Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 12
2
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
LỜI CẢM ƠN
Kính gửi thầy cô,
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong trường, đặc biệt là thầy
Nguyễn Văn Khấn đã tận tình chỉ dạy, truyền đạt kiến thức cũng như tạo điều kiện thuận
lợi cho em trong suốt quá trình học tập vừa qua.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và người thân đã động viên
giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình học tập.
3
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 NĂNG LƯỢNG ĐỊA NHIỆT ....................................................................5
3.1.Tạo năng lượng điện từ sóng biển bằng cột nước dao động (OWC) ...................26
3.2.Chuyển đổi năng lượng sóng biển dạng phao (OWAP) ......................................28
4
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
5
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
lên mặt. Ở độ sâu lớn tại đới hội tụ, ngay bên dưới mảng sụp chìm, nhiệt
độ tăng lên đủ cao đến nung chảy đất đá và tạo ra magma (nham thạch). Do có mật độ
thấp hơn khối đất đá xung quanh, magma di chuyển lên phía trên vỏ Trái Đất và mang
theo nhiệt lượng cùng với nó. Đôi khi magma di chuyển lên tới bề mặt Trái Đất thông
qua các điểm yếu của vỏ Trái Đất và phun trào lava tại các miệng núi lửa. Tuy nhiên, đa
phần magma được giữ lại trong vỏ Trái Đất và nung nóng đất đá và các khối nước ngầm
(subterranean water).
Một phần khối nước nóng này có thể di chuyển lên mặt đất thông qua các đới đứt
gãy hoặc khe đá rạn (cracks), hình thành suối nước nóng (hay là geysers, mạch nước
nóng). Một khi khối nước nóng và hơi nước này bị “bẫy” do khối đất đá không thấm
(impermeable) ở phía bên trên và được giữ lại trong khối đất đá thấm (permeable), bồn
trũng địa nhiệt được hình thành. Các bồn trũng này chính là nguồn địa nhiệt có thể được
dùng trực tiếp hoặc để sản xuất điện qua hệ thống turbine hơi nước (steam turbine).
1.2. Phân loại các nguồn năng lượng địa nhiệt
Có 4 nguồn năng lượng địa nhiệt chính:
1.2.1. Nguồn nước nóng
Là nguồn nước bị nung nóng dưới áp suất cao , các nguồn hơi nước hay hỗn hợp
của chúng ở trong các tầng đá xốp rỗ , hoặc ở trong các khe nứt gãy của đá , nó bị
giữ lại bởi một lớp đá khác đặc kín và không thấm . những nguồn nước nóng chất
lượng cao là các nguồn chỉ chứa hơi nước có lẫn một ít nước hay chứa hoàn toàn hơi ở
nhiệt độ cao hơn 240°C.
1.2.2. Nguồn áp suất địa nhiệt
Là các nguồn chứa nước muối có nhiệt độ trung bình và chứa khí Metan (CH4)
hòa tan. Các nguồn này bị vỏ Trái Đất nén lại dưới áp suất rất cao dưới các tầng trầm
tích sâu và bị bao bọc bởi các lớp đất sét và trầm tích không thấm nước. Áp suất ở
các nguồn này nằm trong khoảng từ 34MPa đến 140MPa và ở độ sâu từ 1500m đến
15000m. Nhiệt độ của các nguồn áp suất địa nhiệt thường ở trong khoảng 90°C đến
200°C.
1.2.3. Nguồn đá nóng khô
Bao gồm các khối đá ở nhiệt độ cao , từ 90°C đến 650°C . Các nguồn đá này có
thể bị nứt gãy nên có thể chứa một ít hoặc không có nước nóng . Để khai thác nguồn
địa nhiệt này người ta khoan sâu đến tầng đá , tạo ra các nứt gãy nhân tạo , sau đó sử
6
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
dụng một chất lỏng nào đó làm chất vận chuyển nhiệt bơm qua tầng đá đã bị làm nứt
gãy để thu nhiệt . Tuy nhiên viêc khai thác năng lượng địa nhiệt từ các nguồn đá nóng
khô rất khó khăn và hiệu quả kinh tế không cao so với việc khai thác các nguồn địa
nhiệt khác.
1.2.4. Nguồn năng lượng địa nhiệt từ các núi lửa hoạt động
Năng lượng địa nhiệt ở các lỗ hổng núi lửa đang hoạt động có nhiều trên thế giới.
