You are on page 1of 96

NHÓM 1: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ CÔNG TY TNHH VÀ CÁC

QUY ĐỊNH
CHUNG....................................................................................................................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LDN 2014, NHỮNG ĐIỂM BẤT CẬP VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LDN
2020.....................................................................................................................................................................................................
1. Khái niệm doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp..................................................................................................................
2. Sự ra đời của LDN 2014..................................................................................................................................................................
3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2020............................................................................................................
4. Tổng quan luật doanh nghiệp 2020...............................................................................................................................................
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ CÔNG TY TNHH VÀ
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG...............................................................................................................................................................
I. Những điểm mới về “Những quy định chung”..........................................................................................................................
1. Về các giải thích từ ngữ.......................................................................................................................................................
2. Về báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp..........................................................................................
3. Về trường hợp được cử người khác làm người đại diện theo pháp luật..............................................................................
4. Về quy định về đối tượng không được thành lập, quản lý doanh nghiệp............................................................................
II. Những điểm mới về quyền và nghĩa vụ của DN khi thành lập doanh nghiệp.........................................................................
III. Những điểm mới về “Công ty trách nhiệm hữu hạn”.............................................................................................................
1.  Về công ty TNHH hai thành viên trở lên............................................................................................................................
2. Về công ty TNHH một thành viên.......................................................................................................................................
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020......................................
I. Đánh giá của các luật gia, chuyên gia về luật............................................................................................................................
II. Đánh giá của các doanh nghiệp................................................................................................................................................
III. Đánh giá của nhóm sinh viên..................................................................................................................................................
I. Những bất cập, hạn chế trong QĐ về công ty TNHH của Luật Doanh nghiệp năm 2020........................................................
1. Công ty TNHH một thành viên............................................................................................................................................
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên..................................................................................................................................
II. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về công ty TNHH.................................................
1. Công ty TNHH một thành viên............................................................................................................................................
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên..................................................................................................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................................................................................................
NHÓM 2: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ CTCP...................
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT DOANH
NGHIỆP 2020...................................................................................................................................................................................
3. Sự cần thiết phải ban hành Luật doanh nghiệp 2020.....................................................................................................................
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 SO VỚI LUẬT DOANH
NGHIỆP 2014 VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN........................................................................................................................................
1. Quy định về cổ phần................................................................................................................................................................
3. Quy định về Hội đồng quản trị.................................................................................................................................................
4. Quy định về hội đồng cổ đông..................................................................................................................................................
5. Quy định về Ban kiểm soát.......................................................................................................................................................
6. Các quy định khác.....................................................................................................................................................................
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ CỦA CHUYÊN GIA, ĐÁNH GIÁ CỦA NHÓM VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT
DOANH NGHIỆP 2020 VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI.......................................................................................................
1. Nhận xét, đánh giá của các chuyên gia.....................................................................................................................................
1.2. Nhận xét của các chuyên gia và các nhà làm luật:....................................................................................................................
2. Nhận xét, đánh giá của nhóm....................................................................................................................................................
2.3. Một số điểm mới về quản trị công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2020:....................................................................
2.4. Đánh giá một số bất cập, hạn chế trong quy định về công ty cổ phần trong LDN 2020...........................................................
3. Một số kiến nghị về các quy định về Công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp 2020.............................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................................................................................................
NHÓM 3: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC,
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP........................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LDN 2014 VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LDN 2020.................................................
* Ưu điểm của Luật Doanh nghiệp 2014...........................................................................................................................................
* Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020.....................................................................................................................
CHƯƠNG 2.    NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2022 SO VỚI LDN 2014 VỀ DNNN, DN TƯ NHÂN,
TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP...........................................................................................................
1. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về doanh nghiệp nhà
nước 75
2. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về Doanh nghiệp tư
nhân 83
1. Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành nhiều loại hình doanh nghiệp khác..................................................
2. Bổ sung quy định "thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt".....................
3. Điểm bất cập trong luật doanh nghiệp 2020 về doanh nghiệp tư nhân........................................................................
3. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về tổ chức lại, giải thể và
phá sản doanh nghiệp........................................................................................................................................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG II.................................................................................................................................................................
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 VỀ DNNN,
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP...................................................
1. Nhận xét của các nhà làm luật, chuyên gia..............................................................................................................................
2. Nhận xét của các Doanh nghiệp...............................................................................................................................................
3. Nhận xét của nhóm..................................................................................................................................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG III................................................................................................................................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................................................................................................

NHÓM 1: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ CÔNG TY TNHH VÀ
CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xu thế toàn cầu hóa đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia
đang phát triển. Việt Nam là một trong những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển với tốc độ rất lớn, và vì vậy mức
độ ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới tới Việt Nam là rất cao. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành một thành viên
của tổ chức kinh tế thế giới (WTO) vào ngày 07/11/2006 đã mở ra rất nhiều cơ hội để bước vào hội nhập cùng nền kinh
tế thế giới năng động, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó có
công ty cổ phần (CTCP). Chính vì lẽ đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước nói chung và các CTCP nói riêng cần phải
trang bị cho mình những công cụ hữu hiệu nhất nhằm đối phó với thế lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài.
LDN là một trong những công cụ hữu hiệu ấy, nó được xem là một môi trường sống, một sân chơi bình đẳng cho các
thành phần kinh tế. Như vậy, LDN sẽ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực doanh nghiệp, cụ thể
trong hoạt động thành lập DN, hoạt động tổ chức quản lý doanh nghiệp, hoạt động tổ chức loại DN và phá sản, giải thể
doanh nghiệp. 

Trải qua hơn 30 năm phát triển, sửa đổi và bổ sung kể từ khi xuất hiện văn bản luật đầu tiên hướng đến đối tượng là
các doanh nghiệp tư nhân và ba lần thay thế là LDN 2005, LDN 1014 và LDN 2020 kể từ khi luật đầu tiên về DN ra đời
năm 1999 ( dựa trên sự hợp nhất của Luật DN tư nhân và Luật công ty 1990). Trong đó có thể nói Luật Doanh nghiệp
2014 đã và đang góp phần trong việc tạo hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, sau gần 05 năm thi
hành, Luật Doanh nghiệp 2014 đã không còn phù hợp và thậm chí còn tạo gánh nặng về chi phí, về thời gian trong quá
trình tuân thủ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số quy định cần được sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với các luật ban
hành gần đây, để nâng cấp môi trường kinh doanh theo yêu cầu của Chính phủ, nâng cao chất lượng hoạt động doanh
nghiệp đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, với thực tế khách quan của một quốc gia đang không ngừng phát
triển, một đất nước hướng đến nền dân chủ vững mạnh, vươn mình ra với bè bạn năm châu, Việt Nam cũng cho thấy
tầm quan trọng của luật pháp trong sứ mệnh bảo vệ công lý và đảm bảo công bằng xã hội , LDN 2020 đã ra đời với
nhiều sự điều chỉnh mang xu hướng tích cực. Cụ thể, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV ngày 17 tháng 6 năm 2020,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư giới thiệu thông qua Luật Doanh nghiệp 2020 với 10 chương, 218 điều với nhiều điểm đột phá,
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. LDN đã có nhiều nội dung sửa đổi mang tính đột
phá, đổi mới cơ bản về các quy định của Nhà nước đối với doanh nghiệp, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương mới
của Đảng về cải cách kinh tế; nhất quán với tiến trình cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký
doanh nghiệp; bổ sung các quy định không được thành lập và quản lý doanh nghiệp; cập nhật kịp thời các quy định mới
phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường; đồng thời, nội luật hóa các quy định có liên quan trong các Điều
ước quốc tế nước ta là thành viên, góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: khái quát chung về Luật Doanh nghiệp 2014, những điểm bất cập và sự cần thiết ban hành
Luật Doanh nghiệp 2020; những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp
2014 về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp và đưa ra được
những nhận xét, đánh giá về những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020.

Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở phân tích, so sánh, đánh giá những thay đổi trong quy định liên quan đến CTCP
ở Luật Doanh nghiệp những năm 2014, 2020 từ đó đưa ra nhận xét đánh giá về một số mặt tích cực cũng như những bất
cập, hạn chế của luật doanh nghiệp 2020 và kiến nghị thay đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định này.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020.
Phạm vi nghiên cứu: Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức
lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp phân tích - tổng hợp lý thuyết, pp thống kê khái quát hóa, phương
pháp nghiên cứu thực tiễn, phương pháp chuyên gia và phương pháp phân tích - tổng kết kinh nghiệm.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LDN 2014, NHỮNG ĐIỂM BẤT CẬP VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN
HÀNH LDN 2020
1. Khái niệm doanh nghiệp và pháp luật về doanh nghiệp 
1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Thuật ngữ doanh nghiệp được sử dụng đầu tiên ở nước ta từ năm 1948, theo tinh thần của Sắc lệnh số 104/SL ngày
01.01.1948 về doanh nghiệp quốc gia. Trong suốt thời kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuật ngữ này bị lãng quên, các
thuật ngữ thay thế thường được sử dụng là xí nghiệp, đơn vị kinh tế, cơ quan kinh tế... Đến khi ở Việt Nam xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, thuật ngữ doanh nghiệp mới được sử dụng trở lại. Theo tinh thần của Luật công ty năm 1990 hay Luật
Doanh nghiệp năm 1999, thuật ngữ doanh nghiệp được xác định là một thực thể pháp lí được thành lập và đăng ký kinh
doanh nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 
Hiểu theo nghĩa đơn giản doanh nghiệp là tổ chức được thành lập nhằm mục đích kinh doanh dưới hình thức các
loại hình công ty. Tuy nhiên trên thực tế, mục tiêu và hình thức hoạt động của một doanh nghiệp là rất đa dạng. Dựa vào
quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Doanh nghiệp có đặc điểm sau:
 Được thành lập và đăng ký kinh doanh theo thủ tục pháp lÝ nhất định. Hiện tại, tuỳ thuộc tính chất của mỗi loại
chủ thể kinh doanh mà pháp luật quy định thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh riêng;
 Được thừa nhận là thực thể pháp lý; có thể nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật. Doanh nghiệp được
tham gia vào tất cả các quan hệ trong giao lưu dân sự cũng như các quan hệ tố tụng;
 Chức năng, nhiệm vụ chính của doanh nghiệp là kinh doanh. Doanh nghiệp được thực hiện các hoạt động kinh
doanh như sản xuất, mua bán, cung ứng hàng hoá, dịch vụ nhằm mục tiêu thu lợi nhuận hoặc thực hiện chính
sách kinh tế - xã hội.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020 có các loại hình doanh nghiệp sau: công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư
nhân.
1.2. Pháp luật về doanh nghiệp
Khi hình thành Luật Doanh nghiệp được phân làm hai nhánh Luật riêng, một là Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật
Doanh nghiệp nhà nước. Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, sau đó được chỉnh sửa năm 1994, đến năm 1999 tên
Luật được rút ngắn và bỏ từ “tư nhân” chuyển thành Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
1995 sau đó sửa đổi bổ sung năm 2003. Qua quá trình áp dụng và thực tiễn nhận thấy cần phải thống nhất hai nhánh luật
vào thành một nên Chính phủ đã quy định chung về doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước vào cùng một
Luật, thống nhất lấy tên chung là Luật Doanh nghiệp được ban hành năm 2005, sau đó được chỉnh sửa một điều Luật
Doanh nghiệp năm 2013, kỳ quốc hội lần thứ 13 đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2014 để khắc phục những bất cập
của Luật năm 2005, ngày nay cùng với quá trình phát triển của kinh tế xã hội thì một số điều của Luật Doanh nghiệp
2014 không còn phù hợp với thực tiễn nên đến kỳ quốc hội thứ 14 đã ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Để ra đời một doanh nghiệp, cần có sự kiện thành lập doanh nghiệp theo những thủ tục luật định, và các chủ thể
thành lập cũng phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật. Trong quá trình doanh nghiệp hoạt động, phát
sinh các mối quan hệ khác nhau.
Để điều chỉnh các hoạt động từ khi thành lập doanh nghiệp đến khi doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại, thì Luật
Doanh nghiệp ra đời. Từ đó, có thể hiểu Luật Doanh nghiệp là văn bản luật chứa đựng tổng thể các quy định pháp luật
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực doanh nghiệp cụ thể trong hoạt động thành lập doanh nghiệp,
hoạt động tổ chức quản lý doanh nghiệp, hoạt động tổ chức loại doanh nghiệp và phá sản, giải thể doanh nghiệp.
Tại điều 2 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định đối tượng áp dụng của Luật Doanh nghiệp gồm: doanh
nghiệp; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có
liên quan của doanh nghiệp.
2. Sự ra đời của LDN 2014
Luật Doanh nghiệp 2014 được Quốc hội khóa 13 thông qua ngày 26/11/2014 đã được phổ biến tới các doanh nghiệp,
với mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh với chi phí hợp lý hơn, an toàn hơn và
hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư để qua đó tăng cường thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật
Doanh nghiệp 2005, đồng thời khắc phục những điểm hạn chế, bất cập của quy định hiện hành và thể chế hóa các vấn
đề mới phát sinh từ thực tiễn, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định mới nhằm tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp.
Sau cuộc đột phá về thể chế của “Luật Doanh nghiệp 1999”, thì LDN 2014 được coi là cuộc đột phá thể chế lần hai,
thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp, theo đó, những
gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh.
LDN 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn
chế góp phần tạo điều kiện mở ra một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với thông lệ thế giới.
- Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2014 (chép luật)
- Đối tượng điều chỉnh (chép luật)
- Những nội dung cơ bản của LDN 2014
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Khóa XIII, kỳ
họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 đã được thay thế
cho Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật
Doanh nghiệp số 37/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013.
Luật Doanh nghiệp 2014 gồm 10 chương và 213 điều quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải
thể và hoạt động có liên quan của các loại doanh nghiệp; trong đó bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; ngoài ra còn có quy định về nhóm công ty:
Chương I: Những quy định chung
Chương II: Thành lập doanh nghiệp
Chương III: Công ty trách nhiệm hữu hạn
Chương IV: Doanh nghiệp nhà nước
Chương V: Công ty cổ phần
Chương VI: Công ty hợp danh
Chương VII: Doanh nghiệp tư nhân
Chương VIII: Nhóm công ty
Chương IX: Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp
Chương X: Tổ chức thực hiện
Luật Doanh nghiệp năm 2014 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống
của Luật Doanh nghiệp năm 2005, nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn
chế, bất cập của Luật cũ, góp phần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như
thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư. Nếu LDN 1999 là cuộc đột phá về thể chế đầu tiên thì LDN 2014 được coi là
cuộc đột phá thể chế lần hai, thể hiện đúng tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của
doanh nghiệp, theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh.
1.  Những thành tựu của Luật Doanh nghiệp 2014 qua thực tiễn áp dụng
Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư một lần nữa khẳng định quyền tự do kinh doanh những ngành nghề pháp luật
không cấm trong Hiến pháp 2013. Với việc giải phóng quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp đã thúc đẩy tinh
thần khởi nghiệp, tạo ra làn sóng gia nhập thị trường trong cộng đồng doanh nghiệp. Trong vòng 01 năm từ khi thực
hiện Luật Doanh nghiệp (1/7/2015 - 1/7/2016), cả nước đã có hơn 105.975 doanh nghiệp được thành lập mới, với số
vốn 767.900 tỷ đồng, bình quân vốn là 7,25 tỷ đồng/doanh nghiệp. Như vậy, số doanh nghiệp thành lập mới tăng
27,8%, vốn đăng ký mới cũng tăng trên 42% và bình quân vốn tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, trong
trong giai đoạn này cũng đã có 23.950 lượt doanh nghiệp tăng vốn điều lệ với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 690
nghìn tỷ đồng.
Mục tiêu đơn giản hóa hồ sơ, trình tự, thủ tục đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ trả hồ sơ đúng hẹn và tỷ lệ
hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu cùng tăng cao, góp phần giảm tối đa chi phí gia nhập thị trường. Cụ thể, 85,73%
tổng số hồ sơ trên cả nước được chấp thuận ngay lần đầu tiên và 89% tổng số hồ sơ được trả kết quả đúng hẹn.
(Nguyễn Hương 2016) Phương thức hỗ trợ đăng ký kinh doanh cũng được đa dạng hóa qua việc nâng cao tỷ lệ đăng ký
doanh nghiệp qua mạng điện tử trên cả nước. Theo đó, Hà Nội đạt tỷ lệ 40% số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh qua
mạng điện tử và phấn đấu đạt mục tiêu 100% vào cuối năm nay. Ngoài ra, mô hình đăng ký doanh nghiệp tại nhà (tại
thành phố Hồ Chí Minh), mô hình cơ quan đăng ký kinh doanh “vui vẻ” (tại Hà Tĩnh), mô hình hỗ trợ đăng ký DN tại
chỗ (Hà Nội) góp phần đa dạng hóa phương thức hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp tại mỗi địa phương và giảm đáng kể
thời gian xử lý hồ sơ. Thời gian trung bình xử lý hồ sơ thành lập mới là 2,9 ngày và thời gian trung bình xử lý hồ sơ
đăng ký thay đổi là 2,05 ngày.
2. Những bất cập của LDN 2014
  Luật DN 2014 có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 với nhiều quy định mới nhằm góp phần trong việc tạo dựng 1 hành
lang pháp lý an toàn, thông thoáng đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, cải thiện môi trường
đầu tư, kinh doanh ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, sau gần 5 năm thi hành, LDN 2014 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và còn những quy định chưa phù
hợp, chưa phát huy được hiệu quả trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của
doanh nghiệp. Những bất cập, hạn chế này gây khó khăn cho bản thân doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước có liên quan, đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Thứ nhất, về việc kê khai địa chỉ trụ sở chính của DN khi thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luật DN 2014, doanh nghiệp là “tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” . Trụ sở giao dịch của doanh
nghiệp không hẳn chỉ là một địa chỉ để các khách hàng đến giao dịch, đây còn là nơi tập trung hệ thống các cơ quan đầu
não của doanh nghiệp. Đồng thời, nó cũng là một trong những minh chứng quan trọng cho sự tồn tại trên thực tế của
doanh nghiệp. Để xác định được địa chỉ trụ sở giao dịch của doanh nghiệp, khi quy định về nội dung của giấy đề nghị
đăng ký doanh nghiệp, khoản 2, Điều 24 Luật DN 2014 đã quy định người đăng ký doanh nghiệp phải tiến hành kê khai
địa chỉ trụ sở chính của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có không ít trường hợp người đăng ký thành lập doanh nghiệp
đã kê khai không đúng địa chỉ như: Ghi địa chỉ ở một nơi nhưng thực tế đặt trụ sở chính tại một nơi khác; lấy địa chỉ
nhà riêng của người khác hoàn toàn không liên quan đến doanh nghiệp làm địa chỉ trụ sở chính cho công ty mình hoặc
lấy địa chỉ nhà chung cư (có mục đích để ở) làm địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp. Chính điều này đã khiến các cơ
quan nhà nước (như cơ quan thuế, công an,…) khó liên hệ công tác và kiểm soát, sinh ra các hệ lụy “dở khóc dở cười”.
Bên cạnh đó, hiện tượng lấy địa chỉ nhà chung cư (có mục đích để ở) làm địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp là hành
vi vi phạm pháp luật về nhà ở. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật về nhà ở, nhà chung cư có hai loại: Loại để ở và loại
có mục đích sử dụng hỗn hợp - là vừa để ở và vừa kinh doanh. Tuy nhiên, tại khoản 11, Điều 6 Luật Nhà ở năm 2014 có
quy định nghiêm cấm việc “sử dụng căn hộ chung cư vào mục đích không phải để ở; sử dụng phần diện tích được kinh
doanh trong nhà chung cư theo dự án được phê duyệt vào mục đích kinh doanh vật liệu gây cháy, nổ, kinh doanh dịch
vụ gây ô nhiễm môi trường, tiếng ồn hoặc các hoạt động khác làm ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ gia đình, cá
nhân trong nhà chung cư theo quy định của Chính phủ”. Do đó, nhà chung cư có mục đích để ở không được phép sử
dụng làm địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do pháp luật doanh nghiệp hiện
hành trao cho người đăng ký toàn quyền kê khai địa chỉ mà thiếu xác minh đối chiếu. Tức là, thực hiện theo thủ tục
“tiền buông hậu kiểm”, đến khi có vấn đề xảy ra thì cơ quan chức năng rất khó có thể liên lạc được với doanh nghiệp.
Thứ hai, về sổ đăng ký thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Điều 49 LDN 2014: “Công ty phải lập sổ đăng ký thành viên ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Sổ đăng ký thành viên phải có các nội dung chủ yếu sau đây: 
a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty;
b) Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc
chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với thành viên là cá nhân; tên, số quyết định thành lập hoặc mã số doanh
nghiệp, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức; 
c) Phần vốn góp, giá trị vốn đã góp, thời điểm góp vốn, loại tài sản góp vốn, số lượng, giá trị của từng loại tài sản
góp vốn của từng thành viên; 
d) Chữ ký của thành viên là cá nhân hoặc của người đại diện theo pháp luật của thành viên là tổ chức; 
đ) Số và ngày cấp giấy chứng nhận phần vốn góp của từng thành viên.”
Theo đó, sổ đăng ký thành viên đóng vai trò là nơi lưu giữ các thông tin cần thiết liên quan đến cá nhân, tổ chức góp
vốn vào công ty và các thông tin liên quan đến phần vốn góp của họ. Nếu có biến động khi trong công ty có thành viên
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty hoặc công ty tiếp nhận thêm
thành viên mới để tăng vốn điều lệ thì thành viên mới đó chỉ trở thành thành viên chính thức của công ty khi công ty
hoàn tất xong thủ tục đăng ký thay đổi thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên (Điều 45 Nghị định số 78/2015
của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp).
Đối với công ty CP, khi có sự thay đổi về tư cách cổ đông trong công ty, họ không cần phải làm thủ tục đăng ký thay
đổi cổ đông tại phòng đăng ký kinh doanh nữa mà tư cách cổ đông đã được xác lập vào thời điểm khi bên bán được
thanh toán đủ và những thông tin về người mua quy định tại khoản 2, Điều 121 của Luật DN 2014 được ghi đầy đủ vào
sổ đăng ký cổ đông. Kể từ thời điểm đó, người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty. Quy định này giúp công ty
cổ phần giảm bớt được thủ tục thông báo thay đổi cổ đông đến cơ quan đăng kí kinh doanh, tiết kiệm được thời gian và
chi phí.
Do đó, việc bổ sung thêm vai trò của sổ đăng kí thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên để tiết giảm về thời
gian, chi phí cho loại hình công ty này cũng cần phải được tính đến.
Như vậy, Luật DN 2014 cần bổ sung quy định theo hướng khi trong công ty TNHH hai thành viên trở lên có thành
viên chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty hoặc công ty tiếp nhận
thêm thành viên mới để tăng vốn điều lệ thì thời điểm xác lập tư cách thành viên cho thành viên mới là thời điểm khi
bên bán được thanh toán đủ và những thông tin về người mua quy định tại khoản 1, Điều 49 của Luật DN 2014 được ghi
đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên. Với việc bổ sung quy định này, công ty TNHH hai thành viên trở lên sẽ giảm bớt
được thủ tục đăng ký thay đổi thành viên không cần thiết nhằm mục đích tiết kiệm giảm về thời gian, chi phí cho loại
hình công ty này cũng cần phải được tính đến.
Thứ ba, về con dấu của doanh nghiệp
Điều 44 Luật DN 2014: 
“1. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Nội dung con
dấu phải thể hiện những thông tin sau đây:
a)Tên doanh nghiệp;
b) Mã số doanh nghiệp.
2. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải
công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.”
(i) Thủ tục này khiến chỉ số gia nhập thị trường của Việt Nam bị đánh giá thấp so với nhiều quốc gia khác, xếp thứ
hạng 140/190 quốc gia. 
(ii) Con dấu cũng là thứ dễ làm giả hơn chữ kí (Nhiều doanh nghiệp làm giả con dấu, thậm chí làm giả cả con dấu
của cơ quan nhà nước để thực hiện các giao dịch bất hợp pháp). 
(iii) Trong xu thế sử dụng giao dịch điện tử ngày càng phổ biến trên thế giới như hiện nay, vai trò của con dấu trong
doanh nghiệp đang ngày càng mờ nhạt. Với sự phát triển của thời đại công nghiệp 4.0, đối với các trường hợp giao dịch
điện tử thì việc sử dụng chữ kí số cũng đã dần trở nên phổ biến và việc chứng minh giá trị về mặt pháp lý của nó không
còn khó khăn như trước đây, bởi Nhà nước đã ban hành nhiều quy định khẳng định giá trị pháp lý của chữ kí số.
Nhìn chung, Luật DN 2014 cần quy định lại điều 44 về con dấu của doanh nghiệp theo hướng tùy vào nhu cầu của
doanh nghiệp, cho phép mỗi một doanh nghiệp có quyền tự quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của con dấu trong
doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp quyết định vẫn giữ nguyên con dấu thì cần phải bỏ quy định về thủ tục
thông báo mẫu dấu cho cơ quan đăng kí kinh doanh vì không cần thiết. Đối với doanh nghiệp không có con dấu mà chỉ
sử dụng chữ kí của người đại diện theo pháp luật, để tránh bị giả mạo chữ kí, Luật DN 2014 cần có những quy định về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cần thực hiện thủ tục đăng kí chữ kí mẫu và chữ kí mẫu này phải được
lưu giữ tại doanh nghiệp và trong hồ sơ của doanh nghiệp tại cơ quan đăng kí kinh doanh (để đối chiếu nếu cần). Nếu là
chữ kí số thì cần tiến hành chứng thực theo quy định tại Nghị định số 130/2018 của Chính phủ về quy định chi tiết thi
hành luật giao dịch điện tử và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
Có thể thấy rằng, so với quy định về con dấu trước đây của LDN 2005, quy định này có hướng linh hoạt hơn.
Trong đó, cho phép doanh nghiệp được quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh
nghiệp nhằm phù hợp với nhu cầu sử dụng. Song trên thực tế, việc này lại nảy sinh hiện tượng nhầm lẫn con dấu
trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, con dấu cũng là thứ dễ làm giả hơn chữ ký. Trên thực tế, không hiếm có các trường
hợp làm giả con dấu, thậm chí làm giả cả con dấu của cơ quan nhà nước để thực hiện các giao dịch bất hợp pháp.
Ngoài ra, trong xu thế sử dụng giao dịch điện tử ngày càng phổ biến trên thế giới như hiện nay, vai trò của
con dấu trong doanh nghiệp đang ngày càng mờ nhạt. Với sự phát triển của thời đại công nghiệp 4.0, đối với các
trường hợp giao dịch điện tử thì việc sử dụng chữ ký số cũng đã dần trở nên phổ biến và việc chứng minh giá trị về
mặt pháp lý của nó không còn khó khăn như trước đây, bởi Nhà nước đã ban hành nhiều quy định khẳng định giá trị
pháp lý của chữ ký số.

Thứ tư, về trách nhiệm của Người đại diện theo pháp luật
Khoản 2 Điều 13 Luật DN 2014 có quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, như sau: “Công ty
TNHH và công ty CP có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng,
chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.”
Công ty có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp bất lợi. Đồng thời gây khó khăn và rủi ro rất lớn
cho đối tác giao dịch với công ty, vì không phải lúc nào cũng tiếp cận được Điều lệ và không bảo đảm việc xác định
được chính xác nội dung phân quyền cũng như bản Điều lệ nào có hiệu lực thật sự.
 Đề nghị xem xét quy định theo hướng: Công ty hợp danh có nhiều người đại diện theo pháp luật; Công ty TNHH và
công ty CP có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Trong trường hợp này, người đại diện theo pháp luật
có quyền, nghĩa vụ như nhau và Điều lệ công ty phải quy định cụ thể số lượng và chức danh quản lý của các đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp và phải đăng ký với Cơ quan đăng ký doanh nghiệp.
Luật DN 2014 có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 với nhiều quy định mới nhằm góp phần trong việc tạo dựng 1 hành lang
pháp lý an toàn, thông thoáng đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu
tư, kinh doanh ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, sau gần 5 năm thi hành, LDN 2014 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế và còn những quy định chưa phù
hợp, chưa phát huy được hiệu quả trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của
doanh nghiệp. Những bất cập, hạn chế này gây khó khăn cho bản thân doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước có liên quan, đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
Thứ nhất, quy định về xác định người có liên quan không bao quát tất cả các đối tượng cần kiểm soát nhằm
ngăn ngừa các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong doanh nghiệp.

Các giao dịch có nguy cơ tư lợi trong doanh nghiệp là các giao dịch do những người quản lý, thành viên, cổ đông lớn
trong công ty nhân danh công ty thiết lập các giao dịch mang lại lợi ích cá nhân, chứ không phải lợi ích cho công ty mà
họ đại diện. Để ngăn ngừa các giao dịch tư lợi đó, Luật doanh nghiệp năm 2014 đã quy định các giao dịch cần phải được
kiểm soát trước khi giao kết và thực hiện, trong đó có giao dịch giữa công ty với người có liên quan của chủ sở hữu
công ty; người có liên quan của người quản lý công ty; người có liên quan của người quản lý công ty mẹ, người có thẩm
quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 67, điểm d khoản 1 điều 86, điều 162.

Theo khoản 17 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014, Người có liên quan là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp với doanh nghiệp, trong đó có trường hợp tại điểm đ là: vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty hoặc của thành viên,
cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối.

Quy định theo hướng liệt kê như trên sẽ dẫn đến việc bỏ sót các trường hợp có mối quan hệ liên quan khác không bị
kiểm soát. 

Ví dụ: giao dịch giữa anh vợ, em vợ của người quản lý công ty với công ty. Giao dịch giữa anh rể/em rể với công ty
có mối quan hệ gần gũi tương tự như giao dịch giữa anh vợ/em vợ với công ty nhưng giao dịch sau lại không bị kiểm
soát.

Thứ hai, các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 có sự khác nhau khi quy định về việc cán bộ, công
chức có quyền được góp vốn hay không được góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

Khoản 18 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014 giải thích về người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và
người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành
viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của
công ty theo quy định tại Điều lệ công ty.

Điều 56 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên gồm tất cả các thành viên công ty, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
Điểm b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 18 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định cán bộ, công chức không được
thành lập, quản lý doanh nghiệp nhưng vẫn có quyền góp vốn vào doanh nghiệp, trừ trường hợp không được góp vốn
theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Theo khoản 3 Điều 37 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005,
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được góp vốn vào doanh nghiệp mà người đó trực tiếp
thực hiện việc quản lý nhà nước.

Như vậy, với quy định tại Điều 18 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì cán bộ, công chức vẫn có quyền góp vốn vào
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Tuy nhiên, khi đối chiếu với khoản 18 Điều 4, Điều 56 Luật doanh
nghiệp năm 2014 thì cán bộ, công chức không thể trở thành thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên; vì khi là thành viên thì họ có quyền tham gia Hội đồng thành viên và là người quản lý công ty. Đây chính là các quy
định khác nhau của Luật doanh nghiệp năm 2014 về việc cán bộ, công chức có thể trở thành thành viên góp vốn của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không?

Thứ ba, Luật Doanh nghiệp năm 2014 phải thống nhất quy định về trách nhiệm tài sản của thành viên góp
vốn trong công ty hợp danh

Theo điểm c khoản 1 Điều 172, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi
số vốn đã góp vào công ty. 

Tuy nhiên, tại điểm a khoản 2 Điều 182 lại có quy định theo đó thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp.

Như vậy, thành viên góp vốn sẽ phải chịu trách nhiệm tài sản theo quy định tại Điều 172 hay Điều 182 Luật Doanh
nghiệp năm 2014? Đặc biệt, quy định mâu thuẫn trên đã tồn tại từ Luật Doanh nghiệp năm 2005 đến nay vẫn chưa được
khắc phục.

Thứ tư: Luật DN năm 2014 chưa quy định về việc xác định lại tỷ lệ phần vốn góp của thành viên sau khi đã xử
lý hậu quả của việc định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế của tài sản góp vốn

Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về trách nhiệm khi định giá sai tài sản góp vốn cao hơn so với giá trị
thực tế tại thời điểm góp vốn. 

Theo khoản 2, tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, nếu định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các
thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới phải góp thêm bằng chênh lệch giữa giá trị định giá và giá trị thực tế của tài
sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản
góp vốn cao hơn giá trị thực tế.

Theo khoản 3, trong quá trình hoạt động nếu định giá cao hơn giá trị thực tế thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành
viên hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành viên hội đồng quản trị đối với
công ty cổ phần cùng liên đới phải góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản
góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá
tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.

Quy định tại Điều 37 trên chỉ hướng dẫn việc “bù đắp” giá trị tài sản còn thiếu so với giá trị tài sản được định giá và
trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong việc định giá tài sản góp vốn mà chưa quy định về tỷ lệ phần vốn góp
của từng thành viên sau khi “bù đắp” phần chênh lệch. Tỷ lệ phần vốn góp của từng thành viên sẽ ảnh hưởng đến việc
chia lợi nhuận, tỷ lệ phiếu biểu quyết và trách nhiệm tài sản về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của công ty.

Thứ năm, Luật Doanh nghiệp 2014 phải đưa ra nguyên tắc hoặc định hướng cụ thể bắt buộc điều lệ công ty
phải xác định phạm vi thẩm quyền đại diện trong trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp luật của công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần

Theo khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một
hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh người quản lý và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trong trường hợp điều lệ công ty không phân công phạm vi đại diện của từng đại diện theo pháp luật của
công ty thì bất kỳ người đại diện theo pháp luật nào cũng có thể quyết định tất cả các giao dịch nhân danh công ty
không? Các giao dịch đó có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba không?
Việc không có quy định rõ ràng về phạm vi đại diện theo pháp luật trong điều lệ công ty sẽ có nguy cơ phát sinh
tranh chấp giữa công ty và các đối tác. Công ty có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp bất lợi, đồng
thời gây khó khăn và rủi ro rất lớn cho đối tác giao dịch với công ty. 

Thứ sáu, việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần

Khoản 1 Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về chuyển nhượng cổ phần, như sau: “Cổ phần được tự
do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn chế
chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định
này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.”

Trong khi đó, tại khoản 1 Điều 120 về cổ phiếu của Luật này, quy định: “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần
phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.”.  

Vì vậy, quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng thì chỉ phù
hợp với trường hợp cổ phiếu là chứng chỉ, không phù hợp với trường hợp là bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Do
vậy, quy định này có thể dẫn đến việc gây rủi ro lớn cho người nhận chuyển nhượng, vì không thể biết được cổ phần có
bị hạn chế chuyển nhượng hay không. Do cổ phần được tự do chuyển nhượng, nên sau khi giao dịch xong, khi tiến hành
làm thủ tục đăng ký vào sổ cổ đông thì mới biết bị hạn chế chuyển nhượng. 

Thứ bảy, về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp

Từ Điều 20 đến Điều 23 Luật Doanh nghiệp năm 2014, đối với từng loại hình doanh nghiệp, khi đăng ký thành lập sẽ
được yêu cầu chi tiết thành phần hồ sơ. Ngày 14/9/2015 Chính phủ ban hành Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký
doanh nghiệp, mà theo đó, tại khoản 2 Điều 9 của Nghị định này, có quy định: “Cơ quan đăng ký kinh doanh không
được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp nộp thêm hồ sơ hoặc giấy tờ khác ngoài các giấy tờ
trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo quy định”. Tuy nhiên, theo Công  văn số 2544/BXD-QLN ngày 19/11/2009 của
Bộ Xây dựng gửi đến các Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, thành phố
Đà Nẵng, tỉnh Nghệ An và tỉnh Thanh Hóa về việc thực hiện các quy định về quản lý nhà chung cư, khi đăng ký trụ sở
công ty tại một căn hộ nằm trong cao ốc phức hợp để ở và thương mại, Sở Kế hoạch Đầu tư buộc nhà đầu tư phải chứng
minh quyền được dùng căn hộ để làm trụ sở công ty. Yêu cầu này được hiểu là căn cứ vào Công văn trên của Bộ Xây
dựng không cho phép sử dụng nhà chung cư làm văn phòng công ty. Như vậy, Sở Kế hoạch Đầu tư có quyền yêu cầu
nhà đầu tư nộp hồ sơ chứng minh quyền được đặt trụ sở công ty tại căn hộ đã thuê không?

Tương tự, đối với một số ngành nghề kinh doanh, khi đăng ký thành lập doanh nghiệp thì cần có giấy phép cho phép
thành lập trước của các bộ chuyên ngành. Ví dụ lĩnh vực sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn cấp hay lĩnh vực thuốc chữa bệnh cho người do Bộ Y tế cấp; … 

Vậy Sở Kế hoạch Đầu tư có được quyền yêu cầu nhà đầu tư cung cấp các giấy phép này ngoài thành phần hồ sơ đã
ấn định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 không? Rõ ràng, nếu yêu cầu nộp thêm, Sở Kế hoạch Đầu tư đã vi phạm
quy định của khoản 2 Điều 9 Nghị định 78/2015/NĐ-CP. Còn nếu không yêu cầu thì Sở Kế hoạch Đầu tư lại vi phạm
các quy định của luật chuyên ngành khác?

Thứ tám, về nội dung đăng ký doanh nghiệp

Điểm b khoản 1 Điều 32 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi về một số nội dung, trong
đó có việc:“Thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần”. 

Mặt khác, Điểm b khoản 1 Điều 33 Luật này lại quy định sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải công bố các thông tin, trong đó có “Danh sách cổ đông sáng lập”.

Tuy nhiên, thông tin về “Danh sách cổ đông sáng lập” không có trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng
như Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Vì vậy yêu cầu phải thông báo khi có thay đổi và phải công bố thông tin là
không hợp lý.

Như vậy, bên cạnh những mặt tích cực, Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa thực sự
phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, phần nào gây khó khăn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, Luật
Doanh nghiệp 2014 cần thiết phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu hướng hiện hành để tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2020 thực sự cần thiết, cấp bách. Việc sửa đổi, bổ sung
luật dựa trên nguyên tắc tiếp tục kế thừa, phát huy kết quả và tác động tốt của các cải cách trong các Luật Doanh nghiệp
2000, 2005 và 2014 trong hiện thực hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc DN được quyền kinh doanh tất
cả ngành nghề mà pháp luật không cấm. 

Một là, về việc đăng ký kinh doanh:


Tại Điều 3 LDN 2014 có quy định về Áp dụng LDN và các luật chuyên ngành, mà theo đó: “Trường hợp luật
chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của
doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó”. Nhưng hiện nay, các hoạt động như luật sư, công chứng, giám định,
trọng tài thương mại cũng đã được LĐT 2014 quy định rõ là lĩnh vực đầu tư, thương mại. Tại Cơ quan đăng ký thương
mại, nhưng chỉ theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 để cấp giấy phép và đăng ký kinh doanh riêng; Luật Công
chứng năm 2006; Luật Giám định tư pháp 2012, Luật Trọng tài thương mại 2010;... Do đó, nhiều tổ chức hành nghề,
chẳng hạn như các công ty luật và các pháp nhân khác hoạt động như các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoàn toàn không có
thông tin về “Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và thương mại” quy định tại khoản 6 Điều 4 LDN 2014.
Tương tự, việc đăng ký kinh doanh của các ngân hàng thương mại và công ty tài chính cũng giống như các
doanh nghiệp khác, còn công ty bảo hiểm, với tư cách là doanh nghiệp điển hình, không thực hiện thủ tục này. Vì theo
Điều 65 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 “Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh”. Do đó, nên xem xét quy định này của LDN 2014 hay LĐT 2014 yêu cầu thống nhất đăng ký kinh doanh
tập trung đối với tất cả các công ty và pháp nhân có hoạt động kinh doanh.
Năm là, về cơ cấu tổ chức CTCP:
 Theo quy định tại điểm b, khoản 1, điều 134 LDN 2014, CTCP có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động
theo một mô hình: “Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất
20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản
trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành
công ty”.
Trong mô hình tổ chức này, có sự xuất hiện của Ban kiểm toán nội bộ. Ban này có chức năng “giám sát và tổ
chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty”. Tức là, Ban kiểm toán nội bộ phải là thuộc Đại hội
đồng cổ đông, có quyền kiểm soát đối với việc quản lý, điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và các cấp quản lý điều hành khác trong công ty. Tuy nhiên, quy định tại điểm b, khoản 1, điều 134 LDN 2014
quy định Ban kiểm toán nội bộ phải trực thuộc Hội đồng quản trị, tức là ban này do Hội đồng quản trị lập ra và thực
hiện nhiệm vụ được Hội đồng quản trị giao phó. Điều này khiến cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm soát của Ban đối với
hoạt động của Hội đồng quản trị gặp rất nhiều khó khăn.
Không những vậy, LDN 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không có bất cứ quy định nào về cơ cấu
tổ chức quản lý của Ban kiểm toán nội bộ, trách nhiệm của Ban kiểm toán nội bộ, điều kiện, tiêu chuẩn thành viên và
Trưởng Ban kiểm toán nội bộ, các chế độ về lương lẫn các quyền lợi của thành viên Ban kiểm toán nội bộ, việc bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên và Trưởng Ban kiểm toán nội bộ;… Điều này khiến các CTCP gặp nhiều khó khăn
khi muốn áp dụng mô hình vào cơ cấu tổ chức quản lý công ty.
Sáu là, về vấn đề họp hội đồng quản trị CTCP:
Theo quy định tại khoản 8, Điều 153 LDN 2014, cuộc họp Hội đồng quản trị chỉ được tiến hành khi có từ 3/4
tổng số thành viên dự họp (đối với lần triệu tập thứ nhất) và khi có hơn 1/2 thành viên Hội đồng quản trị dự họp (đối với
lần triệu tập họp thứ 2 sau lần thứ nhất). Tuy nhiên trên thực tế, sẽ có không ít trường hợp người có thẩm quyền triệu tập
cuộc họp Hội đồng quản trị đã gửi thông báo mời họp hợp lệ đến các thành viên 2 lần nhưng vẫn không tiến hành họp
được do không đủ số lượng, làm ảnh hưởng đến quá trình điều hành hoạt động của công ty. Chính vì vậy, cần thiết phải
có giải pháp về mặt pháp luật để giúp doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc này.

Hai là, việc báo cáo nội dung thay đổi, Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về Báo cáo thay đổi thông tin
của người quản lý doanh nghiệp, như sau: “Doanh nghiệp phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp
có trụ sở chính trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có thay đổi thông tin về họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số Thẻ căn
cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của những người sau đây:

1) Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần;

2) Thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên;

3) Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;

Ba là, về trách nhiệm của Người đại diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, như sau: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có
một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.”
Như vậy, công ty có thể tìm cách trốn tránh trách nhiệm trong các trường hợp bất lợi. Đồng thời gây khó khăn và rủi ro
rất lớn cho đối tác giao dịch với công ty, vì không phải lúc nào cũng tiếp cận được Điều lệ và không bảo đảm việc xác
định được chính xác nội dung phân quyền cũng như bản Điều lệ nào có hiệu lực thật sự.

3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2020
Thực tế cho thấy Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những tác động tích cực trong tạo lập
môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh
nghiệp; góp phần duy trì tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực, một số nội dung của Luật Doanh nghiệp không còn phù hợp trong hoàn cảnh
mới, tạo gánh nặng chi phí, thời gian cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ; một số nội dung cần được sửa đổi để phù
hợp với các luật mới ban hành gần đây. Quan trọng hơn, một số nội dung của Luật cần được hoàn thiện thêm nhằm nâng
cao chất lượng môi trường kinh doanh theo yêu cầu của Chính phủ và nâng cao chất lượng tổ chức quản trị doanh
nghiệp đạt chuẩn mực của thông lệ tốt khu vực và quốc tế. Các khiếm khuyết cần khắc phục và các nội dung cần nâng
cao chất lượng hơn nữa bao gồm như sau:
Về thành lập doanh nghiệp, quá trình khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường hiện đang xếp hạng ở mức thấp so
với một số quốc gia trong khu vực và thế giới, bao gồm 8 thủ tục và tổng thời gian thực hiện khoảng 17 ngày. Trong đó,
một số thủ tục hành chính theo quy định của Luật Doanh nghiệp không còn cần thiết, tạo ra gánh nặng chi phí như: thủ
tục thông báo mẫu dấu (Điều 44) hoặc thủ tục đăng ký kinh doanh (Điều 27) chưa hoàn toàn điện tử (vẫn phải nộp hồ sơ
giấy) đã góp phần làm chậm quá trình gia nhập thị trường.
Một số quy định của Luật về quản trị doanh nghiệp chưa thực sự tạo thuận lợi cho cổ đông, nhà đầu tư thực hiện
quyền của mình; ngược lại, tạo thêm rào cản hoặc bị cổ đông lớn và công ty lạm dụng, gây tổn hại đến lợi ích của cổ
đông nhỏ. Cụ thể, Luật quy định một số yêu cầu, điều kiện gây khó khăn cho cổ đông tiếp cận thông tin về hoạt động
công ty và thực hiện quyền quan trọng, như: triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông, khởi kiện người quản lý công ty trong
trường hợp họ lạm dụng địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho công ty, cổ đông,... Ngoài ra, một số quy định khác của Luật
về quản trị doanh nghiệp cũng chưa phù hợp với thực tiễn, như yêu cầu kiểm soát viên công ty cổ phần do Nhà nước
nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên đã có chứng chỉ hành nghề là yêu cầu cao hơn so
với thực tế do số lượng kiểm toán viên, kế toán viên đã có chứng chỉ này là không nhiều.
Bên cạnh đó, quy định về tổ chức lại doanh nghiệp còn có một số bất cập, hạn chế, như: quy định về chia doanh
nghiệp và tách doanh nghiệp không bao quát được hết các phương thức, các trường hợp chia, tách doanh nghiệp trên
thực tế; dẫn đến hạn chế quyền, lựa chọn của doanh nghiệp trong tổ chức lại doanh nghiệp. Đồng thời, các quy định về
hợp nhất, sáp nhập không còn tương thích với quy định mới của Luật Cạnh tranh năm 2018.
Xét về tổ chức quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước. Cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ ở nước
ta: doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp
luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, Nghị quyết số
97/NQ-CP ngày 2/10/2017 của Chính phủ cũng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu để quy định tại Luật Doanh
nghiệp về nội dung này.
Về đăng ký và tổ chức hoạt động của hộ kinh doanh: Hộ kinh doanh hiện nay được đăng ký và tổ chức hoạt động
theo Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, hướng dẫn thi hành khoản 2, Điều 212 Luật Doanh nghiệp
2014. Tuy nhiên, đánh giá các quy định này đã cho thấy một số khiếm khuyết như: hộ kinh doanh không rõ ràng về địa
vị pháp lý và trách nhiệm dân sự; quyền kinh doanh bị giới hạn trong phạm cấp quận, huyện; chỉ được sử dụng dưới 10
lao động. Chính hạn chế pháp lý này dẫn đến hộ kinh doanh không tận dụng và phát huy tối đa cơ hội kinh doanh; do
đó, không phát huy hết được lợi ích và tiềm năng phát triển khu vực hộ kinh doanh.
Từ những phân tích nêu trên về bất cập, khiếm khuyết của Luật, thay đổi của pháp luật có liên quan, thay đổi kinh tế
xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu chủ động cải cách mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng môi
trường kinh doanh của nước ta, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Doanh
nghiệp.
4. Tổng quan luật doanh nghiệp 2020
Luật doanh nghiệp 2020, số 59/2020/QH14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ
họp thứ 9 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Đạo luật này gồm 10 chương, 218
điều
Chương I: Những quy định chung
Chương II: Thành lập doanh nghiệp
Chương III: Công ty trách nhiệm hữu hạn
Chương IV: Doanh nghiệp nhà nước
Chương V: Công ty cổ phần
Chương VI: Công ty hợp danh
Chương VII: Doanh nghiệp tư nhân
Chương VIII: Nhóm công ty
Chương IX:  Tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp
Chương X: Tổ chức thực hiện
Được biên soạn dựa trên Hiến pháp 2013 và Luật doanh nghiệp 2014, Luật doanh nghiệp 2020 quy định về việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của 6 loại hình doanh nghiệp doanh nghiệp.
Đạo luật này đã tiếp tục hoàn thiện Luật doanh nghiệp ở Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn lãnh
thổ; sửa đổi, bổ sung những thiếu sót, lạc hậu ở luật doanh nghiệp 2014 được đề cập cụ thể ở mục 3 chương II của bài
tập lớn.

