You are on page 1of 23

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ
LỚP CLC46E

BÀI THẢO LUẬN THỨ HAI

VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG

Giảng viên: TS. Nguyễn Xuân Quang


Bộ môn: Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 9 năm 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1

STT Họ và tên MSSV Ghi chú

1 Trần Thị Nhật Trinh 2153801011249

2 Nguyễn Kiều Như 2153801012165

3 Bùi Thúy Quỳnh 2153801012182

4 Đoàn Phương Tâm 2153801012197

5 Nguyễn Ngọc Khánh Trà 2153801013264

6 Đặng Hồ Bảo Châu 2153801015029

7 Nguyễn Bảo Quế Ngân 2153801015160

8 Phạm Hoàng Anh Thư 2152801015256


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ Luật Dân sự


MỤC LỤC

I. VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG....................1


1. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với ba vấn đề trên.
..................................................................................................................................1
II. VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG......................................................................................................................3
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?...................................................................................................3
2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp trong một hệ thống pháp
luật nước ngoài........................................................................................................4
3. Việc Tòa án áp dụng Án lệ 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?................................4
III. VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC
HIỆN ĐƯỢC...........................................................................................................6
1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh chị về những thay đổi giữa BLDS 2015
và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.....................................................6
2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?...............................................7
3. Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp
đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được?...........................................9
4. Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục không? Vì sao?......................................................10
IV. VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN
TÀI SẢN................................................................................................................11
1. Đối với vụ việc thứ nhất................................................................................12
1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?...........................................12
1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?................................12
1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị
che giấu...................................................................................................................13
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu...............................................................................................13
2. Đối với vụ việc thứ hai..................................................................................15
2.1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng
ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?.................15
2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (giả tạo để
trốn tránh nghĩa vụ)................................................................................................16
2.3. Cho biết hệ quả của việc Toà án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ........................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................
I. VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với ba vấn đề
trên.
(1) Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
theo quy định của Điều 400 BLDS 2015
Đây là một giao kết bằng hình thức văn bản, theo khoản 4 Điều 400 BLDS
2015: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản ... ".
Tòa án nhận định có phần chưa khách quan, trên thực tế là D đã có hành vi
gửi chấp nhận giao kết hợp đồng cho bên đề nghị “Tháng 1 năm 2020 và tháng 2
năm 2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình
nhưng D không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho
C (C không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D).".
Hành vi này đã được thực hiện, có thể D đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết
nhưng vì lý do khách quan nào đó chưa đến được tay C hoặc D quên gửi cho C.
Qua đó thấy được D đã có động thái gửi chấp nhận đề nghị kết luận trên là chưa
chính xác.
(2) Chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định
của Điều 394 BLDS 2015:
Đây là một giao kết bằng hình thức văn bản, trong tình huống không đề cập
đến vấn đề giao kết có quy định thời hạn trả lời chấp nhận của bên có đề nghị hay
không, nên ta sẽ xem xét vấn đề là giao kết không có quy định thời hạn trả lời.
Theo khoản 1 Điều 394 BLDS 2015:
“Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng
nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị
mới của bên chậm trả lời.
Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ
có hiệu lực trong một thời hạn hợp lý”.

NHÓM 1 1
Như vậy, việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một
thời hạn hợp lý. Bộ luật dân sự chỉ nói là thời hạn hợp lý, nhưng như thế nào là
thời hạn hợp lý thì Bộ luật dân sự lại không đề cập đến. Thiết nghĩ không quy định
thời hạn thì ta dựa vào ý chí của bên đề nghị để xem xét một cách khách quan.
Trong tình huống trên các chủ thể tham gia đề nghị giao kết với D đã có hành động
cụ thể như sau: Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân), B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi
cho D một đề nghị giao kết hợp đồng là điều khoản về phương thức giải quyết
tranh chấp, bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể). Thông qua hành động cả
3 chủ thể là A, B và C đã ký vào văn bản đó, ta có thể nhận thấy rằng cả 3 chủ thế
mong muốn được xác lập giao kết này. Hướng giải quyết trên của Tòa án chưa dựa
trên ý chí mong muốn của các bên chủ thể tham gia vào giao kết.
(3) Chấp nhận trên của D là để nghị giao kết mới
Hướng giải quyết chưa thỏa đáng.
Tòa án đã áp dụng khoản 1 Điều 394 BLDS 2015: “Nếu bên đề nghị giao
kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được
coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời”. Bởi lẽ trong đề nghị giao kết của các bên
không quy định rõ thời hạn trả lời chấp nhận giao kết nên việc xác định bên đề
nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời là rất khó xác
định.
"Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ
có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý". Vì “thời hạn hợp lý"
BLDS đề cập đến còn rất mơ hồ. Xét về mặt ý chỉ các bên mong muốn tham gia
vào giao kết thông qua các hành động như: A, B và C ký vào văn bản đề nghị giao
kết, D cũng có hành động là gửi trả lời chấp nhận đề nghị. Tòa án nên xem xét kỹ
là các bên có thỏa thuận cho giao kết này có hiệu lực trên thực tế không, như vậy
mới thể hiện được tinh thần của Luật dân sự.