Magma là đá nóng chảy có nhiệt độ từ 700°C đến 1600°C . Khi còn nằm dưới vỏ
Quả Đất đá nóng chảy là một phần của vỏ Qủa Đất có độ dày khoảng 24 đến 48km .
Các nguồn magma chứa một nguồn năng lượng khổng lồ , lớn nhất trong các nguồn
địa nhiệt , nhưng nó ít khi ở gần mặt đất nên việc khai thác rất khó khăn.
1.3. Phân loại các nhà máy sản xuất năng lượng địa nhiệt
1.3.1. Nhà máy hơi nước nóng khô
Dry steam sử dụng hơi nước ở nhiệt độ cao (>235°C) và một ít nước nóng từ bể
địa nhiệt. Hơi nước sẽ được dẫn vào thẳng turbine qua ống dẫn để quay máy phát
điện.
Trong sơ đồ trực tiếp, hơi nóng với áp suất cao thổi trực tiếp làm quay tuốc bin
để sinh ra điện. Đây là kiểu nhà máy điện địa nhiệt lâu đời nhất, lần đầu tiên được thử
nghiệm ở Italia năm 1904, và vẫn được ứng dụng cho đến nay. Tại Callifornia có nhà
máy điện địa nhiệt lớn nhất thế giới hoạt động theo nguyên lý này.
1.3.2. Nhà máy hơi nước siêu lỏng
Flash steam là dạng kỹ thuật phổ biến nhất hiện nay. Nhà máy dạng flash steam
sử dụng nước nóng ở áp suất cao (>182°C) từ bể địa nhiệt. Nước nóng ở nhiệt độ cao
này tự phụt lên bề mặt thông qua giếng do chính áp suất của chúng. Trong quá trình
nước nóng được bơm vào máy phát điện, áp suất của nước giảm rất nhanh khi phụt
lên gần mặt đất. Chính sự giảm áp này khiến nước nóng bốc hơi hoàn toàn và hơi
nước sinh ra sẽ làm quay turbine phát điện. Lượng nước nóng không bốc thành hơi sẽ
được bơm xuống trở lại bể địa nhiệt thông qua giếng bơm xuyên (injection wells).
Trong sơ đồ gián tiếp, nước “siêu lỏng” từ tầng nước nóng bên dưới được đưa
lên mặt đất và được giữ ở độ nóng trên 182 °C. Hỗn hợp nước nóng và hơi nước này
được dẫn vào buồng hơi để hạ áp suất, do vậy phần lớn hỗn hợp được biến thành hơi
nước (nước nóng + hơi nước nóng). Hơi nước ở áp suất cao sẽ làm quay Tuarbin phát
điện.
7
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
1.3.3. Nhà máy hai chu trình
Các nhà máy địa nhiệt binary-cycle sử dụng nước nóng có nhiệt độ trung bình
dao động từ 107-182°C từ bể địa nhiệt. Tại các hệ thống binary, chất lỏng địa nhiệt
được dẫn qua một bên của hệ thống trao đổi nhiệt để nung nóng chất lỏng thứ cấp ở
ống dẫn bên cạnh. Chất lỏng thứ cấp thường là hợp chất hữu cơ có nhiệt độ sôi thấp
hơn nhiệt độ sôi của nước, ví dụ như Isobutane hoặc Iso-pentane. Chất lỏng thứ cấp
sau khi được đun sôi ở hệ thống trao đổi nhiệt sẽ bốc hơi và được dẫn vào turbine.
Trong quá trình vận hành của bất kỳ nhà máy địa nhiệt điện nào, hệ thống làm
nguội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Các tháp làm nguội (cooling towers) giúp
turbin không bị quá nóng và từ đó kéo dài thời gian sử dụng. Có hai dạng hệ thống
làm nguội chính yếu: dùng nước hoặc dùng không khí.
❖ Ưu điểm:
Lợi thế chủ yếu của hệ thống hai chu trình là chất lỏng thứ cấp có nhiệt độ sôi thấp
hơn nhiệt độ sôi của nước, do đó các bể địa nhiệt nhiệt độ thấp vẫn có thể được sử dụng.
Mặt khác, do hệ thống hai chu trình là một chu trình tương đối kín nên hầu như không
có khí thải nào được sinh ra. Vì những lý do kể trên mà các chuyên gia địa nhiệt dự đoán
rằng hệ thống hai chu trình sẽ là giải pháp kỹ thuật chủ đạo cho việc sản xuất điện địa
nhiệt trong tương lai.
