Professional Documents
Culture Documents
DS543 US - Tariff Measures On Certain Goods From China
DS543 US - Tariff Measures On Certain Goods From China
Ban Hội thẩm đưa ra quyết định cuối cùng đó là những biện pháp mà USA đã áp dụng
với Trung Quốc là không nằm trong Điều XX(a) của GATT 1994. Để có được kết luận
trên thì Ban hội thẩm đã lấy ý kiến từ các quốc gia thứ 3, cũng như là những ý kiến của
các cơ quan giải quyết tranh chấp trước đó của WTO để đưa ra được 03 yêu cầu mà USA
phải đáp ứng, chứng minh được nếu muốn viện dẫn Điều XX(a). Tuy nhiên, cuối cùng thì
Mỹ chỉ chứng minh được yêu cầu đầu tiên. Ba yêu cầu đó theo thứ tự là:
(1) Liệu rằng những chính sách, vấn đề mà USA đã đưa ra (vi phạm các tiêu chuẩn của
USA, cụ thể là trong các vấn đề về trộm cắp, tống tiền, gián điệp kinh tế, hack mạng và
chiếm đoạt các bí mật thương mại, các hành vi chống cạnh tranh, cũng như là các quy
định của chính phủ về tài sản (sau đây được gọi là đạo đức công cộng, được viện dẫn bởi
USA) có phải là những mục tiêu của đạo đức công cộng theo Điều XX(a) của GATT
1994. Ban hội thẩm đã trao quyền tự định nghĩa và đặt ra phạm vi của đạo đức công cộng
trong vụ án này và đồng ý với quan điểm của USA rằng những mục tiêu trên được xem là
đạo đức công cộng.
Theo nhóm em, đây là quyết định hợp lý vì như đã đề cập ở trên thế nào là đạo đức công
cộng thì vẫn chưa được định nghĩa cách cụ thể trong bất kỳ văn bản nào hay cũng chưa
có những thỏa thuận, quan điểm của các thành v
iên nào được WTO công nhận, nên việc định nghĩa đạo đức công cộng và phạm vi nên
được trao cho quốc gia viện dẫn Điều XX(a) vì “đạo đức công cộng” theo từ điển thông
thường có thể được hiểu là: “những thói quen trong cuộc sống liên quan đến tính đúng
sai, những giá trị xã hội của một cộng đồng hay quốc gia.” Vậy nên, phải sử dụng chính
những giá trị xã hội, tính đúng sai của chính quốc gia viện dẫn Điều XX để có thể xem
xét cho những vấn đề, mục tiêu mà họ đưa ra có phải là đạo đức công cộng, không thể áp
đặt những giá trị xã hội, hay tính đúng sai của những cộng đồng quốc gia khác lên để
xem xét những vấn đề mà USA đã trình lên, như vậy là không công bằng đối với quốc gia
này. Do vậy, việc Ban hội thẩm đồng ý để USA từ định nghĩa và nêu phạm vi của đạo
đức công cộng trong vụ án này là hợp lý. Điều này cũng được một số quốc gia thứ 3 đồng
ý (Như là Úc, Nhật Bản); Ngoài ra, Ban hội thẩm của vụ án EC - Seal products cũng nêu
quan điểm rằng những biện pháp của USA đưa ra có đang thuộc vào phạm vi Điều XX(a)
GATT 1994 nên được xem xét theo 2 yếu tố:
- Liệu rằng vấn đề liên quan “đạo đức công cộng” đang được bảo vệ có đang tồn tại trong
xã hội hay không.
- Thứ hai, nếu trường hợp có tồn tại vấn đề đạo đức xã hội thì nó có đang được xác định
và áp dụng bảo vệ trong lãnh thổ của quốc gia ấy hay không (theo tiêu chuẩn của quốc
gia ấy).
Có thể thấy, Ban hội thẩm vụ án EC - Products cho rằng để biết được rằng những vấn đề
mà USA đưa ra có phải là đạo đức công cộng hay không thì cần phải xem xét nếu những
vấn đề đó có tồn tại, được bảo vệ trong xã hội và những vấn đề đó có đang được bảo vệ
tại quốc gia viện dẫn hay không (theo tiêu chuẩn của quốc gia ấy). Trong vụ án này, như
phía USA đã trình bày thì những vấn đề mà USA viện dẫn đều được bảo vệ theo Đạo luật
thương mại, cũng như theo các tiêu chuẩn đúng sai của họ nên việc quốc gia này xác định
đây là mục tiêu đạo đức công cộng cần được bảo vệ là có căn cứ.
