You are on page 1of 16

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA XÃ HỘI HỌC

----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


Học phần: Xã hội học du lịch
Đề bài: Các vấn đề về quản lý du lịch hiện nay ở Việt Nam

Họ và tên: Lường Lệ Hòa


Mã sinh viên: 19032662
Ngày sinh: 26/04/2001
Khoa: Xã hội học

Hà Nội - 2022

1
A, MỞ ĐẦU

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc, nền kinh tế của đất nước
ta đã có những bớc phát triển nhảy vọt với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
( GDP ) bình quân 7%/năm, cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, phong phú
theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong 15 năm đổi mới vừa qua, các
ngành dịch vụ ở nước ta đã có bức phát triển đặc biệt và đóng góp đáng kể vào nền
kinh tế. Trong cơ cấu các ngành dịch vụ, ngành du lịch ngày càng có vị trí và vai
trò quan trọng, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện quá trình hội nhập nền kinh tế thế
giới, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Để "Du lịch thục sự trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn", một yêu cầu không thể thiếu đó là vai trò quản lý
Nhà nước về Du lịch. Bởi lẽ, thông qua quản lý Nhà nước về Du lịch, Nhà nước sẽ
định hướng cho du lịch phát triển về mọi mặt, khai thác lợi thế tối đa với mục tiêu
đem lại lợi nhuận đóng góp ngày càng nhiều cho nền kinh tế. Cùng với sự ra đời
của Tổng cục du lịch năm 1992, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch đã
được hình thành đồng bộ ở nước ta từ trung ương đến địa phương. Hệ thống cơ
quan quan lý do đã thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực du lịch,
thể hiện bằng việc tạo lập môi trường pháp lý về du lịch, xây dựng các chương
trình phát triển du lịch quy mô toàn quốc, ngành, địa phương tổ chức thực hiện các
chương trình du lịch, quản lý hệ thống doanh nghiệp hoạt động du lịch, phát triển
cơ sở bị thục phục vụ cho hoạt động du lịch, nâng cao vị thế du lịch Việt Nam trên
trường quốc tế.
Sự phát triển và đóng góp của công tác quản lý Nhà nước về du lịch trong
việc phát triển ngành du lịch nước ta trong thời gian qua là rất quan trọng. Tuy
nhiên trong tiến trình đổi mới, trước những biến đổi sâu săc trong cả nước và thế
giới, ngành du lịch nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức to lớn trong việc
phát triển.

2
B, NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC


VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

I, Du lịch, vị trí và vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân
1.1. Khái niệm du lịch
Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là “Đi một
vòng„. Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La tinh thành Turnur và sau đó thành
Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert
Langquar (1980), từ Tourism (du lịch) lần đầu tiên được sử dụng trong tiếng Anh
vào khoảng năm 1800 và được quốc tế hoá, nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà
không dịch nghĩa. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch là một từ gốc Hán - Việt,
tạm hiểu là đi chơi, trải nghiệm.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến ở
mọi quốc gia. Tuy nhiên, do bối cảnh về không gian, thời gian khác nhau hoặc
dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch
khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, “Du lịch” được hiểu là việc đi lại của từng cá
nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian nhất
định đến một nơi nào đó để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Dưới đây, chúng ta
chỉ đề cập một số định nghĩa thông dụng.
Liên Hiệp Quốc (1963) định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi
làm việc của họ”.
Luật du lịch Việt Nam năm 2005 định nghĩa:“Du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định”.
Cách hiểu về du lịch như vậy có ý nghĩa thúc đẩy quan điểm phát triển đúng
đắn về du lịch. Cho đến nay, không ít người, kể cả những người đang làm việc
trong ngành du lịch cũng có cách hiểu phiến diện về du lịch thiên về góc độ xã hội
hoặc kinh tế. Do đó, họ chỉ tập trung vào thỏa mãn nhu cầu tinh thần, sức khỏe mà
bỏ qua lợi ích quan trọng của kinh tế hoặc đề cao lợi nhuận bằng việc khai thác
triệt để tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn hóa.
Chỉ có hiểu khái niệm du lịch một cách đầy đủ như vậy, chúng ta mới xác
định được rằng phát triển du lịch không chỉ là trách nhiệm của nhà nước hay của
một cá nhân, tổ chức nào mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
1.2. Vị trí, vai trò của ngành du lịch trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, và hội nhập quốc tế ở nước ta.
1.2.1. Vai trò của du lịch đối với kinh tế