NHÓM 1 2
II. VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG.
Tóm tắt nội dung Án lệ số 04/2016/AL: “Về hợp đồng mua bán nhà, đất
ngày 26-4-1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua
nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và
cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích
đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà Tý. Theo lời khai của các người con ông
Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã
phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà
đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có
nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên
phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà
đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết
có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà
Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự
chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ.”
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng
trong giao kết hợp đồng?
Căn cứ pháp lý:
_Khoản 2 Điều 404 BLDS 2005: “Hợp đồng dân sự cũng xem như được
giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có
thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”.
_Khoản 2 Điều 393 BLDS 2015: “Sự im lặng của bên được đề nghị không
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”.
So sánh điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im
lặng trong giao kết hợp đồng:
_BLDS 2015 quy định rõ ràng hơn so với BLDS 2005 về vai trò của im
lặng trong giao kết hợp đồng. BLDS 2015 theo hướng thông thường im lặng không
là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có ngoại lệ, khi theo thỏa thuận hay
thói quen của các bên thì im lặng vẫn là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

NHÓM 1 3
Trong khi đó BLDS 2005 chỉ đề cập im lặng là đồng ý giao kết trong trường hợp
hai bên có thỏa thuận mà chưa chỉ rõ rằng nếu không có thỏa thuận vậy im lặng
liệu có được xem là đã đồng ý hay không?
_Ngoài hai ngoại lệ theo thỏa thuận và theo thói quen là cơ sở để im lặng
được xem là một hình thức chấp nhận, được đề cập trong khoản 2 Điều 393 BLDS
2015, chúng ta nên hướng bản thân im lặng không là chấp nhận nhưng nếu bên
cạnh sự im lặng là biết nhưng không nói gì mà có yếu tố khác như giao hàng, trả
tiền, lời đề nghị hoàn toàn vì lợi ích của người được đề nghị thì vẫn có thể chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp trong một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
Trong Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ cũng có điểm chung với pháp luật Việt
Nam, theo đó, pháp luật Hoa Kỳ cũng không thừa nhận sự im lặng là hình thức
đồng ý giao kết hợp đồng. Pháp luật hai nước đều không thừa nhận sự im lặng là
chấp nhận giao kết hợp đồng trừ khi hai bên có thoả thuận sự im lặng là chấp nhận
giao kết hợp đồng.

3. Việc Tòa án áp dụng Án lệ 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển


nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?
_Xét về tình tiết của hai sự việc:
+Trong Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-
2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” - nguồn của án lệ 04/2016/AL, Toà án đã
không chấp nhận khiếu nại của bà Phấn khi bà yêu cầu Tòa tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng đất giữa ông Ngự và vợ chồng bà Tý là vô hiệu với lí do ngôi nhà
là tài sản chung của vợ chồng nhưng ông Ngự đã tự ý bán khi chưa có sự đồng ý
của bà Phấn.
+Tuy nhiên theo lời khai của các con bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho
vợ chồng bà Tý thì ông Ngự bà Phấn đã phân chia vàng cho các con, ông Ngự còn
viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi

NHÓM 1 4
xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự
đã sử dụng phần nhà đất của vợ chồng bà Tý khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở
xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng
bà Tý; bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông
Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn cứ.
+Còn trong tình huống của ông Chu và bà Bùi: Việc ông Văn xây dựng
chuồng trại trên đất chuyển nhượng để ông Văn được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và các bên làm thủ tục chuyển nhượng các con của ông Chu, bà Bùi
không ai ý kiến gì. Nên có cơ sở để cho rằng các con của ông bà biết nhưng im
lặng không phản đối việc chuyển nhượng đất. Vì có tình tiết tương tự nên tình
huống trên được Toà áp dụng Án lệ 04/2016/AL để giải quyết là hợp lý.
_Theo khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ “Khi
xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ
việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải
được giải quyết như nhau...”.