III.  Kết luận


LDN năm 2014 được Quốc hội thông qua là sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới rất trọng yếu liên quan đến
doanh nghiệp, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số doanh nghiệp và có một số kết quả đáng kể khi đã tăng số
lượng thành lập DN và số vốn bình quân đều tăng hơn so với giai đoạn trước, ...(đọc phần thành tựu). Tuy nhiên, sau
gần 5 năm thi hành LDN 2014 đã bộc lộ một số khiếm khuyết, gây tốn kém cả về thời gian, chi phí và cản trở hoạt động
của DN như quy định về con dấu hay quy định về thành lập doanh nghiệp, chủ thể bị cấm thành lập và quản lý DN tại
Việt Nam không còn phù hợp, quy định trong việc góp vốn chưa rõ ràng, bất cập trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối
với các loại hình doanh nghiệp và trong quy định về con dấu của doanh nghiệp. Từ những bất cập đó, chúng ta có thể dễ
dàng nhận thấy sự khó khăn cho các cơ quan thực thi và áp dụng pháp luật ... Do đó, cần thiết phải có những sự thay
đổi, bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn cũng như một số luật hiện hành. Luật Doanh nghiệp 2020 có những sửa đổi
tích cực, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp 2014 giúp các doanh nghiệp có thể tận dụng thành
công những quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 để tạo ra những đột phá mới, góp phần cải cách thể chế kinh tế, nâng
cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài
nhằm duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ CÔNG TY
TNHH VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
Dựa trên những thay đổi tích cực, nhanh chóng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, pháp luật
Việt Nam đã chính thức thông qua Luật D 2020 thay thế cho LDN 2014 để cụ thể hóa Hiến pháp, bảo vệ tốt hơn quyền
lợi, mở rộng quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư nước ngoài, thiết lập một số nguyên tắc hoạt
động, tháo gỡ những thủ tục hành chính không còn phù hợp, cần thiết với nền kinh tế số hiện nay.
Những điểm tiến bộ ấy không thể không nhắc đến quy chế pháp lý về công ty TNHH. Một loại hình công ty được
đánh giá là có nhiều ưu việt và được ưa chuộng bởi bản chất pháp lý của nó. Việc thừa nhận loại hình công ty TNHH
trong hệ thống pháp luật Việt Nam trải qua những giai đoạn lịch sử khá lâu dài. Trên cơ sở nền tảng LDN 2014, LDN
2020 đã kế thừa và hoàn thiện nhiều điểm bất cập trong quy định tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thành lập,
phát triển.
Trong chương này, nhóm tác giả trình bày (1) những điểm mới về Chương I “Những quy định chung”, (2) những
điểm mới về Chương II “Thành lập doanh nghiệp” và (3) những điểm mới về Chương III “Công ty trách nhiệm hữu
hạn”.
I. Những điểm mới về “Những quy định chung”
1. Về các giải thích từ ngữ
a. Cá nhân nước ngoài
Điều 4 LDN 2014 giải thích cá nhân nước ngoài “là người không có quốc tịch Việt Nam”, trong khi khái niệm này
đã được giải thích khác tại khoản 2 Điều 4 LDN 2020 là “Cá nhân nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc
tịch nước ngoài”. Điều này được cho là định nghĩa chính xác hơn về cá nhân nước ngoài khi đã loại bỏ một phần người
không có quốc tịch: công dân đã từng mang quốc tịch Việt Nam, đã thôi quốc tịch Việt Nam và chưa được xác nhận đã
thay đổi sang quốc tịch khác. Điển hình là những cô dâu đã từng là công dân Việt Nam trước khi kết hôn với người Đài
Loan. Từ năm 2006, hiện tượng cô dâu Việt Nam kết hôn với người Đài Loan tăng và vẫn tiếp tục cho đến nay. Trong
chính sách nhập cư của Đài Loan, nếu tài liệu được cung cấp trước khi cấp quyền công dân, thì trong khoảng thời gian
từ lúc từ bỏ/ hủy bỏ quyền công dân trước đó đến lúc được nhập tịch, người nộp đơn sẽ ở tình trạng không quốc tịch.
Điều này dẫn đến việc họ trở thành những người lưu vong, không có quốc tịch.
b. Doanh nghiệp nhà nước
Khoản 8, Điều 4 của LDN 2014 quy định DNNN là “doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Mở
rộng hơn so với 2014, điều 88 LDN 2020 quy định thêm hai điểm mới về doanh nghiệp nhà nước như sau: “ là công ty
trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần” và “có thể là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ
hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên”. Sự thay đổi này tạo đà cho xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước được kỳ vọng mang đến nhiều tích cực, đặc biệt trong công tác huy động vốn. Với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế Việt Nam, thuộc hàng tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, các doanh nghiệp trong nước thu hút nhiều
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài rót vốn. Trong đó, nguồn vốn FDI lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được góp
phần cổ phần hoá trong doanh nghiệp nhà nước, tạo đà phát triển bền vững cho doanh nghiệp khi được góp vốn bởi ba
đối tượng: nhà nước, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Song, trong thực tiễn, bên cạnh những tích cực và
hoạt động huy động vốn điều lệ, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã thay đổi liên tục, không đảm bảo tính nhất quán,
tác động đến cách thức quản lý của các doanh nghiệp, tạo ra sự khác biệt trong cách thức quản lý với các doanh nghiệp
khác.
c. Người có liên quan
Khoản 17, Điều 4 LDN 2014 quy định khái niệm người có liên quan là “tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp với doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây”. Cụ thể: (ĐỌC LUẬT)
So sánh với LDN 2014, khoản 23 điều 4 LDN 2020 có một số điểm mới về khái niệm người có liên quan như sau:
(i) Người có liên quan có thể là người đại diện pháp lý của công ty mẹ:
Việc bổ sung thêm người đại diện pháp lý của công ty mẹ là một thành phần thuộc người có liên quan cho thấy sự
mở rộng về đối tượng có liên quan đại diện cho công ty mẹ trước pháp luật. Người đại diện pháp luật của công ty mẹ có
thể đang ở nước ngoài, nhưng nếu đáp ứng đầy đủ yêu cầu của một đại diện pháp lý của công ty mẹ, họ vẫn có thể thay
mặt cty mẹ thực hiện quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, điều kiện này cho phép công ty mẹ
tự quyết định số người thay mặt tổ chức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trước pháp luật, với
điều kiện phải có ít nhất 1 người đại diện theo pháp luật ở trong nước. Việc đa dạng vấn đề uỷ quyền và đại diện pháp lý
cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho những tập đoàn lớn như Samsung, Toyota hay Unilever vượt qua rào cản pháp lý,
sẵn sàng chi tiền và hoạt động doanh nghiệp tại VN khi công ty ở nước ngoài và có chi nhánh (công ty con) tại Việt
Nam. 
(ii) Thay đổi quyền chi phối, đưa ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp từ thông qua cơ quan quản lý doanh
nghiệp sang thông qua sở hữu, thâu tóm cổ phần, phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của công ty:
Sự thay đổi này được cho là trao thêm quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong hoạt động liên quan đến quyền sở hữu
và vốn góp của doanh nghiệp, thay vì phải thông qua cơ quan quản lý doanh nghiệp như LDN 2014, tạo sự tinh gọn
trong mọi thủ tục hoạt động của doanh  nghiệp. Đã từng có khi mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự chi
phối của các cơ quan quản lý như Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hay thậm chí Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh.
Tuy doanh nghiệp đã có phần tự chủ hơn thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nhưng vẫn có sự “dựa vào” các bộ, ngành,
chính quyền, vô tình làm tăng thêm những vấn đề cần đề cập: thủ tục xin phép rườm rà, số lượng giấy tờ xin phép cần
chuẩn bị nhiều,… Việc giảm thiểu các thủ tục bằng cách trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp chính là nhằm giải quyết
vấn đề này.
(iii) Bổ sung đối tượng con rể và con dâu là người có liên quan
(iv) Bỏ nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi
phối việc ra quyết định của công ty:
Việc bỏ đi đối tượng là người có liên quan trong LDN 2014 này nhằm loại trừ những tiêu cực trong việc sở hữu vốn
góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty của một số nhóm người. Đa phần vì trục lợi cá nhân, trước 2020, một số nhóm
người có hành vi cùng thỏa thuận để thay mặt đại diện cho doanh nghiệp về mặt pháp lý, thâu tóm vốn góp, cổ phần và
lợi ích của công ty. Loại bỏ đối tượng này khỏi khái niệm người có liên quan được cho là nhằm đảm bảo hoạt động của
doanh nghiệp được bền vững.
(v) Thêm và bãi bỏ trường hợp được cử người khác làm người đại diện theo pháp luật:
(vi) Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện hoặc giáo dục bắt buộc:
Từ LDN 2020, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện hoặc giáo dục bắt buộc không
thể cử người khác làm người đại diện theo pháp luật. Đây là sự thay đổi tất yếu khi Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày
15/5/2018 của Chính phủ ghi nhận các chất ma tuý và tiền ma tuý là “chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng …, gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử
dụng”. Việc sử dụng chất gây nghiện có thể làm hạn chế năng lực hành vi dân sự, thậm chí có nhiều tranh cãi bỏ quyền
được công nhận là pháp nhân đối với đối tượng này, nên họ không được cử người khác làm người đại diện theo pháp
luật trong hoạt động của doanh nghiệp. 
Nếu giám đốc doanh nghiệp X đang trong thời gian cai nghiện tại trại cai nghiện, từ 2020, anh ta không được uỷ
quyền/ cử người khác làm người đại diện theo pháp luật thay cho anh ta và thực hiện quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
đó. Bản thân anh ta cũng không được xem là pháp nhân (không đủ tư cách tham gia vào các mối quan hệ xã hội) theo
Bộ luật Dân sự 2015.
(vii) Người bị Toà án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định:
Tương tự đối tượng đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện hoặc giáo dục bắt buộc, người bị
Toà án cấm tương đương với việc “tạm thời” bị giới hạn về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Và tất nhiên, họ không thể tham
gia hoạt động của doanh nghiệp và được cử người khác làm người đại diện theo pháp luật.
2. Về báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp
Điều 12 LDN 2014 quy định doanh nghiệp phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở
chính trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có thay đổi thông tin về họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số Thẻ căn cước
công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của những người sau đây:
(i) Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần;
(ii) Thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên;
(iii) Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Còn LDN 2020 đã bãi bỏ quy định này. 
Ví dụ: Công ty cổ phần X tại Hà Nội có ông A là Giám đốc. Ngày 24/07/2017, ông X thay đổi chứng minh nhân dân
9 số thành căn cước công dân 12 số. Theo điều 12 LDN 2014 quy định, ông A phải báo cáo Cơ quan đăng ký kinh
doanh ở Hà Nội về việc thay đổi thẻ căn cước công dân. Cụ thể, trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày có thay đổi thông tin
về chứng minh nhân dân ông A phải làm thủ tục thông báo. Ngày 09/03/2021, ông B, là thành viên của Hội đồng quản
trị của công ty X, thay đổi địa chỉ liên lạc, lúc này, theo LDN 2020, ông B không phải báo cáo với Cơ quan đăng ký
kinh doanh nữa. 
Vì vậy, việc bãi bỏ quy định này sẽ phần nào giúp DN giảm bớt những chi phí, thủ tục hành chính không cần thiết.
3. Về trường hợp được cử người khác làm người đại diện theo pháp luật
Thứ nhất, theo khoản 1, Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
“Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật, người do Tòa
án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án”.
Theo Luật DN 2020, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện
các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu
giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước trọng tài, Tòa án và các quyền,
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 12). Như vậy, Luật DN 2020 đã bổ sung cụm từ “người yêu
cầu giải quyết việc dân sự”, do đó, người đại diện theo pháp luật sẽ có thêm vai trò đại diện cho doanh nghiệp yêu cầu
giải quyết việc dân sự. Quy định này đã phù hợp, đồng bộ với quy định về vai trò người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp khi tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, về số lượng người đại diện cũng như quyền và nghĩa vụ của người đại diện của doanh nghiệp: Khoản 2,
Điều 12 Luật DN 2020 quy định, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại
diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, thì điều lệ công ty quy
định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của
từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong điều lệ công ty, thì mỗi người đại diện theo pháp luật
của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật dân sự và quy định của
pháp luật có liên quan.
Như vậy, điểm mới này của Luật DN 2020 đã bảo đảm tính minh bạch trong việc xác định trách nhiệm liên đới đối
với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ngay cả khi quyền và nghĩa vụ
của từng người đại diện theo pháp luật chưa được điều lệ công ty quy định rõ.
Thứ ba, về việc cử người đại diện theo pháp luật: Khoản 5 Điều 12 Luật DN 2020 quy định, đối với doanh nghiệp
chỉ còn một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không có ủy quyền cho
người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hoặc chết, mất tích,
đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành
chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì
chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công
ty.
Như vậy, so với Luật DN 2014, Luật DN 2020 đã bỏ trường hợp cử người đại diện đối với người đại diện theo pháp
luật bị kết án tù, đồng thời, bổ sung các trường hợp cử người đại diện khi người đại diện theo pháp luật đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Việc thay đổi, bổ sung
các nội dung nói trên bảo đảm bao quát được các trường hợp cần cử người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tạo
cơ sở pháp lý rõ ràng cho chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị doanh nghiệp trong áp dụng pháp luật.
Thứ tư, về trường hợp đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật: Khoản 6 Điều 12 Luật DN 2020 quy định, đối
với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của
công ty chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành
biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết
định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty. So với Luật DN 2014, Luật DN 2020 đã
bỏ hai trường hợp là một trong hai thành viên của công ty bị kết án tù và bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác. Đồng thời, Luật DN 2020 cũng
bổ sung các trường hợp thành viên còn lại của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên đương nhiên làm người đại
diện theo pháp luật của công ty nếu một trong hai thành viên rơi vào các trường hợp như quy định tại khoản 6 Điều 12.
Các nội dung sửa đổi này đã khắc phục được hạn chế liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại
Luật DN 2014, tránh được các rủi ro pháp lý cho các bên trong quan hệ giao dịch.
4. Về quy định về đối tượng không được thành lập, quản lý doanh nghiệp
Ở khoản 2 Điều 18 Luật DN 2014 có quy định 6 tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập và quản lý DN tại VN:
(ĐỌC LUẬT)
Đến LDN 2020 đã bổ sung thêm nhiều đối tượng không được phép thành lập, quản lý doanh nghiệp:
(i) Tại Điểm c Khoản 2 Điều 17, Luật 2020 bổ sung thêm “công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp”;  
(ii) Ngoài những người bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự, Luật 2020 quy định thêm “người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi cũng không có quyền thành lập và quản lý DN tại VN” (Điểm đ Khoản 2 Điều 17); 
(iii) Một đối tượng bị cấm khác được bổ sung là “tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt
động trong một số lĩnh vực của Bộ luật Hình sự” (Điểm g Khoản 2 Điều 17).  
Như vậy, từ ngày 01/01/2021 sẽ có 07 nhóm đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp. 
Có thể thấy LDN 2020 đã quy định chặt chẽ hơn các đối tượng có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt
Nam, đồng thời để tạo sự nhất quán giữa Luật Doanh nghiệp mới với Bộ luật Dân sự hiện hành và Bộ luật Hình sự. Luật
Doanh nghiệp mới cũng nêu rõ rằng người quản lý và người quản lý nghiệp vụ của các doanh nghiệp Nhà nước chỉ bị
cấm thành lập và quản lý một doanh nghiệp khác trong trường hợp là doanh nghiệp Nhà nước. Việc sửa đổi này được
thực hiện song song với việc sửa đổi định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp mới. 
II. Những điểm mới về quyền và nghĩa vụ của DN khi thành lập doanh nghiệp
a. Điểm mới về quyền của doanh nghiệp
LDN 2020 được ban hành với một số điểm mới sau về quyền của doanh nghiệp:
(i) Quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động:
LDN 2020 đã hoàn thiện hơn điều khoản về quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động của doanh nghiệp.
Cụ thể, nếu theo Khoản 6, Điều 7 LDN 2014, doanh nghiệp có quyền: “Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo
yêu cầu kinh doanh” thì Khoản 6, Điều 7 LDN 2020 đã điều chỉnh thành: “Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật về lao động”.
Việc thay đổi từ “theo yêu cầu kinh doanh” thành “theo quy định của pháp luật về lao động” giúp điều
khoản về quyền này của doanh nghiệp trở nên chặt chẽ và hoàn thiện hơn. Sự thay đổi này không có nghĩa LDN 2020
cấm cản doanh nghiệp tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh. Điều khoản này chỉ nhấn mạnh
khi tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động, doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ chặt chẽ những quy định, điều khoản
mà pháp luật đã đưa ra về lao động trong các bộ luật, nghị định, văn bản có liên quan.
Tóm lại, doanh nghiệp vẫn có quyền tự do tuyển dụng, thuê và sử dụng người lao động khi có nhu cầu cho
việc kinh doanh, sản xuất của mình, tuy nhiên, khi thực hiện quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động này của
mình, doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của pháp luật về lao động và đặc biệt là
những quy định của BLLĐ 2019.
(ii) Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ:
Điều này được bổ sung tại Khoản 7, Điều 7 LDN 2020. Cụ thể, doanh nghiệp có quyền “được bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ”. LDN 2014 trước đó đã quy định về việc góp vốn bằng
quyền sở hữu trí tuệ: “Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của
pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử
dụng tài sản đó để góp vốn”1.
Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ đã được LDN 2014 quy định và khi quyền này đã được tính vào phần vốn
góp của doanh nghiệp, nó cũng sẽ trở thành một loại tài sản của doanh nghiệp, vì vậy nó cũng cần được bảo vệ chặt
chẽ. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể có những sản phẩm, thành quả được đăng ký quyền
sở hữu trí tuệ hoặc mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ. Chung quy lại, dù quyền sở hữu trí tuệ đã được
công nhận là một loại tài sản của doanh nghiệp và pháp luật sở hữu trí tuệ đã quy định về quyền và trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong Luật SHTT: “Tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện
pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình và có trách nhiệm tôn trọng quyền sở hữu trí
tuệ của tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” 2.
Tuy nhiên, trước đó, LDN 2014 còn chưa đề cập đến vấn đề được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ này cho doanh
nghiệp. Dù doanh nghiệp vẫn có thể áp dụng Luật SHTT để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình nhưng việc chỉnh
lý, bổ sung thêm quyền này vào trong LDN 2020 là một thay đổi tích cực, giúp doanh nghiệp thuận tiện hơn trong
việc áp dụng pháp luật doanh nghiệp kết hợp với Luật SHTT để đảm bảo quyền lợi được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
của mình và trong các trường hợp tranh chấp, điều khoản này cũng sẽ giúp quá trình tố tụng, kiện cáo của doanh
nghiệp trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn.
(iii) Quyền tố cáo của doanh nghiệp:
LDN 2020 đã xoá bỏ một quyền lợi của doanh nghiệp là “quyền tố cáo”. Cụ thể, theo Khoản 10 và Khoản 11
Điều 7 LDN 2014 quy định, doanh nghiệp có quyền: “Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo” và “Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, trong LDN 2020, doanh nghiệp lại chỉ còn
quyền: “Khiếu nại, tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật” 3. Như vậy, kể từ thời điểm bộ luật này được áp
dụng vào ngày 01/01/2021, doanh nghiệp sẽ không còn quyền tố cáo theo quy định của pháp luật về tố cáo.
Xét ở góc độ lập pháp và học thuật, việc thay đổi theo hướng bỏ quy định về “quyền tố cáo” là cần thiết và
phù hợp với sự phát triển và thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam. Bởi lẽ, dù LDN 2014 có ghi nhận quyền tố
cáo của doanh nghiệp nhưng bản thân Luật Tố cáo chỉ quy định: “Người tố cáo là cá nhân thực hiện việc tố cáo” 4.
Tương tự, BLHS 2015 quy định: “Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm
pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” 5. BLTTDS 2015 cũng quy định: “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong hoạt động tố tụng dân
sự,...”6.
Như vậy, mặc dù LDN 2014 ghi nhận quyền tố cáo của doanh nghiệp nhưng các luật chuyên ngành lại không
ghi nhận quyền tố cáo của cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, các cơ quan, tổ chức không thể tự mình phát hiện ra sự tồn tại của
hành vi vi phạm pháp luật để tố cáo, mà việc này chỉ có cá nhân mới có thể phát hiện ra những sai phạm và tố cáo.
Việc quy định người tố cáo chỉ có thể là cá nhân còn giúp cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo, người tố cáo phải

1
Khoản 2, Điều 35, LDN 2014
2
Điều 9, Luật SHTT 2005
3
Khoản 10, Điều 7 LDN 2020
4
Khoản 4, Điều 2, Luật Tố cáo 2018
5
Điều 487, BLHS 2015
6
Điều 25, BLTTDS 2015
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi tố cáo của mình, nếu tố cáo sai sự thật thì phải bị xử lý về hành chính
hoặc hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm. Cơ quan, tổ chức không được quyền tố cáo để tránh phát sinh
những vấn đề phức tạp trong việc xác minh thông tin về người tố cáo, xác định trách nhiệm của người tố cáo trong
trường hợp tố cáo sai sự thật. Sự khác biệt, trái ngược giữa những điều luật này đã gây ra sự mâu thuẫn trong quy
định pháp luật, gây khó khăn trong việc thực hiện quyền tố cáo của doanh nghiệp. Do đó, việc thay đổi, điều chỉnh
quy định pháp luật về quyền của doanh nghiệp, loại bỏ quyền này của doanh nghiệp là hợp lý và cần thiết để hệ thống
pháp luật Việt Nam trở nên thống nhất và hợp lý hơn.
Theo Công ty Luật TNHH Khoa Tín, nếu chỉ căn cứ vào câu chữ trong các quy định của pháp luật, nhiều
người sẽ lầm tưởng rằng doanh nghiệp sẽ hoàn toàn mất quyền tố cáo và băn khoăn nếu doanh nghiệp phát hiện
những vi phạm trong hoạt động quản lý nhà nước của công chức, viên chức, cũng như của các công ty đối tác hoặc
chính nhân viên của mình,... thì doanh nghiệp phải làm như thế nào? Các vụ việc doanh nghiệp đã và đang tố cáo sẽ
được giải quyết như thế nào, và phải chăng doanh nghiệp đang mất đi một công cụ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân doanh nghiệp?
Tuy nhiên, nếu xét về thực tiễn và áp dụng pháp luật, cần phải nắm rõ bản chất các quy định pháp luật về tố
cáo. Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định: “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực
là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân
nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
cụ”7. Theo đó, trong quá trình thực hiện các thủ tục, làm việc với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, nếu phát
hiện ra bất cứ hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước thì doanh nghiệp có quyền và đồng thời có nghĩa vụ tố
cáo để góp phần chấn chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm làm ảnh hưởng tới uy tín và sự vững mạnh của cơ quan nhà
nước, cũng như tự bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, doanh nghiệp là một tổ chức, không thể tự mình phát hiện ra sai phạm mà chỉ có thể thông qua
người đại diện theo pháp luật, người được uỷ quyền hoặc người được giao nhiệm vụ làm việc với cơ quan nhà nước.
Do đó, nếu tổ chức thực hiện quyền tố cáo, bản thân tổ chức không thể tự trình bày ý kiến, nội dung vụ việc mà phải
thông qua người đại diện. Khi đó, có thể người pháp hiện hành vi vi phạm là một người nhưng tổ chức lại cử người
khác đại diện thực hiện quyền tố cáo khiến cho việc giải quyết tố cáo thêm phức tạp, thiếu chính xác. Do vậy, tổ chức
cử người đại diện làm việc với cơ quan Nhà nước, nếu phát hiện sai phạm, bản thân người phát hiện có quyền tự mình
thực hiện việc tố cáo theo quy định pháp luật về tố cáo mà không cần thông qua pháp nhân. Khi đó, việc tố cáo được
thực hiện trực tiếp, tường minh và cụ thể hơn nhưng vẫn không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp.
Chung quy lại, việc LDN 2020 điều chỉnh theo hướng lược bỏ quyền tố cáo của doanh nghiệp là hoàn toàn có
cơ sở pháp lý, thống nhất hệ thống pháp luật mà không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp. Bởi lẽ, dù có sự thay đổi nhưng với cách thức khác là thông qua cá nhân, doanh nghiệp vẫn có thể tố cáo
những sai phạm để đảm bảo lợi ích của mình, từ đó doanh nghiệp có thể hoạt động trong môi trường kinh doanh lành
mạnh, bình đẳng, ổn định.
Sự thay đổi, cập nhật của LDN 2020 đã được thể hiện ngay trong những lá đơn tố cáo từ các đại diện pháp
luật của công ty từ khi luật này được áp dụng chính thức từ ngày 01/01/2021:
Nếu trước đó, theo báo Kinh tế Môi trường đưa tin, năm 2019, Công ty TNHH Ngọc Khánh đã tham gia đấu
thầu gói thầu có số TBMT là 20190938124: Thi công xây dựng công trình Kênh Nội đồng từ thôn Tân Lập, thôn
7
Khoản 3, Điều 2, Luật Tố cáo 2018
Xuân Thịnh đi thôn Vụ Bản, tuyến kênh Cống Nổ đá đi Phốc Cột, tuyến kênh từ nhà van kênh TX 17 đi Đồng Un,
Tân Lập xã Xuân Dương, huyện Thường Xuân. Dự án này do ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Thường
Xuân là chủ đầu tư. Trong quá trình đấu thầu, nhận thấy có dấu hiệu “thông thầu” giữa chủ đầu tư là Ban Quản lý Dự
án đầu tư xây dựng Thường Xuân và đơn vị tư vấn là CTCP tư vấn đầu tư và xây dựng Đức Phong, đơn vị tham gia
dự thầu là Công ty Ngọc Khánh đã làm đơn tố cáo đến đồng chí Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa. Nội dung lá đơn tố cáo đề
cập nhiều nội dung có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng Luật đấu thầu và công tác quản lí chứng thư điện tử lỏng lẻo
của các bên liên quan8. Qua lá đơn tố cáo của doanh nghiệp được đính kèm bài báo này, có thể thấy lúc này trên lá
đơn tố cáo, chủ thể tố cáo vẫn là Công ty TNHH Ngọc Khánh.
Trong khi đó, theo Thông báo số 132/TB-UBND ngày 25/01/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình về
việc không thụ lý giải quyết tố cáo của ông Nguyễn Văn Minh, đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Phát triển
đầu tư và xây dựng Đại Long. Theo chi tiết thông báo, đại diện cho Công ty TNHH Phát triển đầu tư và xây dựng Đại
Long, ông Nguyễn Văn Minh đã làm đơn tố cáo các hành vi tham nhũng và nhũng nhiễu vụ lợi chi phí hành chính và
cố ý không thực hiện để vụ lợi chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng của ông Phạm Quang Ánh – Phó Giám đốc
(nay là Giám đốc) Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình. Vì trong buổi làm việc trực tiếp với Thanh tra tỉnh,
người tố cáo không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ và không có cơ sở để xác minh, kết luận hành vi vi phạm
pháp của người bị tố cáo nên vụ việc đã không được thụ lý giải quyết. 9 Có thể thấy, cho rằng quyền lợi của công ty bị
ảnh hưởng xấu bởi những hành vi không đúng với pháp luật, ông Nguyễn Văn Minh, đại diện pháp luật của Công ty
TNHH Phát triển đầu tư và xây dựng Đại Long đã thực hiện thay mặt cho công ty để tố cáo những hành vi này.
b. Điểm mới về nghĩa vụ của doanh nghiệp
Bên cạnh những điểm mới về quyền của doanh nghiệp, điều khoản về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong LDN
2020 cũng có một số thay đổi như sau:
(i) Nghĩa vụ đối với doanh nghiệp trong ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước
ngoài:
Theo bà Nguyễn Thanh Hà - Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Vietthink, một trong những đổi mới đáng
chú ý trong LĐT 2020 là sự xuất hiện của nhóm quy định mới liên quan đến điều kiện tiếp cận thị trường của nhà đầu
tư nước ngoài theo hướng tiếp cận “chọn-bỏ” tại Điều 9 LĐT 202010. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được áp
dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với Nhà đầu tư trong nước, trừ trường hợp lĩnh vực đầu tư thuộc:
danh mục ngành, nghề nhà đầu tư nước ngoài chưa được tiếp cận thị trường, danh mục ngành, nghề nhà đầu tư nước
ngoài được tiếp cận thị trường có điều kiện. Cơ chế “chọn-bỏ” này được cho là sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài có
thể tiếp cận thuận lợi hơn đối với thị trường Việt Nam. Và từ sau khi Nghị định 31/2021/NĐ-CP được ban hành với
những quy định và hướng dẫn chi tiết, những nhà đầu tư nước ngoài đã có cơ sở rõ ràng hơn để hưởng chính sách mới
này.
Bên cạnh sự thay đổi của LĐT 2020, LDN 2020 cũng bắt kịp cùng với sự bổ sung đối tượng doanh nghiệp
hoạt động trong ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài trong Khoản 1 Điều 8 về
nghĩa vụ của doanh nghiệp trong nghĩa vụ đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh và đảm bảo duy trì đủ
điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Điều khoản này về nghĩa vụ của doanh

8
Báo Kinh tế Môi trường, ngày 15/11/2019
9
Cổng thông tin điện tử tình Quảng Bình, ngày 02/02/2021
10
Nguyễn Thanh Hà, 2021, Về điều kiện tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020 và Nghị định
31/2021/NĐ-CP, truy cập tại: Về điều kiện tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư 2020 và Nghị định
31/2021/NĐ-CP - Nghiên cứu - Trao đổi (vietthink.vn)
nghiệp cụ thể như sau:“Đáp ứng đủ điều kiện đầu tư kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện; ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật và
bảo đảm duy trì đủ điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh”.
Sự thay đổi này giúp LDN 2020 khớp và đồng bộ hơn với hệ thống pháp luật, chứng tỏ việc LDN luôn liên
tục cập nhật và đổi mới để phù hợp với những luật khác trong hệ thống và trong trường hợp này cụ thể là LĐT 2020.
Điều này đã góp phần giúp hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và LDN nói riêng trở nên chặt chẽ, thống nhất và
hoàn thiện hơn.
(ii) Nghĩa vụ đối với người lao động:
Điều khoản về nghĩa vụ đối với người lao động của doanh nghiệp cũng được bổ sung và thay đổi một số điểm
như sau trong LDN 2020 so với LDN 2014:
- Bổ sung “không ngược đãi lao động”
Theo Luật sư Lê Trọng Thêm từ Công ty Luật LTT&Lawyers chia sẻ ngày 22/02/2020: “BLLĐ hiện hành và
kể cả BLLĐ năm 2019 chưa có khái niệm cụ thể về hành vi ngược đãi lao động. Ngoài việc quy định cho phép người
lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi bị ngược đãi mà không cần báo trước thì chưa có
biện pháp chế tài nào khác để xử lý hành vi này”11.
Việc bổ sung “không ngược đãi lao động” vào trong nghĩa vụ của doanh nghiệp với người lao động trong
LDN 2020 như sau: “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động theo quy định của pháp luật;
không phân biệt đối xử, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động trong doanh nghiệp; không ngược đãi lao
động, cưỡng bức lao động hoặc sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề; thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật”12.
Điểm mới này hiện tại chưa thể giải quyết được vấn đề nhiều doanh nghiệp đang lợi dụng việc luật chưa có
quy định xử phạt cụ thể để thực hiện các hành vi ngược đãi lao động của mình. Bởi lẽ, bên cạnh việc bổ sung “không
ngược đãi lao động” trong nghĩa vụ của doanh nghiệp, LDN 2020 không đưa ra bất kỳ một biện pháp chế tài nào để
xử phạt những hành vi này. Tuy nhiên, việc bổ sung điều này vào trong nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với người lao
động trong LDN 2020 đã một lần nữa nhấn mạnh với các doanh nghiệp nghĩa vụ của mình với người lao động, và có
lẽ cũng là một báo hiệu thể hiện rằng những nhà làm luật không hề thờ ơ hay bỏ sót vấn đề và những hành vi này và
sẽ có thể đưa ra những chế tài xử phạt trong tương lai.
- Thay thế “không được sử dụng lao động trẻ em” bằng “không sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật”
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta, “người chưa thành niên” và “trẻ em” được BLDS và Luật
Trẻ em định nghĩa rất rõ ràng là “người dưới 18 tuổi” và “người dưới 16 tuổi”. Việc thay thế “không được sử dụng
lao động trẻ em” bằng “không sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật” trong nghĩa vụ của doanh nghiệp với
người lao động tại Khoản 5 Điều 8 đã tăng đối tượng của điều khoản này lên. Sự thay thế này có nghĩa doanh nghiệp
không chỉ không được sử dụng lao động trẻ em mà còn việc sử dụng những lao động chưa thành niên trái pháp luật
cũng không được cho phép.

11
Mai Chi, Ngược đãi người lao động, Báo Người Lao động, ngày 22/02/2020, truy cập tại: Ngược đãi người lao động - Báo Người
lao động (nld.com.vn)
12
Khoản 5, Điều 8 LDN 2020
Theo BLLĐ 2019: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại
Chương XI của Bộ luật này”13. Ở chương XI của Bộ luật này, cụ thể là ở mục 1 “Lao động chưa thành niên” đã có
những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên. Ví dụ cụ thể, điều 144, 145 quy định chặt chẽ về độ tuổi và
mức độ hoạt động của từng độ tuổi: thời gian làm việc của lao động chưa đủ 15 tuổi không quá 4 giờ/ngày và 20
giờ/tuần, thời gian làm việc của lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được quá 8 giờ/ngày và 40
giờ/tuần. Như vậy, bên cạnh việc không được sử dụng lao động trẻ em, theo LDN 2020, doanh nghiệp còn phải tuân
theo những quy định cụ thể một cách nghiêm ngặt về sử dụng lao động chưa thành niên, không được sử dụng những
lao động này trái với những quy định, nguyên tắc mà luật đã đề ra.
Đây là một trong những bổ sung hợp lý và cần thiết. Bởi lẽ dù đã đủ độ tuổi lao động nhưng những lao động
chưa thành niên vẫn chưa đủ 18 tuổi – độ tuổi trưởng thành theo quy định của pháp luật Việt Nam 14, có thể chưa trang
bị đầy đủ cho bản thân những kiến thức và năng lực để tự bảo vệ bản thân một cách tốt nhất. Vì vậy, việc có những
quy định chặt chẽ đối với doanh nghiệp khi sử dụng những lao động này là một điều vô cùng cần thiết. Việc chỉnh lý,
thay thế này trong LDN 2020 đã không chỉ giúp nhấn mạnh với doanh nghiệp nghĩa vụ của doanh nghiệp với người
lao động, đặc biệt là với những lao động chưa thành niên này mà còn giúp bảo vệ, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho
những lao động chưa thành niên. Đồng thời, việc bổ sung, chỉnh lý này còn giúp LDN 2020 thống nhất hơn với các
quy định của Luật chuyên ngành về lao động và BLDS.
(iii) Rút ngắn và hợp một số điều khoản:
So với LDN 2014 có chín (09) khoản trong Điều 8 về nghĩa vụ của doanh nghiệp thì ở LDN 2020, số khoản
trong Điều này rút xuống còn sáu (06). Bởi lẽ, một số điều khoản đã được hợp lại như Khoản 2 và Khoản 3 LDN
2014 được hợp lại thành Khoản 4, LDN 2020: “Tổ chức công tác kế toán, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật”. Điều khoản này đã trở thành quy định duy nhất về tổ chức công tác kế toán,
nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thay đổi này chỉ mang ý
nghĩa rút gọn và hợp lại những nghĩa vụ về kế toán, tài chính và thuế thành một khoản, giúp điều khoản về nghĩa vụ
của doanh nghiệp trong LDN 2020 cô đọng và súc tích hơn.
Bên cạnh đó, một số khoản trong LDN 2014 đã bị bỏ đi và thay thế bằng Khoản 6: “Nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật”. Đây đều là những nghĩa vụ đã được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều điều khoản, văn bản
pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam như: “Tuân thủ quy định pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử-văn hoá và danh lam thắng cảnh”15,
“Thực hiện nghĩa vụ về đạo đức kinh doanh để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và người tiêu
dùng”16,... tại Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thương mại,... Việc rút ngắn và hợp những điều khoản này giúp bộ luật
trở nên cô đọng, súc tích hơn, đồng thời không gây ra sự trùng lặp.
Tuy nhiên, hiện tại, vấn đề các doanh nghiệp vẫn cố tình vi phạm những quy định liên quan đến bảo vệ tài
nguyên, môi trường đang rất nghiêm trọng. Có rất nhiều vụ việc doanh nghiệp vì hoạt động sản xuất, kinh doanh của
mình nên đã có những tác động, ảnh hưởng rất tiêu cực đến tài nguyên môi trường. Theo ông Chu Quốc Hùng của
Thông tấn xã Việt Nam đưa tin, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Việt Hưng (xã Quảng Ngãi, huyện Cát Tiên) hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tơ lụa đã bị xử phạt 195 triệu đồng vì có hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ

13
Khoản 1, Điều 3, BLLĐ 2019
14
Khoản 1, Điều 20, BLDS 2015
15
Khoản 8, Điều 8, LDN 2014
16
Khoản 9, Điều 8, LDN 2014
thuật17. Theo báo Thanh Niên, UBND tỉnh Bình Thuận đã ký quyết định xử phạt 300 triệu đồng đối với Công ty CP
Thiên Hải vì san ủi tại Hòn Rơm nhưng chưa có đánh giá tác động môi trường 18,...
Việc quy định về bảo vệ tài nguyên, môi trường đã được quy định trong nhiều bộ luật khác, tuy nhiên, điều
khoản này vẫn nên được đề cập trong LDN để giúp nhấn mạnh nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với tài nguyên, môi
trường đồng thời cũng là một biện pháp răn đe để cải thiện tình hình này.
Không phải thông báo mẫu dấu khi đăng ký thành lập doanh nghiệp
Quy định về con dấu:
LDN 2014 quy định doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu nhưng nội dung
con dấu phải thể hiện những thông tin sau đây: (i) Tên doanh nghiệp; và (ii) Mã số doanh nghiệp. Song, đến LDN 2020,
quy định bắt buộc về thông tin thể hiện trong nội dung con dấu đã bị bãi bỏ và chỉ quy định doanh nghiệp quyết định
loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ được
toàn quyền quyết định về nội dung của dấu mình sử dụng mà không chịu ràng buộc bởi quy định pháp luật.
Không những vậy, LDN 2020 còn trao cho doanh nghiệp quyền quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung
dấu của chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp. Có thể thấy đối với các quy định mới này,
doanh nghiệp đang dần làm chủ con dấu của chính mình.
Ngoài ra, Điều 43 LDN 2020 quy định về dấu của doanh nghiệp: “(i) Dấu bao gồm dấu được làm tại cơ sở khắc dấu
hoặc dấu dưới hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử; (ii) Doanh nghiệp quyết định loại
dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh
nghiệp; (iii) Việc quản lý và lưu giữ dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế do doanh nghiệp, chi
nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu ban hành. Doanh nghiệp sử dụng dấu trong các
giao dịch theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, so với quy định về con dấu tại LDN 2014 thì LDN 2020 đã bỏ quy định “Trước khi sử dụng, doanh nghiệp
có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia
về đăng ký doanh nghiệp”. 
LDN 2014 quy định việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty, song tại
LDN 2020, quy định này đã được bổ sung thêm căn cứ thực hiện. Cụ thể, việc quản lý và lưu giữ con dấu còn được thực
hiện theo quy chế do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu ban hành.
Nếu như LDN 2014 quy định con dấu được quản lý và lưu giữ theo Điều lệ công ty thì tại LDN 2020, chi nhánh, văn
phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có thể tự ban hành quy chế đối với việc sử dụng con dấu của mình.
Bên cạnh đó, LDN 2020 đã chính thức công nhận chữ ký số là dấu của doanh nghiệp. Đây là nội dung hoàn toàn mới
so với quy định của LDN 2014. Chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử được mã hóa các dữ liệu, thông tin của một doanh
nghiệp dùng để ký thay cho chữ ký trên các loại văn bản và tài liệu số thực hiện trong các giao dịch điện tử qua mạng
Internet. Việc đưa chữ ký điện tử làm dấu của doanh nghiệp góp phần giúp doanh nghiệp có thêm lựa chọn trong việc sử
dụng dấu thay vì chỉ sử dụng con dấu khắc.
Những quy định mới về dấu của DN trong LDN 2020 nêu trên là hoàn toàn phù hợp với hiện nay vì:
Thứ nhất, trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, có nhiều cách khác để xác thực các giao dịch kinh doanh,
thông thường là sử dụng chữ ký số chứa đầy đủ thông tin về tên công ty, mã số thuế, phạm vi sử dụng,... Mặc dù nhiều
nước đã thành công. thành lập Hệ thống quản lý chữ ký số trong các giao dịch thương mại hay thủ tục hành chính đã
được phát triển, tại Việt Nam, đây vẫn còn là điều mới mẻ và ít công ty sử dụng. Vì vậy, để sử dụng các tính năng bảo
mật và thông tin do chữ ký số cung cấp, xã hội cần phải làm quen với công nghệ mới này để hạn chế việc giả mạo con
dấu hoặc sử dụng con dấu không đúng cách.
Thứ hai, các quy định mới sẽ tăng tính hợp pháp và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy
quyền tham gia giao dịch. Doanh nghiệp sẽ quan tâm hơn đến việc phân cấp quản lý và phân công trách nhiệm của các
nhân viên quản lý. Đồng thời, khi các cá nhân, tổ chức khác ký hợp đồng với doanh nghiệp thì sự hiểu biết và yêu cầu
về quyền và quyền hạn của các bên sẽ khắt khe hơn.
Thứ ba, đây được coi là một quy định mới, tiến bộ, phù hợp trong việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giúp tiết
kiệm thời gian và công sức trong quá trình thực hiện các thủ tục liên quan đến doanh nghiệp.
III. Những điểm mới về “Công ty trách nhiệm hữu hạn”
1.  Về công ty TNHH hai thành viên trở lên
17
Chu Quốc Hùng, Phạt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 195 triệu đồng vì xả thải gây ô nhiễm, Tin tức Thông tấn xã Việt
Nam, ngày 25/05/202, truy cập tại: https://baotintuc.vn/phap-luat/phat-doanh-nghiep-co-von-dau-tu-nuoc-ngoai-195-trieu-dong-vi-
xa-thai-gay-o-nhiem-20210525131648267.htm
18
Báo Thanh niên, 2021, Xử phạt doanh nghiệp san ủi tại Hòn Rơm khi chưa có đánh giá tác động môi trường, truy cập tại:
https://thanhnien.vn/xu-phat-doanh-nghiep-san-ui-tai-hon-rom-khi-chua-co-danh-gia-tac-dong-moi-truong-post1409464.html
a. Về quyền phát hành cổ phần và trái phiếu
* Về cổ phần
Khoản 3, Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Công ty TNHH hai thành viên trở lên không được quyền
phát hành cổ phần”. Vì số lượng thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên bị giới hạn từ 02 đến 50 thành viên.
Cho nên, nếu công ty TNHH hai thành viên trở lên phát hành CP thì sẽ phá vỡ cấu trúc về vốn điều lệ, và số lượng thành
viên của công ty. Điều này tạo nên những sự lãng phí về thời gian, khó khăn không đáng có trong quá trình huy động
thành viên và vốn.
Để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng này, khoản 3, Điều 46 Luật 2020 đã đưa ra quy định “Công ty TNHH
hai thành viên không được phát hành cổ phần, trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần”. 
Ví dụ: Công ty TNHH hai thành viên X thực hiện chuyển đổi thành Công ty cổ phần X năm 2015. Trước khi ban
hành LDN 2020, công ty Cổ phần X không được phép phát hành cổ phần để huy động vốn. Sau thời điểm ban hành và
thực hiện LDN 2020, công ty Cổ phần X được phép phát hành cổ phần để chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Có thể thấy, đây là một quy định sửa đổi nhằm phù hợp với thực tiễn và giải quyết các vướng mắc đang tồn tại, giúp
các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc huy động vốn, mở rộng quy mô thành viên. Tuy vậy, điều này mặt khác lại
một phần tạo điều kiện cho người xấu thao túng, chiếm đoạt công ty qua việc mua, chiếm giữ tỷ lệ vốn công ty. 
* Về trái phiếu
Mặc dù LDN 2014 không quy định rõ công ty TNHH hai thành viên trở lên được quyền phát hành trái phiếu như
theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 của Chính phủ quy định về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 81/2020/NĐ-CP) thì đối tượng áp dụng đối với
Nghị định này có nêu rõ: “Doanh nghiệp phát hành trái phiếu là công ty cổ phần, công ty TNHH được thành lập và
hoạt động theo pháp luật Việt Nam”. Và đến năm 2020 đã chính thức bổ sung thêm quy định về quyền của công ty
TNHH hai thành viên về quyền được phát hành trái phiếu, tuy nhiên phải phù hợp với quy định của Luật này và của
pháp luật khác có liên quan. 
Có thể nói đây là quyền lợi chính đáng mà công ty TNHH hai thành viên được hưởng và đã được pháp luật thừa
nhận, do đó việc ghi nhận quyền này cụ thể trong khoản 4, Điều 46 LDN 2020 là điều cần thiết và phù hợp. Điều này
không chỉ tạo hành lang pháp lý vững chắc và minh thị cho công tác áp dụng và thực thi pháp luật mà còn giúp doanh
nghiệp và các chủ thể khác trong xã hội an tâm hơn trong vấn đề phát hành trái phiếu của doanh nghiệp để huy động
vốn.
b. Về vốn góp doanh nghiệp
* Về thời hạn góp vốn
Khoản 2, Điều 47 LDN 2020 bổ sung quy định: “Thời hạn góp vốn là 90 ngày kể từ ngày doanh nghiệp được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, không kể thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục
hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản.” 
Việc bổ sung quy định mới này là để đảm bảo tính khả thi của hoạt động góp vốn bởi trên thực tế, nhiều trường hợp
người thành lập doanh nghiệp không thể hoàn tất việc góp vốn bằng tài sản là máy móc, thiết bị...trong thời hạn 90 ngày
như quy định của LDN 2014. Nguyên nhân có thể do việc vận chuyển, nhập khẩu máy móc, thiết bị là tài sản góp vốn
có thể mất nhiều thời gian, như: Thời gian vận chuyển sang Việt Nam, thời gian làm các thủ tục hành chính nhập khẩu
cần thiết… Nhiều trường hợp, thời gian này kéo dài hơn nhiều so với thời hạn phải hoàn thành việc góp vốn trong 90
ngày theo yêu cầu của doanh nghiệp. 
Ví dụ: Chủ sở hữu A cam kết góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên A một tài sản cố định là chiếc xe nhập
khẩu từ Mỹ. Thời gian vận chuyển và thủ tục hành chính là 30 ngày. Trường hợp công ty thành lập ngày 30/06/2015
(ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp): Nếu ngày 05/10/2015 quá 90 ngày thực hiện góp vốn, chiếc
xe mới về đến công ty thì A đã vi phạm Điều 74 LDN 2014. Trường hợp công ty thành lập ngày 30/06/2021: nếu ngày
05/10/2021, chiếc xe mới về đến công ty, thì A không vi phạm Điều 75 LDN 2020. Vì hạn góp vốn là 30/10/2021.
Ngoài ra tại điều khoản này, Luật cũng đưa ra định nghĩa rõ ràng hơn về khái niệm “sự tán thành của đa số thành
viên” so với LDN 2014 khi điều chỉnh thêm: “Trong thời hạn này, thành viên góp vốn vào doanh nghiệp có các quyền
và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn đã cam kết; Thành viên công ty chỉ được góp vốn cho công ty bằng loại tài
sản khác với tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của trên 50% số thành viên còn lại”. Việc sửa đổi cụ thể này góp
phần giúp luật chặt chẽ, dễ hiểu, dễ áp dụng hơn.
* Về việc điều chỉnh vốn điều lệ 
Khoản 4, Điều 47 LDN 2020 đã rút ngắn thời hạn thay đổi vốn điều lệ, tỷ lệ vốn góp của các thành viên từ 60 xuống
còn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp. 
Ví dụ: Nếu hạn góp vốn của anh A là 1/3/2016 mà anh vẫn chưa góp đủ phần vốn góp của mình thì công ty phải làm
thủ tục thay đổi vốn điều lệ, vốn góp của các thành viên trước ngày 30/4/2016. Nhưng nếu trong cùng tình huống tại
năm 2021 thì hạn sẽ là ngày 31/3/2021.
* Về thời điểm người góp vốn trở thành thành viên
LDN 2020 đã bổ sung thêm khoản 5, Điều 47: “Trừ trường hợp quy định tại khoản 2, Điều này, người góp vốn trở
thành thành viên của công ty kể từ thời điểm đã thanh toán phần vốn góp và những thông tin về người góp vốn quy định
tại các điểm b, c và đ, khoản 2, Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên. Tại thời điểm góp đủ
phần vốn góp, công ty phải cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã góp.”
Như vậy, LDN 2020 đã bổ sung quy định cụ thể về thời điểm mà thành viên góp vốn chính thức trở thành thành viên
của công ty, cụ thể là “Từ thời điểm đã thanh toán phần vốn góp và được ghi nhận đầy đủ thông tin vào sổ đăng ký
thành viên”. Việc đưa ra quy định rõ ràng góp phần đảm bảo quyền lợi cả hai bên thành viên cũng như công ty, cũng
như những tranh chấp hay xung đột sau này.
c. Về nội dung chủ yếu trong giấy tờ liên quan
Khoản 6, Điều 47 và khoản 2, Điều 48 LDN 2020 đã điều chỉnh lại nội dung chủ yếu của giấy chứng nhận cũng như
sổ đăng ký thành viên. Cụ thể:
Thứ nhất, LDN 2020 sửa đổi “Địa chỉ thường trú” thành “Địa chỉ liên lạc”. Ở đây, địa chỉ thường trú về mặt pháp
lý là nơi thường cư trú, tuy nhiên trên thực tế, một người có thể có địa chỉ thường trú nhưng ko thường hay cư trú ở nơi
đó. 
Ví dụ: Thường trú ở Láng Thượng nhưng mua nhà ở Times City và phải tới Times City mới gặp được, liên lạc được.
Trong khi địa chỉ liên lạc là nơi hiện nay đang cư trú, có thể liên lạc được, là Times City trong ví dụ trên. Như vậy, LDN
2020 đưa vào địa chỉ liên lạc là hợp lý hơn. 
Thứ hai, LDN 2020 thay thế “Số thẻ Căn cước công dân, giấy Chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực
cá nhân hợp pháp khác” và “Số quyết định thành lập hoặc mã số doanh nghiệp” bằng “Số giấy tờ pháp lý”. Căn cứ
khoản 16, Điều 4 LDN 2020 quy định rõ giấy tờ pháp lý của cá nhân là một trong các loại giấy tờ (Thẻ Căn cước công
dân; Giấy chứng minh thư nhân dân; Hộ chiếu; Giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp khác). Việc này đã giúp lược bớt
được những phần dài dòng, lặp lại nhiều lần trong điều luật.
Thứ ba, LDN 2020 đã chỉnh “Giá trị vốn góp của thành viên” thành “Tỷ lệ phần vốn góp của thành viên”. Có thể dễ
thấy, tỷ lệ phần vốn góp là con số có ý nghĩa về mặt toán học hơn vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền hạn và quyết
định của thành viên.
d. Về sổ đăng ký thành viên
* Về hình thức
Khoản 1, Điều 48 LDN 2020 đã bổ sung hình thức sổ đăng ký thành viên: “Có thể là văn bản giấy, tập hợp dữ liệu
điện tử ghi nhận thông tin sở hữu phần vốn góp của các thành viên công ty”. 
Ví dụ: Lấy trường hợp anh A góp vốn ngày 1/6/2016 nhưng đang đi công tác xa thì vẫn phải gửi bưu điện hoặc nhờ
người mới có thể lấy được sổ đăng ký thành viên do sổ đăng ký thành viên chỉ có thể là văn bản giấy. Còn trong trường
hợp anh A góp vốn tại ngày 1/6/2021 mà không thuận tiện đến lấy thì vẫn có thể nhận được sổ dưới dạng bản mềm, dữ
liệu điện tử ghi nhận vốn góp của anh A.
Dữ liệu điện tử đã được phổ biến từ LDN 2014 nhưng đến LDN 2020 mới chính thức được sử dụng làm hình thức
của sổ đăng ký tviên. Thực chất, cả VB giấy và tập hợp dữ liệu điện tử đều có mặt lợi và hại. Cụ thể, VB giấy tin cậy
hơn, khó làm giả hơn khi đã in ra, đóng dấu đầy đủ nhưng quy trình luân chuyển, lưu giữ phức tạp. Trong khi dữ liệu
điện tử lưu trữ dễ dàng hơn nhưng dễ làm giả, rủi ro cao hơn như lỗi đánh máy, xâm nhập virus làm thay đổi hay mất dữ
liệu,… 
Tuy vậy, việc mở rộng hình thức của sổ đăng ký thành viên trong bối cảnh số hóa cũng đã góp phần tạo thuận lợi cho
thủ tục đăng ký và nhận sổ đăng ký thành viên, đặc biệt là trong thời buổi chịu tác động của dịch bệnh khiến mọi người
khó có thể tự đến văn phòng công ty làm các thủ tục hành chính.
* Về tính cập nhật
Điều 48 LDN 2020 đã thêm khoản 3: “Công ty phải cập nhật kịp thời thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành
viên theo yêu cầu của thành viên có liên quan theo quy định tại Điều lệ công ty.” Điều khoản này được bổ sung nhằm
đảm bảo quyền lợi cho thành viên công ty, giảm thiểu độ trễ trong quá trình cập nhật thành viên.
đ. Về quyền của thành viên Hội đồng thành viên
LDN 2020 đã sắp xếp lại trật tự, phân thành 3 khoản tương ứng với các mức theo thứ tự tỷ lệ vốn tăng dần: mức
thành viên, mức sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở lên hoặc tương tự và mức sở hữu trên 90% vốn điều lệ hoặc tương tự. Dù
không thay đổi nhiều về mặt luật nhưng LDN 2020 đã đảm bảo được tính trật tự về mặt hình thức, dễ đọc, dễ hiểu của
điều luật.
e. Về xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt
* Trường hợp thành viên bị Tòa án tuyên bố mất tích
LDN 2014 đã đưa ra quy định rằng khi thành viên bị Tòa án tuyên bố mất tích thì người quản lý tài sản của thành
viên đó trở thành thành viên của công ty. Nhưng đến LDN 2020 đã giữ nguyên tư cách thành viên của công ty kể cả khi
bị tuyên bố mất tích, quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua người quản lý tài sản của thành viên đó tại khoản 2,
Điều 53. Tức người quản lý tài sản chỉ có vai trò thực hiện quyền và nghĩa vụ thay cho thành viên này.
Có thể thấy, điều luật này có sự dẫn chiếu Bộ luật Dân sự 2015 tại Điều 65 về Quản lý tài sản của người vắng mặt tại
nơi cư trú:
“1. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho
người sau đây quản lý:
a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;
b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
c) Đối với tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con
thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
2. Trường hợp không có những người được quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án chỉ định một người trong số
những người thân thích của người vắng mặt tại nơi cư trú quản lý tài sản; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ
định người khác quản lý tài sản."
Như vậy, giả dụ anh A là thành viên góp vốn của công ty X. Nếu 1/5/2014, anh A bị mất tích thì tư cách thành viên
góp vốn của anh chấm dứt mà giờ đây, người phụ trách quản lý tài sản của anh A mới sẽ là thành viên. Còn nếu
1/5/2021, anh A bị mất tích đột ngột, không có người nào được ủy quyền (không thỏa mãn điểm a), góp vốn với tư cách
pháp nhân là công ty hợp danh Y (có người sở hữu chung tài sản, thỏa mãn điểm b) thì người sở hữu chung còn lại sẽ
quản lý phần vốn góp giúp anh A mà hoàn toàn không có tư cách thành viên tại công ty X.
Khi cá nhân bị tuyên bố mất tích thì sẽ “tạm dừng” tư cách chủ thể kể từ thời điểm quyết định tuyên bố cá nhân mất
tích có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, cá nhân bị tuyên bố mất tích cũng tạm dừng tư cách là thành viên góp vốn của
công ty. Tuy nhiên, do chưa chấm dứt tư cách của mình nên quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn tạm thời được
thực hiện thông qua người quản lý tài sản của thành viên đó. Việc giữ nguyên tư cách thành viên của công ty phần nào
đảm bảo được quyền lợi của thành viên bị mất tích cũng như sự hoạt động, vận hành của công ty.
* Trường hợp thành viên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự
Khoản 3, Đ53 LDN 2020 đã sửa đổi, bổ sung thêm khái niệm “Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi”. Theo Bộ luật Dân sự 2015, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, do
tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực
hành vi dân sự. Tình trạng thể chất hoặc tinh thần dẫn đến không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi có thể là TH
cá nhân bất chợt bị tâm thần nhưng chưa đến mức không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình (VD là người mắc
bệnh Down); người bị tai nạn phải nằm điều trị lâu ngày trong bệnh viện có kết luận của giám định pháp y, tuyên bố của
Tòa án.
Như vậy, những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khác với người bị hạn chế, mất năng lực hành
vi dân sự. Vì người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi không mất hoàn toàn khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi, một phần nào đó họ vẫn hiểu, nhận thức được hành vi của mình nhưng không đầy đủ như người bình thường
mà không bị mất hoàn toàn nhận thức như người mất năng lực hành vi dân sự. 
Ví dụ: A là chủ sở hữu Công ty TNHH hai thành viên X. Nếu năm 2015, A được chẩn đoán khó khăn trong nhận
thức và làm chủ hành vi, thì A vẫn tiếp tục được thực hiện quyền và nghĩa vụ là chủ sở hữu của công ty. Nếu A được
chẩn đoán bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì quyền và nghĩa vụ sẽ được thực hiện thông qua người giám hộ. Nếu
năm 2021, A được chẩn đoán khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
quyền và nghĩa vụ đều được thực hiện thông qua người đại diện.
Bên cạnh đó, điều khoản còn thay đổi người thực hiện quyền và nghĩa vụ của thành viên bị hạn chế, mất năng lực
hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi từ “người giám hộ” sang “người đại diện”. Ở đây, LDN
2020 đã mở rộng phạm vi đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ tương ứng với việc mở rộng, thêm khái niệm “người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” vào điều khoản. Đồng thời “người đại diện” cũng phù hợp hơn với Luật
Doanh nghiệp khi giám hộ chỉ là thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, còn
đại diện là nhân danh và vì lợi ích hợp pháp của người được đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
* Trường hợp thành viên bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt, biện pháp xử lý hành chính
LDN 2020 đã bổ sung thêm khoản 8 vào Điều 53, quy định rằng khi thành viên góp vốn là cá nhân bị tạm giam, đang
chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt
buộc thì thành viên đó phải ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc tất cả các quyền và nghĩa vụ của mình tại
công ty. Mặc dù được xem là quy định mới, nhưng thực chất đây là sự dẫn chiếu Bộ luật Dân sự 2015 về đại diện theo
ủy quyền, cụ thể là: “Các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân cử ra một
cá nhân, pháp nhân khác để đại diện cho mình tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài
sản chung của mình. Việc cử đại diện theo ủy quyền phải được tất cả thành viên thỏa thuận thống nhất”.
* Trường hợp thành viên bị Tòa án cấm hành nghề
LDN 2020 đã bổ sung thêm khoản 9 vào Điều 53, quy định rằng: “Khi thành viên góp vốn là cá nhân bị Tòa án cấm
hành nghề, làm công việc nhất định thì cá nhân đó không được hành nghề, làm công việc đó tại công ty; Khi thành viên
góp vốn là pháp nhân thương mại bị Tòa án cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định thuộc
phạm vi ngành, nghề kinh doanh của công ty thì công ty phải tạm ngưng, chấm dứt kinh doanh ngành, nghề có liên
quan theo quyết định của Tòa án”. Tương tự với khoản 8, đây cũng là sự dẫn chiếu về hình phạt trong Bộ luật Hình sự
2015 bởi lẽ đối với những trường hợp như vậy, các thành viên đã không còn đủ quyền lợi để hoạt động trong lĩnh vực
đó.
g. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty
Điều 54 LDN 2020 đã sửa đổi về cơ cấu tổ chức quản lý công ty, cụ thể như sau:
Thứ nhất, khoản 2 quy định: “Nếu công ty là doanh nghiệp nhà nước hay công ty con của doanh nghiệp nhà nước
thì phải thành lập Ban kiểm soát (dẫn chiếu khoản 1, Điều 88), tạo nên sự thống nhất giữa các điều luật”. 
Ví dụ: Nếu công ty TNHH X thành lập năm 2015 có 20 thành viên thì theo Luật 2014 sẽ buộc phải thành lập Ban
kiểm soát, nhưng nếu công ty X thành lập năm 2021 thì sẽ chỉ bắt buộc thành lập Ban kiểm soát nếu là doanh nghiệp
nhà nước hay công ty con của doanh nghiệp nhà nước. 
Thứ hai, khoản 3 quy định phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật giữ một trong các chức danh: Chủ tịch
Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và nếu Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành
viên là người đại diện theo pháp luật của công ty. LDN 2020 đã cố định các đối tượng có thể trở thành người đại diện.
Việc quy định cụ thể này đảm bảo việc công ty luôn có người có khả năng đại diện, đại biểu và phụ trách các công việc
liên quan trực tiếp và gián tiếp đến cty, đảm bảo tính trật tự trong công ty. 
h. Về Hội đồng thành viên
Về cơ bản Điều 55 LDN 2020 chỉ bổ sung thêm nhằm đảm bảo sự thống nhất với các Điều khoản mà Luật đã sửa
đổi: thêm Người đại diện theo ủy quyền tại khoản 1, Quyết định phát hành trái phiếu tại điểm b, khoản 2 và Kiểm soát
viên tại điểm đ, khoản 2 Điều này. 
i. Về Chủ tịch Hội đồng thành viên
LDN 2020 đã kế thừa các quy định về Chủ tịch Hội đồng thành viên của LDN 2014, đồng thời bổ sung quy định về
việc bầu tạm thời Chủ tịch Hội đồng thành viên để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp khi Chủ tịch
vắng mặt. Cụ thể, các thành viên còn lại có quyền bầu khi: “không có thành viên được ủy quyền hoặc Chủ tịch Hội
đồng thành viên chết, mất tích, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính
tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân
sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định” cũng như đề cập chi tiết hơn về nguyên tắc bầu là “đa số thành viên còn lại tán thành cho đến khi có
quyết định mới của Hội đồng thành viên”.
Bên cạnh đó, Luật cũng sửa đổi từ quy định “tạm thời thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành
viên” thành “tạm thời làm Chủ tịch Hội đồng thành viên” giúp cho cá nhân đảm nhiệm chức vụ này được “chính danh”
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được quy định cho Chủ tịch Hội đồng thành viên theo quy định của pháp
luật và tại Điều lệ của công ty. Đây là một sự sửa đổi hợp lý nhằm minh bạch địa vị pháp lý của thành viên công ty được
bầu tạm thời làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, tạo điều kiện cho các hoạt động của công ty được diễn ra một cách
thuận lợi và hiệu quả hơn.
k. Về biên bản họp Hội đồng thành viên
Theo qđịnh tại khoản 3, Điều 60 LDN 2020 thì TH chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp Hội đồng
thành viên nhưng nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng thành viên tham dự họp ký thì biên bản này có hiệu
lực. 
Trên thực tế, chủ tọa hay người ghi biên bản nếu không đồng ý thông qua biên bản họp thường sẽ không hợp tác,
không chịu ký tên vào biên bản họp dẫn đến biên bản không đảm bảo đủ nội dung chủ yếu theo quy định của Luật và
không có hiệu lực. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm quyền quyết định của Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị
trong điều hành, quản trị doanh nghiệp. Như vậy, thay vào đó, việc thông qua hiệu lực biên bản khi được tất cả các
thành viên ký đảm bảo tính khách quan, trung thực trong quá trình lập biên bản họp. 
Ví dụ: Tại một buổi họp HĐTV của công ty TNHH hai thành viên X năm 2015, người ghi biên bản không đồng ý
với quyết định, từ chối ký biên bản kể cả với số phiếu 100% thì biên bản sẽ không có hiệu lực pháp lý. Nhưng đến buổi
họp Hội đồng thành viên công ty TNHH hai thành viên X năm 2021, khi người ghi biên bản từ chối không thông qua
như năm 2015 nhưng tất cả mọi người đều tham gia ký thì biên bản sẽ có hiệu lực mà không cần đến người ghi biên
bản.
Bên cạnh đó, LDN 2020 cũng bổ sung thêm tỷ lệ phiếu biểu quyết và nội dung ý kiến của người dự họp không đồng
ý thông qua biên bản họp trong quy định biên bản họp Hội đồng thành viên tại điểm đ và e khoản 2, Điều 60 nhằm tăng
tính hiệu quả của buổi họp.
l. Về hiệu lực của nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên
LDN 2020 đã bổ sung quy định mới về hiệu lực của nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên. Cụ thể:
Thứ nhất, tại khoản 2, Điều 62 LDN 2020 quy định rằng nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên được thông
qua bằng 100% tổng số vốn điều lệ có hiệu lực thi hành kể từ ngày được thông qua hoặc từ ngày có hiệu lực được ghi
tại nghị quyết, quyết định đó, ngay cả trong trường hợp trình tự và thủ tục thông qua nghị quyết, quyết định đó không
được thực hiện đúng quy định nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp, ý chí tự nguyện của các thành viên một cách kịp thời.
Quy định mà khi thông qua nghị quyết, quyết định cần phải tuân theo đó là quy định theo cả Điều lệ công ty, cũng
như là LDN 2020. Về cơ bản thì, việc tuân thủ theo quy định của Điều lệ công ty cũng chính là tuấn theo quy định của
pháp luật. Bởi các lý do sau:
(i) Căn cứ Điều 24 LDN 2020, điều lệ công ty được ban hành thông qua việc tuân thủ quy định của pháp luật về Điều
lệ công ty. Trong đó có các nội dung bắt buộc phải có trong Điều lệ công ty, và doanh nghiệp sẽ được tự do thỏa thuận
chi tiết về nội dung đó như thế nào, miễn là không làm những gì pháp luật cấm.
(ii) Căn cứ khoản 2, Điều 21 và khoản 5 Điều 26 LDN 2020 thì điều lệ công ty là 1 trong các loại tài liệu mà phải
nộp khi tiến hành nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Và Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét tính hợp lệ
của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp đăng ký doanh nghiệp; trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ, Cơ quan đăng ký kinh
doanh phải thông báo bằng văn bản nội dung cần sửa đổi, bổ sung cho người thành lập doanh nghiệp. Vì vậy có thể
thấy, khi đã được cấp chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì Điều lệ công ty đã được thông qua hợp lệ bởi Cơ quan đăng
ký kinh doanh
(iii) Căn cứ các Điều 60, 61, 62 LDN 2020, cũng có thể thấy cụm từ “Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định
khác”, cho thấy rằng LDN 2020 ưu tiên Điều lệ công ty là cần được tuân thủ, tôn trọng sự thỏa thuận, ý chí của các
thành viên trong Điều lệ công ty.
Từ những căn cứ trên, có thể khẳng định rằng khi thông qua nghị quyết, quyết định cần phải tuân theo quy định của
cả Điều lệ công ty, cũng như là LDN 2020.
Việc thông qua nghị quyết, quyết định không tuân theo đúng thủ tục, trình tự mà vẫn có hiệu lực thì về bản chất của
quy định này không có tác động tiêu cực hay rủi ro gì. Bởi khi nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên được
thông qua bằng 100% tổng số vốn điều lệ, điều này có nghĩa là nghị quyết, quyết định đó đã được đồng tình, chấp thuận,
thể hiện ý chí thống nhất của các thành viên cho nên không có thể gây phương hại đến các thành viên khác.
Thứ hai, tại khoản 3, Điều 62 LDN 2020 quy định rằng trong trường hợp thành viên, nhóm thành viên yêu cầu Tòa
án hoặc trọng tài huỷ bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên: nghị quyết, quyết định này vẫn có hiệu lực đến
thời điểm có quyết định huỷ bỏ của Tòa án hoặc Trọng tài có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tăng tính chặt chẽ của Điều luật.
m. Về tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc
Khoản 1, Điều 64 LDN 2020 đã lược bỏ cụm từ “Có đủ năng lực hành vi dân sự” vì quy định cụ thể về năng lực
hành vi dân sự đã được nêu rõ tại Điều 17 Luật này.
Ngoài ra khoản 3, LDN 2020 còn chỉnh sửa thêm về khái niệm “quan hệ gia đình”. Cụ thể trong LDN 2014 yêu cầu
“Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không được là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh
ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty mẹ và người đại diện phần vốn nhà
nước tại công ty đó”. Sang đến LDN 2020, các nhà làm luật đã bổ sung thêm “anh ruột của vợ, anh ruột của chồng, chị
ruột của vợ, chị ruột của chồng, em ruột của vợ, em ruột của chồng” vào “quan hệ gia đình” theo khoản 22, Điều 4
Luật này.
Nhìn chung việc người có quan hệ gia đình làm trong cùng cơ quan, công ty đều có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Tuy
nhiên, chính vì mặt tiêu cực nhiều hơn nên dẫn đến việc không công bằng trong quan hệ giao dịch, làm ăn, đối xử giữa
các thành viên công ty, tham ô tham nhũng, vi phạm pháp luật, bao che cho nhau. Điển hình là vụ án VN Pharma
8/2017 về buôn thuốc chữa ung thư giả có cựu tổng giám đốc Nguyễn Minh Hùng em ruột của chồng bà Nguyễn Thị
Kim Tiến, Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế. Câu hỏi được đặt ra là tại sao em chồng của bà Kim Tiến kinh doanh trong kinh
vực quản lý của bà lại có thể kinh doanh trong lĩnh vực quản lý của bà. Khi đó mới thấy sự thiếu sót lớn mà LDN 2020
đã cập nhật (Lê Thành Hà và Lan Anh (2017), báo Tuổi trẻ). Như vậy, việc điều chỉnh lại, lấp đầy các lỗ hổng pháp luật
là hoàn toàn hợp lý dù Luật Việt Nam vẫn còn khá lỏng so với luật các nước trên thế giới ví dụ như trong phụ chương B,
Chương 573 Luật Texas (Mỹ) đã mở rộng khái niệm “quan hệ gia đình” lên đến đời ông bà.
n. Về Ban kiểm soát, Kiểm soát viên
Theo quy định của LDN 2014 thì không có điều khoản nào quy định chi tiết về BKS. Theo đó, Đ55 LDN 2014 quy
định trong cơ cấu tổ chức đối với cty TNHH khi có từ 11 thành viên trở lên thì bắt buộc phải thành lập BKS. 
Tuy nhiên đến LDN 2020 thì việc thành lập Ban kiểm soát chỉ là bắt buộc đối với công ty TNHH hai thành viên trở
lên là doanh nghiệp nhà nước. Các trường hợp còn lại, công ty TNHH hai thành viên có quyền tự quyết định việc có
thành lập Ban kiểm soát hay không.
Về cơ bản, Ban kiểm soát của một công ty có vai trò như cơ quan tư pháp trong bộ máy hoạt động của nhà nước. Ban
kiểm soát được thành lập với mục đích thực hiện các công việc nhằm kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý và điều
hành của công ty. Như vậy, nhằm giúp cho bộ máy nhà nước hoạt động một cách hiệu quả, minh bạch thì bắt buộc công
ty nhà nước phải có Ban kiểm soát là hợp lý. Bên cạnh đó, việc nới lỏng quy định với những công ty TNHH hai thành
viên còn lại có thể dẫn đến tình trạng hoạt động trái phép, công ty ma.
o. Về hợp đồng, giao dịch phải được Hội đồng thành viên chấp thuận
Về cơ bản, Điều 67 LDN 2020 hầu như kế thừa toàn bộ các quy định Điều 67 LDN 2014 về chấp thuận của Hội
đồng thành viên đối với những giao dịch, hợp đồng phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Duy nhất theo khoản 2,
Điều 67 cần chú ý đến điều kiện chấp thuận của Hội đồng thành viên, cụ thể như sau: “Khi nhận được sự tán thành của
các thành viên dự họp sở hữu từ 75% trong tổng số vốn góp của tất cả thành viên dự họp đối với hợp đồng, những giao
dịch có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản trở lên sẽ nhận được quyền sửa đổi bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải
thể công ty và sự tán thành của các thành viên dự họp sở hữu từ 65% tổng số vốn góp của tất cả thành viên dự họp đối
với các hợp đồng, giao dịch còn lại”. 
Ví dụ: trong một cuộc họp năm 2015 của công ty TNHH hai thành viên, ông A sở hữu 70% tổng số vốn góp có
quyền tự mình quyết định mọi vấn đề của công ty nhưng trong cuộc họp năm 2021 thì công A không còn quyền quyết
định những vấn đề lớn của công ty do sở hữu ít hơn 75% tổng số vốn góp. Ở đây, LDN 2020 đã đưa ra yêu cầu cao hơn
về tỷ lệ số vốn góp đối với những hợp đồng, giao dịch mang tính quyết định lớn tới cả công ty (như giá trị hợp đồng,
giao dịch lớn, thay đổi về điều khoản công ty, tổ chức lại và giải thể) đã góp phần tạo hành lang pháp lý vững chắc trong
quá trình hoạt động, ký kết hợp đồng và giao dịch của công ty. 
p. Về công bố thông tin
So với LDN 2014, Điều 73 LDN 2020 đưa ra thêm quy định về việc công bố thông tin định kỳ đối với những công ty
TNHH hai thành viên là doanh nghiệp nhà nước tương ứng các Điều 88, Điều 109 và Điều 110. Thực chất, chi tiết việc
công bố thông tin định kỳ không có gì thay đổi nhiều mà đây cũng chỉ là điều luật dẫn chiếu từ những phần khác có liên
quan để tăng độ chặt chẽ, tính liên kết trong luật.
2. Về công ty TNHH một thành viên
Nhìn chung, trong LDN 2020 thì những điểm mới về công ty TNHH một thành viên có sự tương đồng nhất định với
các phần tương ứng của công ty TNHH hai thành viên mà nhóm đã phân tích phía trên. Cụ thể là về quyền phát hành cổ
phần (khoản 3, Điều 74); quyền phát hành trái phiếu (khoản 4, Điều 74); điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc (Điều
82). Vì vậy, nhóm chỉ thực hiện liệt kê những điểm mới nổi bật khác:
a. Về quyền của chủ sở hữu công ty
Tại điểm c, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã điều chỉnh thêm về quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Kiểm soát
viên của công ty. Điều này không nói lên rằng quyền của chủ sở hữu là tổ chức được mở rộng hơn đối với đối tượng này
so với luật cũ. Thực chất việc bổ sung vào Điều này là do Điều 82 quy định về bổ nhiệm Kiểm soát viên và thành lập
Ban kiểm soát của công ty TNHH một thành viên của LDN 2014 đã bị lược bỏ.
Tại điểm g, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã lược bỏ quyền về quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản, thay vào đó là quyền thông qua báo cáo tài chính của công ty. Việc lược bỏ quyền quyết định
bán tài sản có giá trị lớn giúp cho đảm bảo về hoạt động của doanh nghiệp bởi trên thực tế, chủ sở hữu có thể không là
nắm giữ tỷ lệ vốn góp lớn. Bên cạnh đó, về cơ bản, báo cáo tài chính được lập ra để phản ánh tình hình tài chính, sản
xuất kinh doanh cũng như là tình trạng lưu chuyển tiền tệ của công ty, cho nên việc chủ sở hữu có quyền thông qua báo
cáo tài chính là việc hợp lý, giúp cho chủ sở hữu nắm rõ và kiểm tra sát sao. Tuy vậy cũng một phần làm cho chủ sở hữu
có thể tìm cách thao túng, phản ánh không đúng báo cáo tài chính hàng kỳ.
Tại điểm h, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã bổ sung quyền phát hành trái phiếu. Đây cũng chỉ là một sự dẫn chiếu về
quyền phát hành trái phiếu của công ty TNHH một thành viên (khoản 4, Điều 74 LDN 2020)
b. Về thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty trong một số trường hợp đặc biệt
Điều 78 LDN 2020 cũng có một số sự sửa đổi, bổ sung tương tự với việc xử lý phần vốn góp trong một số trường
hợp đặc biệt của công ty TNHH hai thành viên (Điều 53 LDN 2020) về xử lý trường hợp cá nhân đang chấp hành phạt
tù, phạt hành chính, cấm hành nghề, bổ sung về trường hợp cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và
chuyển đổi từ người giám hộ sang người đại diện.
Tại khoản 4, Điều 78 cũng có thêm sự dẫn chiếu trong trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân mất tích sẽ được
giải quyết theo Điều 65 Bộ luật Dân sự 2015 về việc quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú. Trước đó, đối
tượng này không được nhắc đến trong LDN 2014, cho thấy đây là một sự thiếu sót khi không có hướng đi, cách giải
quyết cho công ty nếu xảy ra vấn đề chủ sở hữu bị mất tích.
c. Về cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu
Ngoài những thay đổi về người đại diện theo pháp luật giống với công ty TNHH hai thành viên thì tại Điều 79 LDN
2020 cũng đã có sự điều chỉnh phù hợp với những điều khoản khác khi lược bỏ “Kiểm soát viên” trong mô hình tổ chức
hoạt động của công ty. Nói cách khác, tất cả các công ty TNHH một thành viên đều không yêu cầu phải có Kiểm soát
viên. Điều này là hợp lý bởi với trong trường hợp công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể có nhiều người đại diện,
mỗi người có một hướng đi riêng, có thể dẫn đến trường hợp người ký hợp đồng có lợi cho mình nhưng có hại cho công
ty, cho người khác nên cần có Ban kiểm soát để kiểm soát tính đúng sai trong quá trình hoạt động. Còn với công ty
TNHH một thành viên thì chỉ có quy mô nhỏ, một người tự đưa ra quyết định, tự chịu trách nhiệm cho hành động của
mình nên không nhất thiết phải có Ban kiểm soát.
d. Về Hội đồng thành viên
Điều 80 LDN 2020 cơ bản không có nhiều thay đổi so với Điều 79 LDN 2014 ngoài việc bổ sung điều kiện về số
phiếu biểu quyết: 75% tổng số phiếu biểu quyết trở lên đối với việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại, chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ và 50% tổng số phiếu biểu quyết trở lên đối với những nghị quyết, quyết
định còn lại. Việc bổ sung này giúp nâng cao tính chặt chẽ trong quá trình bỏ phiếu, đưa ra những quyết định của Hội
đồng.
đ. Về trách nhiệm của thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc, Tổng giám đốc và người
quản lý khác, Kiểm soát viên
Nhìn chung tại Điều 83 LDN 2014 và 2020 thì nội dung quy định gần như giống nhau. Tiêu đề điều luật tại LDN
2020 đã có sự bổ sung về người quản lý khác. Khoản 24, Điều 4 LDN 2020 đã quy định về những người quản lý doanh
nghiệp bao gồm: chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng
thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty. 
Như vậy, có thể thấy việc quy định như LDN 2014 không đầy đủ các chủ thể có quyền quản lý ở trong công ty. Việc
quy định thêm những người quản lý khác của LDN 2020 đã bổ sung đầy đủ những chủ thể quản lý doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật so với Luật Doanh nghiệp năm 2014.
e. Về cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu
Khoản 2, Điều 85 LDN 2020 đã kế thừa quy định liên quan nội dung này của LDN 2014 và quy định rõ ràng hơn:
“Chủ sở hữu công ty là Chủ tịch công ty”. Việc quy định như thế này để tránh người đọc luật nhầm lẫn, vì có trường
hợp chủ sở hữu công ty kiêm luôn làm chủ tịch công ty. Đây quy định thể hiện rõ tên gọi “công ty TNHH một thành
viên” và được đưa ra nhằm tránh tình trạng quy định không cụ thể hoặc không chính xác trong Điều lệ công ty về mô
hình tổ chức hoạt động, dẫn đến những rủi ro pháp lý không đáng có trong quá trình hoạt động.
g. Về hợp đồng, giao dịch của công ty với những người có liên quan
Nội dung của cả hai Luật về hợp đồng, giao dịch của công ty với những người có liên quan gần như tương tự, tuy
nhiên LDN 2020 đã có một số sự bổ sung để các quy định được đầy đủ hơn so với LDN 2014, cụ thể như sau:
Tại điểm b, khoản 1, Điều 86 LDN 2020 đã bổ sung Chủ tịch công ty vào những đối tượng mà khi giao dịch cần
được Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên chấp thuận. 
Tại khoản 2 Điều này đã bổ sung “lợi ích trong hợp đồng, giao dịch” vào một trong những nội dung phải thông báo
cho HĐTV hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên khi ký kết hợp đồng, giao dịch.
Tại khoản 3 Điều này đã bổ sung Tổng giám đốc, Giám đốc vào những chủ thể có thẩm quyền quyết định việc chấp
thuận giao kết hợp đồng, giao dịch.
Việc bổ sung này của LDN 2020 là hoàn toàn hợp lý khi đã hoàn thiện hơn các điều luật quy định về giao dịch, thẩm
quyền xuyên suốt những nội dung được quy định trong Luật.
III. KẾT LUẬN 
Tóm lại, về những quy định chung, việc thành lập doanh nghiệp và công ty TNHH, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có
tổng cộng 14 điểm sửa đổi. Mặc dù trong đó vẫn còn một số bất cập nhưng nhìn chung LDN 2020 đã có những điểm
sửa đổi tích cực, những quy định lỏng lẻo trước đây đã được bổ sung và quy định lại chặt chẽ hơn như có 7 nhóm đối
tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp (khoản 2 điều 17),... Cũng như bỏ bớt đi những quy định mang tính
rườm rà, bất lợi cho doanh nghiệp giúp đơn giản hoá các thủ tục, giúp tiết kiệm thời gian, công sức như không phải
thông báo mẫu dấu khi đăng ký thành lập doanh nghiệp,... Bên cạnh đó những thuật ngữ được sử dụng trong LDN 2020
đã được bổ sung, giải thích rõ ràng, cặn kẽ và cụ thể hơn so với LDN 2014 như tại khoản 2 Điều 4 LDN 2020 “cá nhân
nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài” còn Điều 4 LDN 2014 giải thích “cá nhân nước ngoài
là người không có quốc tịch Việt Nam" và một số thuật ngữ khác như đã được nhóm phân tích trên. Những sự thay đổi
này là cần thiết, đáp ứng tốt mục tiêu chủ động đưa những thực tiễn quốc tế đạt chuẩn khu vực và quốc tế vào Việt Nam,
góp phần thuận lợi cho sự hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế của doanh nghiệp cũng như đất nước. Hơn thế nữa, sự
thay đổi này giúp đổi mới gia nhập thị trường chuyển mạnh đến cải thiện chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp,
đặc biệt về khung pháp lý quản trị công ty. Từ đó, nhà nước cũng thuận lợi, dễ dàng hơn trong khâu quản lý doanh
nghiệp.
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020
I. Đánh giá của các luật gia, chuyên gia về luật
Qua việc phân tích các điểm mới ở phần trên, có thể thấy LDN 2020 đã phần nào bổ sung được những thiếu sót, bất
cập, đồng thời cũng xoá bỏ những điều khoản không cần thiết. Một số thay đổi tích cực đã được ghi nhận theo ý kiến
của các chuyên gia, điển hình như trong việc nới lỏng hơn các vấn đề như thời hạn góp vốn, các thủ tục hành chính khi
thành lập doanh nghiệp, điều chỉnh lại việc sử dụng từ ngữ, kết cấu của luật đồng thời cũng có sự dẫn chiếu tới những
luật và quy định khác có liên quan.
Luật sư Lê Thành Kính – Giám đốc Công ty Luật Lê Nguyễn, Trọng tài viên VIAC cho rằng:  LDN 2020 có hiệu lực
vào tháng 1/2021 được kỳ vọng sẽ tạo nên những thay đổi lớn trên thị trường, ở cả góc độ doanh nghiệp và quản lý nhà
nước. Theo nhận định của ông, những điểm mới của LDN 2020 cho phép doanh nghiệp được thuận lợi hơn không chỉ
trong việc thành lập mà còn trong cả quá trình gia nhập thị trường và nhất là quản trị doanh nghiệp. LDN 2020 đã có
bước ngoặt trong việc thực hiện mục tiêu mà LDN 2014 đưa ra, cụ thể là việc cắt giảm thủ tục gia nhập thị trường và cải
thiện niềm tin của NĐTư, từ đó đưa ra các giải pháp để gỡ khó cho doanh nghiệp trong việc chuyển đổi mô hình doanh
nghiệp.
Luật sư Trương Thanh Đức - Trọng tài viên VIAC, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty Luật BASICO đưa ra
những vdụ cụ thể về các điều luật được thay đổi, bổ sung trong LDN 2020. Qđịnh người đại diện pháp luật mặc dù vẫn
giống năm 2015 ở điểm luôn phải có ít nhất 1 người cư trú tại VN, nhưng cũng đã có một số thay đổi nhất định qđịnh
trong điều lệ công ty là nếu phân chia quyền, nghĩa vụ không rõ thì mỗi người đều là đại diện với đủ thẩm quyền và tất
cả phải chịu trách nhiệm liên đới. Ngoài việc bổ sung thêm các điều khoản mới thì LDN 2020 cũng đã bỏ đi một số điều
khoản được cho là không cần thiết, vdụ như tóm tắt thủ tục chuyển nhượng trong cổ phiếu, yêu cầu đăng báo việc mất
cổ phiếu,… 
Với thay đổi quan trọng về quyền hạn và trách nhiệm của người đại diện pháp luật trong trường hợp Doanh nghiệp
có nhiều người đại diện tại khoản 2 Điều 12 Luật Doanh nghiệp, tác giả bài viết “Những điểm mới của Luật Doanh
nghiệp năm 2020 tác động đến hoạt động của Doanh nghiệp Việt Nam và khuyến nghị” được đăng trong Tạp chí Nghề
Luật số 02/2021 đã đánh giá đây chính là sự tháo gỡ vướng mắc cho vấn đề bỏ ngỏ của LDN 2014. Điều này đã tạo ra
các tranh chấp về kinh doanh thương mại, quy định mới của LDN 2020 sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề
liên quan đến thẩm quyền giao dịch, tạo ra sự tất yếu trong việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và góp phần
bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu doanh nghiệp khi họ giao quyền cho cá nhân khác. Bên cạnh đó, những chủ thể được
giao quyền sẽ có trách nhiệm, gắn mình với trách nhiệm được giao, giúp hạn chế được sự lạm dụng quyền hạn hay
buông lỏng trong quản lý doanh nghiệp.
Một thay đổi khác cũng được các chuyên gia đánh giá cao là thời gian báo trước khi tạm ngừng hoặc quay trở lại
kinh doanh cũng được rút ngắn từ chậm nhất 15 ngày làm việc tại LDN 2014 xuống còn 3 ngày làm việc tại LDN 2020. 
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm nổi bật được các chuyên gia đánh giá là những thay đổi tích cực thì  LDN 2020 vẫn
còn một số điểm chưa rõ ràng, thiếu hợp lý, theo quan điểm của nhiều luật sư thì những điểm đó có thể sẽ gây ra nhiều
khó khăn cho các doanh nghiệp khi áp dụng luật.
Theo các chuyên gia phân tích, dù Luật đã được thông qua những vấn đề thời hạn góp vốn vẫn thực sự còn là “lỗ
hổng” pháp luật. Theo đó, LDN 2020 vẫn giữ nguyên thời hạn tối đa 90 ngày kể từ lúc công ty được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp để thành viên, cổ đông góp vốn tại các Điều 47, 75, 112, thế nhưng, theo các chuyên gia
dường như để đáp lại phàn nàn của cộng đồng doanh nghiệp về thời hạn 90 ngày là quá ngắn ngủi, LDN 2020 đã rất
“rộng lượng”, không tính thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển
quyền sở hữu tài sản vào thời hạn này.
“Vấn đề là khi nào thì người góp vốn phải bắt đầu vận chuyển, nhập khẩu hay thực hiện thủ tục hành chính đó? Đặt
ra thời hạn mà không có điểm bắt đầu thì khó mà xác định được khi nào mới hết khoảng thời gian đó. Và thật dễ tận
dụng quy định này để kéo dài thời hạn góp vốn, chẳng hạn như đăng ký vốn góp bằng tiền thật nhỏ, bằng tài sản thật
lớn, như vậy, vốn đăng ký thật lớn nhưng vốn thực góp trong ba tháng đầu có thể rất nhỏ. Hoặc đăng ký vốn ban đầu
nhỏ, đăng ký vốn góp thêm lớn hơn vì Luật mới vẫn không đặt ra thời hạn cho vốn góp thêm”, các chuyên gia nêu quan
điểm.
Ngoài ra, LDN 2020 được cho là vẫn còn tồn tại nhiều bất cập liên quan đến vấn đề mâu thuẫn giữa LDN 2020 và
Bộ luật Dân sự 2015. Do đó, có thể sẽ gây ra khó khăn tr quá trình áp dụng luật vào giải quyết các tranh chấp trên thực
tế.
Thông tin với báo chí về vấn đề này, Luật sư Phạm Văn Phát – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết, Đối với
công ty TNHH hai thành viên tại khoản 5, Điều 53 LDN 2020 quy định: “Trường hợp phần vốn góp của thành viên là
cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì phần vốn
góp đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”.
Đối với công ty TNHH một thành viên tại khoản 3, Điều 78 LDN 2020 quy định: “Trường hợp chủ sở hữu công ty
là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu công ty hoặc thành viên công ty. Công
ty phải tổ chức quản lý theo loại hình doanh nghiệp tương ứng và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp
trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết thừa kế. Trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân chết mà
không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì phần vốn góp của chủ sở
hữu được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”.
Theo Luật sư Phát, các quy định đã nêu chưa có sự thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự 2015, bởi theo Điều
622 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng
không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà
không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”.
Luật sư Phát phân tích rằng: “Cụ thể, khoản 5, Điều 53; khoản 3, Điều 78; khoản 4, Điều 127 và khoản 3, Điều 193
LDN 2020 không đề cập đến trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, Điều 622
Bộ luật Dân sự 2015 lại không đề cập đến trường hợp bị truất quyền thừa kế, trong khi đó, trường hợp người thừa kế
không được quyền hưởng di sản hoàn toàn khác với trường hợp bị truất quyền quyền thừa kế. Do vậy, các quy định tại
LDN 2020 cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm sự thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự 2015”.
Ngoài ra, LDN 2020 còn có sự không thống nhất đối với quy định về trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu công ty
TNHH một thành viên với quy định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015.
Cụ thể, khoản 2, Điều 75 LDN 2020 quy định: “Chủ sở hữu phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi
đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”.
Nhằm đảm bảo nguyên tắc trung thực khi kê khai, góp vốn điều lệ, tại khoản 3, Điều 75 LDN 2020 cũng quy định:
“Trường hợp không góp đủ vốn điều lệ trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, chủ sở hữu Công ty phải đăng ký
điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị số vốn thực góp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn điều
lệ. Trường hợp này, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài
chính của Cty phát sinh trong thời gian trước ngày cuối cùng Cty đăng ký thay đổi vốn điều lệ theo quy định tại khoản
này”.
Trường hợp nếu hết 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn điều lệ nếu chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên không đăng ký thay đổi vốn điều lệ thì chủ công ty phải chịu trách nhiệm theo khoản 4, Điều 75 LDN 2020: “Chủ
sở hữu chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty, thiệt hại xảy ra do
không góp, không góp đủ, không góp đúng hạn vốn điều lệ”.
Theo Luật sư Phạm Văn Phát – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, quy định như trên là chưa thống nhất với quy định
về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015, bởi theo điểm c, khoản 1, Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 thì tài sản của pháp
nhân phải độc lập với tài sản của cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Xét ở góc độ
trách nhiệm tài sản của pháp nhân thì thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân và ngược lại,
pháp nhân cũng không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của mình. Trong khi đó, công ty TNHH một thành viên
cũng được xác định là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
“Theo LDN 2020, nghĩa vụ góp vốn của chủ sở hữu Công ty TNHH một thành viên phát sinh từ thời điểm được cấp
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ góp vốn thì Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên đã có tư cách pháp nhân. Như vậy, khi Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đã có tư cách pháp
nhân thì thành viên của pháp nhân không phải chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân”, Luật sư Phát phân tích.
Cũng theo Luật sư Phát, quy định chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ tài chính của công ty trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ góp vốn cũng chưa thực sự phù
hợp và chưa thống nhất với các quy định khác của Luật Doanh nghiệp. Bởi, nếu chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên góp đủ số vốn đã cam kết và công ty làm ăn bị thua lỗ thì chủ sở hữu cũng chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi
vốn điều lệ của công ty. Do vậy, nếu chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên góp vốn không đủ, không đúng hạn thì
cũng chỉ nên yêu cầu chủ sở hữu chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Hay theo Luật sư Nguyễn Quang Vũ, LDN 2020 tuy đã có những điểm nới về mặt thủ tục hành chính, đặc
biệt là không yêu cầu công ty phải thông báo về mẫu con dấu và các thay đổi đối với người quản lý của công ty, LDN
không quy định rõ cách để công chúng có thể biết được con dấu của công ty nếu không có cơ sở dữ liệu công khai về
mẫu con dấu19.

 II. Đánh giá của các doanh nghiệp


Có thể thấy rõ ràng, LDN 2020 đã bổ sung, sửa đổi nhiều quy định, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh
nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu tổng thể là tiếp tục tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, bình
đẳng, an toàn và thân thiện cho mọi người dân, doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động đầu tư kinh doanh. Cùng hướng tới một mục đích tốt đẹp, LDN 2020 đã nhận được nhiều ý kiến tích
cực đến từ các chủ doanh nghiệp trong phạm vi điều chỉnh. 
Ông Phạm Thái Sơn, Giám đốc Công ty Cổ phần Xi măng Cao Ngạn, Thái Nguyên cho rằng: “Nhà nước đã mở
hành lang pháp lý rộng rãi hơn về sử dụng con dấu, theo hướng đề cao trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp
và sẽ linh hoạt hơn trong quản lý con dấu. DN chủ động hơn và nhà nước sẽ can thiệp bằng chính sách, can thiệp bằng
kiểm soát công nghệ. Tính kiểm soát như thế cũng khoa học hơn, hiện đại hơn và chính xác hơn. Đồng thời, khi thay đổi
cách quản lý con dấu linh hoạt hơn cũng giúp các doanh nghiệp quản lý con dấu chặt hơn”. Với góc nhìn trực tiếp và
đánh giá khách quan, việc bãi bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu, đồng thời quy định doanh nghiệp có thể sử dụng dấu “số”
thay cho con dấu “truyền thống” là vấn đề nổi bật hứa hẹn đem lại nhiều hiệu quả trong quá trình hoạt động của DN. 
Bên cạnh đó, thời gian báo trước khi tạm ngừng hoặc quay trở lại kinh doanh cũng được rút ngắn từ chậm nhất 15
ngày làm việc tại LDN 2014 xuống còn 3 ngày làm việc tại LDN 2020, có thể nói rằng đây cũng là một trong những nội
dung cũng được doanh nghiệp đánh giá cao.
19
Báo Vietnam Business Law, Luật Doanh nghiệp 2020 mới áp dụng cho các công ty tại Việt Nam, truy cập tại: https://vietnam-
business-law.info/blog-lut-kinh-doanh/2020/7/30/lut-doanh-nghip-2020-mi-p-dng-cho-cc-cng-ty-ti-vit-nam
Ông Lê Mạnh Cường, Giám đốc Công Ty cổ phần Thương Mại Thép Việt Cường, Thái Nguyên nhận xét: “Các nhà
làm luật luật và nghiên cứu về luật đã nghĩ đến trường hợp doanh nghiệp khó khăn, tạm dừng. Trước đây xin phải mất
15 ngày, bây giờ giảm xuống còn 3 ngày đã giảm chi phí, thời gian cho doanh nghiệp. Và khi muốn hoạt động trở lại
cũng chỉ mất 3 ngày. Đó là một điểm sáng của luật doanh nghiệp năm 2020”. 
Tuy nhiên, xét theo một khía cạnh khác, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trong thời gian tạm ngừng kinh
doanh, doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ; tiếp tục thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng
đã ký với khách hàng và người lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp, chủ nợ, khách hàng và người lao động có thỏa
thuận khác. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì ngoài các khoản trên thì trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh
nghiệp còn phải nộp đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn nợ. Bên cạnh việc nâng cao hiệu suất
của bởi rút ngắn thời gian cho chính Doanh nghiệp, LDN 2020 còn góp phần xây dựng hàng rào bảo vệ quyền lợi cho
người lao động và thắt chặt nghĩa vụ bảo hiểm của doanh nghiệp. 
Một điểm mới đáng lưu ý là: LDN 2020 quy định “DN tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty TNHH, công ty Cổ
phần hoặc Công ty hợp danh theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy
định”, trong khi đó, LDN 2014 chỉ quy định trường hợp chuyển đổi DN tư nhân thành công ty TNHH. Với những
chuyển biến tích cực này, cụ thể nhiều chủ doanh nghiệp cũng đã công nhận lợi ích của việc đa dạng các phương thức
nộp hồ sơ đăng ký doanh nghiệp gồm: đăng ký trực tiếp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh; đăng ký qua dịch vụ bưu
chính và đăng ký qua mạng thông tin điện tử, hướng đến sự thuận lợi về khởi sự kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà đầu
tư. Có thể nói rằng, LDN 2020 được coi là đòn bẩy hiệu quả nhằm hỗ trợ doanh nghiệp thay đổi mô hình hoạt động phù
hợp với tình hình tài chính, thực tiễn của doanh nghiệp và tương thích với các quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018.
Ông Nguyễn Văn Cường, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Nhỏ và vừa tỉnh Thái Nguyên cho biết: “Luật Doanh
nghiệp mới gợi mở, bớt những rào cản, giảm bớt thủ tục hành chính. Để cho doanh nghiệp tiếp cận được với luật mới
phù hợp với thời kỳ đổi mới, chuyển đổi số. Tôi tin là các doanh nghiệp sẽ tận dụng được lợi thế này của Luật Doanh
nghiệp mới để phát triển hoạt động”.
Luật Doanh nghiệp cơ bản bao gồm bãi bỏ các thủ tục không còn cần thiết như: Thủ tục thông báo mẫu dấu, thủ tục
báo cáo thay đổi thông tin người quản lý doanh nghiệp...; đồng thời, bổ sung quy định về đăng ký doanh nghiệp qua
mạng thông tin điện tử. Đây chính là những điểm nổi bật mà các doanh nghiệp đề cao nhờ sự tối ưu hóa thời gian và tiền
bạc mà các doanh nghiệp phải bỏ ra cho khâu chuẩn bị thủ tục hồ sơ pháp lý. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến trái
chiều khác, phản ánh được sự hạn chế của LDN 2020 đối với một số đối tượng nhất định như doanh nghiệp mới mở. 
Ông Đào Xuân Thiệp, Chủ tịch Câu lạc bộ Đầu tư và Khởi nghiệp tỉnh Thái Nguyên, Tổng Giám đốc Công ty cổ
phần Đầu tư xây lắp Hải Anh Chi nhánh Thái Nguyên đề nghị: “Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp cần những hướng
dẫn cụ thể và hỗ trợ ban đầu. Đây không phải là câu chuyện hỗ trợ về vốn mà hỗ trợ về thủ tục pháp lý. Các doanh
nghiệp khởi nghiệp cần điều này. Trong LDN cần chia tách ra ví dụ doanh nghiệp mới khởi nghiệp cần bao nhiêu năm
được hỗ trợ của của cơ quan Thuế hay các cơ quan khác, hoặc được quyền tiếp cận với các dự án đầu tư thuộc các cơ
quan công quyền, chính phủ, dự án vốn đầu tư nước ngoài. Tôi thấy đây là cái thiệt thòi của các doanh nghiệp mới khởi
nghiệp”.
Để LDN 2020 sớm đi vào cuộc sống và thực sự tạo được thuận lợi, thông thoáng cho doanh nghiệp thì cơ quan chức
năng cũng cần sớm ban hành các nghị định hướng dẫn, đồng thời, cần phải rà soát để tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các luật liên quan để đồng bộ với các quy định mới của LDN 2020:
Ông Đào Xuân Thiệp, Chủ tịch Câu lạc bộ Đầu tư và Khởi nghiệp tỉnh Thái Nguyên, Tổng Giám đốc Công ty cổ
phần Đầu tư xây lắp Hải Anh Chi nhánh Thái Nguyên cho rằng: “Nên gạch đầu dòng hoặc tóm tắt có những buổi tập
huấn nói về các giá trị cốt lõi để có những điều cơ bản về luật để khi bắt đầu khởi nghiệp hoặc bắt đầu làm chủ doanh
nghiệp, các bạn hiểu về luật này với những khái niệm cơ bản nhất. Tôi cũng mong muốn chính quyền cần có hành động
trực tiếp và xác thực hơn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.” 
Đặc biệt, việc LDN 2020 bổ sung quy định thời hạn góp vốn trong Công ty TNHH hai thành viên trở lên có thể giúp
nhà đầu tư tránh vi phạm quy định về thời hạn góp vốn do mất quá nhiều thời gian cho việc làm thủ tục nhập khẩu, vận
chuyển, chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn. Tuy nhiên vấn đề là khi nào thì người góp vốn phải bắt đầu vận
chuyển, nhập khẩu hay thực hiện thủ tục hành chính đó. Đặt ra thời hạn mà không có điểm bắt đầu thì khó mà xác định
được khi nào mới hết khoảng thời gian đó. Và thật dễ tận dụng quy định này để kéo dài thời hạn góp vốn, chẳng hạn
như đăng ký vốn góp bằng tiền thật nhỏ, bằng tài sản thật lớn. Như vậy, vốn đăng ký thật lớn nhưng vốn thực góp trong
ba tháng đầu có thể rất nhỏ. Hoặc đăng ký vốn ban đầu nhỏ, đăng ký vốn góp thêm lớn hơn vì Luật mới vẫn không đặt
ra thời hạn cho vốn góp thêm. Đây chính là điển hình cho trường hợp quy định cần thiết nhưng bộc lộ bất cập khi thực
thi, thời hạn góp vốn vào doanh nghiệp phải được thực hiện xong trong 90 ngày, trong khi đó với trường hợp góp vốn là
tài sản bất động sản, thiết bị máy móc nhập từ nước ngoài thì rất khó hoàn thành thủ tục góp vốn trong thời gian đó. 
Nhưng nhìn chung, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách gia nhập thị trường
chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng doanh nghiệp, cụ thể là khung pháp lý về quản trị công ty. Luật Doanh nghiệp
hứa hẹn sẽ đem lại nhiều chuyển biến tích cực cho các doanh nghiệp nói chung và loại hình Công ty TNHH nói riêng.

III. Đánh giá của nhóm sinh viên


Mục 1,2,3: Sửa đổi, định hình lại khái niệm về doanh nghiệp và cá nhân
Theo khoản 1 Điều 4 LDN 2014, cá nhân nước ngoài là người “không có quốc tịch Việt Nam”. Theo em, quy định
này đúng, nhưng có phần chưa đủ. Quốc tịch là cơ sở pháp lý để xác minh một người có phải là công dân của nước sở
tại. Quyền và nghĩa vụ của công dân nước sở tại với người nước ngoài không giống nhau. Quốc tịch là căn cứ để người
nước ngoài hưởng những quy chế pháp lý riêng, mặc dù về nguyên tắc, họ được hưởng quy chế “đãi ngộ như công dân”
nhưng trong một số lĩnh vực, do không phải công dân Việt Nam nên người nước ngoài không có quyền thực hiện. Tuy
nhiên, chiếu theo khoản 1 điều 4, sẽ còn bỏ xót trường hợp những người “không có quốc tịch”. Đó có thể là những
người xin thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa làm thủ tục nhập quốc tịch nước ngoài, bị tước quốc tịch, hủy bỏ quyết
định nhập tịch, … Sự nhập nhằng về định nghĩa này, vô hình chung sẽ tạo ra các rào cản cho việc quản lý cấp doanh
nghiệp, đồng thời không đảm bảo tính an toàn cho doanh nghiệp. Vì vậy, việc sửa từ “không có quốc tịch Việt Nam”
thành “mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài” của Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2018 sẽ tăng tính an toàn cho
doanh nghiệp và thuận tiện hơn cho các công tác quản lí.
Xét khoản 8 Điều 4, việc sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được coi như hành động làm rõ về công tác
tổ chức quản lý và hình thức công ty quản lí là công ty TNHH hay là công ty cổ phần. Từ đó, cụ thể hóa và tối ưu hóa
việc điều khiển bộ máy công ty. Sự rõ ràng về khái niệm và vốn điều lệ cũng giúp các doanh nghiệp có thể phát triển
một cách độc lập và đúng hướng, nâng cao khả năng kinh doanh và tăng thêm lợi nhuận.
Về mục 3, việc sửa đổi khái niệm liên quan đến người có liên quan, nó tăng thêm phạm vi và quyền lực của những
người có liên quan trong việc quản lí điều hành bộ máy công ty. Trong LDN 2014, có nhiều phần chưa được tối ưu dẫn
đến các quyền lợi, phạm vi tham gia của các người có liên quan như cổ đông, chủ đầu tư,... có phần bị hạn chế. Điều
này, dễ dẫn đến sự e dè, thiếu quyết đoán trong đầu tư. Với doanh nghiệp, điều này là vô cùng bất lợi khi cổ đông và
chủ đầu tư như một nguồn sống để công ty có thể tiếp tục tồn tại với những đồng vốn quý báu của họ. Sự gỡ trói cho
doanh nghiệp cũng như các bên thứ 3 ở LDN sửa đổi 2018 xem như là một bước đường phát triển mới được mở ra.
Đồng thời, phạm vi người thân liên quan cũng được điều chỉnh lại như một cách tối ưu hóa sự tham gia của bộ máy
doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiếp tục giúp doanh nghiệp tạo được không gian, môi trường, cơ chế lành
mạnh để phát triển
Mục 4: Thêm và bãi bỏ trường hợp được cử người khác làm đại diện theo pháp luật
Quy định mới sẽ tự nâng cao tính pháp lý ràng buộc và trách nhiệm cho người đại diện theo pháp luật/ theo uỷ quyền
khi tham gia giao dịch. Doanh nghiệp sẽ chú trọng hơn vào việc phân cấp quản lý và phân chia nhiệm vụ, quyền hạn đối
với người quản lý. Cùng với đó, cá nhân, tổ chức khác khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp sẽ nhận thức rõ hơn, yêu
cầu chặt chẽ hơn về quyền hạn, thẩm quyền của các bên.
Mục 6: Không cần báo cáo thay đổi thông tin về người quản lý doanh nghiệp
Trước đây khi thay đổi thông tin về người quản lý doanh nghiệp, doanh nghiệp phải báo cáo với phòng đăng ký kinh
doanh trong thời hạn 5 ngày làm việc, từ năm 2020 quy định này đã được hủy bỏ .Quy định này được hiểu áp dụng đối
với những chức danh quản lý khác (ngoài Thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần; thành viên Ban kiểm
soát hoặc Kiểm soát viên; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc) được quy định trong điều lệ công ty. Với việc bãi bỏ quy định
này sẽ phần nào giúp doanh nghiệp có thể gợi mở, bớt những rào cản, giảm bớt thủ tục hành chính. Để cho doanh
nghiệp tiếp cận được với luật mới phù hợp với thời kỳ đổi mới, chuyển đổi số. Từ đó các doanh nghiệp sẽ tận dụng
được lợi thế này của Luật Doanh nghiệp mới để phát triển hoạt động. 
Mục 9, 12:
“Trái phiếu doanh nghiệp” là loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi, và các
nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích phát hành trái phiếu là để thực hiện
các chương trình, dự án đầu tư của doanh nghiệp; Tăng quy mô vốn hoạt động của doanh nghiệp; Hoặc cơ cấu lại các
khoản nợ của doanh nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 không có quy định về quyền phát hành trái phiếu cho công ty TNHH bao gồm
công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên. Trải qua quá trình phát triển của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều loại hình công ty TNHH mà bên cạnh đó các công ty này mới thành lập
vốn đang còn thấp muốn mở rộng quy mô để tham gia vào những dự án tiềm năng còn khó khăn. Nhận thấy bất cập đó
ngày 17/06/2020 Nước ta đã ban hành Luật Doanh nghiệp mới sửa đổi, đáng chú ý là tại khoản 4 điều 46 và khoản 4
điều 74 đã cho phép công ty TNHH được quyền phát hành trái phiếu.
Quy định mới này giúp loại hình công ty TNHH đạt thêm được một số lợi ích nhất định như tăng tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu, nếu công ty có thể tạo ra lợi nhuận dương bằng cách sử dụng số tiền thu được từ việc bán trái
phiếu, thì lợi tức trên vốn chủ sở hữu của nó sẽ tăng lên. Điều này là do việc phát hành trái phiếu không làm thay đổi số
lượng cổ phiếu đang lưu hành, do đó nhiều lợi nhuận hơn được chia cho vốn chủ sở hữu của công ty dẫn đến lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu cao hơn. Tuy nhiên, nghĩa vụ trả lãi là một rủi ro có thể gây khó khăn về tài chính nếu công ty phát
hành rơi vào thời kỳ khó khăn. Nhận khoản khấu trừ tiền lãi, chi phí lãi vay trên trái phiếu được khấu trừ thuế, vì vậy
công ty có thể giảm thu nhập chịu thuế bằng cách phát hành trái phiếu. Đây không phải là trường hợp nó bán cổ phiếu,
vì bất kỳ khoản cổ tức nào trả cho cổ đông đều không được khấu trừ thuế. Việc khấu trừ lãi có thể làm cho chi phí hiệu
quả của nợ khá thấp, nếu một công ty có thể phát hành trái phiếu với lãi suất đủ thấp. Bên cạnh đó có thể giảm thiểu sự
tham gia của các ngân hàng, một công ty trực tiếp phát hành trái phiếu cho các nhà đầu tư, do đó, không có bên thứ ba,
chẳng hạn như ngân hàng, có thể tăng lãi suất trả hoặc áp đặt các điều kiện cho công ty. Do đó, nếu một công ty đủ lớn
để có thể phát hành trái phiếu, thì đây là một cải tiến đáng kể so với việc cố gắng vay vốn từ ngân hàng.
Nhưng bên cạnh đó vẫn có một số bất lợi khi phát hành trái phiếu như thanh toán lãi suất thường xuyên cho trái chủ
– mặc dù lãi suất có thể cố định, nhưng tiền lãi thường sẽ phải được trả ngay cả khi doanh nghiệp thua lỗ. Các hạn chế
của trái chủ cũng là một điều đáng quan tâm – bởi vì các nhà đầu tư đang giữ tiền của họ trong một khoảng thời gian dài
có thể xảy ra, họ có thể áp đặt các giao ước hoặc cam kết nhất định đối với hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính
của doanh nghiệp để hạn chế rủi ro. Phát hành trái phiếu phải tuân thủ các quy tắc niêm yết khác nhau để tăng khả năng
giao dịch của trái phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch – đặc biệt, nghĩa vụ công bố thông tin về công ty một cách
công khai ở giai đoạn phát hành và thường xuyên trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Một điều quan trọng là việc
phát hành trái phiếu chủ yếu là dựa vào uy tín của doanh nghiệp. Đôi khi doanh nghiệp dùng cả tài sản của mình để đảm
bảo nhưng vẫn khó có khả năng huy động được nhiều vốn như mong muốn.
Bên cạnh đó luật đã quy định rõ là TNHH mà không được phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn (khoản
3 Điều 46 và khoản 3 Điều 74 LDN 2020 đã quy định rằng công ty TNHH không có quyền phát hành cổ phần), vì công
ty TNHH là công ty vừa đối nhân vừa đối vốn, số lượng thành viên góp vốn cần phải giữ ở giới hạn quy định (theo luật
là tối đa 50 người). Do vậy, việc phát hành cổ phiếu sẽ cấu trúc số lượng thành viên, phá vỡ mối quan hệ quen biết, tin
tưởng lẫn nhau giữa các thành viên của công ty nên việc cho phép công ty TNHH được quyền phát hành trái phiếu để
huy động vốn là thay đổi quan trọng trong LDN 2020.
Mặc dù có những hạn chế còn tồn tại bên cạnh sự sửa đổi của LDN 2020 về việc thực hiện góp vốn thành lập công ty
song thực tế chỉ ra những lợi ích to lớn mà nó đem lại thực sự hiệu quả. 
Mục 10: Cơ cấu công ty TNHH hai thành viên có 11 thành viên trở lên không bắt buộc phải có Ban kiểm soát
Điểm khác biệt nhất giữa điều 54 Luật Doanh nghiệp nghiệp 2020 và điều 55 của LDN 2014 là về việc thành lập Ban
kiểm soát. Tại LDN 2014 thì công ty TNHH có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp có ít
hơn 11 thành viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn,
điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Nhưng tại Luật
2020 đã có sự đổi mới hơn khi tại khoản khoản 2 điều 54 LDN 2020 quy định công ty TNHH hai thành viên trở lên là
doanh nghiệp nhà nước và công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật
này phải thành lập Ban kiểm soát; các trường hợp khác do công ty quyết định. Nghĩa là công ty của bạn được lập vào
năm 2021 với trên 11 thành viên thì bạn sẽ chỉ phải lập Ban kiểm soát nếu bạn là doanh nghiệp nhà nước hoặc công ty
con của nhà nước quy định tại điểm b khoản 1 điều 88 của luật này.
Một điểm mới nữa của Luật 2020 so với Luật 2014 đó là tại LDN 2020 có quy định thêm ở khoản 3 điều 54 khi công
ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội đồng thành
viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên
là người đại diện theo pháp luật của công ty. Điểm mới này tại luật 2020 cho thấy công ty phải luôn luôn có một người
có khả năng đại diện cho công ty và đảm bảo sự ổn định trong công ty.
Mục 13: 
Theo LDN 2020, khung thời gian góp vốn không thay đổi (tức là trong 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp). Tuy nhiên, LDN 2020 quy định rõ khoảng thời gian 90 ngày này sẽ không bao gồm thời
gian mà tài sản đóng góp được vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở
hữu tài sản vào thời hạn này.
Quy định mới này có thể giúp nhà đầu tư tránh vi phạm quy định về thời hạn góp vốn do mất quá nhiều thời gian cho
việc làm thủ tục nhập khẩu, vận chuyển, chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn. Tuy nhiên vấn đề là khi nào thì
người góp vốn phải bắt đầu vận chuyển, nhập khẩu hay thực hiện thủ tục hành chính đó? Đặt ra thời hạn mà không có
điểm bắt đầu thì khó mà xác định được khi nào mới hết khoảng thời gian đó. Và thật dễ tận dụng quy định này để kéo
dài thời hạn góp vốn, chẳng hạn như đăng ký vốn góp bằng tiền thật nhỏ, bằng tài sản thật lớn.
Như vậy, vốn đăng ký thật lớn nhưng vốn thực góp trong ba tháng đầu có thể rất nhỏ. Hoặc đăng ký vốn ban đầu
nhỏ, đăng ký vốn góp thêm lớn hơn vì LDN 2020 không đặt ra thời hạn cho vốn góp thêm. Bên cạnh đó, sau thời gian
90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, nếu vẫn có thành viên chưa góp vốn hoặc chưa
góp đủ phần vốn đã cam kết thì công ty phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng
số vốn đã góp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ phần vốn góp. Theo quy định tại khoản 4 Điều
48 LDN 2014 thì thời hạn này là 60 ngày.
Đồng thời, LDN 2020 cũng khẳng định, người góp vốn trở thành thành viên công ty kể từ thời điểm đã thanh toán
phần vốn góp và những thông tin về người góp vốn được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên. Đây là cũng một quy
định mới so với LDN 2014.
Mục 14: Quyền của chủ sở hữu công ty
Nhìn chung, trong LDN 2020 thì những điểm mới về công ty TNHH một thành viên có sự tương đồng nhất định với
các phần tương ứng của công ty TNHH hai thành viên mà nhóm đã phân tích phía trên. Cụ thể là về quyền phát hành cổ
phần (khoản 3, Điều 74); quyền phát hành trái phiếu (khoản 4, Điều 74); điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc (Điều
82). Vì vậy, nhóm chỉ thực hiện liệt kê những điểm mới nổi bật khác:
Về quyền của chủ sở hữu công ty
Tại điểm g, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã lược bỏ quyền về quyết định bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn
50% tổng giá trị tài sản, thay vào đó là quyền thông qua báo cáo tài chính của công ty. Việc lược bỏ quyền quyết định
bán tài sản có giá trị lớn giúp cho đảm bảo về hoạt động của doanh nghiệp bởi trên thực tế, chủ sở hữu có thể không là
nắm giữ tỉ lệ vốn góp lớn. Bên cạnh đó, về cơ bản, báo cáo tài chính được lập ra để phản ánh tình hình tài chính, sản
xuất kinh doanh cũng như là tình trạng lưu chuyển tiền tệ của công ty, cho nên việc chủ sở hữu có quyền thông qua báo
cáo tài chính là việc hợp lý, giúp cho chủ sở hữu nắm rõ và kiểm tra sát sao. Tuy vậy cũng một phần làm cho chủ sở hữu
có thể tìm cách thao túng, phản ánh không đúng báo cáo tài chính hàng kỳ.
Tại điểm h, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã bổ sung quyền phát hành trái phiếu. Đây cũng chỉ là một sự dẫn chiếu về
quyền phát hành trái phiếu của công ty TNHH một thành viên (khoản 4, Điều 74 LDN 2020)
Tại điểm c, khoản 1, Điều 76 LDN 2020 đã điều chỉnh thêm về quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Kiểm soát
viên của công ty. Điều này không nói lên rằng quyền của chủ sở hữu là tổ chức được mở rộng hơn đối với đối tượng này
so với luật cũ. Thực chất việc bổ sung vào Điều này là do Điều 82 quy định về bổ nhiệm Kiểm soát viên và thành lập
Ban kiểm soát của công ty TNHH một thành viên của LDN 2014 đã bị lược bỏ.
Với các sự đổi mới trong LDN 2020 so với LDN 2014 đầu tiên đã giúp cho vốn điều lệ và khái niệm được rõ ràng
hơn. Tiếp đến LDN 2020 đã làm nâng cao tính pháp lý ràng buộc và trách nhiệm hơn của doanh nghiệp. Ngoài ra sự đổi
mới này đã làm bớt đi những rào cản, thủ tục hành chính rườm rà; tận dụng được lợi thế, phát triển của doanh nghiệp và
giúp nhà đầu tư tránh vi phạm thời hạn góp vốn. Một điểm mới nữa của LDN 2020 so với LDN 2014 là Công ty TNHH
đã được quyền phát hành trái phiếu. Điều đó đã giúp tăng tỷ suất lợi nhuận, giảm thu nhập chịu thuế và giảm sự tham
gia của các ngân hàng. Nhưng bên cạnh các điểm tích cực đó vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập khi công ty TNHH
được quyền phát hành trái phiếu như thanh toán lãi suất thường xuyên cho trái chủ, việc phát hành trái phiếu chủ yếu là
dựa vào uy tín của doanh nghiệp và chủ yếu là dựa vào uy tín của doanh nghiệp. Một điểm bất cập nữa là khi chủ sở hữu
có quyền thông qua báo cáo tài chính cũng một phần làm cho chủ sở hữu có thể tìm cách thao túng, phản ánh không
đúng về báo cáo tài chính hàng kỳ. 
III. KẾT LUẬN 
Việc sửa đổi Luật Doanh nghiệp năm 2020 vừa qua đặt trọng tâm vào hoàn thiện khung pháp lý về tổ chức quản trị
doanh nghiệp đạt chuẩn phổ biến ở khu vực và quốc tế; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút vốn, nguồn lực vào
sản xuất – kinh doanh; góp phần nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh theo mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra. Đặt
trong hoàn cảnh cụ thể dưới cái nhìn tổng quan nhất dưới đánh giá khách quan của chuyên gia và các doanh nghiệp
cũng như những đánh giá mang tính chủ quan của nhóm, có thể thấy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã tiến một bước
dài theo hướng nâng cấp chất lượng doanh nghiệp, thông qua những sửa đổi có tính đột phá đối với khung khổ pháp lý
về quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế sẽ là nền tảng quan trọng để cải thiện mạnh mẽ chất lượng quản trị
doanh nghiệp nói riêng và chất lượng doanh nghiệp nói chung.

3. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA LDN 2020 VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
LDN 2020 được xây dựng và ban hành để hiện thực hóa các mục tiêu cũng như khắc phục những hạn chế, tồn tại của
Luật Doanh nghiệp năm 2014. Các nhà làm luật đã đặt ra mục tiêu khi sửa đổi Luật nhằm tạo thuận lợi tối đa cho hoạt
động thành lập và đăng ký doanh nghiệp; cắt giảm chi phí và thời gian trong khởi sự kinh doanh; góp phần nâng xếp
hạng chỉ số khởi sự kinh doanh lên ít nhất 25 bậc (theo xếp hạng của World Bank). Bên cạnh những điểm tích cực mà
nó mang lại thì so với nhu cầu thực tế, LDN 2020 đang có một số quy định chưa phù hợp, chưa phát huy được hiệu quả
trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của doanh nghiệp. Với chủ đề của mình,
nhóm 1 sẽ đưa ra các nhận xét về các quy định về công ty TNHH, từ đó, nhóm xin đưa ra một số kiến nghị về vấn đề
này.
I. Những bất cập, hạn chế trong QĐ về công ty TNHH của Luật Doanh nghiệp năm 2020 
1. Công ty TNHH một thành viên
Thứ nhất, về khó khăn trong việc mở rộng quy mô vốn của doanh nghiệp
Có thể dễ dàng nhận thấy, so với công ty TNHH hai thành viên trở lên, quy mô hoạt động của công ty TNHH một
thành viên thường nhỏ. Theo khoản 1, Điều 87 LDN 2020 thì:
“Công ty TNHH một thành viên tăng vốn điều lệ thông qua việc chủ sở hữu công ty góp thêm vốn hoặc huy động
thêm vốn góp của người khác. Chủ sở hữu công ty quyết định hình thức tăng và mức tăng vốn điều lệ.”
Từ đó, ta có thể hiểu rằng nguồn vốn của công ty TNHH một thành viên sẽ dựa vào thành viên duy nhất là chủ sở
hữu công ty. Tuy nhiên, bởi quá trình phát triển và hội nhập kinh tế lớn mạnh như hiện nay, việc tất cả các loại hình
doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh là điều tất yếu. Vì vậy, nhu cầu về vốn cũng tăng theo. Xu hướng phát triển
này có thể khiến mô hình công ty TNHH một thành viên có thể không còn phù hợp cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp
theo của các loại hình công ty. Có khả năng, công ty TNHH một thành viên sẽ bị hạn chế phát triển và sẽ chuyển đổi
sang mô hình doanh nghiệp khác.
Chưa kể, khi cần đến vốn từ những người khác ngoài chủ sở hữu công ty thì công ty TNHH một thành viên sẽ phải
bắt buộc chuyển đổi thành loại hình doanh nghiệp khác, một là công ty cổ phần hoặc hai là công ty TNHH hai thành
viên theo khoản 2, Điều 87 LDN 2020. Yêu cầu này khiến nhiều chủ sở hữu gặp khó khăn trong việc giữ lại loại hình
doanh nghiệp mong muốn là công ty TNHH một thành viên nhưng không đủ vốn và bị giới hạn về quy mô góp vốn để
tiếp tục giữ hoạt động loại hình này. 
Thứ hai, về khó khăn trong việc huy động nguồn vốn
Vốn là một nguồn đầu tư quan trọng trong quá trình xây dựng và thành lập các loại hình doanh nghiệp. Để tạo lợi thế
cạnh tranh cho các công ty TNHH, Luật Doanh nghiệp cho phép chúng có thể huy động vốn qua hình thức phát hành
trái phiếu khi đáp ứng các điều kiện của luật định. Tuy nhiên, đối với công ty TNHH một thành viên, các quy định về
huy động vốn không đơn giản thực hiện vì cần tuân thủ các quy định liên quan của pháp luật (Luật Chứng khoán và các
văn bản hướng dẫn phát hành chứng khoán). Vậy nên, khi đến một giai đoạn đòi hỏi nguồn vốn lớn, công ty TNHH một
thành viên sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn bởi nguồn vốn của công ty chỉ dựa vào chủ sở hữu công ty cũng như việc huy
động nguồn vốn dựa vào trái phiếu. Điều này có thể góp phần trực tiếp hay gián tiếp vào việc phá sản của một công ty
TNHH một thành viên đang trên vực thẳm. 
Chưa kể, theo quy định của khoản 3, Điều 74 LDN 2020, công ty TNHH một thành viên cũng không có quyền phát
hành cổ phiếu (do điều này sẽ đi ngược lại với bản chất cấu trúc mô hình của doanh nghiệp này). Mặc dù điểm này đảm
bảo được tính nghiêm chỉnh của loại hình nhưng lại gây ra các khó khăn về tài chính cho các chủ sở hữu công ty khi
thiệt thòi hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. 
Cuối cùng, chịu nhiều rủi ro đối với các bên liên quan đến lợi ích
Trên lý thuyết, chế độ chịu TNHH là “bức tường” bảo vệ rất lớn cho chủ sở hữu của các công ty này. Ưu điểm này
sẽ tạo cho các chủ sở hữu cơ hội lạm dụng khi họ đã chắc chắn rằng phạm vi rủi ro về tài sản được giới hạn trước của
mình và các rủi ro thường được đẩy sang khách hàng hay chủ nợ. Có lẽ vì vậy, trên thực tiễn kinh doanh, nhiều cá nhân,
tổ chức lựa chọn hợp tác với công ty TNHH một thành viên còn khá thận trọng. Với địa vị là loại hình doanh nghiệp
một chủ, việc bị cảnh giác trên thương trường giữa ngàn con cá lớn mạnh khác chờ chực chiếm lấy thì ko phải là điều dễ
dàng lắm.
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Thứ nhất, về việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp
Giấy chứng nhận phần vốn góp được hiểu là loại giấy tờ được cấp cho các thành viên của công ty và là bằng chứng
nhằm chứng minh việc thành viên đã hoàn thành nghĩa vụ góp đủ phần vốn góp vào công ty. Đây cũng được coi là cơ sở
để thực hiện quyền, nghĩa vụ của các thành viên đối với hoạt động của công ty. Theo khoản 7, Điều 47 LDN 2020 quy
định thì trong trường hợp giấy chứng nhận phần vốn góp bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại dưới hình thức khác thì
thành viên sẽ được công ty cấp lại theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều lệ công ty. 
Vấn đề đặt ra từ quy định này là việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp phải thực hiện theo trình tự, thủ tục được
quy định tại Điều lệ công ty. Trong khi đó, tại Điều 24 Luật Doanh nghiệp năm 2020 về những nội dung chủ yếu của
Điều lệ công ty thì lại không quy định trình tự, thủ tục cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp là nội dung bắt buộc phải
có trong Điều lệ. Từ đây, trường hợp được đặt ra là nếu Điều lệ công ty không quy định về trình tự, thủ tục cấp lại giấy
chứng nhận phần vốn góp thì việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp sẽ được thực hiện như thế nào? Đây là điểm
thiếu sót của Luật Doanh nghiệp năm 2020 khi quy định về cách thức cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp theo Điều
lệ công ty nhưng không ràng buộc đây là nội dung bắt buộc phải có trong Điều lệ. Quy định này ngoài “vô tình” ảnh
hưởng đến quyền lợi của thành viên công ty cũng như gây khó khăn trong việc xử lý hậu quả của doanh nghiệp do các
trường hợp ở khoản 7, Điều 47 LDN 2020 có thể sẽ không nằm trong tính toán của công ty khi xây dựng Điều lệ hoạt
động. 
Thứ hai, về việc cập nhật thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên
Khoản 3, Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Công ty phải cập nhật kịp thời thay đổi thành viên trong
sổ đăng ký thành viên theo yêu cầu của thành viên có liên quan theo quy định tại Điều lệ công ty”. Trong một số trường
hợp theo quy định tại Điều 47 và Điều 52 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 (ví dụ như: góp vốn thành lập công ty, nhận
chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty…) thì việc cập nhật thông tin thành viên vào sổ đăng ký thành
viên là nội dung quan trọng. Bởi nó đóng vai trò không thể thiếu trong việc xác lập tư cách thành viên của người góp
vốn, người nhận chuyển nhượng. Và chỉ khi sổ đăng ký thành viên có đầy đủ các thông tin theo quy định thì người góp
vốn, người nhận chuyển nhượng phần vốn góp mới chính thức trở thành thành viên công ty và có các quyền, nghĩa vụ
của thành viên công ty.
Vấn đề được đặt ra là, theo quy định tại khoản 3, Điều 48 LDN 2020 thì: “Công ty phải cập nhật kịp thời thay đổi
thành viên trong sổ đăng ký thành viên theo quy định tại Điều lệ công ty”. Vậy nếu Điều lệ công ty không có quy định
về trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện việc cập nhật sự thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên thì “cập nhật
kịp thời” nên được hiểu như thế nào và việc cập nhật sẽ được thực hiện như thế nào? LDN 2020 đã tạo ra sự bất lợi cho
quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên công ty trong công ty TNHH khi không có quy định hoặc văn bản dưới luật cụ
thể về trình tự, thủ tục, thời hạn thực hiện việc cập nhật sự thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên khi Điều lệ
công ty không có quy định. Mặc dù, chúng ta có thể bao biện cho việc các nhà làm luật đã đi theo hướng sửa đổi LDN
2014 là trao nhiều quyền hơn và tạo sự tự do, mềm dẻo, linh hoạt trong việc thực hiện các thủ tục của nhà nước khi hoạt
động công ty. Tuy nhiên, các nhà làm luật chưa tính đến việc các công ty TNHH sẽ có hay không để tâm đến vấn đề
phải “cập nhập kịp thời” hoặc biết cách để thực hiện việc cập nhập sao cho đảm bảo được việc ngăn ngừa các hậu quả
có thể xảy ra liên quan đến vấn đề số lượng thành viên, cấu trúc, mô hình công ty. 
Thứ ba, về việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên 
Theo điểm d, khoản 2, Điều 49 LDN 2020 quy định thành viên, nhóm thành viên sở hữu từ 10% số vốn điều lệ trở
lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn do Điều lệ công ty quy định hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này,
ngoài các quyền quy định tại khoản 1 cùng Điều 49, sẽ có quyền như sau:
Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc
họp Hội đồng thành viên, nếu trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết, quyết định đó không thực
hiện đúng hoặc không phù hợp với quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
Mặc dù quy định này đảm bảo được số quyền lợi xứng đáng với phần trăm vốn góp điều lệ bỏ ra của thành viên,
nhóm thành viên nhưng đối với các thành viên thiểu số, những người có tỷ lệ phần vốn góp thấp, thì đây lại là một hạn
chế. Họ không có quyền được độc lập yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên dù biết
rằng cuộc họp Hội đồng thành viên thực hiện theo trình tự, thủ tục không đúng hoặc không phù hợp với quy định của
Luật (ví dụ như, không gửi thông báo mời họp cho thành viên công ty). Quy định này phần nào đã gây bất lợi cho việc
thành viên công ty tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.
Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn góp làm cơ sở cho quyền được yêu cầu Tòa án có vẻ là một quy định có thể gián tiếp tạo
ra các tiền lệ xấu ở công ty trong quá trình hoạt động nếu như có thành viên, nhóm thành viên lợi dụng điều này nhằm
tạo ra các bất lợi cho thành viên còn lại.
Thứ tư, hạn chế trong quy định về thời điểm xác lập tư cách thành viên công ty 
(i) Trường hợp góp vốn thành lập công ty: Trừ trường hợp cam kết góp vốn khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, căn
cứ quy định tại khoản 5 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: “Người góp vốn trở thành thành viên của công ty kể
từ thời điểm đã thanh toán phần vốn góp và những thông tin về người góp vốn quy định tại các điểm b, c và đ khoản 2
Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên”. Như vậy, những thông tin quan trọng sẽ bao gồm:
họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với thành viên là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp
hoặc số giấy tờ pháp lý của tổ chức, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức; phần vốn góp, tỷ lệ phần vốn góp
đã góp, thời điểm góp vốn, loại tài sản góp vốn, số lượng, giá trị của từng loại tài sản góp vốn; số và ngày cấp giấy
chứng nhận phần vốn góp. Nếu những thông tin được liệt kê ở trên chưa được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên thì
tổ chức, cá nhân đó chưa trở thành thành viên của công ty và cũng không có các quyền của thành viên công ty theo quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Quy định này làm ảnh hưởng đến thời điểm thực hiện quyền của cá nhân, tổ
chức tại công ty và ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người góp vốn khi trong trường hợp có một số thông tin chưa
được điền đầy đủ hoặc chưa có giấy tờ pháp lý chứng minh kèm theo. 
(ii) Trường hợp nhận chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 52
Luật Doanh nghiệp năm 2020: “Thành viên chuyển nhượng vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với
phần vốn góp có liên quan cho đến khi thông tin về người mua quy định tại các điểm b, c và đ khoản 2 Điều 48 của Luật
này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên”. Quy định này có sự mâu thuẫn với quy định tại khoản 29, Điều 4 LDN
2020: “Thành viên công ty là cá nhân, tổ chức sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty TNHH hoặc công
ty hợp danh”. Cụ thể, khi giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp đã hoàn thành, người nhận chuyển nhượng đương
nhiên trở thành chủ sở hữu phần vốn góp của người chuyển nhượng tại công ty và trở thành thành viên công ty theo giải
thích, định nghĩa tại khoản 29, Điều 4 LDN 2020 và không cần thêm bất kỳ điều kiện gì để xác lập tư cách thành viên.
Do vậy, quy định về điều kiện những thông tin về người mua được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên là không cần
thiết, gây cản trở cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người nhận chuyển nhượng phần vốn góp. 
Thứ năm, điều kiện về thời hạn chào bán phần vốn góp cho các thành viên trong công ty
Tại điểm b khoản 1 Điều 52 LDN 2020, có quy định về thời hạn chào bán đối với các thành viên là 30 ngày, sau thời
hạn này nếu thành viên không mua hoặc mua không hết thì có thể chuyển nhượng cho người ngoài công ty. Nếu hiểu
theo quy định này thì sau thời hạn 30 ngày người chuyển nhượng mới được chuyển nhượng cho người không phải thành
viên công ty. Nhưng cũng có cách hiểu khác nhau dẫn đến tranh chấp trong thực tế.
 Quan điểm cho rằng thành viên chào bán phải đợi đủ 30 ngày, kể cả khi các thành viên khác đã trả lời không mua;
điều này sẽ bảo vệ thành viên công ty khi họ có sự thay đổi ý định trong thời hạn 30 ngày. Nếu cho phép thành viên
chuyển nhượng khi vẫn còn trong thời hạn thì khi thành viên khác đổi ý lại không thể mua được, gây ảnh hưởng đến
quyền ưu tiên mua của thành viên đồng thời làm giảm tính đối nhân của loại hình công ty TNHH. 
 Quan điểm khác lại cho rằng khi thành viên đã trả lời rõ không mua hoặc mua không hết thì thành viên chào bán có
quyền bán cho người khác ngoài công ty, mà không cần đợi đủ 30 ngày. Điều lệ của một số công ty cũng có sự khác
nhau đáng kể khi có công ty quy định trong Điều lệ bắt buộc thành viên phải chờ 30 ngày, cũng có một số công ty cho
phép thành viên chào bán luôn nếu nhận được sự từ chối cụ thể dù vẫn trong thời hạn 30 ngày. Điều này có thể bị coi là
trái pháp luật bởi Luật không có quy định mang tính chất mở cho phép điều lệ công ty được quy định khác đối với vấn
đề này.

 II. Một số giải pháp hoàn thiện quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về công ty TNHH
1. Công ty TNHH một thành viên
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế toàn cầu. Có thể nói, không một quốc gia nào
có thể phát triển một cách biệt lập và nằm ngoài sự vận động đi lên của nền kinh tế. Hầu hết các nước đều tham gia vào
nền kinh tế thế giới và liên hệ với nhau thông qua hoạt động thương mại và tài chính, trong đó, sự đóng góp của cộng
đồng doanh nghiệp là rất quan trọng. Đối với công ty TNHH một thành viên, để loại hình công ty này có thể phát triển
mạnh mẽ và phù hợp với môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong thời gian tới, nhóm chúng em xin đề xuất một số
giải pháp như sau:
Thứ nhất, cần tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô vốn của doanh nghiệp
Nhà Nước cần đưa ra những quy định pháp luật mềm dẻo hơn đối với chủ thể có quyền góp vốn thành lập công ty
TNHH một thành viên hoặc cho phép các phương thức góp vốn qua chủ sở hữu công ty. Bên cạnh đó, có thể cân nhắc
về việc cho phép các công ty TNHH một thành viên có quyền giữ lại loại hình doanh nghiệp hiện tại và nhận góp vốn
nhưng sẽ phải đảm bảo một số quy định khác nhằm hạn chế khả năng hút vốn. Như vậy vừa đảm bảo được khả năng tài
chính cũng như không bị nhầm lẫn với công ty cổ phần và công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Thứ hai, tạo điều kiện nhằm phát huy khả năng huy động vốn
Luật Doanh nghiệp nên đơn giản hóa các thủ tục phát hành trái phiếu của công ty TNHH một thành viên để tổ chức
này có thể phát huy được khả năng huy động vốn khi cần mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty. 
Thứ ba, tạo cơ sở phát triển dựa trên hạn chế rủi ro cho khách hàng
Nhà nước nên có quy định lại ngành nghề, định mức vốn điều lệ để hạn chế rủi ro cho khách hàng, chủ nợ của công
ty TNHH một thành viên trong trường hợp công ty không có khả năng thanh toán và chỉ chịu TNHH trên vốn góp.
2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Trên cơ sở những hạn chế, bất cập về việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp,   việc cập nhật thay đổi thành viên
trong sổ đăng ký thành viên,... đã nêu lên ở phần trước, nhóm chúng em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
những quy định của LDN 2020 về công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Thứ nhất, cần hoàn thiện quy định về việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp, về việc cập nhật thay đổi
thành viên trong sổ đăng ký thành viên. 
Nhằm xác định rõ trình tự, thủ tục, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp,
việc cập nhật thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên trong
công ty. Nhóm sinh viên đề xuất, LDN 2020 nên thay đổi quy định theo một trong hai hướng sau: 
(i) Cần quy định rõ tại Điều 24 LDN 2020 về Điều lệ công ty như sau: Nội dung cấp lại giấy chứng nhận phần vốn
góp, cập nhật thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên là nội dung bắt buộc phải có trong Điều lệ công ty;
 (ii) Luật DN 2020 quy định rõ về trình tự, thủ tục, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện việc cấp lại giấy chứng nhận
phần vốn góp, việc cập nhật thay đổi thành viên trong sổ đăng ký thành viên. 
Thứ hai, cần hoàn thiện quy định về việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội
đồng thành viên 
Nhằm bảo vệ quyền của “thành viên thiểu số”, đề xuất sửa đổi theo hướng bổ sung nội dung: “Yêu cầu Tòa án hủy
bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc họp Hội đồng thành viên,
nếu trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết, quyết định đó không thực hiện đúng hoặc không phù
hợp với quy định của Luật này và Điều lệ công ty” trở thành một trong các quyền cơ bản của thành viên công ty được
quy định tại khoản 1 Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2020. 
Theo đó, điểm d khoản 2 Điều 49 LDN 2020 bị bãi bỏ. Bổ sung thêm điểm g’ khoản 1 Điều 49 như sau: 
“Điều 49. Quyền của thành viên Hội đồng thành viên
1. Thành viên Hội đồng thành viên có các quyền sau đây: ….
g’) Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết
thúc họp Hội đồng thành viên, nếu trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết, quyết định đó không
thực hiện đúng hoặc không phù hợp với quy định của Luật này và Điều lệ công ty”. 
Thứ ba, hoàn thiện quy định về thời điểm xác lập tư cách thành viên công ty 
Đề xuất sửa đổi khoản 5 Điều 47 LDN 2020 theo hướng bỏ quy định về việc ghi nhận thông tin thành tin thành viên
vào sổ đăng ký thành viên là điều kiện bắt buộc để xác lập tư cách thành viên. 
Khoản 5 Điều 47 LDN 2020 nên được quy định lại như sau: “Người góp vốn trở thành thành viên của công ty kể từ
thời điểm đã thanh toán phần vốn góp”.
Nhằm tạo sự thống nhất với giải thích, định nghĩa về thành viên công ty: “Thành viên công ty là cá nhân, tổ chức sở
hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty TNHH hoặc công ty hợp danh” tại khoản 29 Điều 4 Luật Doanh
nghiệp năm 2020 và tạo điều kiện thuận lợi cho người nhận chuyển nhượng phần vốn góp trong quá trình thực hiện
quyền, nghĩa vụ của thành viên công ty.
Nhóm sinh viên đề xuất sửa đổi khoản 2 Điều 52 LDN 2020 nên quy định lại như sau: “Người nhận chuyển nhượng
trở thành thành viên của công ty kể từ thời điểm thanh toán đầy đủ giá trị phần vốn góp cho thành viên chuyển nhượng
theo hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp và thành viên chuyển nhượng đương nhiên không còn các quyền và nghĩa
vụ đối với công ty”. 
Thứ tư, cần quy định cụ thể hơn về hình thức, điều kiện về thời hạn chào bán phần vốn góp 
Luật cần quy định rõ chủ sở hữu có thể bán phần vốn góp cho người khác không phải thành viên công ty khi các
thành viên trong công ty thể hiện ý chí không mua mặc dù còn thời hạn 30 ngày. Luật cũng nên quy định rõ về hình thức
chào bán phần vốn góp và việc chấp nhận hoặc từ chối mua phần vốn góp của các thành viên còn lại; theo đó, thành
viên chào bán phần vốn góp bằng văn bản đến cho các thành viên khác, trong thời hạn 30 ngày hoặc một thời hạn khác
theo Điều lệ công ty, nếu các thành viên trả lời không mua hoặc mua không hết bằng hình thức văn bản hoặc các hình
thức khác có giá trị tương đương thì thành viên chuyển nhượng có thể chuyển nhượng cho người khác, hết thời hạn này
mà thành viên khác im lặng thì xem như không mua.
III. KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, mặc dù LDN 2020 đã phần nào sửa đổi một số các vấn đề vướng mắc của LDN 2014 về loại hình
công ty TNHH nhằm tạo điều kiện hơn cho sự phát triển của loại hình này thì nó vẫn còn một số vấn đề gây khó khăn
cho quá trình vận hành của doanh nghiệp. Đối với công ty TNHH một thành viên, bởi giới hạn khả năng vốn do chính
tính chất tổ chức của mình mà doanh nghiệp này có thể dễ bị phá sản hoặc bắt buộc phải chuyển sang loại hình doanh
nghiệp khác. Còn đối với công ty TNHH hai thành viên, quy định luật chưa có sự rõ ràng và ràng buộc trong việc nội
dung điều lệ công ty với một số thủ tục giấy tờ. Ngoài ra, về vấn đề quyền yêu cầu Tòa án của thành viên góp vốn cũng
nên được chỉnh sửa sao cho khả năng bảo vệ quyền và lợi ích của thành viên trước các quyết định của Hội đồng thành
viên được đảm bảo. Thời gian sắp tới, nền kinh tế ắt hẳn sẽ có nhiều sự thay đổi đi kèm với sự ứng dụng công nghệ vào
các thủ tục hành chính cũng như góp vốn của công ty TNHH, mong rằng các nhà làm luật sẽ có sự sửa đổi kịp thời và
phù hợp cũng như đưa ra các chính sách kinh tế hỗ trợ cho các chủ sở hữu của loại hình doanh nghiệp này

KẾT LUẬN
Trải qua rất nhiều lần ban hành và sửa đổi, Luật Doanh nghiệp 2020 đã ra đời với sự hoàn thiện hơn và có nhiều
bước phát triển mới. Nó đã tạo ra những lợi ích lớn, mở rộng quyền và tạo điều kiện hơn cho các chủ thể kinh doanh.
Đặc biệt với phần về những quy định chung và các quy định về công ty TNHH, Luật Doanh nghiệp 2020 đã đáp ứng tốt
mục tiêu chủ động đưa những thực tiễn quốc tế đạt chuẩn khu vực và quốc tế vào Luật Việt Nam.
Luật Doanh nghiệp 2020 với những bước đổi mới, quy định chặt chẽ và chi tiết hơn về quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong hoạt động quản lý và thành lập của Doanh nghiệp. Việc định nghĩa lại về doanh nghiệp Nhà nước cũng
như mở rộng hơn về đối tượng đại diện pháp lý cho công ty và các quy định chi tiết về quản trị doanh nghiệp đã góp
phần tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc hơn, cũng như tạo sự quản lý tốt hơn trong hoạt động quản trị doanh
nghiệp và quản lý doanh nghiệp của Nhà nước ta. Cơ bản về công ty TNHH, quyền phát hành trái phiếu đã chính thức
được công nhận và một số các quy định mới, chi tiết hơn về quyền, nghĩa vụ của của ban quản trị, xử lý vốn, cơ cấu tổ
chức,... 
Những quy định này chính đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi và ổn định cho các nhà đầu tư, thúc đẩy việc đầu tư
và thu hút vốn đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, nó sẽ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước ta, tăng nhanh quá trình hội nhập và phát triển quốc tế cùng với phát triển mạnh nền kinh tế nước nhà,
dễ thấy từ việc số doanh nghiệp tăng cao và sự tăng lên về thứ bậc xếp hạng về quản trị công ty được công nhận bởi
Ngân hàng thế giới về bảo vệ nhà đầu tư.
Tuy nhiên, luôn luôn sẽ có những bất cập và hạn chế còn tồn tại trong việc thực thi và áp dụng pháp luật về những
quy định chung và về công ty TNHH tại Luật Doanh nghiệp 2020. Những điểm nổi bật về công ty TNHH trong Luật
Doanh nghiệp 2020 đã được nhóm chúng em phân tích và đánh giá, từ đó những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật được
hình thành với mong muốn tạo một môi trường pháp lý trong sạch, bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp nói chung
và công ty TNHH nói riêng.

NHÓM 2: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ
CTCP
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT
DOANH NGHIỆP 2020
3. Sự cần thiết phải ban hành Luật doanh nghiệp 2020
Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 với một số quy định mới nhằm tạo ra con đường pháp lý an
toàn, thông thoáng cho việc hình thành công ty và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh ở nước ta, góp phần to lớn
vào việc hôm nay. Tuy nhiên, trong thực tế triển khai Luật Doanh nghiệp 2014 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, trong
đó có những tồn tại trong việc thành lập và góp vốn vào công ty, một số quy định trong luật còn chưa phù hợp, thiếu
thực tế, làm hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Thể hiện ở một số điều sau:
 Về chủ thể bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam
Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
….” Không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Đây là quy định mới về chủ thể bị cấm thành
lập và quản lý doanh nghiệp so với Luật Doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, quy định này không phù hợp với thực tế cũng
như mâu thuẫn với quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS ) năm 2015, chưa bảo đảm
được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp chính đáng của công dân. Về nguyên tắc chung, công dân Việt Nam trên
18 tuổi có đầy đủ năng lực công dân chỉ bị tước đoạt một số quyền công dân khi có hành vi vi phạm pháp luật và bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật kết luận người đó đã vi phạm pháp
luật.
Và thực tế chứng minh rằng không phải tất cả những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều bị Tòa án kết luận là
có tội. Vì họ có thể chứng minh sự vô tội của họ và các cơ quan tiến hành tố tụng không có đủ cơ sở để chứng minh họ
có tội và từ đó không có cơ sở để tước đoạt quyền công dân của họ trong đó có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp.
  Quy định trong việc góp vốn chưa rõ ràng
      Trước hết, vấn đề tiếp nhận thành viên mới để tăng vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên chưa được quy định rõ ràng, cụ thể.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 68 Luật Doanh nghiệp 2014, công ty TNHH hai thành viên trở lên có quyền
tiếp nhận thêm thành viên mới để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn của
Luật này không quy định rằng các thành viên mới được tiếp nhận phải góp vốn ngay tại thời điểm được Hội đồng thành
viên tiếp nhận (thông qua biên bản họp và quyết định phê duyệt thành viên mới vào Hội đồng thành viên) hoặc có quyền
cam kết góp vốn (tức là thời điểm góp vốn sau khi đã được các thành viên tiếp nhận và chấp thuận và công ty đã được
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới khi đã hoàn tất thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp).
  Mặt khác, Điều 48 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về thời hạn đối với cam kết góp vốn thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, mặc dù đặt ra quyền và nghĩa vụ của thành viên cam kết góp vốn thành lập công
ty nhưng không có quy định nào về thời hạn cam kết góp vốn của thành viên mới được tiếp nhận vào công ty TNHH hai
thành viên trở lên, cũng như quyền và nghĩa vụ mà họ nhận được trong thời gian này.
Điều này gây khó khăn cho công ty và thành viên mới được tiếp nhận, bởi công ty không biết được mình có quyền
cho thành viên mới được tiếp nhận được cam kết góp vốn hay phải góp vốn ngay, nếu cam kết góp vốn thì trong khoảng
thời gian là bao lâu và bắt đầu tính từ thời điểm nào, quyền và nghĩa vụ mà thành viên mới được tiếp nhận sẽ được thực
hiện như thế nào trong khoảng thời gian này.
     Ngoài ra, LDN 2014 chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về vấn đề định giá tài sản góp vốn. 
Quy định tại khoản 5 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2014 cấm việc cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị,
quy định này có nhiều điểm không rõ ràng dễ bị lợi dụng bởi những người tham gia định giá tài sản.
Thứ nhất, dựa trên quy định này, nhiều ý kiến cho rằng việc định giá tài sản không đúng giá trị của tài sản góp vốn
chỉ bị cấm khi có cơ sở chứng minh việc định giá đó là cố ý, còn nếu vô ý thì không bị cấm. Tuy nhiên, cơ sở nào để xác
định là cố ý hay vô ý thì Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định rõ.
Thứ hai, không phải loại tài sản góp vốn nào cũng định giá được một cách dễ dàng và giống nhau. Đối với tài sản
đem làm vốn như ô tô, xe máy thì việc định giá tài sản rất đơn giản, nhưng định giá tài sản đem góp vốn là giá trị quyền
sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật thì sẽ gặp nhiều khó khăn bởi đây là loại tài sản vô hình. Việc
định giá các loại tài sản này không chỉ đòi hỏi phải xác định được giá trị của chúng tại thời điểm định giá mà các bên
còn phải xác định được giá trị tiềm năng mà loại tài sản này sẽ mang lại cho doanh nghiệp (chủ yếu về mặt lợi ích kinh
tế). Do đó, hầu như không thể xác định được một bên cố tình định giá quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết
kỹ thuật cao hơn hay thấp hơn giá trị thực của tài sản đó.
 
 Bất cập trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đối với các loại hình doanh nghiệp
      Trước hết là về ngành, nghề đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh những ngành, nghề mà pháp
luật không cấm, quyền chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và
ngành, nghề kinh doanh (Điều 7). Doanh nghiệp vẫn phải kê khai ngành, nghề kinh doanh trong hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp (theo giải thích của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm phục vụ cho công tác thống kê). Tuy nhiên, khi doanh nghiệp
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không thể hiện nội
dung ngành nghề. Nội dung ngành nghề chỉ được ghi nhận trên Hệ thống thông tin đăng ký kinh doanh Quốc gia và ghi
nhận trong giấy xác nhận cho doanh nghiệp.
Ngày nay, việc không đưa ngành vào sổ đăng ký kinh doanh của công ty ảnh hưởng một phần đến hoạt động của
công ty. Do kiến thức pháp luật thường hạn chế, một số tổ chức, đơn vị sử dụng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
để chỉ ra ngành, nghề kinh doanh liên quan đến hoạt động này khi nhận hồ sơ đấu thầu, đấu giá hoặc ký kết hợp đồng
kinh tế.
      Tiếp theo là về cơ cấu tổ chức Công ty cổ phần
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014, Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức
quản lý và hoạt động theo một mô hình:“Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực
thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với
việc quản lý điều hành công ty”. Trong mô hình tổ chức này, có sự xuất hiện của Ban kiểm toán nội bộ. Ban này có
chức năng “giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý và điều hành công ty”. Nói cách khác, Ban
kiểm toán nội bộ có liên quan mật thiết với Đại hội đồng cổ đông, có quyền kiểm soát đối với việc quản lý, điều hành
công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các cấp quản lý điều hành khác trong công ty.
Tuy nhiên, cũng tại điểm b, khoản 1, điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014 lại quy định Ban kiểm toán nội bộ phải trực
thuộc Hội đồng quản trị, tức là ban này do Hội đồng quản trị lập ra và thực hiện nhiệm vụ được Hội đồng quản trị giao
phó. Điều này khiến cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm soát của Ban kiểm toán nội bộ đối với hoạt động của Hội đồng
quản trị gặp rất nhiều khó khăn. Không những vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành
cũng không có bất cứ quy định nào về cơ cấu tổ chức quản lý của Ban kiểm toán nội bộ, trách nhiệm của Ban kiểm toán
nội bộ, điều kiện, tiêu chuẩn thành viên và Trưởng Ban kiểm toán nội bộ, các chế độ về lương lẫn các quyền lợi của
thành viên Ban kiểm toán nội bộ, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên và Trưởng Ban kiểm toán nội bộ;… Điều
này khiến các công ty cổ phần gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi muốn áp dụng mô hình vào cơ cấu tổ chức quản lý
công ty.
  Quy định về con dấu của doanh nghiệp còn bất cập
Theo quy định tại khoản 1, điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014, thì “doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số
lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp”. Đồng thời, trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký mẫu
con dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh để công bố trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Có thể thấy
rằng, so với quy định về con dấu trước đây của Luật Doanh nghiệp 2005, quy định này có hướng linh hoạt hơn. Đặc biệt
là cho phép các doanh nghiệp được quyền xác định hình thức, số lượng và nội dung con dấu phù hợp với nhu cầu sử
dụng của mình.
Tuy nhiên, trên thực tế, điều này đã gây ra một hiện tượng gọi là “loạn con dấu” trong các doanh nghiệp. Thêm vào
đó thủ tục đi khắc dấu và thông báo mẫu dấu ở Việt Nam khiến chỉ số gia nhập thị trường của Việt Nam bị đánh giá
thấp so với nhiều quốc gia khác. Ngoài ra, con dấu cũng là thứ dễ làm giả hơn chữ kí. Trên thực tế, không hiếm có các
trường hợp làm giả con dấu của doanh nghiệp, thậm chí làm giả cả con dấu của cơ quan nhà nước để thực hiện các giao
dịch bất hợp pháp.
  Trong xu thế sử dụng giao dịch điện tử ngày càng phổ biến trên thế giới như hiện nay, vai trò của con dấu trong
doanh nghiệp đang ngày càng mờ nhạt.
  Tất cả những vấn đề này đang gây khó khăn cho bản thân Doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có
liên quan, đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới.Thực tiễn đòi hỏi Luật Doanh nghiệp 2014
cần được hoàn thiện ngay lập tức để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như
vai trò quản lý của cơ quan nhà nước trong vấn đề thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp hiện nay.
Vào ngày 18 tháng 6 năm 2020, “Luật Doanh nghiệp lần thứ 4” đã được Quốc hội thông qua. Đáng lưu ý, mỗi lần
sửa đổi Luật Doanh nghiệp đều thể hiện sự cải cách mạnh mẽ về quyền kinh doanh của doanh nghiệp và sự thay đổi cơ
bản về tư duy kinh tế.

CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 SO VỚI
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
*Điểm giống nhau giữa LDN 2014 và 2020
Được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của Luật Doanh nghiệp 2014, nên Luật Doanh nghiệp 2020 vẫn duy trì những
quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, một số quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp, trách
nhiệm của người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp hoặc theo ủy quyền của chủ sở hữu, và những hành vi bị nghiêm
cấm. Ngoài ra, đối với việc thành lập doanh nghiệp, cả 2 luật doanh nghiệp năm 2014 và 2020 đều có những quy định
giống nhau về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, quản lý doanh nghiệp; điều lệ công ty; danh sách thành viên các
loại hình công ty; những quy định về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; cách đặt tên cho doanh nghiệp,... Bên
cạnh đó, là một số điều khoản về các hoạt động tổ chức, giải thể, phá sản các loại hình doanh nghiệp, các quy định về
nhóm công ty.
Tuy nhiên, so với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có nhiều nội dung sửa đổi mang tính
đột phá, đổi mới cơ bản về các quy định của Nhà nước đối với doanh nghiệp, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương
mới của Đảng về cải cách kinh tế; nhất quán với tiến trình cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc
đăng ký doanh nghiệp; bổ sung các quy định không được thành lập và quản lý doanh nghiệp; cập nhật kịp thời các quy
định mới phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường; đồng thời, nội luật hóa các quy định có liên quan trong
các điều ước quốc tế nước ta là thành viên, góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
1. Quy định về cổ phần 
Công ty cổ phần ( Điều 110 Luật DN 2014 - Điều 111 Luật DN 2020) 
Khoản 3 điều 111 Luật DN 2020 bổ sung “ … trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty”.
Như vậy công ty cổ phần ngoại trừ được phép phát hành cổ phần công ty còn được phát hành trái phiếu và các loại
chứng khoán khác. Điều này phù hợp với thực tiễn kinh doanh, bởi công ty cổ phần thường là doanh nghiệp có quy
mô lớn và rất lớn, số lượng chủ sở hữu công ty rất nhiều.
1.1. Quyền chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết
Trước đây, Luật doanh nghiệp 2014 quy định nguyên tắc về việc cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết thì không
được quyền chuyển nhượng cho người khác. Và chỉ khi sau 3 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp, cổ phần ưu đãi biểu quyết trong tay cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông thì mới có
thể thực hiện chuyển nhượng cổ phần phổ thông này. Tuy nhiên, thực tiễn đặt ra trường hợp đặc biệt, ví dụ như khi một
cổ đông có quyền ưu đãi biểu quyết chết trong thời hạn 3 năm đó thì số cổ phần ưu đãi đó sẽ được giải quyết như thế
nào? Để đảm bảo quyền lợi và lợi ích của chính các cổ đông này, pháp luật đòi hỏi phải có những quy định cụ thể những
trường hợp đặc biệt này, bù đắp lỗ hổng của LDN 2014.
Hiện nay, khi Luật doanh nghiệp 2020 có hiệu lực, có thể nhận thấy pháp luật đã mở rộng hơn các trường hợp được
chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết trong Công ty cổ phần 
“Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác, trừ trường hợp
chuyển nhượng theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc thừa kế.” (Khoản 3 điều 116 LDN
2020)
Điều luật này nghĩa là vẫn trên nguyên tắc cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng
cho người khác nhưng sẽ có trường hợp ngoại lệ cho phép chuyển nhượng việc sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết (trong
thời hạn ưu đãi biểu quyết theo quy định của pháp luật) như
 Theo diện thừa kế
Ví dụ: ông A là một trong những cổ đông sáng lập của công ty Y và có 1% cổ phần biểu quyết trong công ty Y. Sau
ông A chết và để lại di chúc, theo đó cho con trai là B thừa kế 1% cổ phần nêu trên. Do đó, với việc để lại di chúc, thì
ông A đã chuyển số cổ phần của mình cho B. Thực hiện xong các hồ sơ thủ tục thì B chính thức trở thành người nắm
giữ 1% cổ phần ưu đãi biểu quyết nêu trên và trở thành cổ đông của công ty Y, được hưởng các ưu đãi biểu quyết trong
thời hạn ưu đãi còn lại (2 năm)
 Theo bản án hay các quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
Đây là một sự đổi mới thể hiện sự linh hoạt của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết và chủ thể được hưởng quyền chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết, nhưng vẫn giữ vững được ưu
điểm của điều luật này trong các đạo luật trước và chỉ bổ sung vào lỗ hổng, giúp luật doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện
hơn.

1.2. Vấn đề chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty không phải công ty đại chúng
 Điều kiện chào bán cổ phần được làm rõ và bổ sung
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không giải thích thế nào là phát hành cổ phần riêng lẻ, nhưng Luật Doanh nghiệp năm
2020 đã làm rõ vấn đề này. Theo đó, chào bán cổ phần riêng lẻ một trong ba hình thức chào bán cổ phần nhằm tăng vốn
điều lệ của công ty (ngoài chào bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu, chào bán cổ phần ra công chúng) và có bổ sung
thêm những điều kiện nhất định để một công ty cổ phần không phải công ty đại chúng được chào bán cổ phần riêng lẻ.
Ví dụ: CTCP ABC có 3 cổ đông là A, B, C được coi là phát hành cổ phần riêng lẻ khi công ty này phát hành thêm cổ
phần để một người ngoài (không phải là các cổ đông A, B, C) mua thêm cổ phần của Công ty và dẫn đến vốn điều lệ của
Công ty tăng lên. Điểm khác biệt lớn nhất khi phát hành cổ phần riêng lẻ so với các hình thức khác là vốn điều lệ của
công ty tăng lên, có cổ đông mới tham gia và số lượng cổ đông mua cổ phần được hạn chế theo các điều kiện nhất định.
Cụ thể tại khoản 1 điều 125 LDN 2020 đã quy định chi tiết về điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ của của công ty cổ
phần không phải là công ty đại chúng như sau:
“1. Không chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng.”
Phương tiện thông tin đại chúng là phương tiện được cơ quan báo chí sử dụng để cung cấp, truyền dẫn thông tin tới
đông đảo công chúng, bao gồm các đài phát thanh, đài truyền hình, báo in, báo điện tử và trang/Cổng thông tin điện tử.
Theo đó, việc chào bán cổ phần riêng lẻ không được thực hiện trên các đài phát thanh, đài truyền hình, báo in, báo điện
tử và trang/Cổng thông tin điện tử.
Nguyên nhân có sự thay đổi mới này là vì bảo vệ nhà đầu tư và tính khách quan trên thị trường chứng khoán. Thông
tin trên Internet ngày nay biến hóa khôn lường, bất cứ ai cũng có thể tác động làm thay đổi nó khiến người dùng có thể
bị nhiễu loạn thông tin. Việc nghiêm cấm chào bán cổ phần qua phương tiện truyền thông đại chúng sẽ hạn chế việc các
các doanh nghiệp triển khai các hình thức huy động vốn thiếu minh bạch, cạnh tranh không lành mạnh. Hơn nữa công ty
không phải công ty đại chúng không phải chịu sự giám sát của công chúng xã hội, mọi hoạt động không cần phải công
khai như các công ty đại chúng do đó khó có thể kiểm soát được tính minh bạch của thông tin.
Việc này cũng sẽ giúp các công ty vừa và nhỏ tiết kiệm một phần chi phí quảng cáo, giảm bớt áp lực cạnh tranh cho
họ. Với các nhà đầu tư, về cơ bản, thông tin hoàn toàn khách quan, thị trường bình đằng, họ có thể xem xét kỹ lưỡng và
đưa ra các quyết định khách quan hơn
“2. Chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc chỉ chào bán cho nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.”
Điều này tạo cơ hội cho các nhà đầu tư không chuyên nghiệp được tham gia vào thị trường một cách bình đẳng với
các nhà đầu tư chuyên nghiệp, đây là điểm hoàn toàn mới so với các đạo luật trước. Tuy nhiên vẫn cần có sự hạn chế đối
tượng mua cổ phần riêng lẻ đó là vì thị trường chứng khoán hiện nay còn tiềm ẩn nhiều rủi ro biến động bất thường, đặc
biệt khi các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, ít thông tin và khả năng phân tích, đánh giá rủi ro còn kém sẽ dễ gặp sai lầm
nghiêm trọng, cần giới hạn số lượng để tránh sự đầu tư ồ ạt, thiếu quan sát kỹ lưỡng mà chỉ chạy theo thông tin tạm thời.
Ngoài ra thì số lượng ít sẽ giúp doanh nghiệp quản lý tốt hơn, ít xảy ra rối ren trong công tác quản lý.
Trên thực tế hai điều kiện này không hề xa lạ trong các đạo luật khác trên thế giới, thậm chí có phần giới hạn khắt
khe hơn Việt Nam. Ví dụ tại Mỹ, nếu phát hành riêng lẻ, thì không được quảng cáo bằng các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như hội thảo rộng rãi; và nếu các nhà đầu tư tham gia mua không mang tính chuyên nghiệp, thì số lượng
không được vượt quá 35 người và phải cử ra một đại diện mua.
 Quy định chào bán được đổi mới theo hướng giảm bớt rườm rà, mở rộng cơ hội cho cổ đông hiện hữu và nhà
đầu tư nước ngoài tham gia mua.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020, có 3 điểm thay đổi cơ bản về việc phát hành cổ phần riêng lẻ của
công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng.
Thứ nhất, liên quan việc chào bán cổ phần riêng lẻ với cơ quan đăng ký kinh doanh, theo quy định tại khoản 1 và
khoản 3 điều 123 Luật Doanh nghiệp năm 2014, "Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định chào bán cổ
phần riêng lẻ, công ty phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ với cơ quan đăng ký kinh doanh." và "chỉ có
quyền bán cổ phần sau 5 ngày làm việc, kể từ ngày gửi thông báo mà không nhận được ý kiến phản đối của cơ quan
đăng ký kinh doanh."
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bãi bỏ quy định này nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, doanh nghiệp rút ngắn thời
gian giao dịch rườm rà, tốn kém chi phí khi thực hiện thủ tục chào bán cổ phần riêng lẻ. Doanh nghiệp chỉ phải thực
hiện thủ tục đăng ký tăng vốn điều lệ sau khi hoàn tất việc phát hành cổ phần riêng lẻ.
Thứ hai, về quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông hiện hữu, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì
việc thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phần của các cổ đông hiện hữu không được thể hiện rõ, mà được hiểu rằng, cổ
đông hiện hữu có thể được xem là đã từ bỏ quyền ưu tiên mua cổ phần mới khi nghị quyết của đại hội đồng cổ đông
chấp thuận việc phát hành thêm cổ phần được thông qua.
Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020, vấn đề này đã được làm rõ theo hướng: sau khi công ty quyết định phương án
chào bán cổ phần riêng lẻ, thì cổ đông của công ty phải thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phần; trường hợp cổ đông và
người nhận chuyển quyền ưu tiên mua không mua hết, thì số cổ phần còn lại mới được bán cho người khác theo phương
án chào bán cổ phần riêng lẻ với điều kiện không thuận lợi hơn so với điều kiện chào bán cho các cổ đông, trừ trường
hợp đại hội đồng cổ đông có chấp thuận khác.
Thứ ba, về việc mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không quy định rõ, trong
trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thực hiện M&A theo hình thức chào bán cổ phần riêng lẻ, thì có cần phải áp dụng thủ
tục xin chấp thuận của sở kế hoạch và đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư hay không. Điều này đã gây ra một số lúng
túng trong thời gian đầu khi thi hành Luật.
Bằng việc khẳng định, “nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần chào bán riêng lẻ phải làm thủ tục về mua cổ phần theo
quy định của Luật Đầu tư” (Theo khoản 3 điều 125 LDN 2020), Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã xác định cụ thể các
bước mà nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho nhà đầu tư và DN khi áp dụng pháp luật.
Với những thay đổi mang tính đột phá, Luật Doanh nghiệp năm 2020 sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà đầu tư,
doanh nghiệp yên tâm đầu tư, qua đó phát triển hơn nữa thị trường kinh tế nước ta, vốn còn rất nhiều tiềm năng và dư
địa.
 
2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các cổ đông
2.1. LDN 2020 đã tạo điều kiện mở rộng quyền của cổ đông thiểu số.
Luật Doanh nghiệp 2014:
Khoản 2 Điều 114: Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong một thời
hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn mới có các quyền này.
Luật Doanh nghiệp 2020:
Khoản 2 Điều 115: Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ
khác nhỏ hơn theo quy định tại điều lệ công ty có một số quyền như: Xem xét sổ biên bản, nghị quyết, quyết định, báo
cáo tài chính của Hội đồng quản trị (HĐQT),..
Như vậy, quy định về quyền của cổ đông thiểu số trong LDN 2020 đã có sự thay đổi so với LDN 2014.
Thứ nhất, LDN 2020 xóa bỏ điều kiện cổ đông phải sở hữu cổ phần liên tục trong thời hạn 06 tháng. Theo quy định
tại LDN 2014, để thực hiện một số quyền của mình như đề cử người vào HĐQT và BKS, triệu tập ĐHĐCĐ bất
thường..., cổ đông bắt buộc phải sở hữu liên tục cổ phần trong thời hạn 06 tháng với tỷ lệ sở hữu tối thiểu 5% cổ phần
phổ thông hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Tại thời điểm xây dựng LDN 2014, các nhà làm
luật có quan điểm cho rằng cần phải giới hạn thời gian sở hữu cổ phần của cổ đông trước khi cổ đông mới được thực
hiện một số quyền năng nhất định, để đảm bảo duy trì hoạt động ổn định của công ty, tránh nguy cơ cổ đông vừa góp
vốn khi chưa có thời gian tìm hiểu đã dễ dàng có quyền “quấy phá” doanh nghiệp. Quy định này làm hạn chế quyền của
cổ đông mới khi không được thực hiện quyền làm chủ của mình, thậm chí trong nhiều trường hợp, nhóm cổ đông cũ
tranh thủ khoảng thời gian 06 tháng này để thực hiện một số ý đồ tư lợi như sửa đổi Điều lệ, quy chế nội bộ, thay đổi
các nhân sự cấp cao để làm hạn chế quyền lực của cổ đông mới. Đây cũng chính là một trong những rào cản, khiến các
doanh nghiệp ít mặn mà tham gia cổ phần hóa tại các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua. 
Ví dụ 1: Vụ việc tại Tổng Công ty cổ phần bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Công ty Thai Beverage Public
(Thaibev) đã mua thành công 53,59% vốn điều lệ của Sabeco thông qua Công ty TNHH Vietnam Beverage. Tuy nhiên
do không sở hữu cổ phần liên tục 06 tháng, nên Thaibev không được đề cử người vào HĐQT và BKS theo LDN 2014.
Để giải quyết vướng mắc trên, Thaibev phải nhiều lần kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương để đề xuất Bộ Công
Thương (Sở hữu 36% cổ phần) triệu tập ĐHĐCĐ bất thường để bầu các nhân sự do ThaiBev đề cử vào vị trí thành viên
HĐQT. Mặc dù ThaiBev là cổ đông sở hữu tỷ lệ lớn cổ phần, những vấn đề mà Thaibev gặp phải, là rào cản chung mà
CĐTS gặp phải thời gian qua. => NGẮN
● Theo Bản án 19/2019/KDTM-ST ngày 11/06/2019 của TAND thành phố Hà Nội về tranh chấp giữa nguyên
đơn là ông Nguyễn Đại L là sở hữu 140.000 cổ phần, chiếm 5% vốn điều lệ Công ty; Bị đơn là Công ty cổ phần cung
ứng dịch vụ Hàng không. Ông L có nhiều lần yêu cầu lãnh đạo Công ty cung cấp các tài liệu theo quy định của pháp
luật, nhưng không được công ty chấp thuận. Do đó, ông đã khởi kiện công ty lên Tòa và kết quả là Công ty đã phải
cung cấp cho Ông L những thông tin, văn bản mà ông L yêu cầu.
● Theo quy định tại khoản 2 Điều 115 LDN 2020, cổ đông chỉ cần sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông
trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty sẽ có các quyền: Xem xét, tra cứu, trích lục số biên
bản và nghị quyết, quyết định của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm, báo cáo của Ban kiểm soát, hợp
đồng, giao dịch phải thông qua HĐQT và tài liệu khác, trừ tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh
doanh của công ty; Yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ; Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến
quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Trong khi đó, theo LDN 2014 trước đây, chỉ Cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một
tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ mới được thực hiện các quyền nói trên. Thông qua việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ
phần của cổ đông trong việc thực hiện quyền của mình, LDN 2020 đã mở rộng quyền của CĐTS. Một mặt, trao thêm
quyền cho các cổ đông trong việc chủ động tiếp cận các thông tin hoạt động của công ty để giúp họ giám sát công ty,
cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ tốt hơn. Đồng thời tương thích với quyền cổ đông sở hữu 5% tại Luật
Chứng khoán 2019 cũng như phù hợp với thông lệ quản trị trên thế giới khi đề cao quyền CĐTS để các cổ đông yên
tâm bỏ vốn đầu tư. 