3
Ở nhiều Quốc gia du lịch đóng góp một phần đáng kể trong tổng thu nhập
hàng năm, đặc biệt tại Việt Nam du lịch được đánh giá là một trong 3 ngành kinh
tế mũi nhọn được nhà nước chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, không ngừng phát triển
và đóng góp rất lớn và nền kinh tế đất nước.
Ngành du lịch đóng góp một phần đáng kể trong tổng sản phẩm kinh tế quốc
dân ở nhiều quốc gia. Đặc biệt; đối với Việt Nam, ngành Du lịch hiện nay được
xem như là một trong ba ngành kinh tế mũi nhọn; được chú trọng đầu tư; không
ngừng phát triển và có những đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc gia.
Du lịch phát triển thúc đẩy các ngành kinh tế hỗ trợ phát triển theo như giao
thông vận tải; bưu chính viễn thông; bảo hiểm; dịch vụ tài chính; dịch vụ lưu trú
và ăn uống. Ngành du lịch phát triển cũng đem lại một thị trường tiêu thụ hàng hóa
rộng lớn; từ đó thúc đẩy tăng trưởng nhanh tổng sản phẩm kinh tế quốc dân.
Du lịch quốc tế phát triển đem lại nguồn lợi từ thu hút vốn đầu tư nước
ngoài; hoạt động xuất khẩu tại chỗ và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Ngoài
ra; du lịch quốc tế phát triển cũng giúp củng cố và phát triển mối quan hệ kinh tế
với các nước trên thế giới cũng như thúc đẩy phát triển giao thông quốc tế.
Ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều bước phát triển
vượt bậc; tuy trong năm 2020 đã bị chững lại song ngành Du lịch Việt đã chuẩn bị
nhiều “kịch bản” để thúc đẩy ngành; hứa hẹn sự trở lại bùng nổ hậu Covid-19.
1.2.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển xã hội
Ngành Du lịch tạo ra hàng triệu việc làm cho nhiều lao động; đặc biệt tạo ra
cơ hội việc làm lớn cho các lao động nữ. Ngành Du lịch cũng giải quyết việc làm
cho nhiều người dân vùng nông thôn; tạo nên những chuyển biến tích cực trong xã
hội; nâng cao mức sống của người dân và vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Ngoài ra; ngành Du lịch còn góp phần giảm quá trình đô thị hóa khi giúp cân
bằng lại sự phân bố dân cư và hệ thống cơ sở hạ tầng từ độ thị về nông thôn trong
quá trình phát triển du lịch. Nhờ đó; hạn chế được những tác động tiêu cực do quá
trình đô thị hóa gây ra.
Du lịch phát triển giúp truyền bá văn hóa với hình ảnh đất nước; con người
Việt Nam cho bạn bè quốc tế; đồng thời cũng là phương tiện quảng bá hàng hóa
Việt Nam ra thị trường nước ngoài hiệu quả.
Du lịch thúc đẩy và tạo cơ hội cho việc giao lưu; trao đổi giữa các nền văn
hóa trên thế giới; giúp cho con người hiểu biết lẫn nhau và gắn kết nhau hơn. Mặt
khác; du lịch cũng đóng góp một phần tích cực trong việc bảo tồn các di sản văn
hóa và thúc đẩy các hoạt động văn hóa có quy mô và chất lượng.
Sự ra đời của ngành Du lịch là bước ngoặt lịch sử đối với sự phát triển của cả
thế giới. Ngành Du lịch không chỉ tạo tiền đề cho sự ra đời của nhiều ngành dịch
vụ mới; tạo thêm cơ hội việc làm cho một số lượng người lao động khổng lồ; đồng
thời giúp quảng bá nền văn hóa của các quốc gia, dân tộc khác nhau. 
II, Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch
2.1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch
2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước

4
Có nhiều cách hiểu về quản lý nhà nước . Theo nghĩa chung nhất, quản lý
nhà nước vừa là chức năng, vừa là quyền hạn và nhiệm vụ của nhà nước, nó được
hiểu là việc Nhà nước sử dụng quyền lực chung đã được thể chế hóa tác động
thường xuyên và liên tục đến các quá trình, lĩnh vực hay quan hệ xã hội nhằm đạt
được mục đích quản lý.
Chúng ta có thể điṇ h nghĩa quản lý nhà nước theo hai bình diện: Theo nghĩa
rộng: Quản lý nhà nước là hoạt động tổ chức, điều hành của hệ thống các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ chức của quyền lực
nhà nước trên các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp:
Quản lý nhà nước được hiểu là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan
hành chính nhà nước, đó là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của con người theo
pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước.
2.1.2. Quản lý Nhà nước về du lịch
Xuất phát từ lý luận chung về quản lý nhà nước như trên, chúng ta có thể
hiểu Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục
bằng quyền lực công cộng chủ yếu thông qua pháp luật dựa trên nền tảng của thể
chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du lịch nhằm đạt được
hiệu quả và mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước đặt ra.
Dưới góc độ hành chính - kinh tế, quản lý nhà nước về du lịch được hiểu là
hoạt động, là quá trình chỉ đạo, điều hành, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh du lịch bằng việc thông qua hệ thống pháp luật, các
chủ thể quản lý nhà nước (các cơ quan có thẩm quyền) tác động tới các đối tượng
quản lý trong quá trình kinh doanh hoạt động du lịch nhằm định hướng cho hoạt
động du lịch vận động, phát triển theo mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước đặt ra.
Như vậy, chúng ta có thể hình dung trong quản lý nhà nước về du lịch có các
thành tố bao gồm: Chủ thể quản lý là các cơ quan đại diện của Nhà nước hoặc
được Nhà nước trao quyền, ủy quyền, đây là các chủ thể duy nhất trong quản lý
nhà nước. Đối tượng (khách thể) quản lý: là các hoạt động, quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực du lịch. Mục đích quản lý nhà nước về du lịch: Đảm bảo
ngành du lịch phát triển theo một trật tự chung, nhằm bảo đảm lợi ích mọi cá
nhân , tổ chức cũng như lợi ích chung của toàn xã hội. Công cụ quản lý: Các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện quản lý ngành du lịch bằng hê ̣thống các
quy định của pháp luật và các công cụ quản lý khác như chính sách, chiến lược, kế
hoạch phát triển du lịch...
2.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch
2.2.1. Đối với nền kinh tế thị trường nước ta
Thực tế chỉ ra rằng, mọi nền kinh tế đều cần có sự quản lý của Nhà nước.
Song do tính đa dạng của thực tiễn ở các nước là khác nhau, do đó, việc quản lý
Nhà nước ở mỗi nền kinh tế, mỗi quốc gia là không giống nhau. Thực tế cho thấy,
nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có cơ sở hạ tầng (phục vụ
sản xuất và đời sống) hiện đại, lịch vực mà ngoài Nhà nước ra không ai đảm
nhiệm được. Cho nên người ta ngày càng ý thức rõ kinh tế phát triển ngày càng

5
cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng phát triển, càng
cần có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Do xu hướng hội nhập nền kinh tế của nước ta vào nền kinh tế thế giới, mở
rộng hợp tác. giao lưu quốc tế. Cho nên Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
ổn định môi trường chính trị, xã hội, tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế phát triển, thu
hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, do định hướng phát triển kinh tế nước ta là phát
triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, cho nên sự quản lý Nhà
nước đối với nền kinh tế là tất yếu khách quan. Chỉ có Nhà nước mới có đủ sức
mạnh và cơ sở vật chất để thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế.
2.2.2. Đối với ngành du lịch
Ngành kinh doanh du lịch giống như một cơ thể sống và luôn đòi hỏi sự quản
lý sáng tạo để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du lịch
cũng như nhu cầu nền kinh tế của một nước phụ thuộc hoàn toàn vào việc xây
dựng một cách sáng tạo những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát
triển của một đất nước. Do vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối với du lịch là một
vấn đề cần thiết được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, du lịch mới trong giai đoạn đầu
phát triển, còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậy cần có sự tham gia chỉ
đạo và định hướng của Nhà nước để du lịch phát triển. Vì vậy, quản lý du lịch
trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước là cần thiết và khách quan.
Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên, mặt
khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việc định
hướng phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế du lịch nói riêng
trong từng thời kỳ.
Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Nó liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nước để điều
hoà mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực liên quan. Tóm lại, khi
nền kinh tế của đất nước cần đến sự quản lý của Nhà nước thì công tác quản lý đối
với một ngành trong nền kinh tế là tất yếu khách quan.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU


LỊCH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I, Khái quát chung về sự ra đời của Ngành du lịch VIệt Nam
1.1. Sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam
Vào năm 1951, khi mà nước ta chưa chuyển sang thời kỳ cộng hòa, ngành du
lịch đã mạch nha xuất hiện với cái tên Sở Du lịch quốc gia được lập bởi quốc
trường Bảo Đại. Còn khi chuyển qua thời kỳ cộng hòa xã hội chủ nghĩa, công ty
Du lịch Việt Nam thuộc quản lý của bộ Ngoại Thương được thành lập vào ngày
7/7/1960.
Trải qua nhiều lần đổi tên, chuyển giao bộ phận quản lý và thay đổi cơ cấu tổ
chức thì đến ngày 8/8/2007, tổng cục Du lịch được sáp nhập vào bộ văn hóa, thể
thao và du lịch theo nghị định của chính phủ. Đây cũng là nơi quy định chức nắng,
nhiệm vụ, cơ cấu,.. của ngành Du lịch ở Việt Nam cho đến hiện nay.