NHÓM 1 5
III. VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN
ĐƯỢC
Tóm tắt Bản án số 609/2020/DS-PT ngày 12/11/2020 của Toà án nhân dân
cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ông Huỳnh Tấn P.
Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn L.
Khoảng tháng 10/2016, ông P cho ông B vay 100.000.000 đồng và thỏa
thuận ông B chuyển nhượng cho ông P các thửa đất số 20, 21, 22 tờ bản đồ số 1, ấp
Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đ.Giấy cam kết có nội dung ông B được
mua lại tài sản với giá 160.000.000 đồng và đã giao nhận đủ tiền. Hôm ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, người đứng tên ký hợp đồng với ông B là
ông L, không phải ông P. Sau đó, Ông L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
3 thửa đất 20,21,22. Ông P đã nhiều lần yêu cầu ông L chuyển các thửa đất trên lại
cho ông nhưng ông L né tránh, không thực hiện. Nay ông P khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết vô hiệu các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất số
20, 21, 22.
1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu
_Tại khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 quy định: “Trong trường hợp ngay từ
khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì
hợp đồng này bị vô hiệu”.
Và khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 quy định: “Trường hợp ngay từ khi giao
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”.
 Thứ nhất, điều luật đã thay từ “ký kết” bằng từ “giao kết. Quy định mới
này phù hợp hơn ở chỗ “giao kết” được hiểu rộng hơn, bao quát được tất cả các
trường hợp hợp đồng được hình thành kể cả từ hình thức bằng lời nói, văn bản
thường hoặc giao dịch điện tử… Còn “ký kết” là một cụm từ mang nghĩa hẹp chỉ
áp dụng đối với trường hợp giao kết bằng hình thức văn bản có chữ ký, thậm chí
còn hạn chế cả các hình thức chấp nhận khác thể hiện trên văn bản như điểm chỉ
hoặc đóng dấu…

NHÓM 1 6
 Thứ hai, điều luật đã bỏ đi cụm từ “vì lý do khách quan”. Tức là theo
BLDS 2005 thì chỉ khi đối tượng không thực hiện được vì lý do khách quan như
động đất, sóng thần, thay đổi chế độ chính sách… thì hợp đồng mới vô hiệu. Còn
nếu vì lý do chủ quan của một trong các bên tham gia quan hệ hợp đồng thì hợp
đồng không vô hiệu. Tuy nhiên, việc bỏ đi cụm từ này đồng nghĩa với việc BLDS
2015 thừa nhận dù vì lý do khách quan hay chủ quan thì nếu ngay từ khi giao kết
nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được thì hợp đồng vô hiệu. Quy
định này là phù hợp bởi lẽ lý do khách quan hay chủ quan chỉ ảnh hưởng đến trách
nhiệm phát sinh từ hệ quả của hợp đồng vô hiệu chứ không ảnh hưởng tới hiệu lực
của hợp đồng.
+Tại khoản 3 Điều 411 BLDS 2005: “Quy định tại khoản 2 Điều này
cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối
tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị
pháp lý”.
+Và khoản 3 Điều 408 BLDS 2015: “Quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần
đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu
lực”.
+Khoản 3 Điều 408 BLDS 2015 đã thay cụm từ “giá trị pháp lý” trong
khoản 3 Điều 411 BLDS 2005 bằng “hiệu lực”. Hợp đồng vô hiệu thì chắc chắn là
hợp đồng ko có hiệu lực pháp lý nhưng ngược lại hợp đồng không có hiệu lực pháp
lý chưa chắc đã phải là hợp đồng vô hiệu mà có thể là hợp đồng chưa được ký kết,
đã ký kết nhưng bị đình chỉ hiệu lực, hoặc đã hết hiệu lực. Như vậy, dùng cụm từ
“hiệu lực” sẽ tạo sự khái quát, bao quát hơn so với việc dùng cụm từ " giá trị pháp
lý " vì " giá trị pháp lý " chỉ mang ý nghĩa luật định, còn " hiệu lực " còn có ý
nghĩa trong việc thực thi.