Thứ hai, LDN 2020 điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu của cổ đông để thực hiện một số quyền năng nhất
định. LDN 2014 quy định cổ đông phải sở hữu tỷ lệ cổ phần từ 10%, nếu Điều lệ Công ty không quy định một tỷ lệ khác
nhỏ hơn, mới được xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT,… Căn cứ quy định này, phần lớn các
doanh nghiệp (đại chúng hoặc không đại chúng) đều lựa chọn mốc “10% cổ phần” là giới hạn tối thiểu một cổ đông phải
sở hữu đủ để được thực hiện một số quyền năng nhất định và được quy định rõ trong Điều lệ các công ty này. Quy định
này được đánh giá là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn quản trị tại VN. Bởi tiếp cận thông tin là một trong những
quyền quan trọng để cổ đông thực hiện quyền giám sát các hoạt động kinh doanh, giám sát việc điều hành của HĐQT,
Ban Tổng giám đốc và BKS. Mặc dù pháp luật cho phép doanh nghiệp có thể đưa ra một tỷ lệ thấp hơn 10%, nhưng trên
thực tế, CĐL - người nắm luật chơi, ít khi điều chỉnh thấp hơn để có lợi cho mình. Thông qua việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ
phần của cổ đông trong việc thực hiện quyền của mình, LDN 2020 đã mở rộng quyền của CĐTS. Một mặt, trao thêm
quyền cho các cổ đông trong việc chủ động tiếp cận các thông tin hoạt động của công ty để giúp họ giám sát công ty,
cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ tốt hơn. Đồng thời tương thích với quyền cổ đông sở hữu 5% tại Luật
Chứng khoán 2019 cũng như phù hợp với thông lệ quản trị trên thế giới khi đề cao quyền CĐTS để các cổ đông yên tâm
bỏ vốn đầu tư.
Ví dụ 2: Theo Bản án 19/2019/KDTM-ST ngày 11/06/2019 của TAND thành phố Hà Nội về tranh chấp giữa nguyên
đơn là ông Nguyễn Đại L là sở hữu 140.000 cổ phần, chiếm 5% vốn điều lệ Công ty; Bị đơn là Công ty cổ phần cung
ứng dịch vụ Hàng không. Ông L có nhiều lần yêu cầu lãnh đạo Công ty cung cấp các tài liệu theo quy định của pháp
luật, nhưng không được công ty chấp thuận. Do đó, ông đã khởi kiện công ty lên Tòa và kết quả là Công ty đã phải cung
cấp cho Ông L những thông tin, văn bản mà ông L yêu cầu. 
● Ngoài ra, So sánh điểm c khoản 3 Điều 114 Luật DN 2014 và khoản 4 Điều 115 Luật DN 2020, các cụm từ
“số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác … mã số
DN hoặc số quyết định thành lập” được thay thế bằng cụm từ “số giấy tờ pháp lý”
● Các điều luật ở năm 2020 đã thay thế và sửa đổi các giấy tờ pháp lý giúp nó không bị trong khuôn khổ, được
mở rộng hơn nhưng vẫn đúng với nhà nước quy định
● Điểm b khoản 3 Điều 114 Luật DN 2014 “Nhiệm kỳ của HĐQT đã vượt quá 06 tháng mà HĐQT mới chưa
được thay thế ”đã được bỏ ở Luật DN 2020 vì nó không cần thiết, nhiều trường hợp có thể do một số vấn đề thì quá
trình bầu Hội đồng quản trị mới có thể vượt quá 6 tháng để đảm bảo đảm việc thực hiện các quyền của cổ đông không
làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp 
Nghĩa vụ của cổ đông ( Điều 115 Luật DN 2014 - Điều 119 Luật DN 2020) 
Khoản 5 Điều 119 Luật DN 2020 đã quy định thêm về nghĩa vụ của cổ đông là “Bảo mật các thông tin được công ty
cung cấp theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật; chỉ sử dụng thông tin được cung cấp để thực hiện và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin được công ty cung cấp cho tổ chức,
cá nhân khác ”.
Nghĩa vụ của cổ đông trong Luật DN 2020 đã được bổ sung thêm một phần rất quan trọng chính là về việc bảo mật
thông tin của công ty, đây là một thay đổi khá quan trọng, tránh trường hợp các cổ đông bán thông tin của công ty cho
công ty đối thủ và từ đó có thể công ty làm ăn thua lỗ và thâu tóm công ty. 
Với thông tin mang tính nội bộ, cổ đông cần biết để góp ý và đưa ra những kiến nghị nhằm phát triển công ty tốt hơn.
Tuy nhiên, những thông tin này nếu đối thủ biết được sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó,
việc cho biết thông tin là nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của cổ đông nhưng cấm phát tán thông tin này cho
người khác sẽ giúp bảo vệ lợi ích chung của công ty.
Quy định về bí mật kinh doanh đã được quy định tại Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, Điều 12 Luật Chứng khoán
2019 và đến năm 2020 quy định này mới được nhắc đến trong Luật DN nhằm bổ sung cho Luật DN đầy đủ hơn và
phù hợp với các bộ Luật khác.
Với quy định mới này, cổ đông cần được hiểu rằng những thông tin nghiêm cấm phát tán cho tổ chức, cá nhân sẽ là
với thông tin mang tính chất không công khai (thông tin nội bộ). Thông tin mang tính chất công khai (như thông báo
về tình hình cổ tức, phát hành thêm cổ phiếu đã được công ty công bố trên Sở giao dịch chứng khoán...) không bị cấm
bởi quy định này.
2.5. Chuyển nhượng cổ phần (Điều 126 LDN 2014 - Điều 127 LDN 2020)
Giống nhau: Khoản 1, 2, 3, 4; Khoản 7 LDN 2014 tương ứng khoản 6 LDN 2020
LDN 2020 có những thay đổi tích cực:
Khoản 5 bổ sung thêm đối tượng nhận cổ phần chuyển nhượng ngoài cá nhân có thể là tổ chức. Điều này giúp mở
rộng đối tượng hơn.
Khoản 7 quy định “Công ty phải đăng ký thay đổi cổ đông trong số đăng ký cổ đông theo yêu cầu của cổ đông có liên
quan trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được yêu cầu theo quy định tại Điều lệ công ty”. Điều này đảm bảo tính cập
nhật, bảo vệ quyền lợi của cổ đông.
Đồng thời bãi bỏ khoản 6 LDN 2014: Khi công ty đăng ký thay đổi cổ đông thì việc thông tin được cập nhật trong sổ
đăng ký cổ đông được quy định tại Điều 122 Luật Doanh nghiệp 2020.
VÍ DỤ MINH HOẠ
Công ty cổ phần A, thay đổi đăng ký lần thứ 7 ngày 09/6/2015 gồm có 03 cổ đông: 
- Huỳnh Thị Thu T sở hữu 2.100 cổ phần phổ thông chiếm tỷ lệ 7%, trị giá 210.000.000đ; 
- Nguyễn Mậu Khôi A1 sở hữu cổ phần phổ thông chiếm tỷ lệ 21%;
- Nguyễn Trọng H1 sở hữu cổ phần phổ thông chiếm tỷ lệ 72% - Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần
A.
Ngày 22/3/2016 Công ty A họp có mặt 03 thành viên là bà T, ông A1, ông H1, nội dung xác nhận cổ phần của bà T
đến ngày 15/8/2012 có giá trị tương đương 89.687.500đ; Công ty A thanh toán dứt điểm số tiền trên cho bà T trong
năm 2016; Bà T có trách nhiệm phối hợp với công ty để hoàn tất thủ tục liên quan; Bà T phải chuyển nhượng toàn bộ
số cổ phần đang sở hữu tại Công ty A cho một người khác theo sự chỉ định của công ty sau khi đã nhận đủ số tiền
89.687.500đ. Đã quá thời hạn theo sự thỏa thuận, bà T nhiều lần đề nghị Công ty A thực hiện thỏa thuận nhưng công
ty né tránh. Bà T khởi kiện yêu cầu công ty trả cho bà số tiền 89.687.500đ. 
GIẢI QUYẾT
- Điều 11 khoản 1 điểm d của Điều lệ Tổ chức hoạt động Công ty Cổ phần A (Điều lệ công ty A) quy định cổ đông
phổ thông được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông trừ
trường hợp quy định tại Điều 16 khoản 5 của Điều lệ công ty A. Đối chiếu quy định tại Điều 16 khoản 5 của Điều lệ
công ty A, bà T không bị ràng buộc bởi Điều khoản này vì bà T không phải cổ đông sáng lập.
 - Điều 19 khoản 5 của Điều lệ công ty A quy định các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 13 và khoản 5 Điều 15. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng văn bản theo cách thông thường
hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Quy định về phương thức, cách thức chuyển nhượng cổ phần tại Điều 19 khoản 5
Điều lệ công ty A phù hợp quy định tại Điều 110 khoản 1 điểm d và Điều 126 khoản 1, 2 của Luật Doanh nghiệp
2014.
 Như vậy, “Biên bản thỏa thuận về việc xác nhận cổ phần” ngày 22/3/2016 có nội dung và hình thức phù hợp với Luật
Doanh nghiệp 2014 thể hiện ý chí của các bên đồng ý cho bà T chuyển nhượng cổ phần; Người nhận chuyển nhượng
cổ phần của bà T do Công ty A chỉ định; Quá thời hạn cam kết theo thỏa thuận nhưng công ty cổ phần A không thực
hiện nên bà T khởi kiện là có căn cứ.
Áp dụng điều: Điều 110 khoản 1 điểm d; Điều 114 khoản 1 điểm d; Điều 126 khoản 1, 2, 7 Luật Doanh nghiệp 2014;
●  Buộc Công ty Cổ phần A chỉ định người nhận chuyển nhượng cổ phần của bà Huỳnh Thị Thu T, tỷ lệ cổ
phần của bà T trong Công ty Cổ phần A là 7% tương đương số tiền 210.000.000đ. Công ty Cổ phần A có nghĩa vụ trả
cho bà Huỳnh Thị Thu T 89.687.500đ (Tám mươi chín triệu sáu trăm tám mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
●  Chấm dứt tư cách cổ đông của bà Huỳnh Thị Thu T đối với công ty cổ phần A kể từ thời điểm các thông tin
của người nhận cổ phần của bà Huỳnh Thị Thu T theo quy định tại khoản 2 Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2014 được
ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông.

2.2. Quyền khởi kiện của cổ đông, nhóm cổ đông


Luật Doanh nghiệp 2014:
Khoản 1 Điều 161: Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% tổng số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục 06
tháng thì mới có quyền khởi kiện.
Luật Doanh nghiệp 2020:
Khoản 1 Điều 166: Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% tổng số cổ phần phổ thông có quyền tự mình hoặc
nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác trong các trường hợp
quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 166 Luật Doanh nghiệp 2020.
=> Luật doanh nghiệp 2020 cũng có thay đổi về quyền khởi kiện của (các) cổ đông đối với người quản lý công ty; cụ
thể là Luật Doanh nghiệp 2020 đã bỏ yêu cầu thời hạn nắm giữ liên tục trong sáu tháng của (các) cổ đông nắm giữ ít
nhất 1% cổ phần để (các) cổ đông này có thể thực thi quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện người quản lý
công ty liên quan đến các quyết định, hành động trong quá trình điều hành doanh nghiệp (Khoản 1 Điều 166).
Luật Doanh nghiệp 2020 cũng giới thiệu thêm khái niệm “trách nhiệm liên đới” của thành viên HĐQT, Giám đốc
hoặc Tổng Giám đốc liên quan đến quyền khởi kiện của (các) cổ đông nắm giữ 1% cổ phần trở lên trong khi LDN 2014
chỉ có khái niệm trách nhiệm dân sự của các đối tượng này. Ngoài ra, trong khi Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ quy định
chung về quyền khởi kiện của (các) cổ đông nắm giữ 1% cổ phần trở lên thì Luật Doanh nghiệp 2020 lại ghi rõ nội dung
yêu cầu của cổ đông khi khởi kiện là “yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác”.
Định nghĩa về “người khác” trong quy định này cũng cần phải được hướng dẫn cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Doanh nghiệp 2020 để đảm bảo việc thực thi quyền của cổ đông được chính xác.
Như vậy, cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% thì có quyền khởi kiện người quản lý công ty. Việc quy định như
vậy đã giúp các cổ đông nhỏ có quyền khởi kiện công bằng trong công ty, mở rộng quyền được khởi kiện của các cổ
đông, nhóm cổ đông trong công ty hơn so với Luật doanh nghiệp 2014 ( Luật Doanh nghiệp 2014 quy định chỉ cổ đông
sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục 06 tháng thì mới có quyền khởi kiện). 
Có thể thấy các sửa đổi đáng lưu ý liên quan đến quyền của cổ đông trong công ty cổ phần như được trình bày ở trên
có thể xem là tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của thị trường, đảm bảo quyền của chủ sở hữu vốn khi đầu tư vào
công ty cổ phần. Các quyền quan trọng như tiếp cận thông tin, giám sát sự minh bạch, đề cử người vào các chức danh
quản lý trong hoạt động điều hành doanh nghiệp cũng như quyền khởi kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của cổ
đông phải được công nhận và thực thi kể từ thời điểm cổ đông hoàn tất các thủ tục luật định về góp vốn, mua cổ phần và
chính thức được ghi nhận là cổ đông của công ty. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, một số thuật ngữ cần được quy
định rõ ràng trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2020 để đảm bảo việc thực hiện quyền được rõ
ràng, thông suốt.
Ví dụ: Hội đồng quản trị công ty PVE bị nhóm cổ đông khởi kiện.
Nhóm cổ đông sở hữu 10,42% vốn PVE mà đại diện là ông Đỗ Văn Thanh có đơn tố cáo hành vi tổ chức đại hội
đồng cổ đông thường niên năm 2020 của HĐQT của PVE là vi phạm pháp luật.

Ngày 23/7/2022, bà Lê Thị Thùy Linh, Thẩm phán Toà án Nhân dân huyện Nhà Bè (TP.HCM), đã ký văn bản yêu
cầu ông Đỗ Văn Thanh (ngụ quận 1, TP.HCM), ông Đỗ Đức Hiếu (ngụ TP.Thủ Đức, TP.HCM), ông Nguyễn Tiến
Dũng (ngụ TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đến nộp án phí trong vụ kiện với Tổng Công ty Tư vấn Thiết kế Dầu
khí (PVE).

TCT Tư vấn Thiết kế Dầu khí (UPCoM - mã PVE) do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) sở hữu 29% vốn
điều lệ. PVE là nhà thầu tư vấn thiết kế, tư vấn khảo sát và quản lý dự án dầu khí cho khách hàng trong và ngoài PVN. 

Tháng 4/2022, PVE mới thực hiện tổ chức họp đại hội đồng cổ đông thường niên 2020 (theo quy định là trước tháng
6/2021) và tới lần thứ 2, công ty mới đủ điều kiện tiến hành cuộc họp.

Trước khi đại hội diễn ra, Thanh tra Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã xử phạt vi phạm hành chính với PVE vì
không công bố thông tin trên hệ thống công bố thông tin của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và trang thông tin điện tử
của Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) các tài liệu báo cáo tài chính, báo cáo thường niên các năm 2019, 2020,
2021…

Sau đó, PVE đã tiến hành họp ĐHĐCĐ thường niên 2020, 2021, công bố các Báo cáo tài chính bán niên 2021 đã
soát xét, Báo cáo tài chính năm 2021 đã được kiểm toán. Tuy nhiên, công ty vẫn chậm nộp Báo cáo tài chính 3 năm liên
tiếp và chưa khắc phục nguyên nhân dẫn đến tình trạng chứng khoán bị hủy bỏ niêm yết. Vì vậy, cổ phiếu PVE bị HNX
duy trì diện hạn chế giao dịch.
Tuy nhiên, một nhóm cổ đông sở hữu 10,42% vốn PVE (đại diện là ông Đỗ Văn Thanh) cho rằng việc tổ chức đại
hội đồng cổ đông thường niên năm 2020 của Hội đồng quản trị (HĐQT) công ty này là vi phạm pháp luật, xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông.

Nhóm cổ đông này cũng chỉ ra nhiều điểm bất thường trong đại hội đồng cổ đông thường niên 2020, như: ban hành
thư mời họp, biên bản họp, nghị quyết, tờ trình... vào ngày 26/4 có nhiều điểm bất thường; việc HĐQT miễn nhiệm tư
cách thành viên HĐQT độc lập bị cho là không đúng quy định pháp luật...

Do đó, nhóm cổ đông này nộp đơn khởi kiện ông Tạ Đức Tiến, người đại diện 18% vốn chủ sở hữu của PVN tại
PVE; ông Lê Hữu Bốn, Chủ tịch HĐQT PVE; ông Ngô Ngọc Thường, Tổng giám đốc PVE và ông Đinh Văn Dĩnh,
thành viên Hội đồng quản trị công ty này lên Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè (TP.HCM) đề nghị hủy Nghị quyết Đại hội
đồng cổ đông thường niên 2020 do không có giá trị pháp lý.
Ông Đỗ Văn Thanh cũng từng là Chủ tịch PVE (2008 - 2011) và Tổng giám đốc PVE (2011 - 6/2021). Tại cuộc họp
ĐHĐCĐ thường niên 2021 và 2022 diễn ra ngày 30/6/2022, ông Đỗ Văn Thanh đã bị miễn nhiệm thành viên HĐQT.

2.3. Người quản lý có trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại của công ty
Luật Doanh nghiệp 2014:
“Điều 160. Trách nhiệm của người quản lý công ty
1. Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo đúng quy định của Luật này, pháp luật có liên quan, Điều lệ
công ty, nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
b) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp
pháp tối đa của công ty;
c) Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty,
địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
d) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về doanh nghiệp mà họ và người có liên quan của họ làm chủ
hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.
2. Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.”

Luật Doanh nghiệp 2020:


Khoản 2 Điều 165: Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác vi phạm
quy định tại khoản 1 Điều này chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và
bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba.
=> Luật Doanh nghiệp 2020 đã quy định thêm khoản 2 điều 165 đã giúp trả lại lợi ích bị mất, lợi ích đã nhận và
những thiệt hại cho công ty và bên thứ ba. Khi thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người
quản lý khác không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ những trách nhiệm chung trên thì phải chịu
trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công
ty và bên thứ ba. Đây là một quy định chung nhất ràng buộc trách nhiệm của người quản lý. Do vậy, nếu điều lệ không
phân định chi tiết trách nhiệm của từng người quản lý (và thường điều lệ sẽ không quy định cụ thể như vậy), thì trong
trường hợp một thành viên hội đồng quản trị vi phạm trách nhiệm của mình và gây thiệt hại cho công ty, khả năng cao là
những thành viên còn lại của hội đồng quản trị cũng có thể phải chịu trách nhiệm liên đới với thành viên vi phạm đó.
Như vậy, có thể thấy rõ, người quản lý trong doanh nghiệp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc quản lý, điều hành
hoạt động và duy trì sự tồn tại của công ty.

3. Quy định về Hội đồng quản trị


3.1. Yêu cầu đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định của HĐQT
Theo quy định tại khoản 4 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014, trong trường hợp nghị quyết do HĐQT thông qua trái
với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của công ty gây thiệt hại cho công ty thì chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần của
công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên. Tuy nhiên
quy định này đã hạn chế quyền của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ. Để khắc phục hạn chế này, luật Doanh
nghiệp 2020 đã có sự điều chỉnh. Cụ thể, theo khoản 4 điều 153 quy định cổ đông của công ty có quyền yêu cầu Tòa án
đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ nghị quyết, quyết định do HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật, nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông, Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty.
Như vậy, khác với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật doanh nghiệp 2020 cho phép bất cứ cổ đông nào cũng có quyền
khởi kiện yêu cầu tòa án đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định của HĐQT nếu Nghị quyết, Quyết định
đó trái với quy định pháp luật, Nghị quyết đại hội đồng cổ đông, điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty. Đây là một
điểm mới tích cực, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của cổ đông trong công ty, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ. Tất
cả các cổ đông đều có thể đưa ra kiến nghị, đề xuất phù hợp để có thể kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
cũng như của công ty. 

3.2. Nhiệm kỳ thành viên độc lập của HĐQT


Khoản 2 Điều 150 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá 05
năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế”. Quy định này là chưa phù hợp và chưa đảm bảo được tính
độc lập cho vai trò, vị thế của các thành viên độc lập HĐQT. Bởi thành viên độc lập HĐQT phải là người không có
quan hệ về nhân thân, không có quan hệ về tài sản với công ty cổ phần để tạo ra sự khách quan, sự công bằng, minh
bạch trong các hoạt động của công ty. Bên cạnh đó thì sự tham gia của các thành viên độc lập HĐQT cũng làm giảm
nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý, điều hành, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ. Tuy nhiên việc quy định không hạn chế nhiệm kỳ theo Luật Doanh nghiệp 2014
đồng nghĩa các  thành viên độc lập HĐQT có thể thực hiện các nhiệm kỳ liên tiếp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng
các thành viên độc lập HĐQT sẽ phát sinh câu kết với các thành viên HĐQT, các cổ đông khác để trục lợi, chèn ép các
cổ đông nhỏ lẻ. Ngoài ra, khi nhiệm kỳ kéo dài liên tiếp như vậy, các thành viên độc lập HĐQT cũng tham gia ngày
càng sâu sắc hơn vào các hoạt động của công ty và phát sinh các trách nhiệm liên quan, làm cho các quyết định không
còn đảm bảo tính khách quan và công bằng. Như vậy, quy định này đã tạo sự trái ngược với vai trò của thành viên độc
lập HĐQT trong vấn đề cân bằng lợi ích của các bên liên quan tại công ty. 
Để khắc phục vấn đề này, Luật Doanh nghiệp 2020 đã có sự điều chỉnh về nhiệm kỳ hoạt động của thành viên độc
lập HĐQT tại khoản 2 điều 154 “Một cá nhân chỉ được bầu làm thành viên độc lập Hội đồng quản trị của  một công ty
không quá 2 nhiệm kỳ liên tục”. 

3.3. Chủ tịch HĐQT


Theo khoản 1 và 2 điều 152 trong Luật Doanh nghiệp 2014 thì chủ tịch HĐQT có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc trừ trường hợp công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số phiếu biểu quyết và Điều lệ công ty,
pháp luật về chứng khoán không có quy định khác. Tuy nhiên, khoản 2 điều 156 Luật Doanh nghiệp 2020 lại quy định
ngược lại. Chủ tịch HĐQT công ty đại chúng và công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số phiếu biểu
quyết không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Sự thay đổi này là hợp lý và cần thiết bởi chủ tịch HĐQT có vai
trò định hướng chiến lược, trong khi Giám đốc và Tổng giám đốc là người quản lý vận hành. Đây là 2 vị trí hoàn toàn
khác nhau, có vai trò nhiệm vụ khác nhau, đòi hỏi năng lực và kỹ năng khác nhau. Hơn nữa, HĐQT kiểm soát ban điều
hành nên nếu Chủ tịch HĐQT đồng thời là Tổng giám đốc thì sẽ xảy ra tình huống ‘vừa đá bóng vừa thổi còi’. Do đó,
việc tách bạch giữa 2 vị trí này sẽ giúp tăng cường yếu tố kiểm soát và quản trị công ty hiệu quả. 
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2020 còn bổ sung thêm quy định “Trong trường hợp không có người được ủy quyền
hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị chết, mất tích, bị tạm giam. đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử
lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định thì các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên giữ chức Chủ tịch Hội đồng
quản trị theo nguyên tắc đa số thành viên còn lại tán thành cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng quản trị”(Khoản
4 điều 156 LDN 2020). Quy định bổ sung này đã xác định rõ các trường hợp phải bầu lại chức HĐQT tạm thời, góp
phần khắc phục sự hạn chế trong Luật doanh nghiệp 2014. Trong Luật Doanh nghiệp 2014, tại khoản 4 điều 152, quy
định này rất chung chung, không xác định rõ các trường hợp cụ thể mà chỉ xác định “Trường hợp không có người được
ủy quyền thì các thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên tạm thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị
theo nguyên tắc đa số.” (theo khoản 4 điều 152 LDN 2014)

3.4. Biên bản họp HĐQT


Biên bản họp HĐQT là tài liệu pháp lý quan trọng, ghi lại nội dung và kết quả biểu quyết tại các cuộc họp HĐQT
trong công ty Cổ phần, để từ đó công ty sẽ ban hành các nghị quyết, quyết định về các vấn đề liên quan đến tổ chức,
hoạt động của công ty. Biên bản họp HĐQT được quy định tại Điều 154 Luật Doanh nghiệp 2014 và tiếp tục được ghi
nhận, điều chỉnh trong điều điều 158 Luật Doanh nghiệp 2020. 
Tuy nhiên, so với Luật Doanh nghiệp 2014 thì Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung quy định mới: “ Trong trường
hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp nhưng nếu được các thành viên khác của Hội đồng quản trị
tham dự họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h trong khoản 1 Điều này thì biên
bản này có hiệu lực.” Quy định bổ sung này là hợp lý và tiến bộ vì nó đảm bảo tính công bằng và quyền lợi cho các cổ
đông, Không thể vì không có chữ ký của chủ tọa hoặc người ghi biên bản trong khi tất cả các thành viên dự họp đều
đồng ý mà biên bản cuộc họp lại trở nên không có hiệu lực. Hơn nữa. quy định này còn hạn chế tình trạng lạm quyền
khi người ghi biên bản họp hoặc chủ tọa cố tình từ chối ký vào biên bản họp HĐQT để trục lợi, bảo vệ lợi ích cá nhân,
gây ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Do đó, việc Luật Doanh nghiệp 2020 quy định trong trường hợp chủ tọa,
người ghi biên bản từ chối ký thì biên bản họp HĐQT vẫn có hiệu lực nếu biên bản này thể hiện đầy đủ được các nội
dung theo quy định và được tất cả các thành viên dự họp khác ký tên là điều phù hợp, cần thiết.

4. Quy định về hội đồng cổ đông


Thứ nhất, bổ sung các quyền quy định tại các điểm k, l, m của khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp năm
2020, theo đó, Đại hội đồng cổ đông có thêm các quyền:
- Quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát;
- Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát;
- Phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động
của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi xét thấy cần thiết.
Những sự bổ sung này là phù hợp với thực tiễn và xu hướng phát triển của mô hình công ty cổ phần ở Việt Nam để
tránh nhầm lẫn, chồng chéo hoặc không đúng thẩm quyền…
Thứ hai, điều chỉnh và làm rõ hơn quyền của Đại hội đồng cổ đông trong việc miễn nhiệm và bãi nhiệm thành
viên Hội đồng quản trị, theo đó:
Đối với trường hợp miễn nhiệm khi có đơn từ chức của một thành viên Hội đồng quản trị, theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 160 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì đơn đó cần có sự chấp thuận thay vì chỉ cần có đơn từ chức như quy
định trong điểm c khoản 1 Điều 156 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
Chuyển trường hợp thành viên Hội đồng quản trị bị miễn nhiệm theo quy định của a khoản 2 Điều 160 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 “không tham gia các hoạt động của Hội đồng quản trị trong 06 tháng liên tục, trừ trường hợp bất khả
kháng” thành trường hợp bị bãi miễn theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 156 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Có thể
nhận thấy sự thay đổi này dựa trên cơ sở cân nhắc về tính nghiêm trọng của loại vi phạm này;
Bổ sung thêm trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 160 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (chưa được quy định trong
Luật Doanh nghiệp năm 2014), theo đó nếu xét thấy cần thiết, “Đại hội đồng cổ đông quyết định thay thế thành viên
Hội đồng quản trị; miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị” ngoài các trường hợp miễn nhiệm và bãi miễn
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 160 nói trên.
Có rất nhiều quyền chỉ thuộc về một mình ĐHĐCĐ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, Kiểm soát
viên; quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty... Thông qua các nội dung thay đổi, có thể thấy pháp luật DN hiện hành
đã có nhận thức đúng đắn và quan tâm về vai tò của ĐHĐCĐ. Điều này giúp ĐHĐCĐ có khung pháp lý vững chắc hơn
trong việc thực thi vị trí của mình, giúp cho hoạt động của CTCP tuân thủ pháp luật và ngày càng trở nên lớn mạnh.
Thứ ba, về mời họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 139 LDN 2014 – Điều 143 LDN 2020)
Khoản 1 Điều 139 LDN 2014 có quy định: “...Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp
đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ
công ty không quy định thời hạn dài hơn. Thông báo mời họp phải có tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp;
tên, địa chỉ thường trú của cổ đông, thời gian, địa điểm họp và những yêu cầu khác đối với người dự họp…”
Khoản 1 Điều 143 LDN 2020 có quy định: “...Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp
đến tất cả cổ đông trong danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất là 21 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ
công ty không quy định thời hạn dài hơn. Thông báo mời họp phải có tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp;
tên, địa chỉ liên lạc của cổ đông, thời gian, địa điểm họp và những yêu cầu khác đối với người dự họp…”
Như vậy Luật 2020 quy định thông báo mời họp cổ đông phải được gửi chậm nhất là 21 ngày trước ngày khai mạc
thay vì 10 ngày như trước đây
Tại khoản 4 Điều 143 LDN 2020 có lược bỏ quy định về việc công ty phải gửi tài liệu họp cho cổ đông nếu cổ đông
yêu cầu.
Ví dụ :
Công ty cổ phần Vận tải đa phương thức Duyên Hải phản ánh, do tình hình dịch bệnh Covid-19, và tuân thủ Chỉ thị
16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Công ty đã phải hoãn tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường
niên (dự kiến tổ chức vào khoảng thời gian từ ngày 1/4/2020 đến ngày 15/4/2020). Tuy nhiên khi kết thúc thời hạn
thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg, Công ty gặp khó khăn do bắt buộc phải thực hiện lại từ đầu các quy trình, thủ tục theo
luật định để tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên, trong đó có các quy định như: 
Đại hội đồng cổ đông phải họp thường niên trong thời hạn 4 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Theo đề nghị
của Hội đồng quản trị, Cơ quan đăng ký kinh doanh có thể gia hạn, nhưng không quá 6 tháng, kể từ ngày kết thúc
năm tài chính (khoản 2 Điều 136 Luật Doanh nghiệp 2014).
Danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông được lập dựa trên sổ đăng ký cổ đông của công ty. Danh
sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông được lập không sớm hơn 5 ngày trước ngày gửi giấy mời họp
Đại hội đồng cổ đông nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn (khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp
2014).
Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ
đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn
(khoản 1 Điều 139 Luật Doanh nghiệp 2014). 
Công ty đại chúng phải công bố thông tin về việc lập danh sách cổ đông có quyền tham dự họp Đại hội đồng cổ đông
tối thiểu 20 ngày trước ngày đăng ký cuối cùng (khoản 1 Điều 8 Nghị định 71/2017/NĐ-CP ngày 6/6/2017)…
Tuy nhiên có nhiều quy định đã được sửa đổi trong luật doanh nghiệp 2020
Theo Luật doanh nghiệp 2020 thì trừ trường hợp điều lệ có quy định khác, HĐQT sẽ quyết định việc gia hạn thời gian
họp đại hội cổ đông thường niên thay vì Cơ quan đăng ký kinh doanh quyết định như trước đây.
Khoản 1 điều 141 Luật doanh nghiệp 2020 quy định danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông được
lập không quá 10 ngày trước ngày gửi giấy mời họp Đại hội đồng cổ đông nếu Điều lệ công ty không quy định thời
hạn ngắn hơn. (thay vì 5 ngày như trong Luật doanh nghiệp 2014)
Khoản 1 điều 143 Luật doanh nghiệp 2020 quy định thông báo mời họp cổ đông phải được gửi chậm nhất là 21 ngày
trước ngày khai mạc thay vì 10 ngày như trước đây
Với những thay đổi trong luật doanh nghiệp 2020 thì trong trường hợp này công ty Duyên Hải sẽ gặp ít khó khăn hơn
trong việc tổ chức họp đại hội đồng cổ đông.
Thứ tư, về những điểm mới về biên bản họp ĐHĐCĐ
Luật doanh nghiệp 2020 bổ sung quy định “Trường hợp chủ tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp thì biên bản này có
hiệu lực nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng quản trị tham dự họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định
tại khoản này. Biên bản họp ghi rõ việc chủ tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp”.
Trước đây, điểm i khoản 1 Điều 146 Luật Doanh nghiệp 2014 yêu cầu biên bản họp ĐHĐCĐ phải có chữ ký của chủ
toạ và thư ký.Tuy nhiên, ngoại lệ có trường hợp chủ tọa và thư ký từ chối nhưng biên bản họp ĐHĐCĐ vẫn có hiệu
lực, nội dung này được quy định rõ tại điểm i khoản 1 Điều 150 Luật Doanh nghiệp 2020 như sau:
 “1. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông phải được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện
tử khác. Biên bản phải lập bằng tiếng Việt, có thể lập thêm bằng tiếng nước ngoài và có các nội dung chủ yếu sau
đây:
...
i) Họ, tên, chữ ký của chủ tọa và thư ký.
Trường hợp chủ tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp thì biên bản này có hiệu lực nếu được tất cả thành viên khác của
Hội đồng quản trị tham dự họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản này. Biên bàn họp ghi rõ việc chủ
tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp”.
Ví dụ: Bản án 05/2018/kdtm-pt ngày 12/03/2018 về tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng
1.Nguyên đơn: Công ty cổ phần đầu tư V.
2 Bị đơn: Công ty cổ phần O.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Đỗ Thị Hằng Nga trình bày:
Ngày 22/3/2017 Công ty cổ phần O (viết tắt là CTCP O) tổ chức Đại hội đồng cổ đông (viết tắt là ĐHĐCĐ) thường
niên năm 2017. Công ty cổ phần đầu tư V (viết tắt là Công ty V) là cổ đông sở hữu 144.890 cổ phần (tương đương
30,45% vốn Điều lệ) của Công ty cổ phần O, nhận thấy việc tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ có một số sai phạm 
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty V vắng mặt tại
phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng và đại diện bị đơn Công ty cổ phần O đề nghị xét xử vắng mặt
nguyên đơn, căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định
của pháp luật.
Xét kháng cáo của Công ty cổ phần O đề nghị xem xét sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn,
với lý do Công ty đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông đúng quy định, nên toàn bộ
Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2017 ngày 22-03-2017 của Công ty cổ phần O là hợp pháp cần
công nhận, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Tại Khoản 1 và khoản 3 Điều 139 Luật doanh nghiệp quy định: “Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải
gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước
ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn.” và “Thông báo mời họp phải được gửi kèm
theo các tài liệu sau đây: a) Chương trình họp, các tài liệu sử dụng trong cuộc họp và dự thảo nghị quyết đối với từng
vấn đề trong chương trình họp; b) Phiếu biểu quyết; c) Mẫu chỉ định đại diện theo ủy quyền dự họp.”.
[2] Tại Khoản 1 Điều 24 Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Công ty cổ phần O nhiệm kỳ V (Năm 2016-2020) bổ
sung, sửa đổi ngày 02-02-2016 quy định thể thức triệu tập và tiến hành các Đại hội cổ đông như sau: “Thông báo triệu
tập đại hội cổ đông phải được gửi bằng thư cho các cổ đông có cổ phiếu ghi danh trước 10 ngày và thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng. Thông báo triệu tập Đại hội cổ đông phải kèm theo dự thảo chương trình nghị
sự ...”…
[3] Công ty cổ phần Đầu tư V là cổ đông sở hữu 144.890 cổ phần (tương đương 30,45% vốn Điều lệ) của Công ty cổ
phần O. Khi tiến hành Đại hội đồng cổ đông vào ngày 22-3-2017, Công ty cổ phần O lại gửi thư mời vào ngày 13-3-
2017 và không gửi kèm các tài liệu liên quan đến chương trình Đại hội cổ đông cho Công ty cổ phần Đầu tư V là thực
hiện không đúng quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ của Công ty cổ phần O. Tại Khoản 1 Điều 147 Luật
doanh nghiệp quy định cổ đông có quyền yêu cầu hủy Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông khi: “Trình tự và thủ tục
triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định pháp luật của luật này và Điều lệ công ty…”,
do đó Công ty cổ phần Đầu tư V yêu cầu hủy toàn bộ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2017 ngày
22-03-20017 của Công ty cổ phần O là có căn cứ.
Với phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo của Công ty cổ phần O là không có căn cứ chấp nhận. Công ty
cổ phần O phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Thứ năm, Những điểm mới về hội đồng quản trị trong Công ty Cổ phần(149-153)
Về yêu cầu đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định của Hội động Quản trị.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 149 Luật Doanh nghiệp 2014, trong trường hợp Nghị quyết do Hội đồng
quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì cổ đông sở hữu cổ
phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện Nghị
quyết nói trên. Theo quy định này thì chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm
mới có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị đình chỉ thực hiện Nghị quyết. Đây là một quy định được đánh giá là chưa
phù hợp, hạn chế quyền của cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ trong việc kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ cũng như của công ty.
Như vậy, khác với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 đã cho phép bất cứ cổ đông nào cũng
có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định của Hội động quản trị nếu
Nghị quyết, Quyết định đó trái với quy định pháp luật, trái với Nghị quyết đại hội đồng cổ đông, điều lệ công ty gây
thiệt hại cho công ty. Đây là một quy định phù hợp, cần thiết và tiến bộ, bởi điều này giúp bảo vệ kịp thời quyền và
lợi ích chính đáng của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ lẻ trước các nguy cơ rủi ro phát sinh từ quyết định của
Hội đồng quản trị tại các Công ty Cổ phần.
Thứ sáu, Những điểm mới về nhiệm kỳ thành viên độc lập hội đồng quản trị (150-154)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 150 Luật Doanh nghiệp 2014, nhiệm kỳ của thành viên độc lập Hội đồng quản trị
không quá 05 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Với việc quy định không hạn chế nhiệm kỳ
theo như Luật Doanh nghiệp 2014 đã vô tình làm cho vị thế của thành viên độc lập Hội đồng quản trị không còn bảo
đảm tính độc lập, bởi việc kéo dài nhiệm kỳ liên tiếp sẽ dẫn đến tình trạng cùng với thời gian làm việc trong công ty,
mối quan hệ giữa thành viên độc lập Hội đồng quản trị và các thành viên quản lý, điều hành khác ngày càng sâu sắc,
bản thân các thành viên độc lập Hội đồng quản trị cũng tham gia ngày càng sâu hơn vào các hoạt động của công ty.
Do đó, Luật doanh nghiệp 2020 quy định thành viên độc lập Hội đồng quản trị không được tham gia HĐQT
quá 02 nhiệm kỳ liên tục thay vì không hạn chế như trước đây. Đồng thời,   Luật doanh nghiệp 2020 bỏ quy định các
giấy tờ, giao dịch của công ty phải ghi rõ “thành viên độc lập” trước họ, tên của thành viên Hội đồng quản trị tương
ứng như khoản 4 điều 150 Luật doanh nghiệp 2014.
Thứ bảy, những điểm mới về Tiêu chuẩn và điều kiện của thành viên độc lập HĐQT (151-155)
Luật Doanh nghiệp 2014 đã quy định thành viên Hội đồng quản trị độc lập phải đáp ứng được các điều kiện được quy
định tại khoản 2 Điều 151. Tuy nhiên, trong Luật Doanh nghiệp 2020 đã có quy định bổ sung thêm về điều kiện đối
với thành viên độc lập Hội đồng quản trị. Theo đó, ngoài những điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 151 Luật
Doanh nghiệp 2014 thì thành viên độc lập Hội đồng quản trị không được là người đang làm việc cho công ty mẹ hoặc
đã làm việc cho công ty mẹ trong ba năm gần nhất. Quy định này là cần thiết bởi nếu để thành viên độc lập Hội đồng
quản trị vừa là người đang làm việc cho công ty mẹ hoặc đã làm việc cho công ty mẹ trong vòng 03 năm sẽ tiềm ẩn
nhiều rủi ro bởi sẽ không bảo đảm được sự độc lập trong quá trình thực hiện công việc do phải chịu sự chi phối hoặc
tác động từ công ty mẹ hoặc các mối quan hệ quen biết trước đó, từ đó dẫn đến vai trò và hiệu quả công việc của
thành viên độc lập Hội đồng quản trị không đạt được yêu cầu như mục tiêu đặt ra.
Thứ tám, về Chủ tịch HĐQT ((Điều 152 Luật DN 2014 - Điều 156 Luật DN 2020)

-  Tại khoản 4 điều 156, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung thêm “ Chủ tịch Hội đồng quản trị chết, mất tích, bị tạm
giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở
giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định…”

Có thể thấy theo Điểm e, Khoản 2, Điều 17 Luật Doanh nghiệp  2020, các trường hợp này không có quyền thành lập
và quản lý doanh nghiệp,  vì vậy không thể uỷ quyền cho thành viên khác  thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch
Hội đồng quản trị. Do đó, Hội đồng quản trị  phải bầu một người khác theo nguyên tắc đa số. Ở đây, Luật Doanh
nghiệp  2020 đã quy định rõ ràng  hơn Luật Doanh nghiệp 2014, điều này có tác dụng hướng dẫn chi tiết để Doanh
nghiệp dễ dàng thực hiện.

-  Tại Khoản 5, Điều 156 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định “ … Hội đồng quản trị quyết định bổ nhiệm thư ký công
ty…”. Theo Khoản 5 Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014, “...Chủ tịch Hội đồng quản trị tuyển dụng thư ký công ty…”

Như vậy, việc tuyển dụng/ bổ nhiệm thư ký công ty đã được chuyển từ Chủ tịch Hội đồng quản trị sang Hội đồng
quản trị. Đây là một sửa đổi phù hợp và chính xác vì nếu theo Luật Doanh nghiệp 2014, địa vị pháp lý của thư ký
công ty đã bị thiết kế sai vì có thể gây hiểu nhầm rằng thư ký công ty là thư ký riêng của Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Tuy nhiên, đây không phải là thư ký hành chính mà là một  bộ phận trong cơ cấu tổ chức quản lý có chức năng, địa vị
pháp lý riêng.

-  So với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 đã được sửa đổi “Chủ tịch Hội đồng quản trị do Hội
đồng quản trị bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm…” để  thống nhất về quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng
quản trị của Hội đồng quản trị.
Thứ chín, Cuộc họp Hội đồng quản trị ( Điều 153 Luật DN 2014 - Điều 157 Luật DN 2020)  
-   Khoản 2 và 3, Điều 153 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định “ Hội đồng quản trị họp tại trụ sở chính của công ty
hoặc ở nơi khác.”, “Cuộc họp của Hội đồng quản trị do Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập khi xét thấy cần thiết,
nhưng mỗi quý phải họp ít nhất một lần.” Luật Doanh nghiệp 2020 đã lược bỏ hai quy định này vì không cần thiết.
Tuy vậy, vẫn có thể hiểu theo như luật Doanh nghiệp năm 2014.
-  Khoản 9, Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung “Gửi phiếu biểu quyết bằng phương tiện khác theo quy định trong Điều
lệ công ty.”
-  Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung thêm về phương tiện gửi thông báo mời họp để điều luật được rõ
ràng hơn: “Thông báo mời họp Hội đồng quản trị có thể gửi bằng (…) hoặc phương thức khác do Điều lệ công ty quy
định”

Thứ mười, Biên bản họp Hội đồng quản trị (Điều 154 Luật DN 2014 - Điều 158 Luật DN 2020)
-   Điểm h, Khoản 1, Điều 158 Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung “ …tỷ lệ biểu quyết thông qua tương ứng”
-    Luật Doanh nghiệp 2020 đã được bổ sung thêm về Hiệu lực của biên bản tại khoản 2 “ Trường hợp chủ tọa, người
ghi biên bản từ chối ký biên bản họp nhưng nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng quản trị tham dự họp ký và
có đầy đủ nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 Điều này thì biên bản này có hiệu lực”
Luật sửa đổi đã bổ sung thêm một trường hợp không có trong Luật Doanh nghiệp 2014.  Thực tế, nhiều trường hợp,
chủ tọa và thư ký cuộc họp Đại hội đồng cổ đông không hợp tác, không ký biên bản. Điều này làm cho công ty không
thể thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết để triển khai Nghị quyết đã được ĐHĐCĐ thông qua, ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của công ty. Như vậy, việc bổ sung quy định này giúp giải quyết được bất cập nêu trên. Ở đây,
luật tôn trọng nguyên tắc đa số, khi tất cả các thành viên Hội đồng quản trị tham dự họp đều tán thành với quyết định
và sẵn sàng chịu trách nhiệm về biên bản được lập ra thì không cần đến chữ ký của chủ toạ và người ghi biên bản nữa.

Thứ mười một, Miễn nhiệm, bãi nhiệm, thay thế và bổ sung thành viên Hội đồng quản trị (Điều 156 Luật DN
2014 - Điều 160 Luật DN 2020)
    - Điểm b, Khoản 1, Điều 160 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định Đại hội cổ đông miễn nhiệm thành viên Hội
đồng quản trị nếu người đó “ Có đơn từ chức và được chấp thuận”. So với Luật Doanh nghiệp 2014,   Luật mới đã bổ
sung cụm từ “ Được chấp thuận”. Tuy nhiên,  Luật không nói rõ ai có thẩm quyền chấp thuận đơn từ chức đó. Quan
trọng hơn, nếu như đơn từ chức không được chấp thuận chẳng lẽ người đó sẽ vẫn phải tiếp tục làm việc cho công ty
và chính Đại hội đồng cổ đông cũng không miễn nhiệm được người đó.
- Khác với Luật cũ, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định cụ thể trường hợp Đại hội đồng cổ đông có quyền bãi nhiệm
thành viên Hội đồng quản trị nếu “Không tham gia các hoạt động của Hội đồng quản trị trong 06 tháng liên tục, trừ
trường hợp bất khả kháng” 
- Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp còn bổ sung “ Khi xét thấy cần thiết, Đại hội đồng cổ đông quyết định thay thế
thành viên Hội đồng quản trị; miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị ngoài trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này.”

Thứ mười hai, Hợp đồng giao dịch phải được Đại Hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận (Điều
162 Luật DN 2014 - Điều 167 Luật DN 2020)

Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung thêm về hợp đồng được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận “ Hợp đồng, giao dịch
vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần
nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên hoặc người có liên quan của
cổ đông đó”
Như vậy, nhằm nâng cao tính minh bạch, công bằng trong biểu quyết, các cổ đông nắm giữ từ 51% tổng số cổ phần
khi thực hiện giao dịch có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp với cổ đông đó hoặc những người
liên quan tới cổ đông đó phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua và cổ đông đó không có quyền biểu quyết.
Theo khoản 5, điều 167 “Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu theo quyết định của Tòa án và xử lý theo quy định của pháp
luật khi được ký kết không đúng với quy định tại Điều này; người ký kết hợp đồng, giao dịch, cổ đông, thành viên
Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên quan phải liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn
trả cho công ty khoản lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó.”
Điều khoản này đã mở rộng phạm vi chịu trách nhiệm của các thành viên Hội đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị vi
phạm nguyên tắc cẩn trọng dẫn đến giao dịch bị vô hiệu, tất cả các thành viên của Hội đồng quản trị đều phải chịu
trách nhiệm liên đới, bồi thường thiệt hại phát sinh. Luật Doanh nghiệp đã đặt ra nghĩa vụ và trách nhiệm cho các
thành viên Hội đồng quản trị cao hơn.

Bổ sung khoản 6 điều 167 “ Công ty phải công khai hợp đồng, giao dịch có liên quan theo quy định của pháp luật có
liên quan.”

LIÊN HỆ THỰC TẾ KHOẢN 5 ĐIỀU 167 LUẬT DOANH NGHIỆP 2020


VỤ ÁN CÔNG TY GANG THÉP THÁI NGUYÊN
Công ty Gang thép Thái Nguyên TISCO được giao chủ đầu tư dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2  với tổng vốn đầu
tư hơn 3.800 tỷ đồng, trong đo Hội đồng quản trị VNS cấp quyết định đầu tư, tập đoàn MCC là nhà thầu chính. Sau
gần 1 năm khởi công, Tập đoàn MCC không hoàn thành tiến độ như giao kết mà vi phạm hợp đồng rồi về nước.
Biết rõ nhà thầu, MCC vi phạm hợp đồng, đề nghị các điều khoản vô căn cứ, lãnh đạo TISCO vẫn ký văn bản gửi
VNS xin chấp thuận điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án lên 8.100 tỷ đồng, chấp nhận nhà thầu phụ VINAINCON
không đủ năng lực. Hậu quả, dự án quá thời hạn gần 10 năm nhưng vẫn chưa hoàn thành, gây thất thoát hơn 830 tỉ
đồng.
Ngoài các bị cáo trực tiếp chỉ đạo gây sai phạm, một số cựu thành viên Hội đồng quản trị TISCO và VNS liên quan
cũng bị truy tố tội “ Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”
Như vậy, theo Khoản 5, Điều 167 Luật Doanh nghiệp 2020, tất cả các thành viên của Hội đồng quản trị   liên quan đã
vi phạm nguyên tắc cẩn trọng và đều phải chịu trách nhiệm liên đới, bồi thường thiệt hại phát sinh.

Thứ mười ba, quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT, GĐ, TGĐ (Điều 161 LDN 2014 – LDN 2020 điều 166)

Nhìn chung, việc quy định cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông thấp hơn được thực hiện các quyền quy định tại
Điều 166 Luật Doanh nghiệp 2020 là nhằm bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông trong doanh nghiệp.
Việc quy định theo hướng trên cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc thu hút các nguồn lực đầu tư vào doanh
nghiệp.

Luật Doanh nghiệp đã loại bỏ điều kiện sở hữu cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 6 tháng, chỉ giữ lại điều kiện
“sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần phổ thông” để có quyền khởi kiện.
  Có ý kiến đề nghị không nên bỏ quy định về điều kiện thời gian cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần
phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng như quy định của Luật hiện hành để đảm bảo việc thực hiện các
quyền của cổ đông không làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp các nhà đầu tư đã sở hữu đủ số cổ phần theo điều kiện nhưng chưa đáp
ứng được quy định về thời gian sở hữu ít nhất 06 tháng liên tục, do đó đã không thực hiện được quyền và lợi ích
chính đáng của mình.
- Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung quyền cho cổ đông khởi kiện “ Cổ đông, nhóm cổ đông theo quy định tại Điều này
có quyền xem xét, tra cứu, trích lục thông tin cần thiết theo quyết định của Tòa án, Trọng tài trước hoặc trong quá
trình khởi kiện”.  Việc bổ sung điều khoản này đã giúp tăng cường quyền lợi cho cổ đông khởi kiện.
- Theo Khoản 1 Điều 166, cổ đông được quy định tại Điều này có thể “ khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm
liên đới đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi
thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác”
Cụm từ “người khác” ở đây được cho là không hợp lý. Luật không nói rõ “người khác” ở đây là ai và quyền khởi kiện
của cổ đông, nhóm cổ đông này khác gì với quyền khởi kiện (chẳng hạn như kiện để đòi bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng) của chính những “người khác” đó. Nếu như “người khác” đó bị thiệt hại, tại sao những đối tượng này
không tự mình, trực tiếp khởi kiện mà lại phải nhờ tới cổ đông, nhóm cổ đông đó, lại có thể nhân danh công ty để
kiện? Thêm nữa, tại sao cổ đông, nhóm cổ đông đó khởi kiện vì quyền lợi cho “người khác” chứ không phải của công
ty mà chi phí khởi kiện lại được tính vào chi phí của công ty, hay nói cách khác là sẽ được công ty hoàn lại (nếu nhân
danh công ty)? Bên cạnh đó, sẽ có nhiều trường hợp việc khởi kiện sẽ xảy ra xuất phát từ việc thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc đang thực hiện vai trò của mình trong công ty. Khi đó, hành động hay quyết
định của họ sẽ có giá trị ràng buộc công ty, nhân danh công ty và vì lợi ích của công ty. Nếu hành động hay quyết
định đó gây thiệt hại cho “người khác”, theo tư duy thông thường, “người khác” đó phải kiện công ty. Nếu công ty
phải bồi thường thiệt hại cho “người khác”, tới lượt mình, công ty có thể kiện Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc để yêu cầu bù đắp cho công ty khoản tiền mà công ty đã phải bồi thường cho “người khác” đó và những
thiệt hại khác phát sinh từ vụ kiện của “người khác” đó.

5. Quy định về Ban kiểm soát


LDN 2020 thay thế LDN 2014 có nhiều bổ sung đáng kể đến đối với Công ty cổ phần, cụ thể như sau:
Thứ nhất về trình độ chuyên môn của Trưởng BKS, LDN 2020 đã mở rộng lĩnh vực chuyên ngành hơn của
Trưởng KSV cụ thể: Theo điều 163 LDN 2014, “Trưởng BKS phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp
và phải làm việc chuyên trách tại công ty”, còn LDN 2020 đã được sửa thành “Trưởng BKS phải có bằng tốt nghiệp
đại học trở lên thuộc một trong các chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán, luật, quản trị kinh doanh hoặc
chuyên ngành có liên quan đến hoạt động kinh doanh của DN, trừ trường Điều lệ công ty có quy định tiêu chuẩn khác
cao hơn” (Khoản 2 điều 163 LDN 2014). Như vậy điều kiện để là Trưởng BKS của công ty cổ phần là phải có kiến thức
về kinh tế, luật, không nhất thiết phải là kế toán hay kiểm toán viên mà Trưởng BKS có thể là cử nhân của ngành tài
chính, ngân hàng, kinh tế,... vì thực tế các ngành này nó có một mối liên quan đến nhau. Ngoài ra, học các chuyên ngành
khác nhau thì sẽ có những cái nhìn khác nhau về một vấn đề, vì vậy, Trưởng BKS sẽ có cái nhìn đa chiều về một vấn đề,
điều đó giúp công ty có thể kiểm soát tốt hơn. Mặt khác, mở rộng phạm vi lĩnh vực chuyên môn giúp số lượng ứng
tuyển vào vị trí trưởng ban KSV không bị bó hẹp. Tóm lại, việc quy định trong LDN năm 2020 đã hạn chế trong luật cũ,
mở rộng hơn phạm vi, điều kiện đối với kiểm soát viên và cũng bỏ yêu cầu kiểm soát viên “phải chuyên trách làm việc
tại công ty” đối với trưởng ban kiểm soát trong luật năm 2014. 
VD: Tại McDonald’s về việc kiểm soát ban đầu chất liệu thực phẩm giữ vai trò quan trọng trong chương trình chất
lượng của công ty. Công ty đòi hỏi các nhà cung cấp Hamburger sản xuất theo các mô tả chính xác, bao gồm từ vẻ
ngoài tới sự đồng nhất của màu sắc.
Ban kiểm soát cần: kiểm soát tài chính, kiểm soát quá trình sản xuất, kiểm soát trong quá trình sản xuất tập trung vào
những gì đang xảy ra trong quá trình làm việc.