6
II, Thực trạng quản lý nhà nước về du lịch ở nước ta
2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
So với những công cụ khác như đạo đức, phong tục, tập quán, tín điều tôn
giáo, quy định của cộng đồng dân cư hay của các tổ chức xã hội… pháp luật nói
chung có những ưu thế vượt trội hơn như tính bắt buộc chung, cưỡng chế; tính xác
định về mặt hình thức; tính quy phạm phổ biến…
Nhờ những thuộc tính đó, pháp luật có khả năng thể chế hoá đường lối, chủ
trương
của Đảng, đưa vào đời sống và trở thành hiện thực trong đời sống; pháp luật xác
định địa vị pháp lý của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đến từng cá
nhân, từ đó tạo dựng hành lang, khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động của các chủ
thể trong xã hội; pháp luật quy định các biện pháp kiểm tra, giám sát và xử lý
những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Riêng pháp luật về du lịch, mặc dù ra đời có phần hơi muộn, song tính từ
những năm 1960 đến nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành khá
nhiều văn bản pháp luật quy định trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các vấn đề liên
quan đến hoạt động du lịch. Những quy định này đã thực sự mở đường cho ngành
công nghiệp không khói phát triển một cách mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, đặc biệt là giai đoạn ban hành và áp
dụng Luật Du lịch 2005 thay thế cho Pháp lệnh Du lịch năm 1999.
Sau hơn 10 năm triển khai Luật Du lịch 2005, bên cạnh những yếu tố tích
cực có tính chất mở đường cho du lịch phát triển thì đồng thời cũng nảy sinh
không ít những vấn đề gây trở ngại. Điều đó cho thấy khuôn khổ thể chế đã không
đáp ứng kịp nhu cầu và xu thế phát triển du lịch.
Từ những tư tưởng đổi mới trong Nghị quyết 92/NQ-CP ngày 8/12/2014 của
Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch trong thời kỳ mới và
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã được tiếp thu và thể chế hoá cụ thể trong Luật
Du lịch 2017 được Quốc hội đã thông qua ngày 19/6/2017.
2.2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan
quản lý Nhà nước về du lịch
Du lịch được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, có liên quan đến nhiều
ngành kinh tế. Do đó công tác quản lý du lịch là phải làm sao phối hợp được với
các ngành, các cấp liên quan đến ngành du lịch nhằm đưa du lịch pháp triển cùng
với sự phát triển của nền kinh tế. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung
ương đến địa phương đang dần được hoàn thiện và phát huy chức năng quản lý
Nhà nước về du lịch.
Tổng cục du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch được thành lập đã
góp phần vào công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện kế hoạch quy hoạch, phát triển
du lịch. Từ khi 17 thành lập đến nay, Tổng cục du lịch, các Sở du lịch và Sở
thương mại - Du lịch đã từng bước tăng cường hiệu lực quản lý của mình đối với
hoạt động du lịch: rà soát, cấp giấy phép kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực kinh
doanh lữ hành quốc tế.

7
Bên cạnh đó, cùng với các sở địa phương, Tổng cục du lịch đã xây dựng chế
độ báo cáo định kỳ về việc thực hiện quy hoạch du lịch đều đặn cho các Sở du lịch
điều chỉnh, sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với điều kiện của từng địa
phương, từng doanh nghiệp. Đây là bước cố gắng của Tổng cục Du lịch, cũng như
của các sở Du lịch trong quản lý thông tin hai chiều từ Tổng cục Du lịch tới các
doanh nghiệp và ngược lại
2.3. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch
Từ năm 1992, sau khi được thành lập, Tổng cục du lịch dưới sự lãnh đạo của
chính phủ đã bắt tay vào xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể. Đến tháng 8/1994, bản quy hoạch tổng
thể phát triển du lịch 18 Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010 đã được Tổng cục du lịch
hoàn tất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo quyết định số 307/TT ngày
25/05/1995.
Có thể nói trong những năm qua việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với
công tác quy hoạch, kế hoạch của ngành du lịch đã được triển khai mạnh mẽ và có
kết quả. Những nội dung và kết quả nghiên cứu, quy hoạch của ngành đã đóng góp
tích cực vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta và
mỗi địa phương. Mặt khác, quy hoạch du lịch cũng có cơ sở giúp cho ngành trong
công tác chỉ đạo, quản lý, xây dựng các kế hoạch phát triển du lịch của cả nước,
đồng thời phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý thực hiện
quy hoạch tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
2.4. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du
lịch.
Đối với mọi ngành sản xuất và du lịch thì vấn đề quảng bá, hợp tác quốc tế
và xúc tiến thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình tạo một sản
phẩm có chỗ đứng trên thị trường. ở nước ta, du lịch đang trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn, vì vậy công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc
tiến du lịch ngày càng được quan tâm. Tổng cục du lịch đã tham gia nhiều hội
thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế và phối hợp với các tổ chức quốc tế tại Việt Nam
với mục tiêu quảng bá, thúc đẩy quan hệ quốc tế, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với
thế giới. Các chương trình du lịch, sản phẩm du lịch của Việt Nam giới thiệu trên
thị trường thế giới thông qua các hội chợ du lịch quốc tế.
Hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước, du
lịch Việt Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế
mới, cao hơn.
Du lịch Việt Nam chú trọng và bắt đầu tham gia hợp tác du lịch APEC: tham
dự nhóm cộng tác du lịch APEC lần thứ 18 và diễn đàn du lịch APEC lần thứ 2.
Tổng cục du lịch đã chuẩn bị phương án cam kết trong lĩnh vực du lịch để phục vụ
cho Việt Nam đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới.
Các hoạt động trên đã nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước về du
lịch, phát huy tác dụng xúc tiến, quảng bá cho du lịch Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới.