❖ Nhược điểm:
Hệ thống dùng khí thì không có tính ổn định như hệ thống dùng nước do phụ thuộc
mật thiết vào nhiệt độ không khí. Hệ thống này tuy rất hữu dụng vào mùa đông khi nhiệt
độ xuống rất thấp nhưng hiệu suất của nó giảm đáng kể vào mùa hè khi chênh lệch nhiệt
độ giữa không khí không còn bao nhiêu, từ đó không khí không còn khả năng làm hạ
nhiệt các chất lỏng hữu cơ sử dụng trong các nhà máy. Tuy nhiên, hệ thống dùng nước
lại rất cần thiết ở những khu vực khan hiếm nguồn nước. Hệ thống này cũng hữu dụng
tại những nơi có các yêu cầu khắc khe về cảnh quan sinh thái do chúng không tạo ra các
cột hơi nước như ở hệ thống dùng nước. Hầu hết các hệ thống dùng khí được sử dụng
trong các nhà máy kỹ thuật binary.
1.4. Thực trạng việc ứng dụng năng lượng địa nhiệt trên thực tế
1.4.1. Sử dụng trực tiếp nguồn năng lượng địa nhiệt
1.4.1.1. Ứng dụng suối nước nóng
Trên thế giới:
8
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
Suối nước nóng đã được sử dụng cho mục đích tắm ít nhất từ thời kì đồ đá. Hồ
tắm khoáng cổ nhất là hồ đá ở núi Lisan được xây dựng vào thời nhà Tần thế kỉ thứ 3
TCN. Vào thế kỷ 1 CN , người La Mã xâm chiếm Aquae Sulis và sử dụng các suối
nước nóng ở đây để làm nơi tắm công cộng và sưởi ấm sàn nhà. Việc khai thác địa
nhiệt mục đích công nghiệp sớm nhất bắt đầu từ năm 1827, khi đó người ta sử dụng
hơi nước của các giếng tự phun để chiết tách axit boric từ bùn núi lửa ở Larderello, Ý.
1.4.1.2. Ứng dụng sưởi nhiệt và làm mát
Năm 1892 , hệ thống sưởi khu vực của Hoa Kì ở Boise , Idaho được cung cấp
trực tiếp từ năng lượng địa nhiệt , và sớm được triển khai ở Klamath Falls , Oregon
vào năm 1990. Một giếng địa nhiệt sâu được sử dụng để cung cấp nhiệt cho nhà kính
ở Boise năm 1926, và cùng thời gian đó các giếng tự phun được sử dụng cung cấp
nhiệt cho kính ở Iceland. Charlie Lieb đã phát triển máy chuyển nhiệt lỗ khoan đầu
tiên vào năm 1930 để sưởi cho nhà ông .Hơi nước và nước nóng từ các giếng tự phun
được sử dụng để sưởi trong nhà ở Iceland bắt đầu từ năm 1943.
Ngày nay , có khoảng 20 quốc gia sử dụng trực tiếp địa nhiệt để sưởi với tổng năng
lượng là 270 PJ (1PJ = 1015J ) trong năm 2004. Hơn phân nửa trong số đó ược dùng để
sưởi trong phòng và 1/3 thì dùng cho các hồ bơi nước nóng. Lượng còn lại được dùng
trong công nghiệp và nông nghiệp. Sản lượng toàn cầu đạt 28 GW, nhưng hệ số năng
suất có xu hướng giảm (khoảng 20%) khi mà nhu cầu sưởi chủ yếu sử dụng trong mùa
đông. Số liệu nêu trên bao gồm 88 PJ dùng cho sưởi trong phòng được tách ra từ các
máy bơm nhiệt địa nhiệt với tổng sản lượng 15 GW. Năng suất bơm nhiệt địa nhiệt toàn
cầu tăng khoảng 10% mỗi năm. Các ứng dụng trực tiếp của nhiệt địa nhiệt cho sưởi
trong phòng hơi khác so với sản xuất điện và có các yêu cầu về nhiệt độ thấp hơn. Nó
có thể từ nguồn nhiệt thải được cung cấp bởi co-generation từ một máy phát điện địa
nhiệt hoặc từ các giếng nhỏ hơn hoặc các thiết bị biến nhiệt lắp đặt dưới lòng đất ở độ
sâu nông. Ở những nơi có suối nước nóng tự nhiên, nước có thể được dẫn trực tiếp tới