Thứ hai về tiêu chuẩn, điều kiện của KSV công ty cổ phần: 
LDN 2020 bổ sung thêm điều kiện về KSV là: được đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính, luật hoặc chuyên ngành
có liên quan đến hoạt động của công ty;
Bên cạnh đó, LDN 2020 đã bỏ khoản 2 điều 164 LDN 2014 về quy định đối với KSV công ty cổ phần niêm yết,
công ty do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên. Việc sửa đổi này hoàn
toàn phù hợp với quy định về trưởng BKS tại điều 170 LDN 2020 đã nói ở trên. 
Ngoài ra, LDN 2020 còn sửa đổi, bổ sung trong khoản 2 điều 169 Luật này như sau: “KSV công ty đại chúng, DN
nhà nước theo quy định đã nêu (nghĩa là các DN do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có
quyền biểu quyết, trừ DN do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) thì KSV không được là người có quan hệ gia đình
với người quản lý DN của công ty và công ty mẹ, người đại diện phần vốn của DN, người đại diện phần vốn nhà nước
tại công ty mẹ và tại công ty”
Việc chỉnh sửa các điểm trên giúp LDN 2020 hoàn thiện một cách ngắn gọn, súc tích mà đầy đủ hơn so với LDN
2014
Thứ ba đối với quyền và nghĩa vụ của BKS: 
Luật DN 2020 bổ sung thêm quyền và nghĩa vụ cho kiểm soát viên phải: “Rà soát hợp đồng, giao dịch với người có
liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông và đưa ra khuyến nghị về hợp
đồng, giao dịch cần có phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông” (khoản 3 điều 170 LDN 2020)
Việc bổ sung thêm vào LDN 2020 nghĩa vụ của KSV là rà soát hợp đồng, giao dịch và đưa ra khuyến nghị, điều này
có tác động to lớn đến chất lượng của Báo cáo kiểm soát và từ đó giúp các nhà đầu tư và cổ đông có cái nhìn trung thực,
cẩn trọng, hợp pháp, đầy đủ của báo cáo tài chính
Thứ tư, về việc miễn nhiệm, bãi nhiệm KSV:
So sánh điều 169 LDN 2014 với Điều 174 LDN 2020 ta có thể thấy rằng nếu như KSV không thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình trong 06 tháng liên tục, trừ trường hợp bất khả kháng từ miễn nhiệm sang bãi nhiệm là căn cứ để
miễn nhiệm trong LDN 2014 thì trong LDN 2020 đã sửa đổi thành bãi nhiệm KSV
Việc chuyển, sửa trên có tác động to lớn đến Báo cáo kiểm soát vì một KSV không thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình trong vòng 06 tháng liên tục thì họ sẽ không giám sát được các hoạt động của công ty như thế nào vì vậy không
thể tiếp tục hoạt động trong BKS của công ty. Có thể thấy chuyển từ miễn nhiệm sang bãi nhiệm các KSV đó cho thấy
LDN 2020 quy định chặt chẽ, nghiêm khắc hơn so với LDN 2014. Sự chuyển đổi này đã làm tăng trách nhiệm của KSV
đối với nhiệm vụ của mình. 
LDN quy định cụ thể, chi tiết về việc miễn, bãi nhiệm đối với KSV đã giúp bảo vệ quyền lợi cho KSV cũng như
quyền lợi chung cả tập thể. Nghĩa là KSV sẽ có căn cứ để xác định được việc mình có bị miễn, bãi nhiệm không khi
HĐQT đưa ra quyết định, đồng thời HĐQT cũng có quyền miễn, bãi nhiệm KSV nếu như không thực hiện đúng theo
qđịnh của Luật. 

Dưới đây là ví dụ cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của BKS công ty cổ phần Vimeco được thể hiện trong
điều lệ của công ty này như sau: 
1. BKS có nhiệm vụ thay mặt Đại hội đồng Cổ đông giám sát, đánh giá công tác điều hành, quản lý của Hội đồng
quản trị và Ban TGĐ theo đúng các quy định trong Điều lệ Cty, các Nghị quyết, Quyết định của Đại hội đồng Cổ đông;
2. Có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám đốc cung cấp mọi Hồ sơ và thông tin cần thiết liên quan
đến công tác điều hành quản lý Công ty;
Mọi Thông báo, Báo cáo, Phiếu xin ý kiến đều phải được gửi đến Ban kiểm soát cùng thời điểm gửi đến các thành
viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban Tổng giám đốc; 
Thông tin phải trung thực, chính xác và kịp thời theo yêu cầu; 
Kiểm tra, thẩm định tính trung thực, chính xác, hợp lý và sự cẩn trọng từ các số liệu trong Báo cáo tài chính cũng
như các Báo cáo cần thiết khác; 
Khi nhận được kiến nghị của Cổ đông được nêu tại khoản 5.5 thuộc Điều 5 trong Bản Điều lệ này, BKS có trách
nhiệm tiến hành kiểm tra không chậm hơn 7 ngày làm việc và phải có Báo cáo giải trình các vấn đề kiểm tra ngay sau
khi kết thúc kiểm tra cho Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc và Cổ đông có yêu cầu; 
Trước ngày dự định kiểm tra tối thiểu là 3 ngày, BKS phải gửi chương trình và thời hạn kiểm tra cho Bộ phận được
kiểm tra, Cổ đông có yêu cầu, Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc để phối hợp và theo dõi; 
Việc kiểm tra ko được gây cản trở các Bộ phận liên quan, ko được làm gián đoạn công tác điều hành quản lý Công
ty; 
  Có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị tiến hành họp Đại hội đồng Cổ đông bất thường theo các nội dung được nêu tại
khoản 14.2 thuộc Điều 14 trong Bản Điều lệ này;
- Có trách nhiệm thực hiện quyền hạn của mình được nêu tại khoản 14.3.2 thuộc Đ14 trong Bản Điều lệ này;
- Có quyền kiến nghị HĐQT, Ban TGĐ đưa ra các giải pháp phòng ngừa các hậu quả xấu có thể xảy ra;
- BKS có quyền yêu cầu Tổng Giám đốc bố trí cán bộ chuyên môn phù hợp để Ban kiểm soát thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. 
Có quyền thuê Tư vấn độc lập để thực hiện những quyền được giao; 
- BKS có thể tham khảo ý kiến HĐQT trước khi trình Báo cáo kiểm soát lên Đại hội đồng Cổ đông;
- Có quyền giám sát hiệu quả sử dụng vốn Công ty trong đầu tư;
- Có quyền yêu cầu được tham dự các cuộc họp Hội đồng quản trị nếu thấy cần thiết;
- BKS làm việc theo nguyên tắc độc lập, khách quan, trung thực vì lợi ích của Cổ đông và vì lợi ích của Người lao
động trong Công ty;
- BKS có quyền được thanh toán mọi chi phí ăn, ở, đi lại, tiếp khách, chi phí thuê Tư vấn độc lập và các chi phí hợp
lý khác khi thừa hành nhiệm vụ của Công ty; 
- BKS có quyền đề cử ứng các cử viên còn thiếu để ứng cử vào BKS trong trường hợp số ứng cử viên được Cổ đông
và nhóm cổ đông quy định tại Điều 5 mục 5.5 và 5.6 của điều lệ đề cử thấp hơn số ứng cử viên mà họ được quyền đề cử
vào Ban kiểm soát theo quy định.

6. Các quy định khác


6.1. Công ty CP có quyền phát hành trái phiếu 
Điểm sửa đổi: 
 Thay đổi về điều 110 về Công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định theo khoản 3 : Công ty cổ phần có
quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.
 Luật Doanh nghiệp 2020 đã sửa đổi và bổ sung về điều khoản này như sau: Luật Doanh nghiệp 2020 cho phép
công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần, trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty. 
 Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp hoặc chính phủ với người nắm giữ.
Công ty cổ phần ban hành trái phiếu vì có những lúc tất cả các công ty cần huy động vốn – cho dù đó là tài trợ cho một
vụ mua lại, để nghiên cứu và phát triển một sản phẩm mới hay tham gia vào một thị trường mới – rất ít công ty có thể
làm được điều này mà không cần huy động vốn để tài trợ cho những nỗ lực của họ. 
 Điểm tiến bộ trong điều khoản này là việc phát hành trái phiếu là một trong những cách các công ty có thể huy
động vốn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để làm tăng số vốn của công ty hơn là trước đây. 
 
6.2. Thanh toán CP đã đăng ký mua khi đăng ký thành lập DN → ko tính thời gian vận chuyển, làm thủ tục vào
thời hạn góp vốn 
Điểm sửa đổi: 
 Thay đổi về việc thanh toán cổ phần, điều 112 Luật Doanh nghiệp 2014: Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua
khi đăng ký doanh nghiệp:
 Luật Doanh nghiệp 2020 sửa đổi và bổ sung điều khoản này như sau: điều 113 Luật Doanh nghiệp 2020:
Thanh toán cổ phần đã đăng ký mua khi đăng ký thành lập doanh nghiệp:
 Luật Doanh nghiệp 2020 đã sửa đổi quy định về thanh toán cổ phần đăng ký mua khi thành lập Doanh nghiệp,
trong đó loại trừ thời gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản khỏi thời
hạn 90 ngày yêu cầu góp đủ số vốn. Mục đích của việc sửa đổi là để đáp ứng phần nào của Doanh nghiệp về thời hạn
góp vốn. Cụ thể, các Doanh nghiệp cho rằng thời hạn 90 ngày là quá ngắn để Doanh nghiệp có thể sắp xếp tài sản góp
đủ số vốn đã đăng ký. Hơn nữa, về vấn đề vận chuyển nhập khẩu thường phải qua nhiều giai đoạn, cộng thêm cá thủ tục
hành chính càng làm kéo dài thời gian. Rõ ràng, việc cộng dồn cả khoảng thời gian trên vào thời hạn 90 ngày nộp vốn là
không hợp lý cho các Doanh nghiệp góp đủ số vốn, nhất là với các DN góp vốn lớn, hoặc thành phần vốn chủ yếu là tài
sản cần tiến hành giám định chuyển đổi sang tiền mặt. 
 Những điểm bất cập trong điều luật này: việc thanh toán chưa xác định rõ khoảng thời gian, về thời điểm bắt
đầu và kết thúc của thời hạn vận chuyển, làm thủ tục hành chính. Đây là "lỗ hổng" của pháp luật hiện hành, tạo cơ hội
"lách luật" một cách tiêu cực cho Doanh nghiệp, mà cụ thể sẽ được phân tích ở phần 3 đánh giá chung.
●  Bổ sung thêm điều kiện về thời hạn khi cổ đông góp vốn bằng tài sản trong khoản 1 Điều 113 “...Trường hợp
cổ đông góp vốn bằng tài sản thì thời gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở
hữu tài sản đó không tính vào thời hạn góp vốn này … ” 
Nghĩa là sau 90 ngày các đủ đông chưa thanh toán hoặc thanh toán một phần của công ty thì không được xem là cổ
đông của công ty (xem khoản 3 của điều luật này). Vì góp vốn bằng tài sản rất phức tạp nên Luật 2020 đã bổ sung
thêm là trường hợp cổ đông góp vốn bằng tài sản thì thời gian vận chuyển nhập khẩu, thực hiện thủ tục hành chính để
chuyển quyền sở hữu tài sản đó không tính vào thời gian này nghĩa là cổ đông chỉ cần trao quyền tài sản cho công ty
đó còn quá trình vận chuyển sẽ không được tính vì một số rủi ro thì quá trình chuyển tài sản này có thể kéo dài thêm
● Bổ sung thêm quy định ở điểm d khoản 3 Điều 113: “... trừ trường hợp số cổ phần chưa thanh toán đã được
bán hết trong thời hạn này; đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập”
Nghĩa là nếu trong quá trình người góp vốn phải thanh toán cổ phần (tức 30 ngày) nếu xảy ra các trường hợp như số
cổ phần chưa thanh toán đã bị bán hết hay đã thay đổi cổ đông sáng lập thì người góp vốn không cần thực hiện nghĩa
vụ này nữa
● Bổ sung khoản 5 Điều 113 “Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, người góp vốn trở thành cổ đông
của công ty kể từ thời điểm đã thanh toán việc mua cổ phần và những thông tin về cổ đông quy định tại các điểm b, c,
d và đ khoản 2 Điều 122 của Luật này được ghi vào sổ đăng ký cổ đông”
Nghĩa là các điều kiện để người góp vốn trở thành cổ đông tức thời điểm người đó đã thanh toán cổ phần mình đã
mua và những thông tin về cổ đông quy định trừ các trường hợp khoản 2 đã được quy định ở trên 
6.3. Quy định về phát hành chứng chỉ lưu ký
 Theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2014, điều 113 mục 3 quy định như sau:
3.  Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
 Luật doanh nghiệp năm 2020 đã lược bỏ mục 3 đó và bổ sung thêm các điều như sau:
6. Cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết được
gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng
với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết.
7. Chính phủ quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết.
Đánh giá về việc đổi mới trong luật doanh nghiệp 2020: Luật Doanh nghiệp 2020 chỉ mới quy định một số nội dung
cơ bản để định danh về loại chứng chỉ không có quyền biểu quyết này, và trao thẩm quyền cho Chính phủ ban hành các
quy định cụ thể:
 Luật doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung quy định về cổ phần phổ thông cơ sở tại Khoản 6 Điều 114. Theo đó,
đây là "loại cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết,
tức là đặt ra tiêu chí phát hành chứng khoán không có quyền biểu quyết. Theo Khoản 8 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019,
"Chứng chỉ lưu ký là loại chứng khoán được phát hành trên cơ sở chứng khoán của tổ chức được thành lập và hoạt động
hợp pháp tại Việt Nam." Chứng chỉ lưu kí được khởi tạo khi cổ phiếu của một công ty nước ngoài được kí gửi vào ngân
hàng lưu ký tại quốc gia có sở giao dịch chứng khoán mà cổ phiếu này dự kiến sẽ giao dịch.
 Đối chiếu với LDN 2014, quy định này không được đề cập đến.
 Như vậy, LDN 2020 đã đưa ra một định nghĩa mới trong luật là "cổ phần phổ thông cơ sở" và "chứng chỉ lưu
ký". Tuy nhiên trong quy phạm pháp luật này, ý nghĩa cụ thể của chúng còn chưa được rõ ràng, cần sự làm rõ hơn nữa ở
các bản sửa đổi, bổ sung sau.
 Ví dụ thực tế về việc áp dụng luật sửa đổi năm 2020 :
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới và xung quanh Việt Nam đã có cơ chế về Chứng chỉ ký quỹ không có quyền
biểu quyết (Non-Voting Depository Receipt, viết tắt là NVDR). 

Nội dung về NVDR được đề cập duy nhất tại một điều khoản trong Luật Doanh nghiệp 2020.

Cụ thể, khoản 6, Điều, 114 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để
phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết được gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. Chứng chỉ lưu ký không có
quyền biểu quyết có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết”.

 Tức là người mua NVDR có đầy đủ quyền lợi kinh tế của cổ phiếu tương ứng, nhưng không có quyền biểu quyết.
Do đó, NVDR sẽ giúp thu hút vốn đầu nước ngoài trong lĩnh vực mà có giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài,
nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước do việc nhà đầu tư sở hữu NVDR không có quyền biểu quyết, nên không
can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn nhằm đa
dạng hóa nguồn vốn cho sản xuất, đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp và đa dạng hoá thêm sản phẩm giao dịch cho thị
trường chứng khoán.

6.4. Bổ sung quy định về Ủy ban kiểm toán


Điểm mới: LDN 2014 chưa có quy định về Ủy ban kiểm toán, không nêu lên quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm toán,
LDN 2020 có quy định về Ủy ban kiểm toán
1. Về định nghĩa, theo khoản 1 điều 161 Luật doanh nghiệp 2020: “Ủy ban kiểm toán là cơ quan chuyên môn thuộc
Hội đồng quản trị. Ủy ban kiểm toán có từ 02 thành viên trở lên. Chủ tịch Ủy ban kiểm toán phải là thành viên độc lập
Hội đồng quản trị. Các thành viên khác của Ủy ban kiểm toán phải là thành viên Hội đồng quản trị không điều hành ”, ở
đây có sự khác biệt về mặt thuật ngữ so với LDN 2014. Cụ thể, trong luật trước đây, không tồn tại khái niệm về thuật
ngữ "Ủy ban kiểm toán" mà chỉ có "Ban kiểm toán". Đến năm 2020, thuật ngữ này đã được thay đổi cho phù hợp hơn.
Thực chất, 2 thuật ngữ trên trong Tiếng Việt là hoàn toàn giống nhau về mặt ngữ nghĩa, nhưng xét trên phương diện
quốc tế, thuật ngữ "Ủy ban kiểm toán" có tính sát với thuật ngữ gốc trong Tiếng Anh là "Audit Committee" hơn. Như
vậy, sự thay đổi này là hoàn toàn phù hợp, cả về mặt thực tiễn (khi nó làm rõ nghĩa của từ hơn), và về mặt chuyên môn
(sát với nghĩa từ gốc). Do đó, có thể nhận định, đây là một thay đổi đáng ghi nhận. 
2. Về hình thức hoạt động, giống như Ban Kiểm soát, thì Ủy ban kiểm toán cũng hoạt động theo nguyên tắc bỏ
phiếu, tán thành theo đa số.
3. Ủy ban kiểm toán có các quyền và nghĩa vụ đối với việc giám sát, rà soát nhằm bảo đảm việc hoạt động đúng Điều
lệ và pháp luật của công ty; đồng thời có thể đánh giá, kiến nghị đối với các vấn đề liên quan tới kiểm toán và giao dịch.
Ủy ban kiểm toán có một số quyền và nghĩa vụ được nêu tại các điểm a,b,c,d,đ,e,g khoản 3 điều 161 LDN 2020

Lý do hình thành Ủy ban kiểm toán: Mô hình UBKT đã được áp dụng ở nhiều quốc gia có hệ thống quản trị công ty
tốt.  UBKT sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng hoàn thành các mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Tuy nhiên,
UBKT còn có thể hỗ trợ đắc lực hơn cho HĐQT và doanh nghiệp thông qua:
1. Tính độc lập

Thông lệ quốc tế quy định phần lớn (nếu không muốn nói là tất cả) các thành viên của UBKT cần phải là thành viên
độc lập. Chủ tịch UBKT cũng cần là thành viên độc lập. Vị thế độc lập của UBKT và thành viên của UBKT sẽ cho phép
họ thực hiện công việc mà không phải chịu các sức ép không cần thiết.

2. Vị trí thuộc HĐQT

Mặc dù ở Việt Nam không có quy định rõ, nhưng theo thông lệ tốt, các thành viên của UBKT cũng sẽ đồng thời là
thành viên HĐQT. Với vị thế của mình, UBKT sẽ có tiếng nói có trọng lượng hơn khi làm việc với ban điều hành và
kiểm toán độc lập. Hơn thế nữa, vị thế của UBKT sẽ đảm bảo họ được tiếp xúc thường xuyên hơn với các thông tin của
doanh nghiệp và sẽ không cảm thấy bị “cô đơn”.

3. Tính chuyên môn và nguồn lực sẵn có

Với các yêu cầu của luật cũng như theo thông lệ quốc tế, các thành viên UBKT phải là những người cho chuyên môn
sâu về kế toán, kiểm toán, quản lý rủi ro, luật. Ngoài ra, UBKT được hỗ trợ bởi “cánh tay nối dài” của mình là bộ phận
kiểm toán nội bộ. Việc này sẽ cho phép UBKT có thể thực hiện được tốt nhất nhiệm vụ của mình.

Như vậy, những điểm mới, điểm bổ sung của quy định về Ủy ban kiểm toán là điều tất yếu, đây là quy định tiến bộ,
giúp thắt chặt hơn cơ chế quản lý nội bộ của công ty, đặc biệt đối với cơ cấu công ty cổ phần không có Ban kiểm soát.

6.5. Thay đổi về hợp đồng, giao dịch


 Theo quy định khoản 3 điều 162 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định :
3. Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các hợp đồng và giao dịch khác ngoài các giao dịch quy định tại khoản 2 Điều
này. Trường hợp này, người đại diện công ty ký hợp đồng phải thông báo Hội đồng quản trị và Kiểm soát viên về các
đối tượng có liên quan đối với hợp đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc thông báo nội dung
chủ yếu của giao dịch. Hội đồng quản trị trình dự thảo hợp đồng hoặc giải trình về nội dung chủ yếu của giao dịch tại
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản. Trường hợp này, cổ đông có lợi ích liên quan
không có quyền biểu quyết; hợp đồng hoặc giao dịch được chấp thuận khi có số cổ đông đại diện 65% tổng số phiếu
biểu quyết còn lại tán thành, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác. 
 Luật doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi và bổ sung và được quy định tại điều 167 như sau:
 3. Đại hội đồng cổ đông chấp thuận hợp đồng, giao dịch sau đây:
a) Hợp đồng, giao dịch khác ngoài hợp đồng, giao dịch quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Hợp đồng, giao dịch vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên
hoặc người có liên quan của cổ đông đó.
Đánh giá những bất cập của điều 162 Luật doanh nghiệp 2014: 
Quy định này đặt ra nhằm mục đích hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng với
những người có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới nội dung hợp đồng đó.   Tuy nhiên, phạm vi hạn
chế của điều luật này quá rộng mà đặc biệt là tại điểm c khoản 1 Điều 162 Quy định là: “Doanh nghiệp quy định tại
khoản 2 Điều 159 Luật này”. Doanh nghiệp theo quy định của Khoản 2 Điều 159 bao gồm: “Thành viên Hội đồng quản
trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty phải kê khai các lợi ích liên quan
của họ với công ty, bao gồm:
a) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà họ có sở hữu phần
vốn góp hoặc cổ phần; tỷ lệ và thời điểm sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần đó;
b) Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà những người có 
liên quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ”.
Theo quy định của điều khoản này thì phạm vi mà những Hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc
Hội đồng quản trị chấp thuận sẽ rất rộng mà đặc biệt là những doanh nghiệp mà những người có liên quan của họ cùng
sở hữu hoặc sở hữu riêng phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ. Theo quy định tại khoản 17 Điều 14 Luật
doanh nghiệp 2015 thì Người có liên quan là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong
các trường hợp sau đây:
a) Công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý đó đối với công ty con
trong nhóm công ty;
b) Công ty con đối với công ty mẹ trong nhóm công ty;
c) Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua cơ
quan quản lý doanh nghiệp;
d) Người quản lý doanh nghiệp;
đ) Vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu,
em dâu của người quản lý công ty hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối,
e) Cá nhân được ủy quyền đại diện cho những người, công ty quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này;
g) Doanh nghiệp trong đó những người, công ty quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến
mức chi phối việc ra quyết định của các cơ quan quản lý ở doanh nghiệp đó;
h) Nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối
việc ra quyết định của công ty. 
Với những dẫn chứng nêu trên có thể thấy những hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội
đồng quản trị chấp thuận sẽ rất rộng. Vậy có cần thiết phải quy định một phạm vi rộng như vậy không hay là nên thu
hẹp lại để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể hoạt động tự do hơn.
Do những bất cập như vậy nên cần phải sửa đổi và bổ sung những điều luật quy định mới cho hợp lý.

Đánh giá về luật đã sửa đổi điều 167 năm 2020 về doanh nghiệp:
Luật doanh nghiệp 2020 kế thừa về nội dung này được quy định tại Điều 162 Luật doanh nghiệp năm 2014.
Theo đó, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị có quyền chấp thuận đối với những hợp đồng, giao dịch nhất
định, Phụ thuộc vào nội dung của hợp đồng giao dịch, cũng như chủ thể có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó. Luật
doanh nghiệp năm 2020 bổ sung quy định về hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền chấp thuận của Đại hội đồng cổ
đông. Cụ thể:
“Hợp đồng, giao dịch vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên
hoặc người có liên quan của cổ phần đó.”
 Lưu ý:
 - Hội đồng quản trị: Chấp thuận những hợp đồng, giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn được quy định tại Điều lệ công ty)
- Trừ các hợp đồng, giao dịch giữa công ty với cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên.
 - Đại hội đồng cổ đông chấp thuận những giao dịch còn lại. Cụ thể:
(i) giao dịch có giá trị từ 35% trở lên giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất;
(ii) giao dịch có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp nếu chủ thể có liên quan là cổ đông sở hữu
từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết hoặc người có liên quan của cổ phần đó.

Đối với QĐ về hợp đồng, giao dịch của CTCP, LDN 2020 và LDN 2014 tồn tại hại sự khác biệt cơ bản, bao gồm (1)
sự xuất hiện của bên “người có liên quan” trong hợp đồng của CTCP, và (2) thẩm quyền chấp thuận loại hợp đồng này. 
Về khía cạnh thứ nhất, theo quy định của điều khoản này thì phạm vi mà những Hợp đồng, giao dịch phải được Đại
hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận sẽ rất rộng mà đặc biệt là những doanh nghiệp mà những người có
liên quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ. Trong đó, “người liên
quan” là cá nhân, tổ chức hoặc nhóm cá nhân, tổ chức “có khả năng chi phối hoạt động” của một công ty thông qua sở
hữu, thâu tóm cổ phần, phần vốn góp hoặc thông qua việc ra quyết định của công ty. Cụ thể, trong Khoản 1 Khoản 23
Điều 4 LDN 2020 đã liệt kê các trường hợp được coi là “người có liên quan”.
Có thể lấy ví dụ về việc áp dụng quy định này như sau: Chẳng hạn như một cổ đông chỉ sở hữu 9% cổ phần phổ
thông của công ty, giao dịch giữa cổ đông này và công ty có thể sẽ không cần phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội
đồng quản trị công ty chấp thuận (Điều 167). Tuy nhiên, nếu cổ đông này có tham gia vào thỏa thuận cổ đông với một
hoặc một số cổ đông khác, làm cho nhóm cổ đông đó có khả năng chi phối hoạt động của công ty thì với định nghĩa mới
về “người có liên quan” nói trên những cổ đông tham gia thỏa thuận trở thành “người có liên quan”, và từ đó khiến cho
bất kỳ giao dịch nào giữa cổ đông 9% kia và công ty sẽ cần phải có được sự chấp thuận nội bộ. Một ví dụ nữa là một
người nhờ người khác đứng tên thành lập công ty, còn mình thì đứng sau thực chất điều hành và quản lý công ty. Vậy
thì giao dịch giữa công ty với người đó (người ẩn danh) hoặc người có liên quan của người đó có thể sẽ cần phải có
được sự chấp thuận nội bộ của công ty. Hoặc, nếu một người sắp mua cổ phần mới phát hành thêm của công ty, giữa
người này và cổ đông hiện hữu của công ty có một thỏa thuận giúp họ có khả năng chi phối hoạt động của công ty, khi
đó cổ đông hiện hữu có thể sẽ không được quyền biểu quyết về giao dịch phát hành cổ phần giữa công ty và cổ đông
mới.
Thực tế, đọc Luật mới sẽ không dễ dàng giải thích được vai trò của định nghĩa này. Luật mới chỉ giúp xác định
những người có liên quan của một doanh nghiệp chứ không phải là người có liên quan của một cá nhân, cũng không
phải là tạo nên mối quan hệ người có liên quan giữa các tổ chức và cá nhân. Ngoài ra, Luật mới cũng không giải thích
như thế nào thì những cá nhân, tổ chức đó được xem là “có khả năng chi phối hoạt động” của công ty. Có lẽ khi áp dụng
Luật mới chúng ta phải nhìn sang Luật Cạnh tranh mà phập phồng đoán định. Tóm lại, với những dẫn chứng nêu trên có
thể thấy những hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc HĐQT chấp thuận sẽ rất rộng và còn chưa rõ
ràng. Đây rõ ràng là một bất cập cần sửa đổi, bổ sung. 

Về khía cạnh thứ hai, LDN 2020 kế thừa về nội dung này được quy định tại Điều 162 LDN 2014.
Theo đó, Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị có quyền chấp thuận đối với những hợp đồng, giao dịch nhất
định, Phụ thuộc vào nội dung của hợp đồng giao dịch, cũng như chủ thể có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó. LDN
năm 2020 bổ sung quy định về hợp đồng, giao dịch thuộc thẩm quyền chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Cụ thể:
“Hợp đồng, giao dịch vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên
hoặc người có liên quan của cổ phần đó.”
Trong đó, cần lưu ý, Hội đồng quản trị chỉ chấp thuận những hợp đồng, giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị
tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn được quy định tại Điều lệ
công ty), trừ các hợp đồng, giao dịch giữa công ty với cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở
lên. Và Đại hội đồng cổ đông chấp thuận những giao dịch còn lại. Cụ thể: (i) giao dịch có giá trị từ 35% trở lên giá trị
tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất; (ii) giao dịch có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp nếu chủ thể có liên quan là cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết hoặc người
có liên quan của cổ phần đó.
7. Kết luận chương II
So với LDN năm 2014, LDN năm 2020 có nhiều hơn 04 Điều và tổng cộng 66 Điều quy định về công ty cổ phần.
Trong 4 điều được bổ sung thì chỉ 1 điều có nội dung hoàn toàn mới (Điều 161. Ủy ban kiểm toán), 3 điều được bổ sung
còn lại là các quy định chi tiết hơn về vấn đề sẵn có (Điều 129. Trình tự, thủ tục chào bán và chuyển nhượng trái phiếu
riêng lẻ; Điều 130. Quyết định chào bán trái phiếu riêng lẻ) hoặc do tách kỹ thuật (Điều 139. Cuộc họp đại hội đồng cổ
đông). Nhưng tất cả các điều khoản riêng về CTCP trong LDN năm 2014 đều được sửa đổi khi được tiếp nhận vào LDN
năm 2020, dù một số điều khoản chỉ được biên tập về câu chữ nhưng cũng giúp nội dung được sáng tỏ, rõ ràng và khái
quát hơn.
.Qua việc nhận diện, giới thiệu và luận giải các điểm mới của LDN năm 2020 về công ty cổ phần có thể nhận thấy
LDN năm 2020 đã ghi nhận và cụ thể hóa các mục tiêu tổng quát, mục tiêu chi tiết của việc sửa đổi LDN năm 2014 góp
phần nâng cao cơ chế bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông từ đó thúc đẩy quản trị công ty cổ
phần đạt chuẩn mực theo thông lệ tốt và phổ biến trong khu vực và quốc tế.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên có thể thấy rằng, hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2020 đã được sửa đổi, bổ sung
và đưa ra được nhiều quy định mới để điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến công ty cổ phần. Các quy định này
được đánh giá là tiến bộ, cần thiết và phù hợp với xu thế chung, cũng như khắc phục được những vấn đề bất cập còn tồn
tại trong LDN 2014. Tuy nhiên, để các quy định mới này được áp dụng hiệu quả thì đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà
nước phải nhanh chóng nghiên cứu, rà soát, xây dựng và sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về các quy định
này để bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.

CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ CỦA CHUYÊN GIA, ĐÁNH GIÁ CỦA NHÓM VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI

1. Nhận xét, đánh giá của các chuyên gia


1.1. Nhận xét của các nhà làm luật
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Dự thảo Luật hiện được
xây dựng với bố cục gồm 10 chương với 213 điều, quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và
hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và
doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm công ty và hộ kinh doanh.
Đối tượng áp dụng của Luật là: các doanh nghiệp, hộ kinh doanh; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc
thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Dự luật cũng nêu lên quy định về các hành vi bị nghiêm cấm như: Cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp, yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm giấy tờ khác trái với quy định của Luật này; gây chậm
trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu người thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngăn cản
chủ sở hữu, thành viên, cổ đông của doanh nghiệp thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này và Điều lệ
công ty. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng ký hoặc tiếp tục kinh doanh khi đã bị thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp và nội dung hồ sơ đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp...
Theo Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xem xét, cho ý kiến tại
phiên họp thứ 43 diễn ra vào sáng 23/03/2020 về các vấn đề doanh nghiệp nhà nước; phạm vi điều chỉnh, quy định đối
tượng hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp; chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là
các nội dung lớn còn nhiều ý kiến khác nhau đã được các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung thảo luận,
cho ý kiến tại phiên họp.
Về vấn đề chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng
Thanh cho biết có hai loại ý kiến trái ngược nhau. Cụ thể, loại ý kiến thứ nhất là đồng ý với đề nghị của Chính phủ trong
dự thảo Luật kèm theo Báo cáo số 73/BC-CP của Chính phủ, theo đó Điều 127 quy định về việc chào bán trái phiếu
riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhất là trong lĩnh vực
công nghệ thông tin có thể tiếp cận nguồn vốn đa dạng trên thị trường, phù hợp với chủ trương về hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo, góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đối tượng chào bán trái phiếu riêng lẻ
chỉ là các nhà đầu tư chuyên nghiệp; do đó, về cơ bản sẽ không gây ra rủi ro cho người mua vì nhà đầu tư chuyên
nghiệp là người có chuyên môn, năng lực phân tích trong việc mua trái phiếu. Việc thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa
khởi nghiệp sáng tạo sẽ thực hiện theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngược lại, loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định nội dung chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo vào dự thảo Luật này. Quy định này có thể góp phần hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo có thêm kênh huy
động vốn trên thị trường; tuy nhiên, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo với mức vốn thấp, rủi ro cao; việc cho phép
chào bán trái phiếu riêng lẻ của DN này trong khi điều kiện chào bán chưa chặt chẽ sẽ ảnh hưởng đến tính an toàn của
thị trường tài chính, tạo kẽ hở cho việc huy động vốn thông qua việc hình thành các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Mặt khác, hiện nay, Luật Doanh nghiệp đã có quy định cụ thể đối với chào bán cổ phần riêng lẻ đối với công ty
không phải là công ty đại chúng. Đồng thời, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và văn bản hướng dẫn đã quy định
chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong đó đã có những cơ chế hỗ trợ vốn và đầu tư cho các
doanh nghiệp này.
“Đa số Thường trực Ủy ban Kinh tế đồng tình với loại ý kiến thứ nhất nhưng đề nghị Chính phủ chỉ đạo bổ sung các
quy định về trình tự thủ tục, điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo để tránh
tình trạng lợi dụng, gây mất an toàn hệ thống”, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết.

1.2. Nhận xét của các chuyên gia và các nhà làm luật:
Bài viết đánh giá của Luật sư Vương Văn Quang – Công ty Luật TNHH Penifield về thay đổi quyền của cổ đông
phổ thông: Điều 114 LDN 2014 – Điều 115 LDN 2020:
Luật Doanh nghiệp 2020 (LDN2020) được Quốc Hội thông qua ngày 17/6/2020 chính thức có hiệu lực vào ngày
1/1/2020 với một số nội dung sửa đổi trọng yếu như chúng tôi đã nêu trong Kỳ I về chuyện “Nhà nước chính thức trả
con dấu về cho doanh nghiệp”. Bên cạnh nội dung về việc chính thức giao cho doanh nghiệp toàn quyền định đoạt về
việc quản lý và sử dụng con dấu, một điểm mới đáng chú ý nữa là việc LDN 2020 đã bỏ quy định cổ đông hoặc nhóm
cổ đông phải sở hữu cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng để thực hiện một số quyền của mình.
Sơ sử
Quy định về thời hạn sáu tháng để các cổ đông sở hữu từ (trên) 10% cổ phần trong công ty cổ phần thực hiện một số
quyền của mình bắt đầu được pháp điển hóa từ Luật doanh nghiệp 1999 (Khoản 2, Điều 53), được tiếp nối trong Luật
doanh nghiệp 2005 (Khoản 2, Điều 79) và tiếp tục được duy trì trong Luật doanh nghiệp 2014 (Khoản 2, Điều 114). Nội
dung của quy định này ghi nhận rằng cổ đông sở hữu từ 10% cổ phần phổ thông trở lên muốn được quyền đề cử người
vào HĐQT; muốn triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ; muốn kiểm tra một số tài liệu của công ty và một số quyền khác thì cần
phải có thời hạn sở hữu cổ phần liên tục ít nhất sáu tháng.
Cơ sở lý luận cho quy định này xuất phát từ việc nhà làm luật coi công ty cổ phần là một pháp nhân. Vì là một pháp
nhân nên thực thể này là độc lập với chủ thể tạo ra nó (các cổ đông) và do vậy nó cần đảm bảo tính ổn định một cách
tương đối trước những biến động từ phía các chủ thể sở hữu nó. Trên cơ sở này, khi các cổ đông mới nhận chuyển
nhượng cổ phần từ các cổ đông hiện hữu, họ cần một khoảng thời gian để tìm hiểu và duy trì hoạt động ổn định, tránh
những can thiệp tức thời gây xáo trộn hoạt động quản lý đang diễn ra bình thường của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc
quy định tỷ lệ cổ phần tối thiểu (10%) và thời hạn sáu tháng còn nhằm mục đích ngăn chặn các hành vi tiêu cực từ phía
các cá nhân, tổ chức có hành vi thù địch, bỏ tiền để nắm giữ một lượng cổ phần nhỏ và thực hiện những hành động quấy
phá, gây bất ổn cho hoạt động của công ty.
Với luận điểm như vậy, quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần (10%) và thời hạn sở hữu cổ phần tối thiểu (6 tháng) gắn
với một số quyền cổ đông đã được đưa vào Luật doanh nghiệp từ năm 1999 và tồn tại suốt 21 năm qua. Tuy nhiên, quy
định này đã bộc lộ những bất cập và bất hợp lý trong thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ vận động của thị trường
đang diễn ra ngày càng nhanh và làn sóng M&A phủ khắp đời sống kinh doanh nhiều năm qua.
Bất cập
Nội dung về tỷ lệ 10% và thời hạn sáu tháng như đã nêu trên dựa trên những cơ sở lý luận hợp lý của nó. Tuy nhiên,
việc duy trì quy phạm này trong giai đoạn hiện nay đã không còn phù hợp, vì những lý do sau:
Một là, quy định cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu 10% cổ phần liên tục trong thời hạn ít nhất sáu tháng mới có được
một số quyền liên quan đến đề cử thành viên HĐQT, BKS; triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ; sao lục, kiểm tra các hồ sơ tài
chính, hồ sơ quản lý của doanh nghiệp như ghi nhận tại Khoản 2, Điều 114 Luật doanh nghiệp 2014 thực tế sẽ mâu
thuẫn này với chính các quy định của đạo luật về doanh nghiệp. Với một công ty mới thành lập, các cổ đông sáng lập,
cổ đông góp vốn sẽ làm thế nào để bầu ra HĐQT, BKS khi công ty mới được cấp đăng ký và việc đảm bảo đủ thời hạn
nắm giữ cổ phần liên tục tối thiểu ít nhất sáu tháng cho trường hợp này là không thể?
Hai là, việc quy định thời hạn nắm giữ cổ phần liên tục trong thời hạn tối thiểu ít nhất sáu tháng là chưa phù hợp với
các nguyên tắc của pháp luật dân sự về tài sản và sở hữu tài sản. Khi một chủ thể nhận chuyển nhượng tài sản từ các chủ
sở hữu theo đúng quy định của pháp luật, họ đương nhiên là người được kế thừa nguyên vẹn và đầy đủ quyền sở hữu tài
sản và các quyền tài sản liên quan đến tài sản đó. Việc Luật doanh nghiệp 2014 trở về trước đưa ra thời hạn sáu tháng
mặc nhiên làm cho các chủ thể nhận chuyển nhượng cổ phần từ các cổ đông hiện hữu trong các công ty mất đi một số
quyền cơ bản trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày họ chính thức được ghi nhận là chủ sở hữu. Xin lưu ý rằng, đây là các
quyền liên quan đến việc bảo vệ tài sản đầu tư, quyền kiểm tra tính minh bạch trong công tác quản lý khối tài sản đầu tư
của các cổ đông. Theo pháp luật về dân sự, đây là các quyền cơ bản và hiến định của chủ sở hữu tài sản.
Ba là, thời hạn sáu tháng như quy định của Luật doanh nghiệp hiện tại và trước đây là nguyên nhân dẫn đến xung đột
về lợi ích giữa những cổ đông mới nhận chuyển nhượng lại cổ phần trong công ty và nhóm người quản lý doanh nghiệp
hiện hữu. Khi (các) cổ đông chưa có đủ công cụ về quyền luật định để bảo vệ, giám sát hoạt động của công ty trong giai
đoạn chuyển tiếp này, nhóm người quản lý doanh nghiệp sẽ có đủ khoảng trống quản trị để thực hiện các hành vi tẩu tán
tài sản và/hoặc chuyển giá các giao dịch để đưa lợi nhuận của công ty về các đơn vị khác. Thực tiễn hành nghề của
chúng tôi cho thấy đây là những trường hợp đã xảy ra nhiều trên thực tế và quá trình tư vấn cho các giao dịch M&A
công ty cổ phần, chúng tôi luôn phải đặt ra vấn đề hiệp thương với bên bán để thu xếp miễn nhiệm những người quản lý
cũ, bầu/bổ nhiệm các cá nhân do người mua chỉ định trước khi thanh toán đầy đủ giá trị chuyển nhượng cổ phần.
Tạm kết
Bất kỳ quy định nào được đưa vào luật đều có nguyên nhân lịch sử của nó. Quy định về thời hạn sở hữu cổ phần tối
thiểu như đã phân tích trên đây ra đời và tồn tại trong thời kỳ mà các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bắt đầu chính thức
làm quen, học hỏi và tích lũy những quy định, những hiểu biết của mình về hệ thống đầu tư và quản trị công ty cổ phần.
Đối với những nhà làm chính sách đây cũng là giai đoạn tiếp thu những chế định về quản trị công ty từ những nền pháp
luật tiên tiến khác và chờ đợi những va đập từ vận động của thực tiễn để điều chỉnh.
Trong thời kỳ mà nền kinh tế đang vận động và phát triển nhanh như hiện nay, việc gỡ bỏ những rào cản pháp lý, cụ
thể là việc xóa bỏ nội dung giới hạn về thời gian sở hữu cổ phần tối thiểu, để các nhà đầu tư có thể tiếp cận và tiếp quản
các doanh nghiệp mà họ đầu tư là điều cần làm nhằm trả cho họ quyền bảo vệ, giám sát tài sản mà họ đầu tư một cách
nguyên vẹn và đầy đủ. Đặc biệt, khi các nhà làm luật coi doanh nghiệp cổ phần là trung tâm của loại hình công ty đối
vốn, đặt trọng tâm về tính liên kết vốn, sự luân chuyển của dòng vốn đầu tư thì việc điều chỉnh một nội dung nhỏ này để
đảm bảo về tính nhất quán về quyền sở hữu tài sản được ghi nhận trong pháp luật dân sự, từ đó gia tăng quyền hạn cho
các nhà đầu tư trong Luật doanh nghiệp lại càng cần thiết.
* Nhận xét chung về cty TNHH 1 thành viên và 2 thành viên:
Qua phần phân tích chi tiết, có thể thấy Luật Doanh nghiệp 2020 đã phần nào bổ sung những thiếu sót, bất cập ví
dụ như trong việc phát hành cổ phần, nới lỏng hơn ví dụ như trong vấn đề thời hạn góp vốn, các thủ tục hành chính hay
điều chỉnh lại việc sử dụng từ ngữ, kết cấu của luật cũng như có những sự dẫn chiếu tới những luật, quy định liên quan
khác. Được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều chuyển biến trong hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp, tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp 2020 vẫn còn một số điểm chưa thực sự rõ ràng, thiếu hợp lý, có thể sẽ gây ra nhiều khó khăn khi áp dụng.

Theo các chuyên gia phân tích, dù Luật đã được thông qua nhưng vấn đề thời hạn góp vốn vẫn thực sự còn là “lỗ
hổng” pháp luật. Theo đó, Luật Doanh nghiệp 2020 vẫn giữ nguyên thời hạn tối đa 90 ngày kể từ lúc công ty được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thành viên, cổ đông góp vốn tại các Điều 47, 75, 112, thế nhưng, theo các
chuyên gia dường như để đáp lại phàn nàn của cộng đồng doanh nghiệp về thời hạn 90 ngày là quá ngắn ngủi, Luật
Doanh nghiệp 2020 đã rất “rộng lượng”, không tính thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục
hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản vào thời hạn này.

“Vấn đề là khi nào thì người góp vốn phải bắt đầu vận chuyển, nhập khẩu hay thực hiện thủ tục hành chính đó?
Đặt ra thời hạn mà không có điểm bắt đầu thì khó mà xác định được khi nào mới hết khoảng thời gian đó. Và thật dễ tận
dụng quy định này để kéo dài thời hạn góp vốn, chẳng hạn như đăng ký vốn góp bằng tiền thật nhỏ, bằng tài sản thật
lớn, như vậy, vốn đăng ký thật lớn nhưng vốn thực góp trong ba tháng đầu có thể rất nhỏ. Hoặc đăng ký vốn ban đầu
nhỏ, đăng ký vốn góp thêm lớn hơn vì Luật mới vẫn không đặt ra thời hạn cho vốn góp thêm”, các chuyên gia nêu quan
điểm.

Không chỉ liên quan đến thời hạn góp vốn, Luật Doanh nghiệp 2020 còn được cho vẫn tồn tại nhiều bất cập liên
quan mâu thuẫn vẫn tồn đọng giữa Luật Doanh nghiệp 2020 và Bộ luật Dân sự 2015, có thể gây ra khó khăn cho quá
trình áp dụng pháp luật vào giải quyết các tranh chấp liên quan trên thực tế.

Thông tin với báo chí, Luật sư Phạm Văn Phát – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết, Đối với Công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên, khoản 5, Điều 53 Luật Doanh Nghiệp 2020 quy định: “Trường hợp phần vốn góp của
thành viên là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế
thì phần vốn góp đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, khoản 3, Điều 78 Luật Doanh Nghiệp 2020 quy định:
“Trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu công
ty hoặc thành viên công ty. Công ty phải tổ chức quản lý theo loại hình doanh nghiệp tương ứng và đăng ký thay đổi nội
dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc việc giải quyết thừa kế. Trường hợp chủ sở hữu
công ty là cá nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền thừa kế thì
phần vốn góp của chủ sở hữu được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Theo Luật sư Phát, các quy định đã nêu chưa có sự thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự 2015, bởi theo
Điều 622 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản
mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”.

“Cụ thể, khoản 5, Điều 53; khoản 3, Điều 78; khoản 4, Điều 127 và khoản 3, Điều 193 Luật Doanh nghiệp 2020
không đề cập đến trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, Điều 622 Bộ luật Dân
sự 2015 lại không đề cập đến trường hợp bị truất quyền thừa kế, trong khi đó, trường hợp người thừa kế không được
quyền hưởng di sản hoàn toàn khác với trường hợp bị truất quyền quyền thừa kế. Do vậy, các quy định tại Luật Doanh
nghiệp 2020 cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm sự thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự 2015”, Luật
sư Phát phân tích.

Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2020 còn có sự không thống nhất đối với quy định về trách nhiệm tài sản của chủ sở
hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với quy định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015.

Cụ thể, khoản 2, Điều 75 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Chủ sở hữu phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã
cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp”.
Nhằm đảm bảo nguyên tắc trung thực khi kê khai, góp vốn điều lệ, tại khoản 3, Điều 75 Luật Doanh nghiệp 2020
cũng quy định: “Trường hợp không góp đủ vốn điều lệ trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, chủ sở hữu Công
ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị số vốn thực góp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải
góp đủ vốn điều lệ. Trường hợp này, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết đối với
các nghĩa vụ tài chính của Công ty phát sinh trong thời gian trước ngày cuối cùng Công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ
theo quy định tại khoản này”.

Trường hợp nếu hết 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn điều lệ nếu chủ sở hữu Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên không đăng ký thay đổi vốn điều lệ thì chủ công ty phải chịu trách nhiệm theo khoản 4, Điều 75
Luật Doanh nghiệp 2020: “Chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài chính
của công ty, thiệt hại xảy ra do không góp, không góp đủ, không góp đúng hạn vốn điều lệ”.

Theo Luật sư Phạm Văn Phát – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, quy định như trên là chưa thống nhất với quy
định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015, bởi theo điểm c, khoản 1, Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 thì tài sản của
pháp nhân phải độc lập với tài sản của cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Xét ở góc
độ trách nhiệm tài sản của pháp nhân thì thành viên pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân và ngược lại,
pháp nhân cũng không chịu trách nhiệm thay cho thành viên của mình. Trong khi đó, Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên cũng được xác định là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp.

“Theo Luật Doanh nghiệp 2020, nghĩa vụ góp vốn của chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
phát sinh từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ góp vốn thì
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đã có tư cách pháp nhân. Như vậy, khi Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên đã có tư cách pháp nhân thì thành viên của pháp nhân không phải chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân”,
Luật sư Phát phân tích.

Cũng theo Luật sư Phát, quy định chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ tài chính của công ty trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ góp vốn cũng
chưa thực sự phù hợp và chưa thống nhất với các quy định khác của Luật Doanh nghiệp. Bởi, nếu chủ sở hữu Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên góp đủ số vốn đã cam kết và công ty làm ăn bị thua lỗ thì chủ sở hữu cũng chỉ phải
chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ của công ty. Do vậy, nếu chủ sở hữu Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên góp vốn không đủ, không đúng hạn thì cũng chỉ nên yêu cầu chủ sở hữu chịu trách nhiệm tương ứng với số
vốn đã cam kết góp vào công ty.

1.3. Nhận xét của các doanh nghiệp


Nhận xét của Công ty Luật TNHH Brandco
 Luật Doanh nghiệp 2020 có thể cho thấy một tinh thần hoàn toàn mới trong việc thực hiện các thủ tục hành
chính trong quá trình thành lập và hoạt động doanh nghiệp: tinh giản và số hóa (bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính không
cần thiết)
 Đến Luật Doanh nghiệp 2020, quyền của nhóm cổ đông nhỏ mới thực sự được chú trọng với nhiều quy định sửa
đổi, bổ sung. Cụ thể, LDN 2020 đã bỏ quy định về thời gian sở hữu cổ phần liên tục ít nhất sau tháng và giảm tỷ lệ cổ
phần tối thiểu. Theo Luật Doanh nghiệp 2014, Đây là những điều kiện bắt buộc của các cổ đông nhỏ nếu muốn thực
hiện một số quyền quan trọng như yêu cầu triệu tập Đại hội đồng cổ đông, xem xét trích lục Báo cáo tài chính, sổ biên
bản,.. Ngoài ra, quyền ưu tiên mua cổ phần của các cổ đông hiện hữu được ghi nhận ngay cả trong trường hợp chào bán
cổ phần riêng lẻ, tránh việc chào bán cổ phần riêng lẻ không bị các cổ đông lớn lạm dụng để tập trung quyền lực.
Nhóm quy định này sẽ tác động lớn nhất đến các nhà đầu tư mới, những nhà đầu tư nhỏ lẻ, giúp củng cố và gia tăng
niềm tin của họ khi gia nhập thị trường. Hệ quả tất yếu, doanh nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi ích, khi khả năng huy
động vốn của doanh nghiệp được mở rộng hiệu quả, bên cạnh nguồn vốn Ngân hàng chủ yếu như hiện hành.
 Luật Doanh nghiệp 2020 còn có các nội dung quy định về chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty cổ
phần, thay vì chỉ được chuyển đổi thành công ty TNHH như quy định hiện hành. Nội dung này tương thích với Luật
Cạnh tranh 2018. Như vậy, xét cả trực tiếp và gián tiếp thì Luật Doanh nghiệp 2020 sẽ có tác động rất lớn đến phát triển
thị trường vốn, giúp doanh nghiệp cơ hội lớn hơn trong huy động nguồn vốn đầu tư ngoài nguồn vốn vay từ tổ chức tín
dụng trong quá trình hoạt động.
 
Nhận xét của Vietnam Business Law (Nguyễn Quang Vũ)
 Luật Doanh Nghiệp 2020 không áp đặt bất kỳ hạn chế nào lên thời hạn cần thiết để vận chuyển, nhập khẩu, thực
hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản. Do đó, một thành viên/cổ đông góp vốn bằng tài sản có thể cố ý
trì hoãn việc góp vốn bằng cách không thực hiện các bước này một cách kịp thời.
 Tính linh hoạt trong việc phát hành cổ phần ưu đãi của CTCP bị hạn chế.
 Luật Doanh Nghiệp 2020 lược bỏ yêu cầu cổ đông nắm giữ 10% phải nắm giữ cổ phần từ sáu tháng trở lên để
có quyền đề cử người. Đây là một thay đổi tích cực bởi nó cho phép chủ sở hữu mới của một CTCP có quyền kiểm soát
công ty ngay khi họ có được số cổ phần cần thiết thay vì phải đợi thêm sáu tháng.
 Nghĩa vụ bảo mật của cổ đông: Một cổ đông không được cung cấp thông tin đó cho bên thứ ba. Không rõ liệu
hạn chế này có ngăn cản cổ đông trong công ty cung cấp thông tin của công ty cho bên mua tiềm năng đối với số cổ
phần của họ trong công ty.
 Chuyển nhượng cổ phần Luật Doanh Nghiệp 2020 hiện yêu cầu CTCP phải cập nhật sổ đăng ký cổ đông của
mình để ghi nhận việc chuyển nhượng cổ phần trong vòng 24 giờ sau khi có đề nghị từ các bên liên quan. Yêu cầu mới
này là một thay đổi tích cực bởi nó đưa ra một quyền “giải thoát” tốt hơn cho cổ đông.
Ngưỡng biểu quyết: Lần đầu tiên, Luật Doanh Nghiệp 2020 cho phép cổ đông ưu đãi có quyền biểu quyết đối với
các thay đổi ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của cổ đông ưu đãi. Cụ thể, các thay đổi “bất lợi” đến quyền hoặc nghĩa
vụ của cổ đông ưu đãi phải được chấp thuận bởi số cổ đông ưu đãi nắm giữ ít nhất 75% số cổ phần ưu đãi đó. Tuy
nhiên, vấn đề là ai và bằng cách nào có thể quyết định được một thay đổi là thay đổi “bất lợi” đến cổ đông ưu đãi. 
 

2. Nhận xét, đánh giá của nhóm


Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời với nhiều thay đổi so với luật Doanh nghiệp 2014, tác động trực tiếp đến việc
thành lập DN, quản lý cũng như tổ chức hoạt động của một doanh nghiệp, đặc biệt là công ty cổ phần.

2.1. Đánh giá ưu điểm:


 Chế độ trách nhiệm của Công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi góp vốn nên mức độ rủi ro do của các cổ đông không cao
 Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề (thực tế hiện nay thì
ưu điểm này không phải là tuyệt đối vì các loại hình công ty đều có quyền kinh doanh ngành nghề, lĩnh vực gần như
nhau, thậm chí công ty trách nhiệm hữu hạn còn có nhiều lợi thế hơn trong việc kinh doanh các ngành nghề có tính chất
đối nhân- không đối vốn như dịch vụ kế toán,...) 
 Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt, tạo điều kiện nhiều người cùng chung góp vốn vào công ty
 Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao, thông qua việc phát hành cổ phiếu ra thị trường, công
chúng, đây là đặc điểm riêng biệt của công ty cổ phần
 Việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy, phạm vi đối tượng được tham
gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ, công chức cũng có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần (đối với
công ty Đại chúng, công ty niêm yết trên sàn chứng khoán thì chỉ có công ty cổ phần mới có quyền này).
 