8
III, Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước
ta
3.1. Về hệ thống pháp luật du lịch
Mặc dù pháp lệnh du lịch đã được công bố và là một văn bản pháp luật mang
tính pháp lý cao nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban hành
các văn bản thi hành vẫn còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế nhất định
trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch và bản thân hoạt động của các doanh
nghiệp du lịch. Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy dưới luật
nên tính ổn định pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại là lĩnh vực
rất rộng, có liên quan đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa công tác tuyên
truyền, hướng hẫn thực thi còn hạn chế, chưa nhanh nhay vơí những biến động của
nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời
gian qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh
nghiệp, nguyên nhân là do: Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp
luật chưa đúng đắn. Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn
chồng chéo giữa các ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu
quan trong việc ban hành pháp luật. Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm
giải quyết kịp thời từng vấn đề nảy sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản
chưa có hệ thống trong một khung pháp lý gắn bó chặt chẽ với nhau.
Môi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc
biệt trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp
lý phù hợp thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phaỉ được nhất quán, đồng bộ
và phù hợp với điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách
nhiệm của các cơ quan chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong hoạt
động và phát triển du lịch ở nước ta.
3.2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch
Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ
yếu là doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du
lịch) đã có nhiều cố gắng song vẫn còn một số hạn chế sau:
Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn
chưa phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành không
quan tâm đúng mức và không có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ.
Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến
hoạt động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh
doanh lộn xộn. Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng
ép giá cũng như can thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.
Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn ra
ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành nhiều
trung tân du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Chúng ta buông lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây phá giá,

9
trốn thuế, làm xáo trộn thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, không chủ động
vươn ra thị trường nước ngoài để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn
khách hoạt động, đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này còn
thấp. Nguyên nhân là do công tác quản lý, kiểm tra, kiển soát của các cơ quan
quản lý Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng còn bị buông lỏng.
Việc xử lý không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh
nghiệp kinh doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật
thuế VAT còn nhiều bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại
cho các hoạt động doanh nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và đầu
tư đổi mới ngành du lịch còn ít được quan tâm. Chính sách tiền lương còn bất cập
chưa khuyến khích được các doanh nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương tiện và
công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
3.3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch
Có thể nói công tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được
những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Năm 1995,
Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt dự án '' Quy hoạch tổng thể và phát triển du
lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác
định để xây dựng các điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho
những mục đích khác nhau.
Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã
dẫn đến việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ
một cách nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến
trúc, không tuân theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không
gian mở, gây ảnh hưởng cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu,
điểm du lịch.
Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật,
ăn xin, mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là do
các cơ quan này còn buông lỏng công tác quản lý cũng như việc xử phạt hành
chính nên các vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau: Việc phối hợp giưa
UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục du lịch còn chưa thống nhất. Việc đầu tư
vốn để thực hiện quy hoạch còn chưa hợp lý. Thiếu vốn đầu tư, thủ tục hành chính
phức tạp, rắc rối, cản trở không nhỏ đối với nguồn đầu tư nước ngoài, khả năng
huy động vốn trong nước thấp. Nguồn nhân lực phục vụ trong các khu vui chơi
giải trí đang rơi vào tình trạng dư người. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý khai thác ở
các khu vui chơi giải trí còn yếu. Việc quản lý các khu, điểm du lịch còn chồng
chéo giữa UBND các địa phương với các sở du lịch và Tổng cục du lịch.
3.4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đội ngũ cán bộ của ngành tuy có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng,
nhưng cơ cấu thiếu hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Các cán bộ

