You are on page 1of 18

Câu 1: Cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) toàn diện.

Việc tuân thủ nguyên tắc


này sẽ mang lại lợi ích gì, khắc phục được những hạn chế nào trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn
- Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
a. Định nghĩa
- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng
ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc
tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại
giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một
chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải
nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai
lầm của thuật nguy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản
chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những
tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
b. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối
liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá
trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang
chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều
phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn
định…;
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ
bản, tất nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống
nhất các mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra
quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp
thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi
những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự
vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…
của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung
để phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển
theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn
diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa
ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
- Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện:
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét
sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật;
mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản,
cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình
một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân,
quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống
vô cũng phức tạp.
Câu 2: Đảng và Nhà nước ta cần phải làm gì để hoàn thiện quan hệ sản xuất tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển
- Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất
Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công
cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và
người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).
Lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho
sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động. Như vậy ta có thể thấy lực lượng sản
xuất là cái thường xuyên biến đổi vì con người luôn muốn giảm nhẹ sức lao động và tăng
năng xuất lao động. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất thì tư liệu sản xuất và công cụ lao
động là yếu tố biến đổi thường xuyên. Con người không những cải công cụ sản xuất mà còn
tạo ra những công cụ sản xuất mới.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Đối với chủ đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay thì mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là kiến thức cần thiết
– Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện
chứng, ràng buộc và tác động lẫn nhau tạo thành quá trình sản xuất hiện thực.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó
lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình
thức kinh tế của quá trình đó.
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất
với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của
xã hội.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng trong
đó vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất sẽ giữ vai trò tác
động trở lại lực lượng sản xuất.
- Hoàn thiện quan hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển
Củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội cho phù hợp trên ba lĩnh vực cơ bản như: quan
hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về điều hành quản lý sản xuất và quan hệ về phân
phối và trao đổi sản phẩm trong guồng máy sản xuất hiện nay.
+ Về quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất: Ở nước ta hiện nay có thể nói là đã và đang từng
bước hoàn thiện theo hướng tiến bộ và phù hợp. Nhưng đã có lúc chúng ta chỉ thừa nhận hai
hình thức sở hữu cơ bản (tập thể và nhà nước) thì nay chúng ta đã thừa nhận có nhiều hình
thức sở hữu cùng tồn tại. Quan hệ sở hữu của chúng ta tiến bộ vì nó đang vận hành theo
hướng hạn chế dần dần và phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại ấm no hạnh phúc
cho toàn xã hội. Mặt khác, các thành phần sở hữu này được bình đẳng trước pháp luật và
hợp tác hỗ trợ liên kết với nhau cùng phát triển.
+ Quan hệ điều hành và quản lý sản xuất: chúng ta xác lập và đã được thực tế sinh động
chứng minh là nó đang được hoàn thiện và đúng hướng tiến bộ và phù hợp. Nếu trước kia
chúng ta chỉ chấp nhận quan hệ sản xuất theo hướng tập trung quan liêu bao cấp và thực
hiện kế hoạch hóa theo hướng áp đặt thì ngày nay chúng ta chấp nhận nhiều cách quản lý