lò sưởi. Nếu nguồn nhiệt gần mặt đất nóng nhưng khô, thì các ống chuyển đổi nhiệt
nông có thể được sử dụng mà không cần dùng bơm nhiệt. Nhưng thậm chí ở các khu
vực bên dưới mặt đất quá lạnh để cung cấp một cách trực tiếp, nó vẫn ấm hơn không khí
mùa đông. Sự thay đổi nhiệt độ mặt đất theo mùa là rất nhỏ hoặc không bị ảnh hưởng
bên dưới độ sâu 10m. Nhiệt độ đó có thể được chiết tách bằng bơm nhiệt địa nhiệt thì
hiệu quả hơn là nhiệt được tạo ra bởi các lò sưởi thông thường. Các bơm nhiệt địa nhiệt
9
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
có thể được sử dụng như là một nhu cầu thiết yếu ở bất kỳ nơi nào. Có nhiều ứng dụng
rộng rãi khác nhau của nhiệt địa nhiệt. Các ống nước nóng từ các nhà máy địa nhiệt bên
dưới các con đường và vỉa hè của các thành phố đường ống nước nóng để cung cấp nhiệt
cho các tòa nhà trong toàn khu vực. Reykjavík và Akureyri dùng để làm tan chảy tuyết.
Các ứng dụng sưởi trong phòng sử dụng mạng lưới Lọc nước biển bằng địa nhiệt cũng
đã được thử nghiệm.
1.4.1.3. Ứng dụng bơm địa nhiệt
Điều hòa nhiệt độ bằng địa nhiệt Hầu hết ở mọi nơi trên bề mặt Trái Đất, nhiệt độ
của lòng đất ở 30 cm trên cùng giữ một nhiệt độ tương đối ổn định vào khoảng 100-160
C. Hệ thống bơm địa nhiệt có thể tận dụng nguồn nhiệt này để điều hòa nhiệt độ các tòa
nhà. Hệ thống bơm gồm có một bơm nhiệt, một hệ thống dẫn khí, một hệ thống trao đổi
nhiệt (hệ thống ống đặt chìm trong lòng đất gần tòa nhà). Vào mùa đông, bơm nhiệt sẽ
"lấy" nhiệt từ hệ trao đổi nhiệt và bơm vào hệ thống dẫn nhiệt ở trong nhà. Vào mùa hè,
quá trình này được đảo ngược, bơm nhiệt sẽ "rút" nhiệt từ trong nhà và bơm vào hệ
thống trao đổi nhiệt. Mặt khác, nhiệt rút ra từ không khí trong nhà sẽ còn có thể được sử
dụng để đun nước ấm sử dụng trong mùa hè.
1.5. Năng lượng địa nhiệt trong sản xuất điện
1.5.1. Một số nhà máy địa nhiệt trên thế giới
10
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
turbines cao áp 45MW được vận hành vào tháng 10 năm 2006 và turbine áp suất thấp
33MW vận hành vào cuối năm 2007. Giai đoạn 2008 đưa vào khởi động turbine 45MW.
Giai đoạn năm 2010 đưa vào vận hành 2 turbine 45MW. Chi tiết quá trình hoạt động
nhà máy: Tổng công suất: 300MW và 400MW.
15
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
16
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
❖ Triều dâng (flood tide): xảy ra khi mực nước biển dâng lên trong vài giờ, làm
ngập vùng gian triều.
❖ Triều cao (high tide): nước dâng lên đến điểm cao nhất của nó.
❖ Triều xuống (ebb tide): mực nước biển hạ thấp trong vài giờ làm lộ ra vùng triều.
❖ Triều thấp (low tide): nước hạ thấp đến điểm thấp nhất của nó.
Thủy triều tạo ra các dòng chảy có tính dao động gọi là dòng triều hay triều lưu.
Thời điểm mà dòng triều ngừng chuyển động được gọi là nước chùng hoặc nước
đứng (Slack Water).
Sau đó, thủy triều đổi hướng, tạo ra sự biến đổi ngược lại. Nước đứng thường xuất
hiện gần lúc mực nước triều cao hoặc triều thấp; nhưng tại một số nơi, thời gian nước
đứng là khác biệt đáng kể so với thời gian triều cao hoặc triều thấp.