2.2. Những điểm mới của Luật doanh nghiệp 2020 về công ty cổ phần:
 Bổ sung hồ sơ đăng ký công ty cổ phần:
So với luật doanh nghiệp 2014, luật doanh nghiệp 2020 yêu cầu hồ sơ đăng kí công ty cổ phần (Điều 22) phải có bản
sao giấy tờ pháp lí của người đại diện theo pháp luật, tương tự như cổ đông sáng lập công ty cổ phần.
 Sửa quy định về quyền của cổ đông phổ thông;
Hiện hành. Luật doanh nghiệp 2014 quy định: Cổ đông Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần
phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty để có
các quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 114 Luật này.
Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp 2020, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở
lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty có quyền của cổ đông phổ thông quy định tại khoản 2
Điều 115 Luật này.
 Bổ sung thêm nghĩa vụ của cổ đông
Theo đó, bên cạnh việc kế thừa quy định về nghĩa vụ của cổ đông phổ thông tại Điều 115 Luật Doanh nghiệp 2014,
Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung thêm nội dung sau:
"Bảo mật các thông tin được công ty cung cấp theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật; chỉ sử dụng thông tin
được cung cấp để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin
được công ty cung cấp cho tổ chức, cá nhân khác."
 Bổ sung trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần
So với quy định hiện hành, LDN 2020, bổ sung thêm trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần như sau:
Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác vi phạm quy định tại khoản 1
Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2020 chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận
và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba.
2.3. Một số điểm mới về quản trị công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2020:
Về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần (Điều 137 LDN năm 2020): Về cơ bản cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần
theo LDN năm 2020 không có thay đổi lớn, chỉ có một số thay đổi và bổ sung cụ thể hơn về Ủy ban kiểm toán và người
đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, cụ thể:
 Đối với mô hình công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
(điểm b Khoản 1 Điều 137 LDN năm 2020)
Với mô hình tổ chức này, LDN năm 2020 quy định: “Ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên
độc lập và có Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị.
Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban kiểm toán quy định tại Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động của
Ủy ban kiểm toán do Hội đồng quản trị ban hành”. Theo quy định này, lần đầu tiên LDN năm 2020 quy định tên gọi
mới của một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần là Ủy ban kiểm toán. Ủy ban kiểm toán là cơ quan
chuyên môn thuộc Hội đồng quản trị. Ủy ban kiểm toán có từ 02 thành viên trở lên. Chủ tịch Ủy ban kiểm toán phải là
thành viên độc lập Hội đồng quản trị. Các thành viên khác của Ủy ban kiểm toán phải là thành viên Hội đồng quản trị
không điều hành. Mô hình tổ chức công ty cổ phần có Ủy ban kiểm toán là mô hình tổ chức phù hợp với thông lệ thế
giới và tên Ủy ban kiểm toán đã phản ánh đúng thuật ngữ tiếng Anh là “Audit Committee”. Theo điểm b Khoản 1 Điều
134 LDN năm 2014, công ty cổ phần có Ban kiểm toán nội bộ và thực tế là tổ chức này gây ra nhầm lẫn với Ban kiểm
toán theo Nghị định số 05/2019/NĐ-CP ngày 21/01/2019 về kiểm toán nội bộ. Do đó, LDN năm 2020 đã có sự thay đổi
để đảm bảo sự xác định đúng chức năng của Ủy ban kiểm toán và tránh những hiểu lầm không đáng có.
  Người đại diện theo pháp luật (Khoản 2 Điều 137 LDN 2020): Theo Khoản 2 Điều 137 LDN năm 2020
“Trường hợp công ty chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp Điều lệ chưa có quy định thì Chủ tịch Hội
đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp công ty có hơn một người đại diện theo pháp
luật thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của
công ty”. Lý do dẫn đến sự thay đổi này tương tự như sự thay đổi của Điều 57 LDN năm 2020 như đã được phân tích ở
trên.
  Về việc bổ sung quyền cho Đại hội đồng cổ đông (Điều 138 LDN năm 2020)
LDN năm 2020 bổ sung thêm 03 quyền mới cho Đại hội đồng cổ đông, bao gồm: (i) Quyền quyết định ngân sách
hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; (ii) Quyền phê duyệt quy chế quản
trị nội bộ; quy chế hoạt động Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; (iii) Quyền phê duyệt danh sách công ty kiểm toán độc
lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi
xét thấy cần thiết. Đây là các quyền có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyền và lợi ích của chính các cổ đông. Nên theo
thông lệ quản trị công ty tốt, thì cổ đông phải có quyền tham gia thảo luận và quyết định về những vấn đề như: Quyết
định kiểm toán độc lập, quyết định thù lao và ngân sách hoạt động cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Việc sửa đổi
này cũng nhằm mục tiêu bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của cổ đông, hạn chế tình trạng cổ đông lớn lạm dụng quyền hạn
để chèn ép, chiếm đoạt lợi ích của cổ đông nhỏ.
  Về việc mời họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 143 LDN năm 2020)
Quy định về mẫu chỉ định đại diện theo ủy quyền dự họp tại điểm c Khoản 3 Điều 139 LDN năm 2014 đã được bãi
bỏ. Lý do LDN năm 2020 không quy định vấn đề này là do có nhiều công ty cổ phần lạm dụng quy định về ban hành và
gửi mẫu chỉ định đại diện uỷ quyền cho cổ đông, để nhằm hạn chế quyền dự họp của cổ đông bằng các cách thức như
thường xuyên thay đổi, gửi mẫu dự họp sát thời gian họp… gây khó khăn hoặc thậm trí khiến cho cổ đông, đặc biệt là
cổ đông nước ngoài, không kịp đủ thời gian để ủy quyền cho người khác dự họp, vì các thủ tục hành chính như ủy
quyền, hợp pháp hóa lãnh sự. Điều 143 LDN năm 2020 không còn quy định về mẫu chỉ định đại diện do công ty phát
hành để cho các cổ đông công ty cổ phần có quyền thực hiện ủy quyền theo hình thức phù hợp theo quy định của pháp
luật dân sự. Cách tiếp cận này hướng đến một trong những mục tiêu quan trọng của LDN năm 2020 là nhằm bảo vệ tốt
hơn quyền lợi của cổ đông.
Về việc thực hiện quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 144 LDN năm 2020): LDN năm 2020 có một số quy
định mới so với LDN năm 2014 liên quan đến quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông, cụ thể:
  Quyền ủy quyền của cổ đông, người đại diện theo ủy quyền của cổ đông là tổ chức cho cá nhân, tổ chức khác
tham gia cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (Khoản 1 Điều 144 LDN năm 2020)
Nếu như LDN năm 2014 không đề cập đến người đại diện theo ủy quyền của cổ đông là tổ chức (một đối tượng khá
điển hình có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông) thì LDN năm 2020 đã đề cập đến đối tượng này nhằm đảm bảo sự
phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, LDN năm 2020 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cổ đông khi cho phép cổ đông
được quyền ủy quyền cho một số cá nhân, tổ chức tham gia cuộc họp Đại hội đồng cổ đông – điều mà trước đây các cổ
đông không thể thực hiện được do Khoản 1 Điều 140 LDN năm 2014 quy định: “Cổ đông có thể trực tiếp tham dự họp,
ủy quyền bằng văn bản cho một người khác dự họp hoặc thông qua một trong các hình thức quy định tại Khoản 2 Điều
này”.
  Về hình thức của văn bản ủy quyền cho người đại diện dự họp Đại hội đồng cổ đông (Khoản 2 Điều 144 LDN
năm 2020)
Do LDN năm 2020 không còn quy định về mẫu chỉ định đại diện theo ủy quyền dự họp tại điểm c Khoản 3 Điều 139
LDN năm 2014 nên đã bổ sung quy định tại Khoản 2 Điều 144 LDN năm 2020 về hình thức của văn bản ủy quyền cho
người đại diện dự họp Đại hội đồng cổ đông. Theo đó: “Việc ủy quyền cho cá nhân, tổ chức đại diện dự họp Đại hội
đồng cổ đông phải lập thành văn bản. Văn bản ủy quyền được lập theo quy định của pháp luật về dân sự và phải nêu rõ
tên cá nhân, tổ chức được ủy quyền và số lượng cổ phần được ủy quyền. Cá nhân, tổ chức được ủy quyền dự họp Đại
hội đồng cổ đông phải xuất trình văn bản ủy quyền khi đăng ký dự họp trước khi vào phòng họp”.
 Về điều kiện tiến hành cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (Khoản 1 Điều 145 LDN năm 2020)
Khoản 1 Điều 145 LDN năm 2020 quy định cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp
đại diện “trên 50% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định” – quy định này tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho công ty cổ phần trong việc tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông so với LDN năm 2014. Bởi lẽ, theo
Khoản 1 Điều 141 LDN năm 2014: “Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện
ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định”.
  Về điều kiện để Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua (Điều 148 LDN năm 2020)
Đối với các Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông mà không cần số cổ đông đại diện từ 65% tổng số phiếu biểu
quyết trở lên của tất cả cổ đông dự họp tán thành thông qua thì LDN năm 2020 quy định rằng Nghị quyết của Đại hội
đồng cổ đông được thông qua khi có số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán
thành (Điều 144 LDN năm 2014 quy định cần có số cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất
cả các cổ đông dự họp tán thành).
Điều 148 LDN năm 2020 có thêm một quy định bảo vệ quyền lợi của cổ đông cổ tức – quy định này mới hoàn toàn
so với LDN năm 2014. Theo Khoản 6 Điều 148 LDN năm 2020, “Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về nội dung làm
thay đổi bất lợi quyền và nghĩa vụ của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi chỉ được thông qua nếu được số cổ đông ưu đãi
cùng loại dự họp sở hữu từ 75% tổng số cổ phần ưu đãi loại đó trở lên tán thành hoặc được các cổ đông ưu đãi cùng
loại sở hữu từ 75% tổng số cổ phần ưu đãi loại đó trở lên tán thành trong trường hợp thông qua Nghị quyết dưới hình
thức lấy ý kiến bằng văn bản”. Do các cổ đông sở hữu cổ phần cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng
cổ đông nên nếu Đại hội đồng cổ đông có quyết định gì làm thay đổi bất lợi quyền lợi của cổ đông cổ tức thì cổ đông cổ
tức sẽ không có điều kiện, cơ chế để bảo vệ quyền lợi của mình nếu pháp luật không có quy định đặc thù. Quy định mới
này của LDN năm 2020 là một quy định góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của cổ đông ưu đãi cổ tức.
 Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 150 LDN năm 2020)

Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ tọa và thư ký cuộc họp Đại hội đồng cổ đông không hợp tác, không ký biên
bản khiến cho công ty không thể thực hiện các thủ tục hành chính cần thiết để triển khai Nghị quyết đã được Đại hội
đồng cổ đông thông qua, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Do đó, LDN năm 2020 bổ sung quy định tại
điểm 1 Khoản 1 Điều 150 LDN năm 2020 như sau: “Trường hợp chủ tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp thì biên bản
này có hiệu lực nếu được tất cả thành viên khác của Hội đồng quản trị tham dự họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy
định tại khoản này. Biên bản họp ghi rõ việc chủ tọa, thư ký từ chối ký biên bản họp”.
 Về việc đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định của HĐQT (Điều 153 LDN năm 2020)

Trường hợp Nghị quyết, Quyết định do Hội đồng quản trị thông qua trái với quy định của pháp luật, Nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông, Điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì LDN năm 2020 bổ sung thêm cơ chế yêu cầu Tòa án
đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ Nghị quyết, Quyết định nói trên.
 Về các tiêu chuẩn và điều kiện thành viên độc lập Hội đồng quản trị (Khoản 2 Điều 155 LDN năm 2020)

LDN năm 2020 sửa đổi một số điều kiện áp dụng đối với thành viên độc lập Hội đồng quản trị để đảm bảo cho các
thành viên này đảm bảo và thực hiện được tốt nhất sự độc lập, khách quan khi tham gia vào các cuộc họp của Hội đồng
quản trị. Cụ thể, thành viên độc lập của Hội đồng quản trị không phải là người trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất
01% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty (theo điểm d Khoản 2 Điều 151 LDN năm 2014 là 1%); Không
phải là người đã từng làm thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty ít nhất trong 05 năm liền trước đó,
trừ trường hợp được bổ nhiệm liên tục 02 nhiệm kỳ (điểm d Khoản 2 Điều 151 LDN năm 2014 không quy định về
trường hợp được bổ nhiệm liên tục 02 nhiệm kỳ).
  Về việc xử lý trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc không thể thực hiện được nhiệm vụ
(Khoản 4 Điều 156 LDN năm 2020)

LDN năm 2020 đã có những quy định mới góp phần xử lý được những trường hợp đã và đang xảy ra khá phổ biến
trên thực tế liên quan đến việc Chủ tịch Hội đồng quản trị không có người được ủy quyền hoặc Chủ tịch Hội đồng quản
trị chết, mất tích, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định. Theo Khoản 4 Điều 156 LDN năm 2020, nếu xảy ra một trong các trường hợp nêu trên thì các thành viên còn lại
bầu một người trong số các thành viên giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc đa số thành viên còn lại tán
thành cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng quản trị. LDN năm 2014 đã không quy định cụ thể, đầy đủ về các
trường hợp nêu trên khiến cho nhiều công ty cổ phần gặp nhiều khó khăn, thậm chí lâm vào tình trạng không thể hoạt
động được do không có Chủ tịch Hội đồng quản trị (nhất là trong trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại
diện theo pháp luật).

  Về hiệu lực Nghị quyết của Đại hội cổ đông (Điều 152 LDN năm 2020)

Tương tự như sự thay đổi tại Điều 62 LDN 2020, Điều 152 LDN 2020 lần đầu tiên ghi nhận hiệu lực Nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông khi được thông qua bằng 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết mặc dù trình tự, thủ tục triệu tập
họp và thông qua Nghị quyết đó vi phạm quy định của LDN năm 2020 và Điều lệ công ty.
 Về Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị (Điều 158 LDN năm 2020)

LDN năm 2020 cũng có một cách tiếp cận mới, thực tế và hợp lý hơn khi ghi nhận hiệu lực cuộc họp Hội đồng quản
trị trong trường hợp chủ tọa, người ghi biên bản từ chối ký biên bản họp nhưng nếu được tất cả thành viên khác của Hội
đồng quản trị tham dự họp ký và có đầy đủ nội dung theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h Khoản 1 Điều 158
LDN năm 2020.
Bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị (Khoản 2 Điều 160 LDN năm 2020): Nếu như Khoản 2 Điều 155 LDN năm
2020 chỉ có quy định khá chung chung là: “Thành viên Hội đồng quản trị có thể bị bãi nhiệm theo Nghị quyết của Đại
hội đồng cổ đông” thì LDN năm 2020 đã có quy định cụ thể về các trường hợp Đại hội đồng cổ đông bãi nhiệm Chủ
tịch Hội đồng, theo Khoản 2 Điều 160 LDN năm 2020: “Đại hội đồng cổ đông bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị
trong trường hợp sau đây: a) Không tham gia các hoạt động của Hội đồng quản trị trong 06 tháng liên tục, trừ trường
hợp bất khả kháng;”. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 160 LDN năm 2020 vẫn quy định trường hợp: “Khi xét thấy cần thiết,
Đại hội đồng cổ đông quyết định thay thế thành viên Hội đồng quản trị; miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng
quản trị ngoài trường hợp quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này”.
Qua việc nhận diện, giới thiệu và luận giải các điểm mới của Luật doanh nghiệp năm 2020 về quản trị công ty cổ
phần, công ty cổ phần có thể nhận thấy Luật doanh nghiệp năm 2020 đã ghi nhận và cụ thể hóa các mục tiêu tổng quát
và mục tiêu chi tiết của việc sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2014 góp phần tạo nâng cao cơ chế bảo vệ hiệu quả quyền
và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp đạt chuẩn mực
theo thông lệ tốt và phổ biến trong khu vực và quốc tế.
 
2.4. Đánh giá một số bất cập, hạn chế trong quy định về công ty cổ phần trong LDN 2020
Thứ nhất, quy định về góp vốn của CTCP còn nhiều bất cập. Theo Khoản 34 Điều 4 LDN 2020, vốn điều lệ của
CTCP là Tổng´mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đăng ký mua khi thành lập CTCP. Các cổ đông theo đó phải thanh toán đủ
số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường
hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn (căn cứ Điều 75 và
Khoản 1 Điều 113 LDN 2020). So với quy định trong Luật doanh nghiệp 2014, thì Luật Doanh nghiệp 2020 đã có sửa
đổi mang tính “rộng lượng” hơn khi không tính thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thời gian thực hiện thủ
tục hành chính để chuyển quyền sở hữu như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ mang tính chất “liệt kê”,
gợi mở ra, chứ chưa cụ thể hóa thời điểm bắt đầu hay kết thúc của hoạt động vận chuyển, thực hiện thủ tục. Vấn đề
thiếu minh bạch, rõ ràng trong quy định này do đó sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kéo dài thời hạn góp vốn, chẳng
hạn qua việc đăng ký vốn góp bằng tiền mặt nhỏ, bằng tài sản gấp nhiều lần; hay đăng ký vốn ban đầu nhỏ, vốn góp
thêm lớn hơn. Đối với các trường hợp trên, vốn thực góp rõ ràng chẳng đáng bao nhiêu, song vốn đăng ký là vốn ảo lại
rất lớn. Thực tế, đã có nhiều doanh nghiệp đăng ký vốn ảo lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, mà điểu hình nhất là ”siêu
doanh nghiệp” Auto Investment Group đăng ký mức vốn điều lệ tới 525.000 tỷ đồng gây xôn xao dư luận. Ngoài ra, chế
tài xử lý đối với các hành vi gian dối của doanh nghiệp khi góp vốn tại thời điểm thành lập không đủ tính răn đe. Cụ thể,
theo Điều 43 Nghị định 122/2021/NĐ-CP, mức phạt cao nhất đối với hành vi kê khai không trung thực, không chính xác
nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp khi thành lập là 30.000.000 đồng, không áp dụng chế tài hình sự. Rõ ràng, khoản
phạt này là thấp so với mặt bằng kinh tế hiện nay, nhất là với các doanh nghiệp lớn. Có lẽ vì vậy, tình trạng công ty
“ma” đăng ký vốn khủng để khuyếch trương thanh thế trước đối tác vẫn còn tồn tại, làm ảnh hưởng tới lòng tin của các
nhà đầu tư vào quy định pháp luật hiện hành.
Thứ hai, quy định về trách nhiệm liên đới của cổ đông trong CTCP còn thiếu thống nhất giữa các điều luật. Trường
hợp việc thanh toán cổ phần mua lại hoặc chi trả cổ tức cho cổ đông không đúng theo quy định ở Điều 132, 134, 235
LDN 2020, thì các thành viên Hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm. Cụ thể, Điều 136 luật này quy định “tất cả các
thành viên hội đồng quản trị phải hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản khác đã nhận”, hoặc tất cả thành viên phải liên đới
chịu trách nhiệm trong phạm vi giá tiền, số tài sản đều không hoàn trả được. Cùng vấn đề đó, Khoản 4 Điều 153 Luật
Doanh nghiệp 2020 lại có quy định khác. Theo Khoản 4 điều này, chỉ thành viên thông qua nghị quyết, quyết định gây
thiệt hại cho công ty hoặc trái quy định pháp luật mới phỉ đền bù thiệt hại, các thành viên phản đối thông qua nghị
quyết, quyết định trên được miễn trừ trách nhiệm. Ở đây, rõ ràng tồn tại vấn đề thiếu thống nhất giữa hai điều luật. Hơn
nữa, chính thuật ngữ “người phản đối nghị quyết, quyết định” cũng chưa thực sự rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp
dụng.
Thứ ba, quy định về quyền tiếp cận thông tin của cổ đông còn không rõ ràng. Luật Doanh nghiệp 2020 đã sửa quy
định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông tại Khoản 2 điều 116 như đã phân tích. Tuy nhiên, chính sự đổi mới
này lại dẫn tới một hạn chế trong việc giữ tính minh bạch, rõ ràng. Cụ thể, điều khoản này cho phép cổ đông phổ thông
có quyền tiếp cận đến một số tài liệu của công ty, như sổ biên bản, báo cáo tài chính..., song loại trừ đối với các thông
tin liên quan đến “bí mật thương mại, bí mật kinh doanh”. Thực tế, trong Luật sở hữu trí tuệ 2019 chỉ định nghĩa về “bí
mật kinh doanh”, chứ không có quy định về “bí mật thương mại”. Như vậy, sự không rõ ràng trong quy định này đã
khiến phạm vi loại trừ quá rộng, khi ngoại diện của chính thuật ngữ “thương mại” đã được định nghĩa rất rộng trong
“luật thương mại”, là bao gồm mọi hoạt động nhằm sinh lợi. Theo cách hiểu này, bí mật thương mại phải chăng bao
gồm mọi bí mật của công ty liên quan đến hoạt động sinh lợi, tức bao gồm hầu hết các thông tin của công ty như hợp
đồng. Và rõ ràng, điều này là không hợp lý. 
Thứ tư, quy định về quyền khởi kiện của cổ đông còn mơ hồ. So với Luật Doanh nghiệp 2014, quyền khởi kiện của
cổ đông trong Luật Doanh nghiệp 2020 đã được mở rộng, khi luật đã loại bỏ yêu cầu về thời hạn 6 tháng cổ đông, nhóm
cổ đông đó sở hữu cổ phần phổ thông. Tuy nhiên, ngoài mặt tích cực, quy định tại Khoản 1 Điều 161 vẫn có hạn chế ở
sự mơ hồ của việc hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho “người khác”. Vấn đề theo đó nảy sinh từ chính thuật
ngữ được bổ sung này, dẫn tới ba câu hỏi lớn khi áp dụng vào thực tế. Một là, Luật không quy định rõ “người khác” là
ai và tại sao cổ đông lại phải khởi kiện vì lợi ích của “người khác” trong khi họ có thể tự thực hiện quyền tố tụng của
mình. Hai là, việc cổ đông công ty khởi kiện cho người ngoài công ty trong khi chi phí tố tụng vẫn được tính vào chi phí
của công ty là không hợp lý. Ba là, các cổ đông đương nhiên sẽ có những ràng buộc nhất định với công ty, vậy nên việc
nhận danh công ty, hoặc tự mình khởi kiện đối với thành viên lãnh đạo của Công ty vì lợi ích của “người khác”, liệu có
đảm bảo đủ tính khác quan, vô tư trong tố tụng hay không.
Ngoài một số bất cập phát sinh từ sự đổi mới so với Luật Doanh nghiệp 2014, thì luật này vẫn còn tồn tại một số hạn
chế từ trước. Cụ thể như sau:
Một là, các bất cập liên quan tới Hội đồng quản trị CTCP, trong đó có hai thiếu sót chính là (1) về triệu tập cuộc họp
Hội đồng quản trị, và (2) về thời hạn triệu tập cuộc họp để bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị.
Về khía cạnh thứ nhất, theo quy định tại khoản 8, Điều 157 Luật Doanh nghiệp 2020, “Cuộc họp Hội đồng quản trị
được tiến hành khi có từ 3/4 tổng số thành viên trở lên dự họp. Trường hợp cuộc họp được triệu tập theo quy định tại
khoản này không đủ số thành viên dự họp theo quy định, thì được triệu tập lần thứ hai trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày
dự định họp lần thứ nhất, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thời hạn khác ngắn hơn. Trường hợp này, cuộc họp
được tiến hành nếu có hơn 1/2 số thành viên Hội đồng quản trị dự họp”. Theo tinh thần của quy định này, cuộc họp Hội
đồng quản trị chỉ được tiến hành khi có từ 3/4 tổng số thành viên dự họp (đối với lần triệu tập thứ nhất) và khi có hơn
1/2 thành viên Hội đồng quản trị dự họp (đối với lần triệu tập họp thứ 2 sau dự định lần thứ nhất). Tuy nhiên trên thực
tế, sẽ có không ít trường hợp người có thẩm quyền triệu tập cuộc họp Hội đồng quản trị đã gửi thông báo mời họp hợp
lệ đến các thành viên 2 lần nhưng vẫn không tiến hành họp được do không đủ số lượng, làm ảnh hưởng đến quá trình
điều hành hoạt động của công ty, phương hại đến lợi ích của các cổ đông trong công ty. Ví dụ, trong công ty cổ phần X
có tất cả 5 cổ đông là cá nhân tham gia góp vốn thành lập, cả 5 cổ đông này đều là thành viên Hội đồng quản trị công ty
và họ bầu 1 người trong số họ làm Chủ tịch Hội đồng quản trị. Để tiến hành thực hiện một số công việc thuộc thẩm
quyền của Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty đã ra thông báo triệu tập cuộc họp đến 2 lần,
nhưng mỗi lần như vậy đều chỉ có 2 thành viên tham dự. Điều này khiến cho cuộc họp Hội đồng quản trị không thể tiến
hành được, do đó ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình điều hành hoạt động của công ty. Chính vì vậy, cần thiết phải có
giải pháp về mặt pháp luật để giúp doanh nghiệp tháo gỡ vướng mắc này.
Về khía cạnh thứ hai, quy định về thời hạn Hội đồng quản trị phải triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông trong
trường hợp số lượng thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát còn lại ít hơn số lượng tối thiểu theo quy định không
có sự thống nhất giữa các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, theo Khoản 2 Điều 140 Luật Doanh
nghiệp năm 2020 thì trường hợp điều lệ công ty không có quy định khác thì Hội đồng quản trị phải triệu tập cuộc họp
Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày số lượng thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát còn lại ít
hơn số lượng tối thiểu theo quy định. Trường hợp Hội đồng Quản trị không triệu tập cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
theo quy định thì Chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên hội đồng quản trị phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho
công ty. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 160 Luật Doanh nghiệp năm 2020, trường hợp số thành viên
Hội đồng quản trị bị giảm quá 1/3 so với quy định tại Điều lệ, thì Hội đồng quản trị phải triệu tập cuộc họp Đại hội đồng
cổ đông trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày số thành viên bị giảm quá 1/3 so với số quy định tại Điều lệ công ty.
Hai là, các bất cập về Hội đồng cổ đông, trong đó cũng gồm hai vấn đề là (1) thời điểm xác lập tư cách cổ đông và
(2) quy định về mua lại cổ phần của cổ đông. 
Về vấn đề thứ nhất, Khoản 4 Điều 124 LDN năm 2020 quy định "cổ phần được coi là đã bán khi được thanh toán đủ
và những thông tin về người mua theo quy định tại khoản 2 Điều 122 LDN năm 2020 được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký
cổ đông; kể từ thời điểm đó, người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty". Như vậy, trường hợp nhà đầu tư đã
thanh toán đủ tiền góp vốn mua cổ phần nhưng vì một lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà chưa được đăng ký
thông tin vào sổ đăng ký cổ đông của CT thì nhà đầu tư vẫn chưa có tư cách cổ đông của CT đó. Quy định này là tương
đương trong Luật Doanh nghiệp 2014, tức là không có sửa đổi nào, và do đó các thiếu sót vẫn còn đó. Theo đó, việc
đăng ký thông tin người mua vào sổ đăng ký cổ đông hoàn toàn chỉ là hình thức xác nhận việc mua cổ phần giúp CT có
thể quản lý và liên hệ với các cổ đông, chứ không làm thay đổi bản chất của việc nhà đầu tư đã góp đủ vốn mua cổ
phần. Do đó, quy định trên của LDN năm 2020 là chưa hợp lý, không bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, dẫn
đến những tranh chấp không đáng có giữa nhà đầu tư và công ty. 
Về vấn đề thứ hai, Khoản 1 Điều 132 LDN năm 2020 quy định: "Cổ đông đã biểu quyết không thông qua nghị quyết
về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu
công ty mua lại cổ phần của mình". Trong trường hợp này, CTCP "phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông với
giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận
được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá. Công ty
giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng ". Quy định này
được áp dụng khi mối quan hệ giữa cổ đông và CTCP đã không thể cứu vãn, cổ đông đã không muốn gắn bó với công ty
nữa. Tuy nhiên, điều luật lại xác định thời hạn của việc này lên đến 90 ngày là chưa hợp lý vì đây là một quãng thời gian
khá dài để thực hiện thủ tục chấm dứt mối quan hệ này (bình thường khi muốn chấm dứt mối quan hệ, các bên thường
muốn thực hiện nhanh chóng, đơn giản). Hơn nữa, trong trường hợp giữa cổ đông và CTCP không thỏa thuận được về
giá mua, bán lại cổ phần, điều luật cho phép các bên có thể sử dụng tổ chức thẩm định giá và quy định công ty giới thiệu
ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá để cổ đông lựa chọn, nhưng không đề cập đến việc công ty hay cổ đông sẽ phải chịu
khoản chi phí cho tổ chức thẩm định giá. Điều này sẽ dẫn đến tranh chấp giữa cổ đông và CTCP. Trong Điều 129 Luật
Doanh nghiệp 2014, quy định này không có sự khác biệt, tức vấn đề này đã tồn tại từ Luật Doanh nghiệp 2014. 

3. Một số kiến nghị về các quy định về Công ty cổ phần trong luật doanh nghiệp 2020
Từ những phân tích, đánh giá trên, nhóm xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật doanh
nghiệp về công ty cổ phần như sau: 
Thứ nhất, kiến nghị thay đổi quy định về vốn góp khi thành lập doanh nghiệp. Một trọng những giải pháp hữu
hiệu nhất là quy định đăng ký thành lập doanh nghiệp theo số vốn thực góp. Quan điểm này sở dĩ tồn tại là do luật hiện
hành đã có quy định khá cởi mở về đăng ký thay đổi vốn điều lệ, có cơ chế hoạt động khá giống với việc cho phép
doanh nghiệp góp vốn bằng tài sản trong thời hạn 90 ngày. Cụ thể, doanh nghiệp sẽ phải đăng ký vốn điều lệ theo số
vốn thực góp ngay tại thời điểm thành lập công ty, song không bị hạn chế về thời gian nếu muốn góp thêm vốn. Đánh
giá kiến nghị này, về mặt tiêu cực, sẽ làm giảm sức hút đầu tư, thành lập mới của các doanh nghiệp do cơ chế điều chỉnh
trở nên chặt chẽ hơn. Ngược lại, về mặt tích cực, đây lại là giải pháp cần thiết để hạn chế tình trạng góp vốn ảo và sự tồn
tại của các doanh nghiệp “ma” với số vốn điều lệ “khủng” hiện tại; từ đó làm gia tăng niềm tin của các nhà đầu tư vào
doanh nghiệp và quy định pháp luật ở Việt Nam. Vậy nên, nhìn chung, kiến nghị thay đổi này nên được cân nhắc. Ngoài
ra, một giải pháp khác cho vấn đề trên là việc bổ sung quy định thu lệ phí đăng ký doanh nghiệp trên tỷ lệ vốn đăng ký
của nhà đầu tư vào vốn điều lệ của doanh nghiệp khi thành lập. Hiện tại, lệ phí đăng doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc
diện thấp hàng đầu so với các nước khác trên thế giới, chỉ là 100.000 đồng/lần (theo Thông tư 47/2019/TT-BTC). Quy
định này tuy giúp tạo tâm lý thoải mái cho nhà đầu tư trong đăng ký vốn điều lệ mà không phải quan tâm đến số tiền
phải trả cho lệ phí thành lập doanh nghiệp, song lại khiến gia tăng tình trạng “khai khống” vốn điều lệ. 
Thứ hai, kiến nghị sửa đổi Điều 136 Luật Doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự thống nhất với khoản 4 Điều 153 luật
này. Việc yêu cầu chỉ những thành viên đã tán thành với nghị quyết, quyết định gây thiệt hại cho công ty mới phải chịu
trách nhiệm liên đới bồi thường là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, “sự tán thành” của các thành viên này mang tính chất gián
tiếp ký kết một bản hợp đồng với bên còn lại, nên tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi “tán thành” và thiệt hại gây
ra, và do đó, phải chịu trách nhiệm liên đới theo nguyên tắc của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, Điều 136 Luật
Doanh nghiệp 2020 yêu cầu mọi thành viên đều phải liên đới bồi thường cần được sửa đổi theo hướng chỉ những thành
viên quản trị đã tán thành với nghị quyết về việc mua lại cổ phần của cổ đông hoặc nghị quyết chi trả cổ tức cho cổ đông
gây thiệt hại mới phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường (trong trường hợp các cổ đông không thể hoàn thành nghĩa
vụ chi trả). Cụ thể, Điều 135 Luật Doanh nghiệp có thể được sửa đổi như sau: “Trường hợp việc thanh toán cổ phần
mua lại trái với quy định tại khoản 1 Điều 134 của Luật này hoặc trả cổ tức trái với quy định tại Điều 135 của Luật này
thì các cổ đông phải hoàn trả cho công ty số tiền, tài sản khác đã nhận; trường hợp cổ đông không hoàn trả được cho
công ty thì tất cả thành viên Hội đồng quản trị đã biểu quyết tán thành với nghị quyết trái với quy định nói trên phải
cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị số tiền, tài
sản đã trả cho cô đông mà chưa được hoàn lại”.
Thứ ba, cần đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch trong việc diễn giải các quy định trong luật. Như đã phân tích, Luật
Doanh nghiệp 2020 còn tồn tại nhiều quy định mơ hồ, chưa cụ thể, rõ ràng, có thể gây nhầm lẫn khi áp dụng pháp luật.
Điển hình như hai trường hợp đã phân tích ở trên. Đối với trường hợp một về thuật ngữ “bí mật thương mại” trong
Khoản 2 Điều 116 luật này, nhóm 2 kiến nghị bỏ thuật ngữ trên, do cụm từ “bí mật kinh doanh” ở phía sau đã bao hàm
đủ phạm vi cần loại trừ trong quy định này. Đối với trường hợp hai về cụm từ “người khác” trong Khoản 1 Điều 161
Luật Doanh nghiệp 2020, có thể xem xét một trong hai kiến nghị sau đây. Một là, bỏ hoàn toàn quy định cho phép cổ
đông phổ thông của công ty khởi kiện ban lãnh đạo vì lợi ích người khác, tức loại bỏ cụm từ này ra khỏi quy định. Hai
là, giữ nguyên ý nghĩa của quy định, nhưng thay thế từ “người khác” bằng thuật ngữ dễ hiểu hơn và có giải thích rõ
ràng. Xét về sự hợp lý của điều luật qua các phân tích trên và thực tế sửa đổi quy định pháp luật, nhóm nhận thấy kiến
nghị một có tính khả quan, phù hợp, dễ thực hiện hơn. 
Thứ tư, kiến nghị bổ sung quy định về họp hội đồng quản trị. Do các bất cập về việc đảm bảo sự tham gia của các
thành viên trong cuộc họp hội đồng quản trị, nên cần quy định rõ hơn về cách giải quyết đối với trường hợp ban tổ chức
cuộc họp đã gửi thư mời họp 2 lần mà vẫn chưa đủ số lượng thành viên theo quy định. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp cần
quy định bổ sung quy định theo hướng: “Trong trường hợp cuộc họp Hội đồng quản trị đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ 2 mà vẫn không đủ số lượng thành viên dự họp thì sau một thời gian nhất định, người có thẩm quyền triệu tập cuộc
họp có quyền triệu tập Hội đồng quản trị lần thứ 3 và lần này cuộc họp được tiến hành mà không phụ thuộc số thành
viên dự họp”. Ngoài ra, nhằm gia tăng thời hạn triệu tập cuộc họp để bổ sung thành viên, nhóm cũng kiến nghị sửa đổi,
bổ sung điểm a khoản 4 Điều 160 của Luật Doanh nghiệp 2020 nhằm bảo đảm sự thống nhất với khoản 2 Điều 140 của
Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể, điểm khoản 4 Điều 160 cần sửa đổi, bổ sung như sau: “ Số thành viên Hội đồng
quản trị bị giảm quá 1/3 so với số quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp này, Hội đồng quản trị phải triệu tập họp
Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày số thành viên bị giảm quá 1/3”. 
Thứ năm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về hội đồng cổ đông. Đầu tiên, để khắc phục bất cập này, cần sửa
đổi khoản 4 Điều 124 LDN năm 2020 theo hướng quy định thời điểm xác lập tư cách cổ đông được tính từ khi nhà đầu
tư hoàn thành việc thanh toán góp vốn và ký kết hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hợp pháp. Theo đó, khoản 4 Điều
124 LDN năm 2020 được sửa lại như sau: "Cổ phần được coi là đã bán khi được thanh toán đủ và lập thành hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần hợp pháp; kể từ thời điểm đó, người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty". Thứ hai, sửa
đổi quy định của khoản 2 Điều 132 LDN năm 2020 theo hướng rút ngắn thời hạn CTCP phải mua lại cổ phần theo yêu
cầu của cổ đông và đồng thời, quy định rõ vấn đề chịu chi phí thanh toán cho tổ chức thẩm định giá trong trường hợp
hai bên không thỏa thuận được giá bán cổ phần mà phải sử dụng đến dịch vụ thẩm định giá. Theo đó, khoản 2 Điều 132
LDN năm 2020 cần được sửa lại như sau: "2. Cty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy định tại khoản 1
Điều này với giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ Cty trong thời hạn 60 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định
giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.
Chi phí thanh toán cho tổ chức thẩm định giá do cổ đông và công ty thỏa thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì
mỗi bên chịu một nửa".
Cuối cùng, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về xử phạt doanh nghiệp đối với hành vi đăng ký vốn không
trung thực nhằm đảm bảo tính răn đe. Cụ thể, nhà nước nên tăng mức xử phạt hành chính đối với hành vi trên lên ít
nhất 3 lần so với mức tiền hiện tại để phù hợp với thực tiễn kinh tế, tài chính hiện tại; hoặc có thể bổ sung quy định thu
hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi doanh nghiệp vi phạm về vốn điều lệ. Hơn nữa, chế tài hình sự cũng nên
được áp dụng đối với các công ty cổ phần có hành vi “cố ý” kê khai khống vốn điều lệ, như một hành vi lừa đảo ngay từ
khi gia nhập thị trường, để lại nhiều hậu quả nghiệm trọng đối với thị trường, khách hàng, nhà đầu tư, làm rối loạn môi
trường đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, các quy định pháp luật về kiểm soát gian lận khi kê khai tài sản, các quy định về
tăng cường giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, không để bỏ lọt các trường hợp kinh
doanh không đúng “số vốn thực”; đồng thời cũng có những quy chế quản lý phù hợp đối với các cơ quan quản lý trên để
tránh trường hợp vì lợi ích mà bỏ qua các hành vi vi phạm của doanh nghiệp, làm ảnh hưởng tới lợi ích chung. 
4. Tiểu kết
Như vậy, về cơ bản, Luật Doanh nghiệp 2020 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung mang tính tiến bộ so với Luật Doanh
nghiệp 2014, chẳng hạn như quy định tinh giảm các thủ tục hành chính trong quản lý doanh nghiệp; quy định loại bỏ
yêu cầu về thời hạn 6 tháng sở hữu cổ phần cổ phô thông để cổ đông có các quyền, hay quy định về việc chuyển đổi
doanh nghiệp tư nhân sang công ty cổ phần. Theo đó, tính “tiến bộ” của những thay đổi này nằm ở chỗ chúng đã bắt kịp
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và pháp luật quốc tế; đồng thời tạo khung pháp lý rộng mở hơn cho doanh
nghiệp đầu tư và phát triển trên cơ sở đảm bảo hiệu quả quản lý. 
Tuy nhiên, chính những thay đổi này lại là nguyên nhân cho nhiều hạn chế phát sinh. Trong đó, các bất cập phần
nhiều đến từ việc thiếu minh bạch, rõ ràng, thiếu thống nhất trong các quy định, thuật ngữ chuyên môn tại Luật Doanh
nghiệp 2020. Ví dụ, quy định về loại trừ thời gian cho vận chuyển tài sản và làm thủ tục hành chính khỏi thời hạn 90
ngày để doanh nghiệp góp vốn điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp không được cụ thể, dẫn tới tình trạng “vốn ảo” ngày
một tràn lan. Hay như  quy định về trách nhiệm liên đới của cổ đông trong CTCP, tồn tại sự thiếu thống nhất giữa Điều
136 và Điều 153 luật này. Đây là một thiếu sót trong quá trình lập pháp, khi các nhà làm luật có ý định sửa đổi một điều
luật, song lại quên không rà soát sự thống nhất ở các điều luật liên quan. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 2020 dù đã được
sửa đổi, bổ sung trên diện rộng, nhưng vẫn còn bỏ sót một số bất cập tồn tại từ trước đó. Cụ thể như các quy định về họp
Hội đồng quản trị, Hội đồng cổ đông, gây khó khăn trong việc quản lý doanh nghiệp. 

Tóm lại, những sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 nhìn chung đã khắc phục được phần nhiều các khiếm
khuyết của Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, nhiều bất cập mới lại phát sinh, song song tồn tại cùng một số hạn chế
bị bỏ lọt trong quá trình sửa đổi, bổ sung. Do đó, các nhà làm luật cần có sự cẩn thận, chi tiết hơn trong quá trình biên
soạn, để hoàn thiện Luật Doanh nghiệp Việt Nam hơn nữa ở những giai đoạn sau. 

KẾT LUẬN
Có thể nói, trải qua hơn 30 năm phát triển, sửa đổi và bổ sung kể từ khi xuất hiện văn bản luật đầu tiên hướng đến
đối tượng là các doanh nghiệp tư nhân, Luật doanh nghiệp 2020 được thông qua vào ngày 17 tháng 6 năm 2020, tại kỳ
họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã kế thừa, phát triển những điểm hợp lý,
khắc phục những tồn tại và sửa đổi, bổ sung những điểm mới của đạo luật doanh nghiệp gần nhất - Luật Doanh nghiệp
2014 về các quy định liên quan đến Công ty cổ phần - một nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta. 

NHÓM 3: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LDN 2020 SO VỚI LDN 2014 VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC, DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LDN 2014 VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LDN 2020
* Ưu điểm của Luật Doanh nghiệp 2014
Trong thời kì phát triển mạnh mẽ của nước ta, các doanh nghiệp mới liên tục được thành lập giúp tăng khả năng sản
xuất, xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng hoá nâng cao đời sống của nhân dân, việc Luật doanh nghiệp 2014 ra
đời đã đáp ứng được những đổi mới của xã hội, khắc phục những tồn tại của bộ luật cũ. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp năm
2014 vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật Doanh nghiệp
năm 2005, nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ,
tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
 Giải phóng quyền tự do kinh doanh

Theo Điều 29 Luật doanh nghiệp 2014 thì Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã bỏ mục ngành nghề
kinh doanh, vốn pháp định, danh sách cổ đông sáng lập Công ty cổ phần,... Theo đó, khi thay đổi ngành, nghề kinh
doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài,… doanh nghiệp chỉ cần
thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới.

Tư duy mở khi luật chỉ quy định những vấn đề chung nhất, mang tính định hướng, (thậm chí có nhiều điểm là gợi
mở) về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, về chi tiết thì
nhường lại cho doanh nghiệp tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận theo các quy định của Pháp luật. Thay đổi này vô
cùng quan trọng, từ đó doanh nghiệp chủ động, sáng tạo hơn khi được tự lựa chọn các mô hình, phương thức .v.v. phù
hợp với hoạt động của mình.

Luật mới bỏ chương quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thay bằng một vài điều khoản tại chương tổ chức thực
hiện cũng theo tư duy như vậy, nghĩa là các cơ quan nhà nước quản lý doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn đã được pháp luật chuyên ngành quy định, do đó không phải và không cần ghi điều đó vào Luật Doanh nghiệp!

Thực tế cho thấy, trong vòng 01 năm từ khi thực hiện Luật Doanh nghiệp (1/7/2015 - 1/7/2016), cả nước đã có hơn
105.975 doanh nghiệp được thành lập mới, với số vốn 767.900 tỷ đồng, bình quân vốn là 7,25 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Như vậy, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 27,8%, vốn đăng ký mới cũng tăng trên 42% và bình quân vốn tăng 11%
so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, trong trong giai đoạn này cũng đã có 23.950 lượt doanh nghiệp tăng vốn điều lệ
với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 690 nghìn tỷ đồng. (Trích từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Thuận, ngày
28/09/2016)
 Thủ tục hành chính thuận lợi, bớt rườm rà

Một là, theo Điều 44 Luật doanh nghiệp 2014 đã cho phép doanh nghiệp được quyền quyết định về hình thức, số
lượng và nội dung con dấu thay cho quy định Luật doanh nghiệp 2005 việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do
Bộ Công an quy định. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để
đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không phải đăng ký với cơ quan Công an
theo Luật doanh nghiệp 2005. Đây có thể coi là một cách tiếp cận mới hoàn toàn về con dấu doanh nghiệp, mang tính
"cách mạng".

Hai là, cùng với Luật Đầu tư 2014, Luật mới đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư có thể
đồng thời là Giấy CNĐKDN. Qua đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Luật doanh nghiệp 2014 đã làm thay đổi đáng kể nhất là chất lượng dịch vụ công thể hiện ở thời gian tiếp nhận, xử lý
hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh doanh và thái độ, tính chuyên nghiệp của cán bộ nghiệp vụ tại các địa phương. Hà Tĩnh là
địa phương xử lý hồ sơ doanh nghiệp nhanh nhất chỉ trong 01 ngày; Tiền Giang là 1,3 ngày; Hậu Giang là 1,32 ngày và
Đà Nẵng là 2,52 ngày. Thời gian trung bình xử lý hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp mới của cả nước là 2,9 ngày.
Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên và tỷ lệ hồ sơ được trả kết quả đúng hẹn cũng tăng lên đáng kể. (Trích từ
Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Thuận, ngày 28/09/2016)

Ba là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin như việc luật hóa Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp hay bằng việc quy định cuộc họp được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử
khác đã có bước tiến bộ vượt bậc so với quy định cũ là chỉ ghi vào sổ biên bản.

Tỷ lệ sử dụng dịch vụ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử cũng đã được cải thiện; trong đó, Thủ đô Hà Nội đạt
bước tiến ấn tượng nhất, chỉ trong một thời gian ngắn đã trở thành địa phương có số lượng hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
cao nhất trên cả nước, đạt tỷ lệ 40%. (Trích từ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Thuận, ngày 28/09/2016)

Tại một số địa phương đã áp dụng những sáng kiến tốt nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong thực hiện thủ tục hành
chính về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp trên địa bàn.

Ở các tỉnh thành phố, từ cán bộ đến lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên trao đổi, vận động doanh nghiệp
tìm hiểu, thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Khi lần đầu doanh nghiệp đến làm thủ tục, nếu chưa biết
đến tiện ích trên thì sẽ được cán bộ đăng ký kinh doanh hướng dẫn về việc lựa chọn nộp hồ sơ giấy hay hồ sơ qua mạng.
Nếu doanh nghiệp chọn nộp hồ sơ qua mạng thì nhân viên ngồi tại quầy, hỗ trợ chi tiết cho đến khi doanh nghiệp khai
xong hồ sơ trên máy. Sau lần đầu tiên, doanh nghiệp hoàn toàn có thể ngồi tại nhà để thực hiện thủ tục. Doanh nghiệp
nộp hồ sơ qua mạng sẽ được giải quyết trong vòng 02 ngày thay vì 03 ngày như quy định.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc hội thông qua là sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới rất trọng yếu
liên quan đến doanh nghiệp, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của đại đa số doanh nghiệp. Để các quy định đổi mới của
Luật sớm đi vào cuộc sống, Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương, doanh nghiệp sẽ khẩn trương phối hợp triển
khai xây dựng các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện, góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ
và bền vững.
* Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020 
LDN và các nghị định hướng dẫn thi hành đã có những tác động tích cực trong tạo lập môi trường kinh doanh thuận
lợi, bình đẳng, thúc đẩy thành lập, phát triển và mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp. Năm 2018, cả nước có
131.275 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 1.478.101 tỷ đồng. So với năm 2014 (trước khi Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực), số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng gấp 1,75 lần (so với 74.842 doanh nghiệp năm 2014) và
số vốn đăng ký thành lập mới tăng gấp 3,4 lần (so với 432.286 tỷ đồng năm 2014). Một số nội dung quan trọng của Luật
như đăng ký doanh nghiệp, bảo vệ cổ đông thiểu số được ghi nhận đã có thay đổi mạnh mẽ. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới, chỉ số khởi sự kinh doanh của Việt Nam năm 2019 đã tăng 21 hạng, hiện xếp hạng 104/190 (từ hạng
125/190 năm 2014); tổng thời gian thực hiện thủ tục này giảm từ 34 ngày xuống chỉ còn 17 ngày. Quy định về bảo vệ cổ
đông, nhà đầu tư có cải thiện mạnh mẽ, hiện xếp hạng 89/190 quốc gia (tăng 28 hạng so với năm 2014 và 90 hạng so với
năm 2013).

Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực, một số nội dung của Luật Doanh nghiệp không còn phù hợp trong hoàn cảnh
mới, tạo gánh nặng chi phí, thời gian cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ; một số nội dung cần được sửa đổi để phù
hợp với các luật mới ban hành gần đây. Quan trọng hơn, một số nội dung của Luật cần được hoàn thiện thêm nhằm nâng
cao chất lượng môi trường kinh doanh theo yêu cầu của Chính phủ và nâng cao chất lượng tổ chức quản trị doanh
nghiệp đạt chuẩn mực của thông lệ tốt khu vực và quốc tế. Các khiếm khuyết cần khắc phục và các nội dung cần nâng
cao chất lượng hơn nữa bao gồm như sau:

Một là, quá trình khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường hiện đang xếp hạng ở mức thấp so với một số quốc gia
trong khu vực và thế giới, bao gồm 8 thủ tục và tổng thời gian thực hiện khoảng 17 ngày. Trong đó, một số thủ tục hành
chính theo quy định của Luật Doanh nghiệp không còn cần thiết, tạo ra gánh nặng chi phí như: thủ tục thông báo mẫu
dấu (Điều 44) hoặc thủ tục đăng ký kinh doanh (Điều 27) chưa hoàn toàn điện tử (vẫn phải nộp hồ sơ giấy) đã góp phần
làm chậm quá trình gia nhập thị trường.

Hai là, một số quy định của Luật về quản trị doanh nghiệp chưa thực sự tạo thuận lợi cho cổ đông, nhà đầu tư thực
hiện quyền của mình; ngược lại, tạo thêm rào cản hoặc bị cổ đông lớn và công ty lạm dụng, gây tổn hại đến lợi ích của
cổ đông nhỏ. Cụ thể, Luật quy định một số yêu cầu, điều kiện gây khó khăn cho cổ đông tiếp cận thông tin về hoạt động
công ty và thực hiện quyền quan trọng, như: triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông, khởi kiện người quản lý công ty trong
trường hợp họ lạm dụng địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho công ty, cổ đông,...Ngoài ra, một số quy định khác của Luật
về quản trị doanh nghiệp cũng chưa phù hợp với thực tiễn, như: yêu cầu kiểm soát viên công ty cổ phần do Nhà nước
nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên đã có chứng chỉ hành nghề là yêu cầu cao hơn so
với thực tế do số lượng kiểm toán viên, kế toán viên đã có chứng chỉ này là không nhiều.

Ba là, quy định về tổ chức lại doanh nghiệp còn có một số bất cập, hạn chế, như: quy định về chia doanh nghiệp và
tách doanh nghiệp không bao quát được hết các phương thức, các trường hợp chia, tách doanh nghiệp trên thực tế; dẫn
đến hạn chế quyền, lựa chọn của doanh nghiệp trong tổ chức lại doanh nghiệp. Đồng thời, các quy định về hợp nhất, sáp
nhập không còn tương thích với quy định mới của Luật Cạnh tranh năm 2018.

Bốn là, về tổ chức quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có phần vốn góp của Nhà nước.

Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và
Chính phủ ở nước ta. Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu
lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 12-NQ/TW) đã chỉ rõ các
quan điểm chỉ đạo: doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá
chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy
định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước.Đồng thời,
Nghị quyết số 97/NQ-CP ngày 2/10/2017 của Chính phủ cũng đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu để quy định
tại Luật Doanh nghiệp về nội dung này.

Do đó, các quy định về tổ chức quản trị của Luật Doanh nghiệp đối với doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100%
vốn điều lệ và các doanh nghiệp mà Nhà nước có cổ phần hoặc phần vốn góp chi phối cũng cần được rà soát lại, bổ
sung, sửa đổi nhằm thể chế hóa đầy đủ quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 12-NQ/TW.

Năm là, về đăng ký và tổ chức hoạt động của hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh hiện nay được đăng ký và tổ chức hoạt
động theo Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, hướng dẫn thi hành khoản 2 Điều 212 Luật Doanh
nghiệp.

Tuy nhiên, đánh giá các quy định này đã cho thấy một số khiếm khuyết như: hộ kinh doanh không rõ ràng về địa vị
pháp lý và trách nhiệm dân sự; quyền kinh doanh bị giới hạn trong phạm cấp quận, huyện; chỉ được sử dụng dưới 10 lao
động... Chính hạn chế pháp lý này dẫn đến hộ kinh doanh không tận dụng và phát huy tối đa cơ hội kinh doanh; do đó,
không phát huy hết được lợi ích và tiềm năng phát triển khu vực hộ kinh doanh.

Từ những phân tích nêu trên về bất cập, khiếm khuyết của Luật, thay đổi của pháp luật có liên quan, thay đổi kinh tế
xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu chủ động cải cách mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng môi
trường kinh doanh của nước ta, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Doanh
nghiệp.

Như vậy, việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2020 thực sự cần thiết. Luật Doanh nghiệp 2020 có những sửa đổi tích
cực, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp 2014 giúp các doanh nghiệp có thể tận dụng thành công
những quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020 để tạo ra những đột phá mới, góp phần cải cách thể chế kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm
duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
CHƯƠNG 2.    NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2022 SO VỚI LDN 2014 VỀ DNNN,
DN TƯ NHÂN, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về doanh
nghiệp nhà nước  

Ngày 01/01/2021 Luật doanh nghiệp 2020 được áp dụng có nhiều điểm mới so với Luật doanh nghiệp 2014, đầu tiên
phải kể đến là các quy định mới liên quan đến doanh nghiệp nhà nước. Một số điểm mới tiêu biểu đã được lựa chọn
trình bày dưới đây

Thứ nhất, thay đổi khái niệm về doanh nghiệp nhà nước

Khoản 11 Điều 8 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi khái niệm tại khoản 8 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014.

LDN 2014: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.”

LDN 2020: “Doanh nghiệp nhà nước bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.”

Lý do: Việc Sửa đổi lại khái niệm DNNN để thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấp hành trung ương Đảng
khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, quy định này giúp thể
hiện rõ ràng hơn khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước đồng thời cũng làm đa dạng hóa loại hình Doanh nghiệp nhà
nước so với quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, tạo điều kiện có những cá nhân, tổ chức khác được quyền hợp
tác kinh doanh; cùng phát triển, sản xuất; đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Hơn nữa, cách tiếp cận này được đánh giá
phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết mà Việt Nam tham gia. Những quy định này sẽ giúp loại bỏ những sự phân
biệt đối xử, ưu ái hay quyền miễn trừ của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp nhà nước phải bị loại bỏ. Thay vào đó là
nghĩa vụ minh bạch thông tin và cơ chế giám sát doanh nghiệp Nhà nước trong hoạt động hỗ trợ thương mại và phi
thương mại sẽ được thực thi để hạn chế sự phân biệt đối xử, tăng cường tính minh bạch.