2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng
không thể thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
_Tại Điều 408 BLDS 2015 quy định về hợp đồng vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được như sau:

NHÓM 1 7
“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên
kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia,
trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực."
_Điều 408 BLDS 2015 đã nêu rõ hợp đồng chỉ bị vô hiệu khi có đối tượng
không thể thực hiện được “ngay từ khi giao kết”. So với quy định trước đây của
BLDS 2005, Điều 408 BLDS 2015 đã xoá bỏ cụm từ “nguyên nhân khách quan”.
Do đó theo tinh thần của BLDS 2015, khi hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được thì hợp đồng bị vô hiệu, bất kể việc đó xuất phát từ nguyên nhân khách
quan hay chủ quan.
_Điều 408 BLDS 2015 không quy định rõ ràng về thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu và thời hiệu để tuyên giao dịch vô hiệu nghĩa là hết thời
gian đó mà không thực hiện tuyên bố vô hiệu thì giao dịch/ hợp đồng mặc nhiên sẽ
có hiệu lực. Tuy nhiên xét lại hợp đồng có đối tượng không thực hiện được, bản
chất là việc thực hiện hợp đồng không thể xảy ra, nên thời hiệu áp dụng cho việc
tuyên bố hợp đồng vô hiệu là vô thời hạn. Và trên thực tế nó không cần đến Tòa án
để tuyên vô hiệu, vì bản chất là không thể thực hiện được.
_Việc cần đến Tòa án tuyên giao dịch/ hợp đồng vô hiệu là do đảm bảo
quyền lợi của các bên, cũng như bảo vệ được quyền lợi của phía yếu thế trong
trường hợp giao dịch/ hợp đồng đó có dấu hiệu không thiện chí từ một phía, và cần
Tòa là phía thứ ba đứng ra bảo vệ quyền lợi. Còn trường hợp có đối tượng không
thể thực hiện được nếu rơi vào tình huống do có sự gian dối thì áp dụng điều luật
của giao kết hợp đồng do giả tạo.
_Ví dụ:

NHÓM 1 8
+A thoả thuận giao kết hợp đồng mua bán tài sản với B, đối tượng là
mảnh đất thuộc sở hữu của A. Trong hợp đồng ghi rõ điều khoản B dùng mảnh đất
đó cho mục đích xây dựng nhà. A biết mảnh đất đó sắp được quy hoạch nhưng đã
không nói cho B biết, trường hợp này A được xem là biết về đối tượng không thực
hiện được nhưng đã im lặng không thông báo cho B. 3 năm sau, B thực hiện kế
hoạch xây và phát hiện ra mảnh đất của mình thuộc khu vực quy hoạch.
+Theo quy định tại Điều 429 BLDS 2015, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu
Toà án giải quyết “tranh chấp hợp đồng” là 03 năm, kể từ ngày người có quyền
yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
+Trong trường hợp này, B đã quá thời hạn yêu cầu khởi kiện. Nhưng trên
thực tế nếu không huỷ bản án thì sẽ đặt ra câu hỏi về quyền lợi của B. Tuy nhiên
trong khoản 2 Điều 408 BLDS 2015 có quy định trường hợp khi giao kết hợp
đồng mà một bên biết hoặc phải biết về hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì
phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. A đã có hành vi gian dối khi
che giấu B việc mảnh đất nằm trong khu vực quy hoạch nên cần phải huỷ bỏ hợp
đồng vì có đối tượng không thể thực hiện ngay từ đầu. A phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho B.

3. Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng
hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được?
Trong vụ án trên, đoạn của bản án cho thấy Toà án theo hướng hợp đồng vô
hiệu do đối tượng không thực hiện được là:
"Vào tháng 4/2018, Tòa án đã có thông báo cho bà Nguyễn Thị Thu H biết
thửa đất số 20 có tranh chấp (Thông báo số 185/TB-TLVA ngày 04/4/2018), nhưng
đến ngày 07/8/2018 bà Nguyễn Thị Thu H vẫn ký hợp đồng chuyển nhượng thửa
đất số 20 đang có tranh chấp cho ông Nguyễn Văn N1. Do đó, tuy ông Nguyễn
Ngọc N1 trình bày khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 20 thì ông
không biết đất đang có tranh chấp, nhưng bên chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị
Thu H biết rõ đất đang có tranh chấp, nên không có căn cứ để xác định việc
chuyển nhượng đất là ngay tình. Mặt khác, tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ

NHÓM 1 9
ngày 12/6/2018 (bút lục 368, 369) thể hiện trên phần đất thửa số 20 đang tồn tại
01 nhà mồ và 04 ngôi mộ của người thứ ba, nhưng việc chuyển nhượng đất lại
không có ý kiến của chủ sở hữu hợp pháp các vật kiến trúc trên đất, nên quyền sử
dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng bình thường và
đầy đủ quyền sử dụng của mình. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo Điều 408 Bộ luật dân
sự."

4. Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được có thuyết phục không? Vì sao?
_Theo nhóm em, ở tình huống này việc Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do
đối tượng không thể thực hiện được là hoàn toàn thuyết phục.
_Vì theo Bản án thì Tòa án đã có thông báo cho bà Nguyễn Thị Thu H biết
thửa đất số 20 có tranh chấp nhưng bà Nguyễn Thị Thu H vẫn ký hợp đồng chuyển
nhượng thửa đất số 20 đang có tranh chấp cho ông Nguyễn Văn N1 và không
thông báo cho ông N1 biết thửa đất đang có tranh chấp. Vì vậy hợp đồng chuyển
nhượng đất giữa bà H và ông N1 bị vô hiệu và bà H phải bồi thường thiệt hại cho
ông N1 số tiền tương ứng theo quy định của Điều 408 BLDS 2015:
“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên
kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia,
trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.".

NHÓM 1 10
IV. VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN
TÀI SẢN
Tóm tắt bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân
TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương:
Chủ thể:
- Nguyên đơn: bà Trần Thị Diệp Thủy.
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thanh Trang.
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: bà Thủy và bà Trang lập một hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, thực chất hợp đồng này lập ra chỉ nhằm che giấu
hợp đồng vay mượn giữa bà Thủy và bà Trang. Bà Thủy yêu cầu tuyên hợp đồng
chuyển nhượng vô hiệu và buộc bà Trang trả lại số tiền đã nhận.
Quyết định của Tòa án: vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vì đó là giao dịch giả tạo, vẫn công nhận hợp đồng cho vay giữa bà Trang và bà
Thủy là 100.000.000 đồng. Tòa yêu cầu hai bên hoàn trả nhau những gì đã nhận,
không phải bồi thường vì có lỗi ngang nhau trong xác lập hợp đồng giả tạo; bà
Trang trả cho bà Thủy phần còn nợ là 95.000.000 đồng, không tính lãi vì bà Thủy
tự nguyện.
Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao:
Chủ thể:
- Nguyên đơn: bà Võ Thị Thu.
- Bị đơn: bà Đặng Thị Kim Anh.
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.
Lý do tranh chấp:
Tháng 7/2009, bà Anh vay bà Thu 3 lần tiền, tổng cộng 3,7 tỷ đồng có lãi.
Bà Thu có đòi bà Anh nhiều lần nhưng bà Anh không trả. Sau đó, vợ chồng bà
Anh chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất cho vợ chồng ông Vượng với giá 680 triệu

NHÓM 1 11
đồng trong khi giá trị thực tế nhà đất gần 5,6 tỷ đồng và hai bên vẫn chưa hoàn tất
thủ tục chuyển nhượng. Trường hợp này phải xác định giao dịch chuyển nhượng
nhà đất trên là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
bà Thu. Bà Thu khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Anh trả tiền gốc là 3,1 tỷ đồng kèm
theo lãi suất Nhà nước.
Quyết định của Tòa án: buộc vợ chồng bà Anh trả nợ gốc lẫn lãi cho bà Thu
đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng vô hiệu
do giả tạo và phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu.
1. Đối với vụ việc thứ nhất
1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Giả tạo trong giao kết hợp đồng là trường hợp thường thấy khi các bên xác
lập hợp đồng bộc lộ ra bên ngoài theo sự mong muốn của các bên nhưng lại không
phản ánh đúng ý chí thật sự của các bên. Thông thường việc các bên giao kết một
hợp đồng giả tạo nhằm mục đích che giấu giao dịch thật sự hoặc trốn tránh nghĩa
vụ với người thứ ba.
Điều 124 BLDS năm 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự
giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp
giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên
quan. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.”1
1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Đoạn của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng là
tại khoản 1:
"Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Diệp
Thúy đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh Trang về việc "Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất".