Hiện tượng thủy triều phổ biến nhất là bán nhật triều hoặc nhật triều, tức là hai lần
nước lớn trong ngày có đỉnh không bằng nhau; chúng bao gồm mực nước lớn
cao và mực nước lớn thấp trên đồ thị triều. Tương tự đối với hai lần nước ròng gồm nước
ròng cao và nước ròng thấp.
2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của thủy triều là do thủy quyển có hình cầu dẹt nhưng bị kéo cao lên
ở hai miền đối diện nhau tạo thành hình ellipsoid. Một đỉnh của ellipsoid nằm trực
diện với Mặt Trăng - là miền nước lớn thứ nhất, do lực hấp dẫn của Mặt Trăng gây ra.
Còn miền nước lớn thứ hai nằm đối diện với miền nước lớn thứ nhất qua tâm Trái Đất,
do lực li tâm tạo ra. Giữa hai nước lớn liên tiếp là nước ròng. Một khi vận tốc góc (tốc
độ quay) của Trái Đất không đổi thì lực li tâm lớn nhất nằm ở nơi có bán kính quay lớn
nhất khi đó là miền xích đạo của Trái Đất. Tuy nhiên bán kính quay chưa hẳn là bán
kính Trái Đất tại xích đạo, vì Trái Đất không hoàn toàn quay quanh trục của nó, cũng
như Mặt Trăng không hoàn toàn quay quanh Trái Đất, mà là: Hệ Trái Đất-Mặt Trăng
quay xung quanh điểm trọng tâm của hệ này. Do khối lượng của Trái Đất lớn hơn của
Mặt Trăng rất nhiều nên trọng tâm của hệ Trái Đất-Mặt Trăng nằm trong lòng Trái Đất,
trên đường nối tâm của chúng ở khoảng cách 0.73 bán kính của Trái Đất (4650.83 km).
Tóm lại: Trái Đất vừa quay, vừa lắc.
Thủy triều đạt cực đại khi mà cả Mặt Trăng và Mặt Trời cùng nằm về một phía so
với Trái Đất, và mức triều phía đối diện lúc đó sẽ xuống điểm cực tiểu.
17
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
Khái niệm thủy triều được mở rộng trong vật lý học dành cho chênh lệch tương
tác hấp dẫn tác động lên các vật thể nằm trong tương tác hấp dẫn.
2.3. Mối liên hệ giữa con người và thủy triều
Người xưa, sống bao đời gần sông và biển. chủ yếu là họ tính theo con nước, theo
chu kì của nó (nước triều lên và nước triều xuống) và vì thế chính là nhờ vào hiện tượng
thủy triều, nên con người sống ở thời đó đã biết cách bắt hải sản như tôm, cua, cá...
Thủy triều còn đóng góp một phần lớn là làm nên các chiến thắng trên sông Bạch
Đằng vào năm 938 của Ngô Quyền trước quân Nam Hán và năm 1288 của nhà
Trần trước quân Nguyên-Mông. Cho đến ngày nay thì con người đã biết sử dụng thủy
triều để phục vụ cho công nghiệp (như sản xuất điện), ngư nghiệp, như trong đánh
bắt hải sản, và khoa học, như nghiên cứu thủy văn. Hiện nay con người đang từng bước
khai thác thủy triều dưới dạng năng lượng và nổi bật nhất là năng lượng điện thủy triều.
19
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
21
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
2.6. Các vấn đề trong khai thác thủy triều điện
2.6.1. Những mối quan ngại đối với môi trường
Việc xây dựng những nhà máy điện thủy triều có thể gây ảnh hưởng hưởng xấu
đến sự sống của các sinh vật biển. Những lưỡi quay trong các tua bin trong quá trình
hoạt động có thể giết chết các sinh vật biển sống gần khu vực đó. Một số loài cá có thể
rời bỏ những vùng biển này vì sự đe dọa của những vật thể quay nguy hiểm đến tính
mạng của chúng hoặc do những tiếng ồn liên tục. Đời sống của các sinh vật biển là sự
cân nhắc rất lớn khi đặt máy phát điện năng lượng thủy triều trong nước và các biện
pháp phòng ngừa được thực hiện nhằm đảm bảo giảm thiểu số lượng sinh vật biển bị
ảnh hưởng bởi việc khai thác nguồn năng lượng thủy triều.
