nam: nhân hậu, thuỷ
chung, chịu thương chịu khó… theo như quan niệm của thời đại.
Tiếp nối truyền thống hào hùng của bà Trưng, bà Triệu, họ bước vào cuộc chiến đấu thần thánh của đất nước,
làm nên những tượng đài bất tử về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong lòng dân tộc, thời đại. Họ có thể có
tên hoặc không tên cụ thể, có thể là nhân vật lịch sử hay chỉ là hình tượng nhưng tất cả đều mang trong mình vẻ
đẹp của thời đại không thể phủ nhận. Đó là chị Sứ (Hòn Đất), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng), Nguyệt (Mảnh
trăng cuối rừng), chị Nguyễn Thị Lý (Người con gái Việt Nam), là những cô du kích, chị dân công…, là những
bà mẹ Việt Nam nhân hậu, kiên cường, yêu nước, thương con: mẹ Suốt, mẹ Tơm, những bà Bầm, bà Bủ…
Họ không chỉ anh hùng trong chiến đấu mà còn là những anh hùng trên mặt trận sản xuất: Chị Hai năm tấn, Đào
(Mùa lạc)…     
Và đằng sau dáng vẻ yếu đuối của người phụ nữ là một nghị lực phi thường, một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt:
Đào ( Mùa lạc), Mỵ (Vợ chồng A Phủ)…
3.3 Từ 1975 đến nay
Người phụ nữ đẹp theo chuẩn mực xã hội hiện đại không chỉ đẹp về nhan sắc, đạo đức mà còn phải là người có
vẻ đẹp trí tuệ, không chỉ “giỏi việc nước” mà còn “đảm việc nhà”, vừa phát huy những truyền thống quý báu của
người phụ nữ Việt Nam vừa biết tiếp biến tinh thần thời đại cho phù hợp với bản sắc dân tộc. Như vậy, cùng với
sự phát triển của xã hội thì cái “gu” thẩm mỹ của người Việt cũng cao hơn. Nhưng, văn học giai đoạn này không
xây dựng kiểu nhân vật điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam theo đúng như chuẩn mực đó của xã
hội. Trái lại, văn học tìm đến cái đẹp của người phụ nữ trong chính cuộc sống sinh hoạt thường nhật của họ.
Thực tế này một lần nữa khẳng định quan niệm thẩm mỹ xuyên suốt của dân tộc ta: cái đẹp gắn với cuộc sống
hiện thực, bình dị, không tô vẽ. Ta có thể tìm thấy hình ảnh gần gũi, dung dị mà vẫn đầy súc hút của người phụ
nữ Việt Nam hiện đại trong các sáng tác của Nguyến Thị Thu Huệ, Trần Thuỳ Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Y Ban,
Đỗ Bích Thuý…
Có thể thấy, ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn khác nhau  văn học đều đã phản ánh quan niệm thẩm mỹ Việt Nam về
người phụ nữ với những thay đổi nhất định. Nhưng, quán xuyến tất cả ta nhận ra một điều: văn học Việt Nam ít
có cảm hứng thẩm mỹ để sáng tạo ra những hình tượng người phụ nữ xa rời với cuộc sống hiện thực, và dù ở
thời đại nào thì người phụ nữ Việt Nam chân chính cũng luôn sáng ngời vẻ đẹp truyền thống của mình trong văn
hoá dân tộc. 
Lê Thị Minh Huyền 

You might also like