10
công nhân làm việc trong ngành vẫn còn hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chưa phát triển đồng bộ,
thiếu thống nhất và thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng
đào tạo không đều, ảnh hưởng đến việc thực thi nghiệp vụ du lịch.
Chưa có sự phối hợp giữa các Sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch trong việc
tổ chức cho các sinh viên trong ngành du lịch được tham gia làm một hoặc một số
công việc cụ thể tại các cơ sở mà họ thực tập. Mà đối với sinh viên việc kết hợp lý
thuyết vơí thực hành là vô cùng quan trọng vì kỹ năng của sinh viên sau khi ra
trường kém, doanh nghiệp du lịch phải mất tiền của, thời gian để đào tạo lại gây
lãng phí.
Vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch nước ta về công tác đào tạo đội ngũ trong
ngành là chưa tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đội ngũ lao động doanh
nghiệp vì vậy chưa xây dựng được chiến lược phát triẻen nguồn nhân lực lâu dài.
3.5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch
Công tác quảng bá, tiếp thị cho du lịch là một công việc quan trọng hàng đầu
nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Nhưng cho đến nay, ngành du lịch nước ta
vẫn chưa xây dựng được kế hoạch và chiến lược thực thi cho công tác tiếp thị toàn
ngành.
Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa tập trung, còn mang tính chất tự phát ở
một số doanh nghiệp chứ chưa mang tầm quốc gia. Vì thế du lịch Việt Nam chưa
nắm được xu thế vận động của từng loại thị trường để so sánh nhằm đầu tư, khai
thác cho từng loại thị trường cụ thể.
Kinh phí cho công tác quảng bá còn quá thấp, chỉ khoảng 100.000 USD/năm.
Trong khi đó bình quân một năm Tổng cục du lịch Thái Lan đã phải chi 60 triệu
USD, Singapo là 80 triệu USD. Điều này cho thấy việc đầu tư quảng bá, xúc tiến
du lịch ở nước ta còn quá ít, không đủ điều kiện để thực hiện.
Trên thực tế, cho đến nay, du lịch Việt Nam chưa có một văn phòng đại
diện nào ở nước ngoài. Trong toàn ngành có 100 công ty lữ hành quốc tế thì chỉ có
13 công ty có văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới. Nhiều công ty lữ hành
đã hoạt động 3-4 năm nhưng chưa một lần tham gia hội chợ du lịch thế giới. Công
tác hợp tác quốc tế của ngành mới chỉ là bước đầu và đang trong quá trình chuẩn
bị cho hội nhập nên chưa thật chủ động và đạt hiệu quả cao.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH
I, Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch
1.1. Đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển du lịch
Nhận thức rõ du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành,
liên vùng, xã hội hóa cao và nội dung văn hóa sâu sắc; có khả năng đóng góp lớn
vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo động
lực cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển, đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế,
văn hóa, xã hội, chính trị, đối ngoại và an ninh, quốc phòng.

11
Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phát triển du lịch theo quy luật kinh tế thị trường,
bảo đảm nhất quán từ quan điểm, mục tiêu, chương trình hành động và có thể chế,
chính sách đột phá, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi
nhọn.
Nâng cao ý thức của người dân, doanh nghiệp và cộng đồng trong xây dựng,
bảo vệ hình ảnh, môi trường, góp phần phát triển bền vững, không ngừng nâng cao
uy tín, thương hiệu và sức thu hút của du lịch Việt Nam.
1.2. Cơ cấu lại ngành Du lịch bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và phát
triển bền vững theo quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
Hoàn thiện cơ cấu ngành Du lịch, bảo đảm phát triển đồng bộ trong tổng thể
phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Rà soát, điều chỉnh chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch theo hướng tập
trung nguồn lực xây dựng các khu vực động lực phát triển du lịch.
Xây dựng và triển khai Đề án cơ cấu lại ngành Du lịch theo hướng ưu tiên
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch; liên kết chuỗi giá trị đầu vào của các
ngành; tập trung phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa, tâm linh,
du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao;
kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch theo hướng hiện đại,
khác biệt; đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến quảng bá
gắn với sản phẩm và thị trường; bảo đảm môi trường du lịch an toàn, văn minh.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tiềm năng, lợi thế phát triển du lịch
khẩn trương xây dựng đề án cơ cấu lại ngành Du lịch của địa phương.
1.3. Hoàn thiện thể chế, chính sách
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp; có cơ chế, chính sách phù hợp và đột
phá để phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn, đáp ứng yêu cầu, tính chất của
ngành kinh tế tổng hợp, hoạt động theo cơ chế thị trường. Ban hành cơ chế, chính
sách huy động tối đa nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển du lịch theo định hướng
cơ cấu lại ngành Du lịch.
Trước mắt, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chính sách trực tiếp liên quan
đến phát triển du lịch:
Về đầu tư, ban hành các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào du lịch,
nhất là các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa có tiềm năng du lịch, sản phẩm
du lịch đặc thù và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tăng cường hợp tác
công - tư để huy động các nguồn lực trong xã hội cho phát triển du lịch. Nhà nước
ưu tiên bố trí vốn cho công tác xây dựng quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực,
quảng bá xúc tiến.
Về tài chính, chuyển đổi cơ chế phí tham quan sang cơ chế giá dịch vụ; điều
chỉnh giá điện áp dụng cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng với giá điện sản
xuất; có chính sách phù hợp về thuế sử dụng đất và tiền thuê đất đối với các dự án
du lịch có hệ số sử dụng đất cho xây dựng thấp và hạn chế về chiều cao, chính
sách đất đai hợp lý đối với diện tích xây dựng ký túc xá, nhà ở cho người lao động
du lịch tại những nơi hạn chế về nguồn nhân lực; tạo điều kiện thuận lợi hoàn thuế
giá trị gia tăng cho khách du lịch.