điều hành sản xuất theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ điều hành
quản lý sản xuất hiện nay trong các thành phần kinh tế được luật pháp bảo vệ. Rõ ràng, ở
nước ta hiện nay quan hệ quản lý, điều hành sản xuất đang vận hành phát triển theo hướng
phù hợp và tiến bộ. Thực tế đang hình thành và phổ biến một kiểu quan hệ mới đó là các “tư
cách pháp nhân”. Thực chất đó là quan hệ với nhau bằng luật pháp và theo luật pháp xã hội
chủ nghĩa với nội dung rất tiến bộ và nhân đạo. Chính vì thế chúng ta đã và đang hạn chế
khắc phục tình trạng cá lớn nuốt cá bé. Chính vì sự tiến bộ và phù hợp của quan hệ sản xuất
đã thúc đẩy sản xuất phát triển, đã làm cho kinh tế - xã hội giành thêm nhiều thành tựu to
lớn. Tuy nhiên, vẫn phải thấy một số vấn đề như các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém
hiệu quả, gây thất thoát lãng phí lớn, các doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều tiêu cực
như gây ô nhiễm môi trường, nợ lương,…. Cần phải nhanh chóng khắc phục những
nhược điểm đó bằng cách tăng cường kiểm tra luật lao động, luật doanh nghiệp, các quy
định của nhà nước về doanh nghiệp chặt chẽ hơn, nhất là thông qua lực lượng thanh tra lao
động để hạn chế tiêu cực ngay từ khi có mầm mống, tránh tình trạng để đến mức vỡ lở
thành vấn đề lớn mới tập trung giải quyết dẫn đến hậu quả rất to lớn và khó lường.
+ Quan hệ về phân phối và trao đổi sản phẩm trong quan hệ sản xuất ở nước ta cũng đang
được hình thành và phát triển theo hướng tiến bộ và phù hợp. Chúng ta đã nhanh chóng
chuyển hướng từ cơ chế bao cấp sang cơ chế phân phối sản phẩm theo lao động và kết hợp
các cách phân phối khác (phân phối lại) cũng như thực hiện trao đổi sản phẩm ngang bằng
theo cơ chế cung cầu của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở việc trao
đổi sản phẩm đôi khi vẫn còn sự bất bình đẳng. Chúng ta còn ít kinh nghiệm khi tham gia
vào quá trình toàn cầu hóa về kinh tế nên việc chạy theo giá cả thị trường quốc tế làm cho
giá cả trong nước biến động mạnh làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn...
 Ở vấn đề này vai trò của nhà nước cũng như của thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà
nước là rất quan trọng. Chính sự can thiệp của nhà nước (không can thiệp trực tiếp và thô
bạo mà thông qua các giải pháp tác động đòn bẩy gián tiếp phù hợp), cũng như hoạt động có
hiệu quả của một số ngành kinh tế chiến lược do nhà nước làm chủ sở hữu đã đưa đất nước
đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội; nhất là đứng vững và vượt qua được làn
sóng khủng hoảng kinh tế tài chính vừa qua là rất đáng trân trọng. Chúng ta không những
giữ ổn định mà vẫn giữ được mức tăng tăng trưởng kinh tế cao là rất đáng tự hào.
- Ví dụ: Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt Nam qua các
giai đoạn:
Thời kỳ trước đổi mới: Giai đoạn này kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay càng gặp nhiều
khó khăn sau cuộc chiến tranh nhiều gian khổ. Lực lượng sản xuất nước ta thời kỳ này còn
thấp và chưa có nhiều điều kiện để phát triển. Cụ thể:
+ Trình độ của người lao động thấp, hầu hết không có chuyên môn, tay nghề, phần lớn lao
động chưa qua đào tạo. Lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và dựa trên
kinh nghiệm ông cha để lại. Tư liệu sản xuất nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này
còn thô sơ, lạc hậu.
Trong hoàn cảnh này, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế:
thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã
thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
 Chính vì vậy đến nay, nước ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn.
+ Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới.
+ Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện các
mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ chức – quản
lý và phân phối.
Trong những năm đổi mới, nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng
cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương,
như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI,
ODA…), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai
thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ.
Câu 3: Tổng kết những bài học kinh nghiệm thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta
rút ra kết luận: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan” ( Đảng Cộng Sản Việt Nam: VĂN KIỆN đẢNG Toàn tập,
tr. 131). Hãy chỉ ra cơ sở triết học của kết luận trên.
Câu 4: Theo anh ( chị ), Đảng và Nhà nước ta cần phải làm gì để phát triển lực lượng
sản xuất, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất
Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, công
cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con người) và
người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).
Lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho
sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động. Như vậy ta có thể thấy lực lượng sản
xuất là cái thường xuyên biến đổi vì con người luôn muốn giảm nhẹ sức lao động và tăng
năng xuất lao động. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất thì tư liệu sản xuất và công cụ lao
động là yếu tố biến đổi thường xuyên. Con người không những cải công cụ sản xuất mà còn
tạo ra những công cụ sản xuất mới.