2.6.2. Các tua bin thủy triều
Mối quan tâm chính về môi trường đối với năng lượng thủy triều có liên quan đến
sự tấn công của lưỡi quay và sự vướng víu của sinh vật biển khi nước tốc độ cao được
tạo ra làm tăng nguy cơ sinh vật bị đẩy gần lại hoặc thông qua các thiết bị này. Cũng
như tất cả các nguồn năng lượng khác có khả năng tái tạo từ đại dương, cũng có một vài
mối quan tâm về việc tạo ra Điện từ trường và âm thanh của các tua bin thủy triều có
thể ảnh hưởng đến sự sống của các sinh vật biển. Vì các thiết bị này nằm trong nước nên
đầu ra âm thanh có thể lớn hơn các thiết bị được tạo ra bằng năng lượng gió ngoài khơi.
Tùy thuộc vào tần số và biên độ của âm thanh được tạo ra bởi các thiết bị năng lượng
thủy triều, âm thanh này có thể có các hiệu ứng khác nhau trên động vật biển có vú (đặc
biệt là những loài có khả năng giao tiếp và điều hướng trong môi trường biển bằng tín
hiệu, chẳng hạn như cá heo và cá voi).
Việc khai thác năng lượng thủy triều cũng có thể gây ra những lo ngại về môi
trường như làm giảm chất lượng nước và phá vỡ các quá trình trầm tích. Tùy thuộc vào
quy mô của dự án, các ảnh hưởng này có thể dao động từ các dấu tích nhỏ của các lớp
trầm tích gần thiết bị thủy triều đến ảnh hưởng nghiêm trọng tới các hệ sinh thái và quá
trình ven bờ.
2.6.3. Đập thủy triều
Việc xây dựng đập thủy triều có thể thay đổi bờ biển trong vịnh hoặc cửa sông,
ảnh hưởng đến một hệ sinh thái lớn phụ thuộc vào các bãi triều; gây ức chế dòng chảy
của nước trong và ngoài vịnh, cũng có thể có ứ đọng tại vịnh hoặc cửa sông, gây đục
cục bộ (chất rắn lơ lửng) và giảm nước mặn lưu thông vào, có thể dẫn đến cái chết của
22
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
cá- nguồn thực phẩm quan trọng cho chim và động vật có vú. Việc di cư cá cũng có thể
làm giảm khả năng sinh sản của đàn. Các mối quan tâm đến âm thanh cũng tương tự áp
dụng cho các rào chắn thủy triều. Việc xây dựng các đập thủy triều còn làm cản trở giao
thông qua các khu vực này. Đó có thể trở thành một vấn đề đối với kinh tế-xã hội, mặc
dù các âu tàu đã được xây dựng bổ sung nhằm cho phép giao thông qua lại nhưng vẫn
còn một vài hạn chế. Tuy nhiên,việc xây dựng đập có thể cải thiện nền kinh tế địa
phương. Vùng nước ấm hơn cũng có thể cho phép tái tạo vịnh hoặc cửa sông.
2.6.4. Đầm phá thủy triều
Về mặt môi trường, những mối quan tâm chính là việc các loài sinh vật biển cố
gắng đi vào đầm phá bị tổn thương bởi các cánh quạt, đầu ra âm thanh từ tuabin và
những thay đổi trong quá trình lắng đọng. Tuy nhiên, tất cả các ảnh hưởng này đều mang
tính cục bộ và không ảnh hưởng đến toàn bộ cửa sông hoặc vịnh.
2.6.5. Sự ăn mòn
Nước muối gây ăn mòn ở các bộ phận kim loại, điều này có thể cản trở việc duy
trì các máy hoạt động bình thường của các máy phát dòng thủy triều do kích thước và
chiều sâu của chúng trong nước. Việc sử dụng các vật liệu chống ăn mòn như thép không
gỉ, hợp kim niken hàm lượng cao, hợp kim đồng-niken, hợp kim niken-đồng và titan có
thể làm giảm đáng kể, hoặc loại bỏ, thiệt hại do ăn mòn gây ra. Ngoài ra, chất lỏng cơ
học, chẳng hạn như chất bôi trơn, có thể bị rò rỉ và gây hại cho sinh vật biển gần đó.
Việc bảo trì một cách phù hợp có thể giảm thiểu lượng hóa chất độc hại có thể xâm nhập
vào môi trường biển.