12
Thành lập và có cơ chế quản lý, sử dụng hiệu quả Quỹ hỗ trợ phát triển du
lịch. Ngân sách nhà nước hỗ trợ ban đầu cho Quỹ và hằng năm được bổ sung từ
nguồn thu lệ phí thị thực nhập cảnh, phí tham quan du lịch, đóng góp của doanh
nghiệp, khách du lịch và các nguồn hợp pháp khác.
Về thủ tục nhập cảnh, tiếp tục hoàn thiện, ban hành chính sách tạo thuận lợi
tối đa và đơn giản về thủ tục thị thực nhập cảnh cho khách du lịch quốc tế đến Việt
Nam. Đối với những vấn đề cấp bách cần triển khai ngay để tạo đột phá cho du
lịch phát triển, nếu chưa có văn bản pháp luật quy định hoặc có quy định khác thì
cho thực hiện thí điểm.
1.4. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du
lịch
Dành nguồn lực thích hợp từ ngân sách nhà nước đầu tư phát triển hạ tầng
giao thông, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, động lực; nâng cao khả năng kết nối
giao thông tới các khu, điểm du lịch, kiểm soát chất lượng dịch vụ và đảm bảo an
toàn giao thông cho khách du lịch. Đầu tư các điểm dừng, nghỉ trên các tuyến du
lịch đường bộ. Đẩy mạnh thực hiện chính sách "mở cửa bầu trời", triển khai thực
hiện thương quyền 5 về hàng không; tạo điều kiện cho các hãng hàng không mở
các đường bay mới kết nối Việt Nam với thị trường nguồn, tăng cường tần suất
các đường bay có sẵn; giải quyết các điểm nghẽn và tình trạng quá tải tại các cảng
hàng không. Tập trung đầu tư một số cảng biển và cảng thủy nội địa chuyên dùng
tại các địa bàn có điều kiện thuận lợi phát triển du lịch đường biển và đường sông.
Cải thiện hạ tầng và chất lượng dịch vụ đường sắt phục vụ khách du lịch.
Tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật ngành Du lịch. Khuyến khích các nhà đầu tư chiến lược đầu tư hình
thành các khu dịch vụ du lịch phức hợp, dự án dịch vụ du lịch quy mô lớn, các
trung tâm mua sắm, giải trí chất lượng cao tại các địa bàn trọng điểm
1.5. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch
Đổi mới cách thức, nội dung, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại, bảo
đảm thực hiện thống nhất, chuyên nghiệp và nâng cao hiệu quả xúc tiến quảng bá
du lịch trong nước và nước ngoài. Xây dựng và định vị thương hiệu du lịch quốc
gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Kết hợp sử dụng nguồn lực của Nhà nước và huy động sự tham gia của toàn
xã hội trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đại diện và thương vụ Việt
Nam tại nước ngoài trong việc xúc tiến quảng bá du lịch. Khuyến khích doanh
nghiệp du lịch đặt văn phòng đại diện tại nước ngoài. Phát huy vai trò của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, tạo đột phá trong hoạt động
xúc tiến quảng bá thị trường trong nước, kết hợp với nâng cao nhận thức về vai
trò, vị trí ngành Du lịch.
1.6. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng phát triển du
lịch