1
Nguyễn Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017, Vấn đề 6, tr. 120-121.

NHÓM 1 12
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa Trần Thị
Diệp Thúy và bà Nguyễn Thị Thanh Trang theo hình thức "giấy thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất" ngày 23/11/2013 vô hiệu.
Trong vụ việc nêu trên, các bên xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nhằm mục đích che giấu giao dịch thật sự là giao dịch cho việc vay mượn
giữa bà Thúy và bà Trang. Ở đây, các bên đã giả tạo về bản chất của hợp đồng.
1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị
che giấu.
Toà án tuyên bố: "Xét theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 thì
"Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che
giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của
Bộ luật này". Đối chiếu quy định trên với trường hợp giữa nguyên đơn với bà
Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày
23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài
sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực.
Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký giữa nguyên đơn
và bà Trang bị vô hiệu nên xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều
131 BLDS: “Khi giao kết hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
thì nguyên đơn và bà Trang đều biết việc lập hợp đồng này nhằm che giấu cho giao
dịch vay tài sản. Do vậy, các bên có lỗi ngang nhau trong việc làm cho hợp đồng
vô hiệu do vậy các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và không phải bồi
thường"
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu.
Việc lập giấy thỏa thuận mua bán đất ngày 21/11/2013 của các bên chưa đến
cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định. Hợp đồng trên chưa có hiệu lực
theo hai căn cứ sau:
Khoản 1 Điều 106 BLDS 2015 quy định về việc đăng ký tài sản như sau:
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản được đăng ký theo quy
định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký tài sản;

NHÓM 1 13
Khoản 3 Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định về điều thực hiện quyền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau: việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký vào sổ địa chính.
Căn cứ theo quy định của pháp luật về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất phải thông qua các thủ tục Luật định và thể theo sự tự nguyện thay đổi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu tuyên tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng ngày 23/11/2013 giữa
nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài sản số tiền
100.000.000 đồng có hiệu lực.
Về hợp đồng bị che giấu, hai bên thiết lập giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nhưng thực chất là để che giấu cho việc bà Thủy cho bà Trang mượn
100.000.000 đồng với hình thức trả góp mỗi ngày 1.000.000 đồng góp trong vòng
06 tháng kể từ ngày vay. Bà Trang nhận rằng mình đã trả cho bà Thủy số tiền là
180.000.000 đồng nhưng bà Thủy không thừa nhận và bà Trang cũng không cung
cấp được chứng cứ để chứng minh về số tiền đã trả. Thế nên, Tòa chỉ có thể công
nhận rằng giao dịch vay mượn này giữa hai bên là có hiệu lực. Và do bà Trang
không chứng minh được mình đã trả số tiền 180.000.000 đồng và bà Thủy khai
rằng bà Trang chỉ mới trả 5.000.000 đồng nên bà Trang phải trả bà Thủy số tiền
còn nợ là 95.000.000 đồng (100.000.000 - 5.000.000 = 95.000.000 đồng). Đáng lẽ,
bên có nghĩa vụ (bà Trang) phải trả thêm lãi suất nợ quá hạn tương ứng với thời
gian trả chậm vì đã không trả đủ số nợ theo như thỏa thuận là trong vòng 06 tháng
kể từ ngày vay nhưng Tòa không tính thêm lãi suất vì bà Thủy tự nguyện chỉ lấy
gốc không lấy lãi.
Dựa vào hai cơ sở trên, có thể thấy quyết định của Tòa án là hoàn toàn
thuyết phục. Theo đó:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 124 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự
vô hiệu do giả tạo thì: giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu (tức giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất) còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực (tức
giao dịch cho vay);
Và khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu yêu cầu: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”.

NHÓM 1 14
2. Đối với vụ việc thứ hai
2.1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
_Tại phần xét thấy của bản án Tòa có nhận định như sau:
"Quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà
Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang
có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam
kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng
ông Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng
hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng và thực tế các bên
cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
Trong trường hợp này phải xác định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa
vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh
việc thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu, trên cơ sở đó buộc
vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc và lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa
vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ
chồng bà Anh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà
Thu".
Vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng và cam kết chuyển
nhượng nhà đất đang tranh chấp để cấn trừ nợ với bà Thu. Tuy nhiên, vợ chồng bà
Anh đã không thực hiện như cam kết mà đem nhà đất ấy chuyển nhượng cho anh
trai và chị dâu mình là vợ chồng ông Vượng với giá 680 triệu đồng (trong khi giá
trị thực của nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng và thực tế hai bên vẫn chưa hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng.
Xét về ý chí của vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng khi giao kết hợp
đồng chuyển nhượng nhà đất, theo thực tế không thể chuyển nhượng nhà đất có giá
trị thực là 5,6 tỷ đồng chỉ với mức giá 680 triệu đồng (trong khi đang nợ 3,1 tỷ
đồng) mà bên giao dịch còn là anh trai và chị dâu mình. Thêm vào đó, vợ chồng bà
Anh đã cam kết chuyển nhượng nhà đất để trả nợ cho bà Thu nhưng lại đi thực
hiện giao dịch chuyển nhượng đó.