2.6.6. Chi phí
Năng lượng thủy triều có chi phí ban đầu rất đắt, điều này có thể là một trong
những lý do khiến năng lượng thủy triều không phải là nguồn năng lượng tái tạo phổ
biến. Điều quan trọng là việc nhận ra rằng các phương pháp tạo điện từ trường từ năng
lượng thủy triều là một công nghệ tương đối mới. Dự kiến năng lượng thủy triều sẽ
mang lại lợi nhuận thương mại trong nhưng năm tiếp theo với công nghệ tốt hơn và quy
mô lớn hơn.
2.7. Ưu và nhược điểm của năng lượng thủy triều
2.7.1. Ưu điểm
Ưu điểm của phương pháp khai thác nguồn điện từ dòng thủy triều là nguồn tài
nguyên tái tạo vô tận, sản xuất nhiều năng lượng và khi hoạt động không cản trở tàu
23
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
thuyền. Cánh quạt của tua bin có tốc độ quay chậm, không gây quá nhiều nguy hiểm đối
với các loài sinh vật sống dưới đại dương. Thiết kế tương tự tua bin gió, nhưng nước ổn
định và dễ điều khiển hơn nên lượng điện năng sản sinh ra từ nguồn năng lượng thủy
triều sẽ đều hơn. Là nguồn tài nguyên vô tận đồng thời trong bất kì hoàn cảnh thời tiết
như nào thiết bị vẫn vận hành được.
2.7.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, việc lắp đặt tua bin này rất phức tạp. Hệ thống có kích thước lớn và có
khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Bên cạnh đó khó khăn nằm ở phần
trang thiết bị vì máy phát điện thường phải đặt chìm dưới nước sâu, không thuận tiện
cho việc vận hành, nước biển lại là môi trường ăn mòn mạnh mà cho tới nay vẫn chưa
có giải pháp khắc phục một cách triệt để. Chính vì thế, trang thiết bị đắt tiền, chi phí
hoạt động lớn.
Không chỉ vậy nhược điểm của năng lượng thủy triều là phải phụ thuộc vào sự lên
xuống của thủy triều. Ảnh hưởng những tác động từ thiên nhiên rất nhiều.
2.8. Dự án điện thuỷ triều ở Việt Nam
Việt Nam có bờ biển dài trên 3.200 km và ven biển có nhiều vũng, vịnh, cửa sông,
đầm phá, là tiền đề để khai thác năng lượng thủy triều. Tại khu vực Quảng Ninh, mật độ
năng lượng thủy triều đạt khoảng 3,7 GWh/km2, Nghệ An khoảng 2,5 GWh/ km2 và
giảm dần đến khu vực Thừa Thiên Huế với 0,3 GWh/ km2. Về phía Nam, Phan Thiết là
2,1 GWh/ km2, Bà Rịa - Vũng Tàu với 5,2 GWh/ km2. Vùng biển Đông Bắc thuộc địa
phận tỉnh Quảng Ninh và TP. Hải Phòng là khu vực có tiềm năng phát triển điện thủy
triều lớn nhất nước, với công suất lắp máy có thể lên đến 550MW, chiếm 96% tiềm năng
kỹ thuật nguồn điện thủy triều của Việt Nam.
24
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
CHƯƠNG 3 NĂNG LƯỢNG ĐẠI DƯƠNG
3. Tổng quan
Trong những năm gần đây thế giới đã quan tâm rộng rãi tới năng lượng của sóng
biển. Khai thác đại dương để sản xuất điện từ nguồn sóng biển mênh mông trong các
đại dương của thế giới là một phần lời giải cho vấn đề năng lượng của chúng ta. Sự
chuyển đổi chỉ riêng tài nguyên sóng biển có thể cung cấp một phần rất lớn yêu cầu về
điện năng của nhiều nước ở châu âu như Bắc Ai len, Đan mạch , Bồ đào nha, Tây ban
nha và các nước khác.
Bảng 3.1. Tiềm năng năng lượng đại dương
Khu vực Tiềm năng năng lượng sóng [TWh/năm]
Tây và Bắc Âu 2800
Vùng Địa Trung Hải và Đại Tây Dương 1300
Bắc Mỹ và Greenland 4000
Trung Mỹ 1500
Nam Mỹ 4600
Châu Phi 3500
Châu Á 6200
Khu vực Thái Bình Dương 5600
Tổng 29500
Một số nhà máy điện năng lượng đại dương
25
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
27
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
29
Giảng viên: Ths. Nguyễn Văn Khấn Nhóm: 12
30