- Phát triển lực lượng sản xuất
Trước tiên ta cần chú ý đến việc phát triển lực lượng lao động xã hội, mà điểm cần lưu ý ở
đây chính là làm thế nào để phát triển được nguồn nhân lực một cách có hiệu quả nhất? Vì
phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hóa đất nước được rút ngắn. Vai trò này thể hiện rõ trên những khía cạnh sau:
- Một, khắc phục điểm yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là lao động thiếu kỹ năng
và năng suất thấp, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế thành công cũng như
củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
- Hai, đây là cách thức đúng đắn để đạt được mục tiêu phát triển con người.
- Ba, phát triển nguồn nhân lực là tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng
tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Để thực hiện chủ chương này, cần phát triển nguồn nhân lực, đó là những vấn đề về hai lĩnh
vực: giáo dục, đào tạo và phát triển khoa học công nghệ.
- Trước hết, về phương hướng và giải pháp đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo
– Định hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế
giới sẽ là một trong những yếu tố quyết định phương hướng và nội cải cách giáo dục.
– Cải cách căn bản chương trình giáo dục, đào tạo. Chương trình giáo dục mới phải đáp ứng
được mục tiêu tạo nền tảng tri thức để thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút
ngắn, phợp với yêu cầu của thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Phổ cập ngoại ngữ và
tri thức tin học cơ bản phải là tiêu chuẩn trong hệ tiêu chuẩn phổ cập giáo dục.
– Có chương trình ưu tiên thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ thống giáo dục,
đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những nguyên tắc và nội dung mới.
– Cách dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận, sử lý
thông tin và tri thức, phát triển năng lực xác địng và giải quyết vấn đề.
– Mối liên hệ cần thiết giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân
lực sẽ được thiết lập thông qua việc phát triển thị trường lao động và thị trường sản phẩm
khoa học, công nghệ.
– Nhà nước đóng vai trò chủ lực trong việc củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học, tiến hàng phổ cập trung học cơ sở trong cả nước …, giúp đông đảo
người nghèo có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản.
- Đối với lĩnh vực khoa học- công nghệ:
Hệ thống khoa học- công nghệ của nước ta hiện còn bất cập so với yêu cầu phát triển. Nó
cần được đổi mới căn bản và toàn diện. Ba nhiệm vụ lớn cần ưu tiên xử lý trong chiến lược
phát triển khao học-công nghệ giai đoạn tới là:
- Lựa chọn hướng phát triển khoa học-công nghệ ưu tiên. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là
bước đi và thứ tự ưu tiên trong triển khai các chương trình công nghệ này. Đồng thời,
trong giai đoạn trước mắt, cần đặc biệt coi trọng phát triển và áp dụng công nghệ thích
hợp, có khả năng thu hút nhiều lao động.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thực hành trẻ có năng lực. Đây là khâu quyết định
triển vọng phát triển của nền khoa học, công nghệ nói riêng và của Việt Nam nói chung.
- Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học- công
nghệ với các nhu cầu kinh tế-xã hội.
 Về mặt kinh tế
- Thứ nhất là giải pháp cho vấn đề sở hữu đó là chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu từng được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây
dựng xong về cơ bản. Phải từ thực tiễn tìm tòi , thử nghiệm để xây dựng chế độ sở
hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN mới nói chung
với những bước đi vững chắc
- Thứ hai là giải pháp cho vấn đề tổ chức quản lý . Nhà nước ta là nhà nước
XHCN ,quản lý nền kinh tế bằng pháp luật ,chiến lược quy hoạch,kế hoạch ,chính
sách ,sử dụng cơ chế thị trường áp dụng các hình thức kinh tế và quản lý kinh tế của
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,giải phóng sức sản xuất phát huy mặt tích
cực ,hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,bảo vệ lợi ích của nhân
dân lao động .
- Thứ ba là giải pháp cho vấn đề phân phối. Định hướng XHCN trong quan hệ phân
phối đòi hỏi chúng ta phải trước hết bảo vệ quyền lợi chân chính của người lao động.
Vấn đề ưu tiên hàng đầu để bảo vệ quyền lợi người lao động là vấn đề khắc phục nạn
thất nghiệp,tạo công ăn việc làm,có việc làm sẽ có thu nhập
 Giải pháp cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
 Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ ,rộng mở đa phương hoá ,đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế .
 Đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội ,công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất
nước
 Mở rộng quan hệ nhiều mặt ,song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh
thổ ,các trung tâm chính trị ,kinh tế quốc tế lớn các tổ chức quốc tế và khu vực
 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực ,nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ,bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
XHCN ,bảo vệ lợi ích dân tộc ,bảo vệ môi trường.
Câu 5: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nghiên cứu mới quan hệ đó. Vận dụng lý luận đó để giải thích một
số nét khác biệt trong văn hóa vùng miền ở Việt Nam hiện nay

 Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1. Ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập quán, truyền
thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận…. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
Ý thức là hình thức cao phản ánh thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có.
Còn tồn tại xã hội là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với nhau. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã
hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Kết cấu của ý thức xã hội gồm
– Tâm lý xã hội: bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán .…của con
người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành dưới ảnh hưởng trực
tiếp cuộc sống hàng ngày và phản ánh đời sống đó. Quá trình phản ánh này thường mang
tính tự phát, chỉ ghi lại những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội.
– Hệ tư tưởng xã hội: là trình độ cao của ý thức xã hội được hình thành khi con người đã có
được nhận thức sâu sắc hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất của mình; là nhận thức lý luận
về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ
thuật, tôn giáo…) kết quả sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Có hai loại hệ tư
tưởng là:
+ Hệ tư tưởng khoa học- phản ánh chính xác, khách quan tồn tại xã hội;
+ Hệ tư tưởng không khoa học- phản ánh sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội.
2. Tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với tự nhiên và giữa
con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh
tế giữa con người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong
quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất; điều kiện tự
nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v, trong đó phương thức sản xuất vật
chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc
v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.

 Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mới quan hệ đó
Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong triết học Mác – Lênin
+ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức.
Trong lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra
và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư
tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại
xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay đổi thì
sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
+ Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ
đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh
vực tâm lý xã hội như trong truyền thống ,tập quán ,thói quen.
 Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:
– Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ,thườngxuyên và trực tiếp của những
hoạt động thực tiễn của con người ,thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể
không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội
nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
– Do sức mạnh của thói quen truyền thống ,tập quán cũng như dotính lạc hậu ,bảo thủ của
một số hình thái xã hội.
– Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm ,những tậpđoàn người ,những giaii cấp
nhất định trong xã hội..
+ Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa
học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,dự báo được tương lai và có
tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người ,hướng hoạt động đó vào hướng
giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra.
+ Ý thức xã hôi tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò
của ý thức xã hội ,mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh
tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử cụ thể ,vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh.

 Vận dụng lý luận đó để giải thích một số nét khác biệt trong văn hóa vùng miền ở
Việt Nam hiện nay
VD: hiện tượng mê tính dị đoan – được xem là ý thức xã hội
Những hiện tượng mê tính dị đoan gắn chặt với trạng thái tâm lý xã hội. Các hiện tượng mê
tín dị đoan xuất hiện, tồn tại và phát triển ăn nhập với những hiện tượng tiêu cực về chính
trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là hiện tượng nhiều người giảm lòng tin vào cuộc sống thực tại,
mà tìm chỗ dựa tinh thần vào trong may rủi, trong sức mạnh thiêng liêng mơ hồ. Điều đáng
chú ý là, nhu cầu giải trí bằng sinh hoạt văn hóa của nhân dân quá lớn mà sự đáp ứng của
ngành văn hóa và của toàn xã hội còn hạn chế nên nhiều người, trong đó không ít thanh
thiếu niên, đã tìm cách giải trí qua các hoạt động mê tín.
Do vậy, việc chống mê tín dị đoan và xây dựng nếp sống mới, phong tục mới là một vấn đề
văn hóa lớn, nó quan hệ đến mọi người, mọi gia đình, mọi nhóm người trong xã hội. Đồng
thời là một vấn đề rất phức tạp, phải giải quyết một cách kiên trì và lâu dài. Cho nên, phải
nhận xét nó, phân tích nó bằng một tư duy khoa học, hết sức tránh mọi sự nôn nóng chủ
quan và thô bạo. Đồng thời, phải xử lý mọi trường hợp một cách có văn hóa, nghĩa là bằng
cách tôn trọng nhân phẩm con người, thuyết phục sâu sắc mọi người. Phải sử dụng pháp luật
một cách thật chính xác và có hiệu lực lớn. Phải đề cao luật pháp một cách kiên quyết và
cũng phải có văn hóa.
Câu 6: Tại sao nói hình thái phát triển kinh tế xã hội là một quá trình tự nhiên?
Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội (trang 153)
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống
nhất với nhau. Các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các
quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi
cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại
lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau. Trên
cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến
kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự
nhiên. Nguyên nhân của sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá
trình lịch sử tư nhiên vì:
+ Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái
kinh tế – xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, khoa học,… Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với
cơ sở hạ tầng.
+ Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội
+ Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã
hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò
quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ
của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình thái kinh tế – xã
hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội
tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa.

Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định,
một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Câu 7: Tại sao nói cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử?

 Khái niệm:
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất
trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh
tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập
một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.

 Nguyên nhân khách quan của cách mạng xã hội


+ Nguyên nhân khách quan, xuất phát từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuất vật
chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng
sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải
cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được.
+ Nguyên nhân chủ quan là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức
giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự phát triển của
phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của các
nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách mạng, thì khi đó tất yếu cách
mạng sẽ bùng nổ và có khả năng thành công.

 Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của
xã hội có đối kháng giai cấp
+ Quan điểm: Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của
sự phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể
diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội
mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C. Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là
những “đầu tàu của lịch sử”, tức vai trò là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn
cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải quvết
triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
+ Bằng chứng lịch sử:. Đó là: cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế -
xã hội nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ
chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ
phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ
chế độ chuyên chính tư sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại
nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị
xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn
tại hàng nghìn năm trong lịch sử nhân loại.
Câu 3: Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luật của việc
nghiên cứu nguyên lý này và cho ví dụ vận dụng trong thực tiễn
Đặc trưng cơ bản của mối liên hệ phổ biến:
Mối liên hệ phổ biến phải có tính phổ biến
Nó chủ yếu biểu hiện ở: Thứ nhất, các bộ phận, yếu tố và các khâu khác nhau bên
trong tất cả các sự vật có mối liên hệ lẫn nhau. Thứ hai, mọi thứ đều có mối liên hệ với mọi
thứ khác xung quanh. Thứ ba, toàn bộ thế giới là một thể thống nhất có mối liên hệ lẫn
nhau.
Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào
tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những
yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan
Nó là sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con người.
Như vậy nếu chúng ta xét theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định,
tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ
có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng
Trong mối liên hệ phổ biến này ẩn chứa tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ
được thể hiện thông qua sự liên hệ của các các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau
đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng
trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
Theo đó nếu chúng ta xét theo các hướng khác nhau, mối liên hệ phổ biến có thể
được chia thành mối liên hệ phổ biến trực tiếp và mối liên hệ phổ biến gián tiếp. Mối liên hệ
phổ biến bản chất và mối liên hệ phổ biến hiện tượng. Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối
liên hệ phổ biến thứ yếu.
Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến ngẫu nhiên. Mối liên hệ phổ
biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên ngoài. Quan hệ nhân quả, mối liên hệ giữa tổng
thể và bộ phận. Những mối liên hệ phổ biến khác nhau có tác dụng khác nhau đến sự tồn tại
và phát triển của sự vật.
Ngoài quan điểm về đa dạng của mối liên hệ phổ biến như trên nó còn có tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng
của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng,
mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Mối liên hệ phổ biến có tính cụ thể và tính điều kiện
Như chúng ta đã biết thì mối liên hệ phổ biến có tính điều kiện bởi vì mối liên hệ
giữa các sự vật cụ thể. Mối liên hệ phổ biến của mọi vật đều phải dựa vào những điều kiện
nhất định. Tính chất và phương thức của các mối liên hệ phổ biến sẽ thay đổi theo sự thay
đổi của điều kiện.
Ý nghĩa phương pháp luận
Một là: Quan điểm toàn diện
- Cần phải xem xét mọi mặt, mọi mối liên hệ, của các sự vật hiện tượng.
- Cần phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các mặt, các yếu tố
của chính sự vật, hiện tượng; cũng như giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng
khác.
- Trong vô vàn các mối liên hệ, phải rút ra những mối liên hệ cơ bản để xác định bản chất
của sự vật, hiện tượng.
- Tránh cách xem xét, phiến diện, siêu hình
- Tránh cách xem xét dàn trải, cào bằng (coi mọi mối liên hệ như nhau), có nghĩa là chống
lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
- Tránh ngụy biện
Hai là: Quan điểm lịch sử - cụ thể
- Khi xem xét các sự vật hiện tượng, cần phải đặt chúng trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử
cụ thể; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định.
- Cần phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, hình thành và phát triển
của chúng.
- Cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể
nhất định, từ đó có những giải pháp đúng đắn và hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Câu 8: Nội dung nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp luật của việc nghiên
cứu nguyên lý này và cho ví dụ vận dụng trong thực tiễn.
1. Khái niệm phát triển
– Phát triển là sự vận động tiến lên (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn).
– Từ khái niệm trên cho thấy:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng
với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát triển.
Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi biến đổi nói
chung, con người phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời của
cái mới hợp quy luật.
2. Nội dung và tính chất của sự phát triển
– Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế
giới.
– Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên tục.
– Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian,
thậm chí có lúc, có sự thụt lùi tạm thời.
– Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh
của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
3. Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển
– Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua
những bước nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối
lập ở trong sự vật.
– Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt
ổn định của sự vật, hiện tượng. Sau này, khi khoa học đã chứng minh cho quan điểm về sự
phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự phát triển, song với họ phát triển chỉ là sự tăng
hay giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài
sự vật, hiện tượng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
– Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con
người phải tôn trọng quan điểm phát triển.
– Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người
phải đặt chúng ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
– Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà
còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những
biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái
quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của sự vật.
– Bạn đã nắm vững kiến thức: Điều kiện ra đời, tồn tại của sản xuất hàng hoá.
– Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của
sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác
động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó,
tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con người.
– Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử – cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được
chúng, mỗi người cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng – nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động
của mình.

You might also like