NHÓM 1 15
=>Vì với những lý lẽ trên, Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh
với vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu.

2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (giả tạo để
trốn tránh nghĩa vụ)
Tháng 7/2009, bà Anh có vay nợ bà Thu tổng 3,7 tỷ đồng.
Đến 14/02/2010, bà Anh mới chỉ trả cho bà Thu 600 triệu đồng.
Tháng 4/2010, bà Thu khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Anh trả 3,1 tỷ đồng
nhưng vì lý do sức khỏe nên bà rút đơn.
Ngày 23/8/2010, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án tranh chấp giữa bà Thu và bà Anh.
Ngay sau đó ngày 26/8/2010, vợ chồng bà Anh lập tức chuyển nhượng toàn
bộ nhà, đất cho vợ chồng ông Vượng (là anh trai và chị dâu bà Anh) với giá 680
triệu đồng trong khi giá trị thực của nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh có cam kết chuyển
nhượng nhà, đất (đang tranh chấp) này để trả nợ cho bà Thu nhưng không thực
hiện theo cam kết mà đem nhà đất chuyển nhượng cho anh trai và chị dâu mình với
giá cực kì rẻ so với giá trị thật.
Qua những mốc thời gian cùng với hành động chuyển nhượng toàn bộ nhà,
đất (mặc dù đã cam kết chuyển nhượng nhà đất để trả nợ cho bà Thu) với giá chưa
bằng 1/8 giá trị thực của nhà, đất cho anh trai và chị dâu mình của vợ chồng bà
Anh cũng đủ để chứng minh rằng đây không thuần là giao dịch chuyển nhượng
nhà đất theo ý chí của các bên. Thêm vào đó, chỉ vừa sau khi Tòa án huyện Xuyên
Mộc đình chỉ vụ án thì vợ chồng bà Anh đã lập tức xác lập giao dịch ấy. Có thể xét
trường hợp vợ chồng bà Anh muốn chuyển nhượng nhà đất để lấy tiền trả nợ cho
bà Thu thì lúc này, vợ chồng bà Anh sẽ lựa chọn phương án chuyển nhượng nhà
đất với giá trị thực hoặc giá trị thấp hơn giá trị thực một ít để có tiền gấp trả nợ
nhưng không thể nào chuyển nhượng nó với giá trị chưa bằng 1/8 giá trị thực. Trên
thực tế, các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Và trong quá trình giải
quyết vụ án, bà Anh cũng đã cam kết sẽ chuyển nhượng nhà đất ấy cho bà Thu để

NHÓM 1 16
cấn trừ nợ nhưng đã không thực hiện như cam kết mà đem chuyển nhượng cho anh
trai mình.
Căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 117 quy định mục đích của giao dịch
dân sự không vi phạm điều cấm của luật và Điều 118 quy định mục đích của
giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao
dịch thì mục đích giao dịch của vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Thu và nó đã vi phạm điều
cấm của luật được quy định tại Điều 124 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự giả tạo
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch vô hiệu”.
=> Vì vậy, từ những phân tích trên nhóm cho rằng hướng giải quyết của Tòa
là thuyết phục và hợp lý.

2.3. Cho biết hệ quả của việc Toà án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
Theo khoản 2 điều 124 BLDS 2015 có nêu rằng: “Trường hợp xác lập giao
dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân
sự đó vô hiệu”. Cụ thể trong vụ việc này "Giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa
vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh
việc thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu, trên cơ sở đó buộc
vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc và lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa
vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ
chồng bà Anh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà
Thu".

NHÓM 1 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
2. Bộ Luật Dân sự 2015.
3. Bộ Luật Dân sự 2005.

NHÓM 1 18

You might also like