Tóm lại, theo nhóm chúng em, quyết định đồng ý với USA rằng những vấn đề mà quốc
gia này viện dẫn là mục tiêu đạo đức công cộng của Ban hội thẩm là hoàn toàn hợp lý
theo những quan điểm, ý kiến, lập luận trên.
(2) Liệu rằng các biện pháp mà Hoa Kỳ thiết lập có bảo vệ mục đích công cộng hay
không
Nhóm em đồng ý với ban Hội thẩm rằng để xác định những biện pháp của USA có đáp
ứng được điều kiện thứ 2, thì cần phải xem xét liệu rằng những biện pháp ấy có sự liên
quan đến những mục đích công cộng mà quốc gia ấy đã đưa ra hay chưa, hay nói cách
khác là những biện pháp đó giải quyết, bảo vệ những mục tiêu đạo đức công cộng của
USA như thế nào.
Nói cách khác, để kết luận rằn liệu những biện pháp của USA có thật sự được dùng để
bảo vệ những đạo đức công cộng mà Hoa Kỳ đã viện dẫn hay không thì phải cân nhắc
đến việc những biện pháp Hoa Kỳ đã giải quyết, giảm thiểu hóa những hành vi vi phạm
đạo đức công cộng của TQ như thế nào, hoặc Hoa Kỳ có thể chứng minh được tình hình
vi phạm đạo đức công cộng trước và sau khi áp dụng biện pháp áp thuế bổ sung có sự
giảm thiểu.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ lại không thể chứng minh được những điều trên nên Ban hội thẩm đã
kết luận rằng Hoa Kỳ không đáp ứng được yêu cầu (2). Như đã nói ở trên, tụi em đồng ý
với quan điểm này của Ban hội thẩm vì để chứng minh được rằng các biện pháp áp thuế
bổ sung của Mỹ là có liên quan, là được đưa ra để giải quyết, giảm thiểu những vi phạm
đạo đức công cộng của TQ thì ít nhất phía Hoa Kỳ phải đưa ra được bằng chứng, lời giải
thích hợp lý hay bằng chứng cụ thể về việc những biện pháp ấy góp phần giải quyết như
thế những hành vi vi phạm đạo đức công cộng.
(3) Liệu rằng các biện pháp mà Hoa Kỳ thiết lập có “cần thiết” để bảo vệ mục đích
công cộng hay không
Ban Hội thẩm nhận định rằng, để chứng minh những biện pháp của Hoa Kỳ là đáp ứng
yêu cầu (3) thì phải x em xét liệu có còn những biện pháp thay thế nào (không trái với
những nguyên tắc của WTO) có thể sử dụng trong trường hợp này hay không và so sánh
tác dụng, hiệu quả của các biện pháp ấy. Phía TQ không đưa ra gợi ý bất kỳ biện pháp
thay thế nào cho Mỹ trong trường hợp này vì họ cho rằng những biện pháp mà Hoa Kỳ đã
đưa ra đã không chứng minh được sự liên quan đối với những mục tiêu đạo đức công
cộng mà mình đã viện dẫn. Ban hội thẩm sau đó cũng kết luận sơ bộ rằng do phía Hoa Kỳ
đã không đáp ứng được yêu cầu (2) trước đó, nên việc xác định liệu những biện pháp Hoa
Kỳ có thật sự cần thiết trong vụ án này hay không là không cần thiết.