13
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh
bạch, bình đẳng, thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Khuyến khích
doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, đa dạng hóa các loại hình, sản phẩm du lịch phù
hợp với định hướng cơ cấu lại ngành Du lịch. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
kinh doanh du lịch, đặc biệt ở những địa phương vùng sâu, vùng xa. Chú trọng bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp du lịch; xử lý nghiêm hành vi cạnh
tranh thiếu lành mạnh.
Tạo điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp tham gia kinh doanh và hưởng
lợi từ du lịch; có chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng. Nâng cao vai trò
của cộng đồng, xây dựng cộng đồng du lịch văn minh, thân thiện trong ứng xử với
khách du lịch; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp liên quan đến
du lịch.
1.7. Phát triển nguồn nhân lực du lịch
Nhà nước có chính sách thu hút đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực du lịch;
tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo du lịch cả về cơ sở vật chất kỹ thuật,
nội dung, chương trình và đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc
tế, thu hút nguồn lực phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Đa dạng hóa các hình thức đào tạo du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học -
công nghệ tiên tiến trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về quản lý nhà nước, quản trị doanh
nghiệp và lao động nghề du lịch. Chú trọng nâng cao kỹ năng nghề, ngoại ngữ và
đạo đức nghề nghiệp cho lực lượng lao động ngành Du lịch.
Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch tương thích với các tiêu
chuẩn trong ASEAN; thành lập Hội đồng nghề du lịch quốc gia và Hội đồng cấp
chứng chỉ nghề du lịch.
1.8. Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về du lịch và các lĩnh vực liên quan để tạo
điều kiện cho phát triển du lịch; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc
gia trong lĩnh vực du lịch theo hướng hội nhập khu vực và quốc tế; nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch phát triển du lịch.
Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch theo hướng đồng bộ, chuyên
nghiệp, hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý liên ngành, liên vùng của
hoạt động du lịch; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch.
Nâng cao năng lực, trách nhiệm và quyền hạn của Tổng cục Du lịch. Thành
lập sở du lịch tại các địa phương có điều kiện phát triển du lịch theo nguyên tắc
không tăng thêm biên chế.
Nghiên cứu xác định mô hình, hệ thống tổ chức, quản lý ngành Du lịch đáp
ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tình hình mới.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và liên ngành, kiểm
soát chất lượng dịch vụ hệ thống khách sạn, các doanh nghiệp lữ hành, đội ngũ
hướng dẫn viên và các cơ sở dịch vụ du lịch; khẩn trương triển khai ứng dụng
công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý thuế, phí để chống thất thu trong
hoạt động du lịch.

14
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền địa phương
các cấp trong tổ chức triển khai, quản lý hoạt động du lịch; xử lý dứt điểm các tệ
nạn đeo bám, ép khách, cướp giật; bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn thực
phẩm, xây dựng môi trường du lịch văn minh, an toàn, thân thiện.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, phát huy tiềm năng, thế mạnh và khai
thác các cơ hội, nguồn lực để phát triển, gắn kết du lịch Việt Nam với du lịch của
các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời khắc phục những hạn chế của du
lịch Việt Nam.
KẾT LUẬN
Công tác quản lý nhà nước về du lịch của nước ta trong những năm qua đã
đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt , gây được ảnh hưởng ,ấn tượng
lớn với bạn bè , du khách trên cộng đồng quốc tế . Du lịch Việt Nam phát triển
không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng , khẳng định được vị thế trên thế giới
và khu vực .
Quản lý nhà nước về kinh tế là một chức năng của nhà nước, theo đó Nhà
nước sử dụng tất cả các biện pháp có thể để can thiệp vào nền kinh tế nhằm hạn
chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh, phân bổ nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát
triển xã hội một cách hài hòa, phù hợp với các giá trị truyền thống và bản sắc văn
hóa của đất nước.
Công tác quản lý Nhà nước có thể ví như nhân tố “chìa khóa” mở cánh cửa
phát triển du lịch. Song, để chiếc “chìa khóa” này vận hành trơn tru, bên cạnh việc
nhấn mạnh vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch và chính quyền
các địa phương; thiết nghĩ cũng cần sự cộng đồng trách nhiệm từ các cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp và cả người dân đồng lòng chung sức , cùng nhau đẩy mạnh vị
thế du lịch Việt Nam trên trường quốc tế .

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị quyết
92/NQCP ngày 8/12/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch
trong thời kỳ mới.
2. ThS. Nguyễn Thành Nam (2022), Du lịch về nguồn tại Việt Nam – thực
trạng và giải pháp.
3. Nguyễn Thị Vân Hạnh, Xã hội học du lịch – Lịch sử phát triển và các chủ
đề nghiên cứu cơ bản.
4. Mai Văn Nhơn (2001), Quản lý nhà nước về du lịch tại tỉnh Đồng Nai,
Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Trần Toàn Minh (2021), Thực trạng vai trò của nhà nước trong quản lý và
phát triển ngành du lịch ở nước ta trong gia đoạn hiện nay.
6. Nguyễn Thị Doan,( 2015), Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Hà
Nội.
7. Nguyễn Thị Huy Hoàng (2016), Quản lý nhà nước về du lịch ở tỉnh Tây
Ninh, Luận văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính
Quốc gia cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Lê Phương Dung, (2015), Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về du lịch
của tỉnh Bắc Ninh.
9. Trần Xuân Ảnh ( 2007) Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị
trường du lịch, tạp chí Quản lý Nhà nước, số132.
10. Tổng cục Du lịch Việt Nam(2006), “Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam 2001- 2010”
11. Trần Thị Thuý Lan - Nguyễn Đình Quang, “Giáo trình tổng quan du
lịch”, NXB Hà Nội (2009).

16

You might also like