Nhóm em đồng ý với quan điểm Ban hội thẩm khi cho rằng việc xem xét yêu cầu thứ (3)
đối với Hoa Kỳ là không cần thiết nữa. Tuy nhiên, theo nhóm em việc Hoa Kỳ áp dụng
những biện pháp trái với nguyên tắc WTO lên TQ là cần thiết. Vì, Mỹ chỉ thông qua
những biện pháp đó sau gần một thập kỷ cố gắng giải quyết các hành vi, chính sách… vi
phạm của TQ. Hoa Kỳ đã sử dụng những biện pháp như đối thoại, khuyên răn, diễn đàn
đại phương, cơ chế song phương, đưa ra các cáo buộc hình sự đối với những cá nhân, tổ
chức liên kết với Chính phủ TQ và cuối cùng thì không nỗ lực, biện pháp nào chứng
minh được là hiệu quả. Vậy nên, Hoa Kỳ mới áp dụng các biện pháp trái với nguyên tắc
WTO; Mà theo Ban hội thẩm thì việc Hoa Kỳ có đáp ứng được yêu cầu (3) hay không thì
cần phải xem xét liệu rằng còn những biện pháp nào khác hay không, nhưng phía Hoa Kỳ
đã thực hiện những biện pháp khác gần 10 năm nhưng không có tác dụng gì, sau đó họ
mới sử dụng biện pháp áp thuế bổ sung 1 số hàng hóa TQ. Do vậy, nhóm em nghĩ phía bị
đơn đã đáp ứng được yêu cầu (3).
Article 12.7 of the DSU:
Theo Mỹ, thì Economic and Trade Agreement giữa Mỹ và Trung Quốc là minh chứng
cho việc thảo luận song phương giữa 2 quốc gia
Dẫn chiếu theo Điều 12.7 của DSU “ Nếu có sự hoà giải giải quyết vấn đề giữa các bên
tranh chấp, thì bản báo cáo của ban hội thẩm phải được hạn chế ở mức mô tả ngắn gọn về
vụ việc này và báo cáo rằng đã đạt được một giải pháp.”
Theo đó, Ban hội thâm không nên ban hành bất kỳ đề xuất nào, theo vào đó, báo cáo của
ban hội thẩm nên ở mức mô tả ngắn gọn
Trung Quốc cho rằng hai bên đã không đưa ra một giải pháp phù hợp với hai bên, và phát
biểu của Ban Hội thẩm của Trung Quốc cho rằng vấn đề trên chưa được giải quyết và vấn
đề trên sẽ thuộc thẩm quyền của Ban hội thẩm. Lý do:
Phase one của Thỏa thuận không liên quan về mặt pháp lý đối với tranh chấp hiện tại, bởi
vì nó không đưa ra bất kì biện pháp nào để giải quyết vấn đề.
Theo đó, Trung Quốc khẳng định rằng họ chưa bao giờ đồng ý với bất kỳ quy trình hoặc
giải pháp nào khác có thể hạn chế việc đưa ra các khuyến nghị của Ban Hội thẩm. Trung
Quốc lập luận rằng các bên đã không giải quyết vấn đề theo ý nghĩa của Điều 12.7 (câu
cuối cùng) của DSU, bởi vì các bên đã không tìm thấy "giải pháp được đồng ý chung"
theo nghĩa của Điều 3.6 của DSU, hoặc thông báo như vậy giải pháp cho DSB.
Theo nhóm em, nhận xét của ban hội thẩm là hoàn toàn hợp lý:
Thứ nhất, theo Điều 12.7 từ “giải pháp” mà Mỹ đưa ra để giải thích là rộng, bao hàm cả
việc chưa làm vấn đề được giải quyết trọn vẹn. Tuy nhiên, theo nghĩa được quy định
trong hiêp định DSU thì “giải pháp” phải được hiểu là “hành động giải quyết vấn đề”,
vấn đề được giải quyết, tức là vấn đề không còn hiện diện trên thực tiễn nữa. Tuy nhiên,
thỏa thuận mà Mỹ đang đề cập không hề giúp vấn đề được giải quyết trọn vẹn nên không
thể được hiểu một “giải pháp theo quy định tại Điều 12.7
Hơn nữa, việc Mỹ chỉ dựa hoàn toàn vào cuộc đối thoại, đàm phán để cam kết rằng đang
có một giải pháp chung được đề nghị giữa các bên là không hợp lý và không đủ căn cứ để
có thể làm bằng chứng về việc có bản đề nghị giải pháp chung giữa các bên.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 31 VCLT thì việc giải thích Hiệp định phải tuân thủ nguyên
tắc trung thực và thiện chí. Việc Mỹ dựa vào cuộc đối thoại, đàm phán để cho rằng được
tước đoạt đi quyền khởi kiện và quyền nhận được phán quyết của Trọng tài là vi phạm
nguyên tắc thiện chí giải quyết vấn đề và giải thích điều khoản 27.4