Thứ hai, sửa đổi nhóm người có quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý DN

Điểm c khoản 2 Điều 17 LDN 2020 sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 18 luật doanh nghiệp 2012.

LDN 2014: “Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp”

LDN 2020: “Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan,
đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp hoặc người quản lý tại doanh nghiệp nhà nước”

Lý do: Sửa đổi để làm rõ hơn nội dung điều khoản này và phù hợp với thực tế trong một số doanh nghiệp nhà nước
thuộc Bộ quốc phòng, ở đó, một số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp đảm nhiệm một số vị trí quản lý mặc dù không
phải là người đại diện phần vốn.

Thứ ba, cơ cấu quản lý trong công ty TNHH hai thành viên trở lên

Điều 54 LDN 2020 sửa đổi Điều 55 LDN 2014 về cơ cấu quản lý trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.

LDN 2014: “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành
viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm
soát; trường hợp có ít hơn 11 thành viên, có thể thành lập Ban kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Quyền,
nghĩa vụ, tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy
định.”

LDN 2020: “1. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 88 của Luật này và công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này phải
thành lập Ban kiểm soát; các trường hợp khác do công ty quyết định.

3. Công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội
đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội
đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty.”

Lý do: Điều 55 được sửa đổi theo hướng bổ sung thêm yêu cầu phải thành lập Ban kiểm soát đối với công ty TNHH
2 thành viên do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Nội dung sửa đổi này nhằm để thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết
Trung ương 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước. Do đó, đối với loại công ty TNHH có hai thành viên trở lên, trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn
cần áp dụng nguyên tắc quản trị chặt chẽ hơn so với các công ty TNHH khác; theo đó bắt buộc phải thành lập Ban kiểm
soát.

Đối với các công ty TNHH 2 thành viên khác, thì việc thành lập Ban kiểm soát tùy thuộc vào quyết định của Hội
đồng thành viên; dự thảo luật không bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát, công ty có thể thuê công ty tư vấn thực hiện
chức năng kiểm soát, phù hợp với nhu cầu và lợi ích của công ty.

Thứ tư, tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng Giám đốc

Điều 64 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng Giám đốc trong Công ty
TNHH hai thành viên trở lên của Điều 65 Luật doanh nghiệp 2014.

LDN 2014: “1. Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng không được quản lý doanh nghiệp theo quy
định tại khoản 2 Điều 18 của Luật này.

2. Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của cty, nếu Điều lệ cty không có quy định khác.

3. Đối với công ty con của công ty có phần vốn góp, cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thì ngoài
các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không được là vợ
hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em
dâu của người quản lý công ty mẹ và người đại diện phần vốn nhà nước tại công ty đó.”

LDN 2020: “1. Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này.

2. Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của cty và điều kiện khác do Điều lệ cty quy định.

3. Đối với doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này và công ty con của doanh
nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải đáp ứng tiêu
chuẩn, điều kiện quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này và không được là người có quan hệ gia đình của người quản lý
công ty, Kiểm soát viên của công ty và của công ty mẹ; người đại diện phần vốn của doanh nghiệp, người đại diện phần
vốn nhà nước tại công ty và công ty mẹ.”

Lý do: Tương tự như mục tiêu sửa đổi Điều 54 nêu trên, việc sửa đổi Điều 65 nhằm thể chế hóa thể chế hóa Nghị
quyết Trung ương 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước.

Theo đó, bổ sung thêm yêu cầu về chuyên môn, kinh nghiệm làm việc đối với giám đốc, tổng giám đốc; bổ sung đối
tượng người có liên quan không được làm giám đốc, tổng giám đốc, (bao gồm: con dâu, con rể, anh em bên vợ,
chồng…) đối với doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.

Thứ năm, Ban kiểm soát

Các quy định về Ban kiểm soát và Kiểm soát viên trong Công ty TNHH hai thành viên trở lên trước đây chưa được
quy định trong Luật doanh nghiệp 2014, nay Luật doanh nghiệp 2020 bổ sung quy định về Ban kiểm soát và kiểm soát
viên trong phần công ty TNHH hai TV trở lên, cụ thể tại Điều 65 Luật doanh nghiệp 2020:

“Điều 65. Ban kiểm soát, Kiểm soát viên


1. Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 Kiểm soát viên. Nhiệm kỳ Kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ
nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó
đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát.

2. Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện tương ứng quy định tại khoản 2
Điều 168 và Điều 169 của Luật này.

3. Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, việc miễn nhiệm, bãi nhiệm và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên
được thực hiện tương ứng theo quy định tại các điều 106, 170, 171, 172, 173 và 174 của Luật này.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Lý do: Tương tự mục tiêu sửa đổi các Điều 54 và 64 nêu trên. Do đó, cần thiết bổ sung thêm quy định hướng dẫn tổ
chức, hoạt động của Ban kiểm soát, nhằm nâng cao hiệu lực quản trị đối với doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ. Quy định mới về Ban kiểm soát này được quy định tương tự như quy định về Ban kiểm soát đối với
doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, dưới hình thức công ty TNHH một thành viên, quy định tại
Chương IV của Luật doanh nghiệp.

Thứ sáu, công bố thông tin

Quy định về công bố thông tin trong phần quy định về công ty TNHH hai thành viên cũng là quy định mới được
thêm vào Luật doanh nghiệp 2020, cụ thể:

“Điều 73. Công bố thông tin

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này thực hiện
công bố thông tin theo quy định tại các điểm a, c, đ, g khoản 1 Điều 109 và Điều 110 của Luật này.”

Lý do: Sửa đổi để đảm bảo sự tương thích với nội dung và mục tiêu việc bổ sung Điều 88 về doanh nghiệp nhà nước;
tăng cường minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nhằm thể chế hóa tinh thần Nghị quyết Trung ương 5
Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.

Thứ bảy, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu

Điều 79 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi bổ sung Điều 78 Luật doanh nghiệp 2014 về Cơ cấu tổ chức quản lý của
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu do liên quan đến doanh nghiệp nhà nước như
sau:

LDN 2014: “1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và
hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:

a) Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên;

b) Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên.

2. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại
diện theo pháp luật của công ty.

3. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác, thì chức năng, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng thành viên, Chủ
tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên thực hiện theo quy định của Luật này.”

LDN 2020: “1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và
hoạt động theo một trong hai mô hình sau đây:

a) Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;

b) Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

2. Đối với công ty có chủ sở hữu công ty là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này
thì phải thành lập Ban kiểm soát; trường hợp khác do công ty quyết định. Cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc, tiêu chuẩn,
điều kiện, miễn nhiệm, bãi nhiệm, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Ban kiểm soát, Kiểm soát viên thực hiện tương ứng
theo quy định tại Điều 65 của Luật này.

3. Công ty phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật là người giữ một trong các chức danh là Chủ tịch Hội
đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định thì
Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty.

4. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định khác thì cơ cấu tổ chức, hoạt động, chức năng, quyền và nghĩa vụ của
Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thực hiện theo quy định của Luật này.”

Lý do: Việc sửa đổi có hai lý do chính

(1) Công ty TNHH một thành viên quy định tại chương này là các công ty 100% vốn ngoài nhà nước. Quy định hiện
hành của Luật doanh nghiệp bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát đối với công ty TNHH 1TV là không phù hợp với
thực tế và bất cập là:

- Quy định này hạn chế công ty thiết lập mô hình kiểm soát tốt hơn, nhưng không phải là ban kiểm soát, vì lợi ích
của chủ sở hữu.

- Ban kiểm soát trong nhiều trường hợp hoạt động hình thức, chỉ để tuân thủ pháp luật. Bởi vì trong trường hợp này,
chủ sở hữu nhận thấy không cần thiết thành lập Ban kiểm soát nhưng vẫn phải thành lập vì để tuân thủ yêu cầu của Luật
doanh nghiệp.

Do đó, khoản 1 và 2 Điều này được sửa đổi theo hướng chuyển từ bắt buộc thành lập Ban kiểm soát sang cơ chế giao
quyền cho chủ sở hữu quyết định và lựa chọn cơ chế giám sát, phù hợp với trường hợp cụ thể của doanh nghiệp; có thể
thành lập Ban kiểm soát hoặc thuê kiểm toán độc lập. Sửa đổi này góp phần giảm chi phí và tạo linh hoạt cho doanh
nghiệp (do trước đây luôn phải thành lập Ban kiểm soát vì yêu cầu của luật).

(2) Bổ sung quy định yêu cầu đối với Công ty TNHH 01 thành viên do tổ chức làm chủ sở hữu phải luôn có một
người đại diện theo pháp luật là chủ tịch HĐTV, chủ sở hữu hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc để giảm cơ hội nhà đầu tư
lạm dụng vỏ bọc công ty để thực hiện kinh doanh, gây thiệt hại cho các bên có liên quan (cơ chế này gọi là ‘xuyên thủng
vỏ bọc công ty – piercing the corporate veil).

Thứ tám, bổ sung quy định về doanh nghiệp nhà nước thành một điều riêng

Điều 88 Luật doanh nghiệp 2020 bổ sung quy định về doanh nghiệp nhà nước như sau: (giở luật ra chép luật)

Lý do: Theo quy định tại khoản 8 Điều 4 Luật doanh nghiệp cũ, thì doanh nghiệp nhà nước được coi là doanh nghiệp
do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Theo đó, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được tổ chức
quản trị dưới hình thức công ty TNHH 1 thành viên, được quy định riêng tại chương IV Luật doanh nghiệp.

Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, trong đó xác định: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn”. Tinh thần nghị quyết này cho thấy rõ ràng rằng DNNN bao gồm 02 loại: (1) doanh nghiệp mà
nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và (2) doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% vốn điều lệ nhưng có sở
hữu đến mức chi phối doanh nghiệp đó. Đối với mỗi loại doanh nghiệp nhà nước thì sẽ cần có phương thức quản lý,
quản lý, giám sát phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có vốn nhà nước.

Do đó, để thể chế hóa nội dung Nghị quyết trung ương vào Luật doanh nghiệp, Dự thảo Luật đã sửa đổi nội dung về
doanh nghiệp nhà nước theo hướng: tiêu chí ”cổ phần, vốn góp chi phối” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 được
xác định là ”sở hữu trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết” của doanh nghiệp. Do đó, bổ sung thêm
Điều 88 xác định rõ các loại doanh nghiệp nhà nước, bao gồm: (i) doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ
và (ii) doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu trên 50 % vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Ngoài việc bổ sung thêm Điều 88 nêu trên, thì cũng sửa đổi, bổ sung nhiều điều khoản khác trong Luật nhằm đảm
bảo sự tương thích và thể chế hóa đầy đủ tinh thần Nghị quyết trung ương 5, như trình bày trong phần dưới đây.

Thứ chín, áp dụng quy định đối với doanh nghiệp nhà nước
Điều 89 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi bổ sung Điều 88 luật doanh nghiệp 2014 về quy định áp dụng quy định đối
với doanh nghiệp nhà nước, cụ thể:

LDN 2014: “1. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý theo quy định tại Chương này, các quy định tương
ứng tại mục 2 Chương III và các quy định khác có liên quan của Luật này. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định
của Chương IV với Chương III và các quy định có liên quan khác của Luật này, thì áp dụng quy định tại Chương này.

2. Việc tổ chức quản lý doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ dưới 100% vốn điều lệ thực hiện theo các quy định
tương ứng tại mục 1 Chương III và Chương V của Luật này.”

LDN 2020: “1. Doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2
Điều 87a Luật này được tổ chức quản lý  dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên theo quy định tại
Chương này, các quy định tương ứng tại mục 2 Chương III và các quy định khác có liên quan của Luật này. Trường
hợp có sự khác nhau giữa quy định của Chương IV với Chương III và các quy định có liên quan khác của Luật này, thì
áp dụng quy định tại Chương này.

2. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 3 Điều 87a
Luật này được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên theo các quy định tương
ứng tại mục 1 Chương III hoặc công ty cổ phần  theo các quy định tương ứng tại Chương V của Luật này.”

Lý do: Cùng với việc bổ sung Điều 88, cần thiết phải sửa đổi Điều 89 đảm bảo tương thích với Điều 88, vừa để thực
hiện đầy đủ và đúng tinh thần Nghị quyết TƯ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước như nêu trên.

Theo đó, đối với doanh nghiệp mà nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thì áp dụng quy định về tổ chức quản trị tại
Chương IV Luật doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ sẽ áp dụng mục 1
chương II nếu tổ chức quản lý dưới hình thức công ty TNHH 2 TV hoặc áp dụng Chương III nếu tổ chức quản lý dưới
hình thức công ty cổ phần.

Thứ mười, về tiêu chuẩn, điều kiện của Giám đốc, Tổng giám đốc trong doanh nghiệp nhà nước

Điều 100 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi quy định Tiêu chuẩn, điều kiện của Giám đốc, Tổng giám đốc của Điều
100 Luật doanh nghiệp 2014 như sau:

LDN 2014: “1. Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong lĩnh vực, ngành,
nghề kinh doanh của công ty.

2. Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, con rể, con dâu, anh ruột, chị
ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu, anh vợ, chị vợ, em vợ, anh chồng, chị chồng, em chồng của những người
sau đây:

a) Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan đại diện chủ sở hữu.

b) Thành viên Hội đồng thành viên.

c) Phó Tổng giám đốc, Phó Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty.

d) Kiểm soát viên công ty.

3. Không đồng thời là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

4. Chưa từng bị cách chức Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc tại công ty hoặc ở doanh nghiệp nhà nước khác.

5. Không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.

6. Các tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty.”

Lý do: Như giải thích về lý do bổ sung Điều 88 nêu trên, điều 100 được bổ sung thêm khoản 5 để nhằm thể chế hóa
tinh thần Nghị quyết trung ương 5 về nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, thực tế cho thấy
cần thiết mở rộng phạm vi người có liên quan và quy định chặt chẽ hơn (so với quy định tương tự áp dụng cho công ty
TNHH không phải là doanh nghiệp nhà nước) về tiêu chuẩn, điều kiện giám đốc, tổng giám đốc. Mở rộng đối tượng
người có liên quan không được làm Giám đốc hoặc Tổng giám đố, bao gồm: anh chồng, em chồng, chị chồng; đây là
những đối tượng có mối quan hệ về lợi ích tương tự như dâu, rể nhưng lại Luật doanh nghiệp hiện hành lại chưa bao
gồm hết các đối tượng này.

Đồng thời viết lại toàn bộ điều này để đảm bảo tính khoa học, rõ ràng hơn về văn phong.

Thứ mười một, về chế độ làm việc của Ban kiểm soát và Kiểm soát viên

Điều 106 Luật doanh nghiệp 2020 bỏ Khoản 1 Điều 100 của Luật doanh nghiệp 2014 như sau.

LDN 2014: “Điều 105. Chế độ làm việc của Ban kiểm soát và Kiểm soát viên

1. Trưởng Ban kiểm soát làm việc chuyên trách tại công ty; các thành viên khác có thể tham gia Ban kiểm soát của
không quá 04 doanh nghiệp nhà nước nhưng phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan đại diện chủ sở hữu.

2. Trưởng Ban kiểm soát xây dựng kế hoạch công tác hằng tháng, hằng quý và hằng năm của Ban kiểm soát; phân
công nhiệm vụ và công việc cụ thể cho từng thành viên.

3. Kiểm soát viên độc lập và chủ động thực hiện các nhiệm vụ và công việc được phân công; đề xuất, kiến nghị thực
hiện các nhiệm vụ, công việc kiểm soát khác ngoài kế hoạch, ngoài phạm vi được phân công khi xét thấy cần thiết.

4. Ban kiểm soát họp ít nhất mỗi tháng một lần để rà soát, đánh giá, thông qua báo cáo kết quả kiểm soát trong
tháng trình cơ quan đại diện chủ sở hữu; thảo luận và thông qua kế hoạch hoạt động tiếp theo của Ban kiểm soát.

5. Quyết định của Ban kiểm soát được thông qua khi có đa số thành viên dự họp tán thành. Các ý kiến khác với nội
dung quyết định đã được thông qua phải được ghi chép đầy đủ, chính xác và báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu.”

LDN 2020: “Điều 106. Chế độ làm việc của Ban kiểm soát

1. Trưởng Ban kiểm soát xây dựng kế hoạch công tác hằng tháng, hằng quý và hằng năm của Ban kiểm soát; phân
công nhiệm vụ và công việc cụ thể cho từng Kiểm soát viên.

2. Kiểm soát viên chủ động và độc lập thực hiện nhiệm vụ và công việc được phân công; đề xuất, kiến nghị thực hiện
nhiệm vụ, công việc kiểm soát khác ngoài kế hoạch, ngoài phạm vi được phân công khi xét thấy cần thiết.

3. Ban kiểm soát họp ít nhất mỗi tháng một lần để rà soát, đánh giá, thông qua báo cáo kết quả kiểm soát trong
tháng trình cơ quan đại diện chủ sở hữu; thảo luận và thông qua kế hoạch hoạt động tiếp theo của Ban kiểm soát.

4. Quyết định của Ban kiểm soát được thông qua khi có đa số thành viên dự họp tán thành. Các ý kiến khác với nội
dung quyết định đã được thông qua phải được ghi chép đầy đủ, chính xác và báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu.”

Lý do: Trên thực tế không cần phải có quy định hạn chế này vì vốn dĩ chế độ làm việc của Ban kiểm soát làm việc
độc lập việc hạn chế không đạt được mục tiêu để cho Ban kiểm soát kiểm soát viên làm hết chức năng nhiệm vụ, hay
độc lập trong công việc của mình.

Thứ mười hai, cơ cấu, tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Hội đồng quản trị

Điểm d Khoản 1 và điểm a Khoản 2 Điều 155 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi điểm d Khoản 1 và điểm a Khoản 2
Điều 151 Luật doanh nghiệp 2014 như sau:

LDN 2014: điểm d Khoản 1 và điểm a Khoản 2

“d) Đối với công ty con mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thì thành viên Hội đồng quản trị không được là
vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu,
em dâu của Giám đốc, Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty; không được là người có liên quan của người
quản lý, người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ.

a) Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty con của công ty; không phải là người đã từng làm việc
cho công ty, công ty con của công ty ít nhất trong 03 năm liền trước đó.

LDN 2020: điểm d Khoản 1 và điểm a Khoản 2


“d) Đối với doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này và công ty con của
doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này thì thành viên Hội đồng quản trị không được là
người có quan hệ gia đình của Giám đốc, Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty; của người quản lý, người
có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ.

a) Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty mẹ hoặc công ty con của công ty; không phải là người đã
từng làm việc cho công ty, công ty mẹ hoặc công ty con của công ty ít nhất trong 03 năm liền trước đó;”

Lý do: do thực tế cho thấy cần thiết mở rộng phạm vi người có liên quan

Thứ mười ba, chủ tịch Hội đồng quản trị.

Khoản 1, Khoản 2, Khoản 4 Điều 156 Luật doanh nghiệp 2020 sửa đổi bổ sung Khoản 1, Khoản 2 Khoản 4 Điều 152
Luật doanh nghiệp 2014:

LDN 2014:Khoản 1, Khoản 2, Khoản 4 Điều 152

“1. Hội đồng quản trị bầu một thành viên của Hội đồng quản trị làm Chủ tịch. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể
kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này và Điều lệ công ty, pháp luật
về chứng khoán không có quy định khác.

2. Công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số phiếu biểu quyết thì Chủ tịch Hội đồng quản trị không
được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

4. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình thì ủy quyền
bằng văn bản cho một thành viên khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc
quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp không có người được ủy quyền thì các thành viên còn lại bầu một người trong
số các thành viên tạm thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc đa số.”

LDN 2020: Khoản 1, Khoản 2, Khoản 4 Điều 156

“1. Chủ tịch Hội đồng quản trị do Hội đồng quản trị bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm trong số các thành viên Hội đồng
quản trị.

2. Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty đại chúng và công ty cổ phần quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật
này không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.

4. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc không thể thực hiện được nhiệm vụ của mình thì phải ủy
quyền bằng văn bản cho một thành viên khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên
tắc quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp không có người được ủy quyền hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị chết, mất
tích, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt
buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, trốn khỏi nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì các
thành viên còn lại bầu một người trong số các thành viên giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc đa số
thành viên còn lại tán thành cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng quản trị.”

Lý do: Sửa đổi khoản 1 cho thống nhất về quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch HĐQT của Hội đồng quản trị.

Sửa đổi khoản 2 tương ứng với quy định về doanh nghiệp nhà nước.

Sửa đổi khoản 4 với lý do tương tự như sửa đổi đối với trường hợp Chủ tịch HĐTV của công ty trách nhiệm hữu
hạn.

Thứ mười bốn, bổ sung đối với quy định về Giám đốc, Tổng giám đốc công ty trong loại hình công ty cổ phần

Theo đó Điều 162 LDN 2020 bổ sung thểm khoản 5 tại Điều 157 Luật doanh nghiệp 2014 cho phù hợp với nội dung
về quản trị doanh nghiệp nhà nước, cụ thể:

“5. Đối với công ty đại chúng, doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này và
công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này thì Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc phải đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện sau đây.
a) Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này;

b) Không được là người có quan hệ gia đình của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát viên của công ty và công ty
mẹ; người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ.

c) Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty.”

Thứ mười năm, tiêu chuẩn và điều kiện của Kiểm soát viên

Điều 169 LDN 2020 sửa đổi Điều 164 LDN 2014 như sau:

LDN 2014: “Điều 164. Tiêu chuẩn và điều kiện của Kiểm soát viên

1. Kiểm soát viên phải có tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy
định của Luật này;

b) Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột của
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác;

c) Không được giữ các chức vụ quản lý công ty; không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty,
trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác;

d) Các tiêu chuẩn và điều kiện khác theo quy định khác của pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

2. Kiểm soát viên công ty cổ phần niêm yết, công ty do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán
viên hoặc kế toán viên.”

LDN 2020: “Điều 169. Tiêu chuẩn và điều kiện của Kiểm soát viên

1. Kiểm soát viên phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:

a) Không thuộc đối tượng theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này;

b) Được đào tạo một trong các chuyên ngành về kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán, luật, quản trị kinh doanh hoặc
chuyên ngành phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;

c) Không phải là người có quan hệ gia đình của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
người quản lý khác;

d) Không phải là người quản lý công ty; không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty, trừ
trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác;

đ) Tiêu chuẩn và điều kiện khác theo quy định khác của pháp luật có liên quan và Điều lệ công ty.

2. Ngoài các tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, Kiểm soát viên công ty đại chúng, doanh nghiệp
nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này không được là người có quan hệ gia đình của người
quản lý doanh nghiệp của công ty và công ty mẹ; người đại diện phần vốn của doanh nghiệp, người đại diện phần vốn
nhà nước tại công ty mẹ và tại công ty.”

Lý do: (1) Bảo đảm tương thích với việc thay đổi khái niệm về doanh nghiệp nhà nước tại Điều 88 và các nội dung
sửa đổi khác có liên quan tại Luật doanh nghiệp.

(2) Thực tế cho thấy Luật doanh nghiệp Kiểm soát viên phải là Kế toán viên hoặc kiểm toán viên không phù hợp với
điều kiện hiện nay, số lượng kiểm toán viên và kế toán viên là còn ít. Ngoài ra, nếu là kiểm toán viên hoặc kế toán viên
thì những người này thường chọn hành nghề trong các đơn vị kiểm toán hơn là làm kiểm soát viên; do đó, rất khó khăn
cho doanh nghiệp trong việc thành lập ban kiểm soát đáp ứng yêu cầu này của Luật.

Do đó, việc sửa đổi lại khoản 2 theo hướng chỉ yêu cầu về điều kiện chuyên môn tương đương với kiểm toán viên
hoặc kế toán viên, mà không đòi hỏi là người đã có chứng chỉ hành nghề vừa giúp doanh nghiệp giải quyết khó khăn
nêu trên; nhưng cũng không làm giảm hiệu lực của quy định do vẫn phải đáp ứng yêu cầu về chuyên môn (khác biệt chỉ
là có và chưa có chứng chỉ hành nghề).

Trên đây là 15 điểm mới được chọn lọc của Luật doanh nghiệp 2020 liên quan đến doanh nghiệp nhà nước có sự
thay đổi đáng chú ý so với Luật doanh nghiệp 2014. Qua đó có thể thấy được, Luật doanh nghiệp 2020 có thiên hướng
hoàn thiện hơn, đi vào chi tiết và sửa đổi những sự không phù hợp của Luật doanh nghiệp 2014 về những quy định liên
quan đến doanh nghiệp nhà nước.
2. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về Doanh
nghiệp tư nhân
Sự ra đời của Luật doanh nghiệp là một trong những dấu ấn đặc biệt trên hành trình đổi mới của Việt Nam. Cụ thể về
doanh nghiệp tư nhân, pháp luật hiện hành đã có những sửa đổi bổ sung, thêm những điều luật mới nhằm đảm bảo
quyền lợi người kinh doanh, cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh,
phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm duy trì tăng trưởng. Từ đó, góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
1.      Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành nhiều loại hình doanh nghiệp khác
Tại Điều 205 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh.” Và chỉ được phép chuyển đổi nếu chủ doanh nghiệp tư nhân đáp ứng đủ
các điều kiện sau đây:

       . Thứ nhất, doanh nghiệp được chuyển đổi phải có đủ các điều kiện sau đây: Ngành, nghề đăng ký kinh doanh
không bị cấm đầu tư kinh doanh; tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật về doanh nghiệp; có
hồ sơ đăng ký doanh nghiệp hợp lệ; nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
    Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình
đối với tất cả khoản nợ chưa thanh toán và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn;
     Thứ ba, chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc
công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó;
     Thứ tư, chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp
vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân.

      .... Điều 205 Luật doanh nghiệp 2020 đã có tiến bộ hơn so với Điều 199 Luật doanh nghiệp 2014 chỉ quy định
trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc cho phép doanh nghiệp tư nhân
được chuyển đổi trực tiếp thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh đã tạo điều kiện để
doanh nghiệp thay đổi mô hình hoạt động phù hợp với tình hình tài chính, thực tiễn của doanh nghiệp và tương thích với
các quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018. Từ đó, chủ doanh nghiệp có thể toàn quyền quyết định về mọi vấn đề liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp, do đó tổ chức việc quản lý tương đối đơn giản, không có rủi ro xảy ra các khó
khăn vì có ý kiến khác nhau giữa các thành viên như đối với Công ty TNHH hay Công ty cổ phần. Mỗi cá nhân chỉ
được thành lập một DNTN (Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020).
2. Bổ sung quy định "thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt"
Điều 193 LDN 2020 qđ "Thực hiện quyền của chủ DN tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt".

1. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý
hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc thì ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình.
Nếu chủ doanh nghiệp tư nhân đang thực hiện các hình phạt, biện pháp xử lý như trên thì cần phải ủy quyền cho một
người thay mình thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với công ty trong khoảng thời gian chủ doanh nghiệp vắng mặt.
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp (Điều 12); và phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại cho doanh
nghiệp (Điều 13). 
Ví dụ 1: Ngày 18/5/2021, lực lượng Công an tỉnh Đồng Nai đã tiến hành khám xét, phong tỏa cửa hàng xăng dầu
Trảng Dài trên đường Bùi Trọng Nghĩa (địa chỉ 15/28B, khu phố 3, phường Trảng Dài, TP Biên Hòa, Đồng Nai)
thuộc Doanh nghiệp tư nhân Việt Khánh Anh và thi hành lệnh bắt khẩn cấp đối với bà Nguyễn Thị Như Mỹ - chủ
doanh nghiệp tư nhân Việt Khánh Anh về tội buôn bán xăng, dầu giả và có liên quan đến đường dây xăng giả. 
Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp tư nhân bị tạm giam nên phải ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và
nghĩa vụ đối với doanh nghiệp thay mình.
Ví dụ 2: Trong vụ kiện giữa Oceangroup và Doanh nghiệp tư nhân Hà Bảo, ông Hà Văn Thắm chủ doanh nghiệp tư
nhân Hà Bảo bị bắt vì tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”. Trong quá trình
ông Hà Văn Thắm bị tạm giam đã ủy quyền cho người đại diện doanh nghiệp tư nhân Hà Bảo thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Sau khi ông Hà Văn Thắm bị kết án tù chung thân thì người đại diện đó vẫn tiếp tục thay ông
Thắm thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân Hà Bảo cho đến khi doanh nghiệp này ngừng hoạt
động (sau khi ông Hà Văn Thắm vào tù được hơn 1 tháng).

2. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì người thừa kế hoặc một trong những người thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật là chủ doanh nghiệp tư nhân theo thỏa thuận giữa những người thừa kế. Trường hợp những người
thừa kế không thỏa thuận được thì đăng ký chuyển đổi thành công ty hoặc giải thể doanh nghiệp tư nhân đó.
Sau khi chủ doanh nghiệp chết thì doanh nghiệp tư nhân ấy sẽ do:
● Nếu chỉ có 1 người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật thì người đó sẽ làm chủ
● Nếu có nhiều người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật thì những người đó sẽ phải thỏa thuận với nhau
để cử 1 người đứng ra nhận thừa kế và người đó sẽ trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân mới.
● Trong trường hợp những người thừa kế trên không thể thỏa thuận được người đứng ra làm chủ doanh nghiệp
tư nhân thì phải đăng ký chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân đó thành loại hình doanh nghiệp khác mà có nhiều chủ sở
hữu hoặc nếu không thì phải tiến hành giải thể doanh nghiệp.
Các loại hình công ty có thể chuyển đổi: Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty hợp danh (theo điều 205 Luật
này).
Ví dụ: Vụ cháy làm chết 7 người tại doanh nghiệp tư nhân sản xuất nệm mút Siêu Vĩnh Lợi (số 3/D5, ấp Bình Thuận
2, xã Thuận Giao, huyện Thuận An, Bình Dương) xảy ra ngày 11/3/2010. Trong số 7 nạn nhân có cả chủ doanh
nghiệp tư nhân Siêu Vĩnh Lợi là Nguyễn Thị Kiều, con trai là Lê Nguyễn Đức Tân và mẹ chồng bà Kiều.
Trong trường hợp trên, do tai nạn xảy ra bất ngờ và chủ doanh nghiệp tư nhân đột ngột qua đời nên quyền sở hữu
doanh nghiệp tư nhân đó sẽ thuộc về người thừa kế trong di chúc. Nếu có nhiều người cùng thừa kế doanh nghiệp tư
nhân đó thì những người đó có thể thỏa thuận với nhau và cử ra một người đại diện làm chủ sở hữu của doanh nghiệp
tư nhân Siêu Vĩnh Lợi. Còn nếu không thể thỏa thuận được thì doanh nghiệp tư nhân đó có thể chuyển đổi thành
Công ty hoặc giải thể. 
Nhưng nếu bà Nguyễn Thị Kiều - chủ doanh nghiệp tư nhân - chưa kịp để lại di chúc thì quyền sở hữu doanh nghiệp
sẽ thuộc về chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, những người con đẻ còn lại, con nuôi của bà Kiều. (Điều 651 Bộ
Luật Dân sự 2015). 

3. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc
bị truất quyền thừa kế thì tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân được xử lý theo quy định của pháp luật về dân sự.
Trường hợp này là trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân không để lại di chúc và cũng không có người thừa kế theo
pháp luật do bị truất quyền hoặc từ chối nhận di sản thừa kế. Lúc này, tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ thuộc
về Nhà nước (Điều 622 của Bộ Luật Dân sự 2015). 

4. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân được thực hiện thông qua người đại diện.
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự như: người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác bị Tòa án ra
quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Người bị mất năng lực hành vi dân sự là người đang có năng lực hành vi dân sự nhưng vì một lý do nào đó mà sau đó
bị mất đi năng lực đó và bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là người bị mất năng lực hành vi dân sự. Chẳng hạn như
người bị bệnh tâm thần, bị bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình thì cần phải có người đại
diện theo pháp luật xác lập và thực hiện các giao dịch của người mất năng lực hành vi dân sự.
Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi là những người có yếu tố về thể chất (sự khuyết thiếu về cơ
thể như bị câm, mù, điếc, liệt người, ...) hoặc yếu tố về tinh thần (cú sốc tâm lý) mà không đủ khả năng nhận thức và
làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và có kết luận của giám định pháp y tâm thần, bị
Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

5. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân bị Tòa án cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thuộc phạm vi
ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân tạm ngừng, chấm dứt kinh doanh ngành, nghề
có liên quan theo quyết định của Tòa án hoặc chuyển nhượng doanh nghiệp tư nhân cho cá nhân, tổ chức khác.
Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp tư nhân đã và đang kinh doanh một ngành nghề nhất định nhưng lại bị Tòa
án ra quyết định ngừng kinh doanh trong ngành nghề đó thì chủ doanh nghiệp phải tạm ngừng, chấm dứt hoạt động
kinh doanh ngành nghề đó hoặc chuyển nhượng doanh nghiệp đó cho chủ sở hữu khác.

Thừa kế là một trong những quan hệ pháp luật thường diễn ra tranh chấp. Tranh chấp thừa kế thường phức tạp kéo
dài khó giải quyết do liên quan đến nhiều người, nhiều thế hệ, sinh sống nhiều nơi, nhiều nước. Do vậy một vụ án tranh
chấp thừa kế từ lúc thụ lý đến lúc giải quyết xong thường kéo dài hàng năm thậm chí là nhiều năm. Luật 2014 không có
những quy định này đã gây ra nhiều khó khăn khi xử lý các vụ án liên quan tới quyền thừa kế của doanh nghiệp tư nhân
( các bên thừa kế không thể thỏa thuận với nhau dẫn đến tranh chấp, xung đột và các vụ án thường kéo dài ) Tuy nhiên,
đến năm 2020 luật doanh nghiệp đã có bổ sung một điều luật mới (điều 193) quy định cụ thể về quyền thừa kế của
doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt, giúp việc giải quyết mâu thuẫn tranh chấp thừa kế diễn ra dễ
dàng hơn.

3. Điểm bất cập trong luật doanh nghiệp 2020 về doanh nghiệp tư nhân 
Về việc mua bán và cho thuê doanh nghiệp tư nhân

Một điểm bất cập chưa được làm rõ trong Luật Doanh nghiệp 2020 về doanh nghiệp tư nhân đó là Luật Doanh
nghiệp 2020 vẫn còn cho rằng doanh nghiệp tư nhân cũng là một loại tài sản có thể giao dịch được . Trong điều 186 và
187 Luật doanh nghiệp 2014 và giữ nguyên trong điều 191 và 192 Luật doanh nghiệp 2020 quy định chủ doanh nghiệp
tư nhân có quyền bán và cho thuê doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn chưa thể xếp doanh nghiệp
tư nhân vào bất cứ loại tài sản nào trong Bộ luật dân sự 2015. Thực chất ở đây phải hiểu bán hay cho thuê doanh nghiệp
tư nhân là bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân trong quá trình kinh doanh mà có.

3. Những điểm mới, sửa đổi, bổ sung của Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về tổ chức
lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp

Một là, về tên gọi của các Điều luật

Trước tiên ta có thể thấy điểm khác biệt đầu tiên giữa Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Doanh Nghiệp 2014 chính là
sự thay đổi cách gọi từ “doanh nghiệp” sang “công ty”.

Luật Doanh nghiệp 2014 quy định 04 phương thức tổ chức lại doanh nghiệp gồm: Chia doanh nghiệp (Điều 192),
Tách doanh nghiệp (Điều 193), Hợp nhất doanh nghiệp (Điều 194), Sáp nhập doanh nghiệp (Điều 195). Cách gọi
“doanh nghiệp” này về cơ bản tạo được sự thống nhất giữa tên chương và nội dung các điều luật. Ngoài ra còn có các
chuyển đổi hình thức pháp lý cho một số loại hình công ty. Trong Luật Doanh nghiệp 2014 có điều luật chuyển đổi
doanh nghiệp tư nhân sang công ty trách nhiệm hữu hạn (Điều 199) nên phương thức này vô hình chung được gọi tên là
chuyển đổi hình thức doanh nghiệp. Tuy nhiên, cách đặt tên khái quát như vậy dẫn tới một thực tế là không ít người
nhầm phương thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập ở các điều luật trước đó cũng có thể áp dụng đối với doanh nghiệp tư
nhân, hay rộng hơn là tất cả các mô hình doanh nghiệp hiện tại, dù bốn phương thức này tuy đã mở rộng thêm đối tượng
nhưng cũng chỉ tùy từng phương thức sẽ quy định áp dụng cho các loại hình công ty cụ thể.
Tới Luật Doanh nghiệp 2020, các quy định về tổ chức lại doanh nghiệp cơ bản vẫn giữ nguyên 05 phương thức là
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức pháp lý. Đồng thời, các phương thức chia, tách, hợp nhất, sáp
nhập trong Luật Doanh nghiệp 2020 cũng có quy định tương tự so với Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, cách gọi tên
cho các phương thức hay tên Điều luật đã được thay đổi một cách phù hợp với đối tượng áp dụng, cụ thể gồm Chia công
ty (Điều 198), Tách công ty (Điều 199) áp dụng cho công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần; Hợp nhất công ty
(Điều 200), Sáp nhập công ty (Điều 201) áp dụng cho tất cả các loại hình công ty và chuyển đổi hình thức giữa các loại
hình doanh nghiệp cụ thể (từ Điều 202 đến Điều 205).

Như vậy, với cách thay đổi này, Luật Doanh nghiệp 2020 đã khắc phục được bất cập về tên gọi như đã nêu của Luật
2014, tránh được sự nhầm lẫn về các đối tượng áp dụng, đồng thời tạo sự hợp lý giữa tên của Điều luật với nội dung của
Điều luật, qua đó giúp cho các chủ thể kinh doanh thuận lợi hơn trong việc lựa chọn, áp dụng Điều luật và phương thức
tổ chức lại doanh nghiệp.

Hai là, về việc sử dụng cụm từ “nghị quyết, quyết định”

Luật Doanh nghiệp 2014 hầu như chỉ sử dụng “nghị quyết” khi đề cập đến loại văn bản quy định hoạt động của công
ty nhưng đến Luật Doanh nghiệp 2020 đã sử dụng cụm từ đầy đủ là “nghị quyết, quyết định” như một cách bổ sung
thêm loại văn bản đối với công ty. “Nghị quyết” là hình thức văn bản quyết định về những vấn đề cơ bản sau khi được
hội nghị bàn bạc, thông qua bằng biểu quyết theo đa số, biểu thị ý kiến hay ý định của một cơ quan, tổ chức về một vấn
đề nhất định. “Quyết định” là văn bản quy phạm pháp luật được dùng để ban hành các biện pháp, thể lệ cụ thể một số
loại quyết định cá biệt được ban hành dưới hình thức lời nói, dấu hiệu...Về cơ bản thì việc bổ sung thêm “quyết định”
trong Luật Doanh nghiệp 2020 giúp hoàn thiện về ngôn ngữ trong Luật Doanh nghiệp 2014 hơn. Đối với nghị quyết thì
sẽ mang tính tập thể, còn quyết định sẽ mang tính cá nhân và quyết định sẽ được ban hành trên cơ sở của nghị quyết. 

Ba là, về chia, tách công ty

Để giải thích sự khác biệt giữa chia và tách công ty, theo Điều 198 về chia công ty thì công ty có thể chia tài sản,
quyền và nghĩa vụ,... để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới; theo Điều 199 về tách công ty thì công ty có thể tách
bằng chuyển một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ,... để thành một hoặc một số công ty mới mà không chấm dứt tồn tại
của công ty bị tách. Ví dụ, khi chia công ty A sẽ thành các công ty hoàn toàn mới B và C nhưng khi tách công ty A thì
sẽ thành công ty A và công ty mới B (công ty A vẫn hoạt động một cách bình thường).

Tại khoản 1, Điều 192 và khoản 2, Điều 193 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định có thể chia, tách các cổ đông, thành
viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới trong 03 trường hợp trong điều khoản. Có thể thấy phạm
vi về phương thức chia, tách còn hạn hẹp, chỉ gồm ba phương thức, làm giới hạn quyền tự quyết của các thành viên, cổ
đông công ty về việc chia, tách công ty. Trong khi đó tại Điều 198 và 199 Luật Doanh nghiệp 2020 không quy định rõ
về điều kiện chia, tách công ty.

Luật Doanh nghiệp 2020 bỏ các quy định cụ thể về chia công ty và các trường hợp chia. Do đó, Luật Doanh nghiệp
2020 không hạn chế, không áp đặt phương thức chia, tách công ty, cũng không mở rộng quyền tự chủ của các thành
viên, cổ đông công ty dựa trên cơ sở chia, nghị quyết / quyết định chia, sẽ xác định rõ việc chia, tách công ty. , phương
pháp và thủ tục, cũng như các nguyên tắc của việc tách và phương pháp tách do các chủ sở hữu của công ty xác định và
đồng ý. Như vậy, việc áp đặt cho công ty 03 cách thức chia của Luật Doanh nghiệp 2014 khiến cho các công ty có thể bị
động hoặc áp dụng không đúng hay máy móc khi tiến hành chia, tách công ty.

Bốn là, về hợp nhất, sáp nhập công ty

Các Điều 200 và 201 Luật Doanh nghiệp 2020 đã lược bỏ quy định đối với những doanh nghiệp có thị phần 30%-
50% phải thông báo cho cơ quan Cạnh tranh trước khi hợp nhất, mà thay vào đó thì tất cả các doanh nghiệp hợp nhất sẽ
tuân thủ theo cả quy định của Luật Cạnh tranh về hợp nhất nữa. Luật Doanh nghiệp 2020 cũng bỏ quy định cấm các
doanh nghiệp có trên 50% thị phần hợp nhất. Luật Cạnh tranh hiện hành năm 2018 quy định các hình thức hợp nhất
doanh nghiệp là hoạt động tập trung kinh tế cùng với nhiều quy định cụ thể liên quan tới hoạt động tập trung kinh tế nói
chung. Đặc biệt, Điều 30, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã quy định về việc tập trung kinh tế bị cấm, cụ thể là trường hợp
doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể trên thị trường Việt Nam, và việc đánh giá này sẽ do Ủy ban Cạnh tranh quốc gia đánh giá theo các quy định cụ thể
của pháp luật. Tại thời điểm Luật Doanh nghiệp 2014 được xây dựng và ban hành, các quy định liên quan tới pháp luật
cạnh tranh được đặt ra tương thích với quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004. Đến khi Luật Cạnh tranh năm 2018 ra
đời thay thế cho Luật Cạnh tranh năm 2004, các quy định liên quan trong Luật Doanh nghiệp 2014 về hợp nhất, sáp
nhập doanh nghiệp đã không còn phù hợp nữa. Và Luật Doanh nghiệp 2020 đã khắc phục được hạn chế này. 
Ví dụ, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) chiếm 55% thị phần trên thị trường tín
dụng. Ngân hàng này muốn sáp nhập thêm Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam (Southern Bank). 

Nếu việc sáp nhập này áp dụng quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, Ngân hàng Sacombank không được phép sáp
nhập thêm Ngân hàng Southern Bank bởi khoản 3, Điều 195 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định “Cấm các trường hợp
sáp nhập các công ty mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan”.

Nếu việc sáp nhập này áp dụng quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, Ngân hàng Sacombank được phép sáp nhập
thêm Ngân hàng Southern Bank vì pháp luật không cấm (Điều 201 của Luật này). Cổ phần của Ngân hàng Southern
Bank sẽ chuyển thành cổ phần của Ngân hàng Sacombank và cổ phiếu sẽ chuyển đổi thành cổ phiếu Sacombank và
Ngân hàng Southern Bank sẽ chấm dứt hoạt động. Với điều kiện việc sáp nhập này không gây ảnh hưởng một cách đáng
kể tới thị trường Việt Nam.

Năm là, về quyền và nghĩa vụ sau khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập công ty

So với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung thêm quy định về quyền kế thừa của các công
ty mới. Ở khoản 4, Điều 198, 199, 200 và điểm c, khoản 2, Điều 201 Luật Doanh nghiệp 2020 đã nhấn mạnh rằng sau
khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập công ty thì các công ty mới đương nhiên kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp. Từ đó, có thể thấy Luật Doanh nghiệp 2020 đã có những bổ sung phù hợp, góp phần bảo vệ quyền lợi những
bên liên quan như chủ sở hữu, cổ đông, thành viên công ty,…

Sáu là, về thời gian thực hiện thủ tục hành chính

LDN 2020 rút ngắn thời gian thực hiện nghĩa vụ của cơ quan đăng ký kinh doanh liên quan đến việc cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp từ “05 ngày làm việc” xuống còn “03 ngày làm việc”, đồng thời cập nhật tình trạng pháp lý
của công ty trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp từ “07
ngày làm việc” xuống còn “03 ngày làm việc” khi thực hiện chuyển đổi của tất cả loại hình doanh nghiệp quy định tại
khoản 3, các Điều 202, 203 và khoản 2, các Điều 204, 205. Việc rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính sẽ hỗ
trợ được các doanh nghiệp trong việc chuyển đổi cơ cấu, tiết kiệm được về mặt thời gian và tiền bạc không cần thiết.

Bên cạnh đó, theo khoản 1, Điều 206 Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã rút ngắn thời gian báo trước khi tạm ngừng
kinh doanh. Cụ thể: Doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất là 03 ngày
làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo. Trong khi đó, theo
khoản 1, Điều 200 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: Doanh nghiệp có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông
báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh chậm
nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh. Với khoảng thời gian dài như 15 ngày sẽ gây ra nhiều vấn
đề tranh chấp, bất cập, khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi báo trước việc tạm ngừng kinh doanh. Như vậy,
khi rút ngắn thời gian thủ tục này, Luật cũng đã phần nào giảm thiểu bớt khó khăn cho doanh nghiệp trong vấn đề này.

Bảy là, về điều kiện chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Khi so sánh điểm c, khoản 1, của Điều 197 Luật Doanh nghiệp 2014 với Điều 203 Luật Doanh nghiệp 2020 có thể
thấy Luật Doanh nghiệp 2020 chỉ giữ lại điều kiện “còn lại 01 cổ đông” và lược bỏ “trong thời gian vượt quá thời hạn
yêu cầu số lượng tối thiểu công ty cổ phần theo quy định tại Điều 110 của Luật này”. Điểm sửa đổi này cho thấy, công
ty cổ phần có thể tiến hành việc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ngay tại thời điểm công
ty chỉ còn lại 01 cổ đông mà không cần phải đợi sau một khoảng thời gian như Luật trước đó quy định, giảm bớt thời
gian lãng phí trong quá trình chuyển đổi.

Khi so sánh khoản 3, của Điều 197 Luật Doanh nghiệp 2014 với Điều 203 Luật Doanh nghiệp 2020 có thể thấy Luật
Doanh nghiệp 2020 đã giảm bớt thời gian cấp giấy Chứng nhận đăng kí kinh doanh xuống còn 3 ngày. Điều này tạo
thuận lợi cho Doanh nghiệp không phải chờ đợi quá nhiều thời gian, giảm bớt rủi ro cho doanh nghiệp.

 Tám là, về điều kiện chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung trường hợp có thể chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên, được quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 204: “Công ty chỉ còn lại 02 cổ đông”. Từ đó, các
doanh nghiệp có cơ hội được chuyển đổi loại hình doanh nghiệp một cách dễ dàng và linh hoạt hơn.

Chín là, về việc chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân


Thứ nhất, Điều 205 Luật Doanh nghiệp 2020 lần đầu tiên cho phép doanh nghiệp tư nhân ngoài được quyền chuyển
đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn thì còn được chuyển đổi thành công ty cổ phần và công ty hợp danh. Theo quy
định tại Điều 199 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể chuyển đổi thành công ty trách
nhiệm hữu hạn; không thể chuyển đổi thành công ty cổ phần. Do đó, doanh nghiệp tư nhân muốn chuyển đổi thành công
ty cổ phần thì phải thực hiện một thủ tục hành chính trung gian, tức là chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn và
sau đó từ công ty trách nhiệm hữu hạn mới chuyển đổi thành công ty cổ phần. Thủ tục này hoàn toàn không có ý nghĩa
mà còn tốn kém thời gian, chi phí và thậm chí ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 

Việc cho phép doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi trực tiếp thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa chọn những loại hình doanh nghiệp khác nhau
hơn trong quá trình tái cấu trúc lại bộ máy vận hành của mình; thay đổi mô hình hoạt động phù hợp với tình hình tài
chính, thực tiễn của doanh nghiệp và tương thích với các quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018.

Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 2020 đã xóa bỏ hoàn toàn điểm b, khoản 1, Điều 199 LDN 2014 quy định về chủ doanh
nghiệp tư nhân: “Chủ doanh nghiệp tư nhân phải là chủ sở hữu công ty (đối với trường hợp chuyển đổi thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu) hoặc thành viên (đối với trường hợp chuyển đổi thành
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên)”. Việc xóa bỏ quy định này là hoàn toàn hợp lý bởi nó cho thấy,
Nhà nước không còn yêu cầu quá khắt khe về việc chủ doanh nghiệp tư nhân là ai mà chỉ quan tâm đến và đảm bảo việc
chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận hoặc cam kết bằng văn bản đối với các vấn đề mà công ty cũ còn đang gặp phải
như: các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng làm ăn với các bên liên quan, quan hệ với các thành viên góp vốn, với
lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân,... cụ thể được quy định tại các điểm b, c, d , khoản 1, Điều 205 LDN 2020.

Thứ ba, ngoài việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
thì chủ doanh nghiệp tư nhân còn phải chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả khoản nợ
phát sinh trước ngày công ty được chuyển đổi, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tại khoản 3, Điều 205
Luật Doanh nghiệp 2020. 

Ví dụ: Công ty An Khánh là doanh nghiệp tư nhân với chủ sở hữu là ông Khánh, muốn chuyển đổi thành Công ty cổ
phần AB. Tại thời điểm 23/10/2016, tức đang thực hiện theo Luật Doanh nghiệp 2014, công ty An Khánh không được
phép chuyển đổi sang loại hình công ty cổ phần, mà chỉ được phép chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn. Còn tại
thời điểm 23/10/2021, tức đang theo Luật Doanh nghiệp 2020, công ty được phép chuyển đổi sang công ty cổ phần nếu
đáp ứng đủ các điều kiện trong Điều luật 205 của Luật này. Nếu ngày 15/01/2022, công ty An Khánh được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trong đó quy định đã chuyển đổi thành Công ty cổ phần AB; thì trước ngày
15/01/2022, ông Khánh phải trả tất cả các khoản nợ phát sinh trước đó của công ty. Đây là điều khoản được đưa ra
nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ cũng như những người được kế thừa quyền và nghĩa vụ tiếp theo bởi khi chuyển đổi
từ doanh nghiệp tư nhân sang các loại hình công ty khác, chưa chắc công ty mới đã do chủ doanh nghiệp tư nhân tiếp
tục quản lý.

Mười là, về việc tạm ngừng, đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh

Bổ sung tại Luật Doanh nghiệp 2020, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn có thể yêu
cầu doanh nghiệp tạm ngừng, đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh trong trường hợp sau đây: Tạm ngừng kinh
doanh theo yêu cầu của cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật về quản lý thuế, môi trường và quy định khác
của pháp luật có liên quan (điểm b, khoản 2, Điều 206 Luật Doanh nghiệp 2020); Đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh
doanh một, một số ngành, nghề kinh doanh hoặc trong một số lĩnh vực theo quyết định của Tòa án (điểm c, khoản 2,
Điều 206 Luật Doanh nghiệp 2020). Đây là quy định bổ sung có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của doanh
nghiệp. Đồng thời, theo khoản 4, Điều 206 Luật Doanh nghiệp 2020, “Chính phủ cũng quy định chi tiết trình tự, thủ tục
phối hợp giữa Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này.” Có thể thấy, đây là điều khoản quy định chi tiết, cụ thể trường hợp nào là tạm ngừng, trường hợp nào là đình
chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh; giúp đảm bảo các cơ quan, tổ chức cũng như các doanh nghiệp nhận thức rõ về
nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, hoàn thành đầy đủ, linh hoạt và chính xác công việc được giao.

Bên cạnh đó, trước đây, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh
nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ; tiếp tục thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với
khách hàng và người lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp, chủ nợ, khách hàng và người lao động có thỏa thuận khác.
Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì ngoài các khoản trên thì trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp còn
phải nộp đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn nợ (quy định tại khoản 3, Điều 206 Luật Doanh
nghiệp 2020). Như vậy, nghĩa vụ của doanh nghiệp trong thời gian tạm ngừng kinh doanh đã được quy định cụ thể hơn
ở Luật Doanh nghiệp 2020. Đây là một sự bổ sung hợp lý, mang lại sự đảm bảo nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng, người lao động, của Nhà nước.
Mười một là, về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp

Nhìn chung thì Điều 207 Luật Doanh nghiệp 2020 không có nhiều thay đổi so với Điều 201 LDN 2014, chỉ bổ sung
thêm điều kiện “trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác”. Đây là Điểm mới nhằm tránh sự thiếu đồng nhất
trong quy định pháp luật. Cụ thể, tại điểm g khoản 1 và khoản 2, Điều 125 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định:

“Điều 125. Biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế

1. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm:

g) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế quy định tại khoản 1 Điều này chấm dứt
hiệu lực kể từ khi tiền thuế nợ được nộp đủ vào ngân sách nhà nước”.

Theo đó, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ chấm dứt hiệu lực nếu khoản tiền nợ thuế của
doanh nghiệp được nộp đủ vào ngân sách nhà nước, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ không còn buộc phải giải thể.

Ví dụ, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hữu Thành lập ra không kinh doanh tại trụ sở mình đã đăng ký,
do đó không kê khai thuế đầy đủ. Điều này vi phạm quy định pháp luật về quản lý thuế. Nếu phát hiện sự việc này tại
ngày 15/07/2017, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan nhà nước không được yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng hoạt
động kinh doanh. Nếu phát hiện sự việc này tại 15/07/2021, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh theo khoản 2, Điều 206 Luật Doanh nghiệp 2020.

Qua việc bổ sung thêm điều kiện này, ta có thể thấy các bộ Luật có mối liên hệ chặt chẽ và đồng nhất với nhau; nâng
cao chất lượng của hệ thống pháp luật Việt Nam; đảm bảo cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao
trong thực tiễn, đồng thời cho phép hiện thực hóa được các quy định pháp luật trong đời sống xã hội.

Mười hai là, về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp và hồ sơ giải thể doanh nghiệp

Tại điểm c, khoản 1, Điều 208 Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bãi bỏ nội dung về thời hạn thanh toán nợ và thanh
lý hợp đồng được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng kể từ ngày
thông qua quyết định giải thể không bị giới hạn trong khi trước đây là “không vượt quá 06 tháng kể từ ngày thông qua
quyết định giải thể”. Đây được xem là một quy định có ảnh hưởng tích cực đối với các doanh nghiệp khi thực hiện giải
thể, bởi lẽ việc không còn giới hạn thời hạn thanh toán nợ, thanh lý hợp đồng sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động được
việc xử lý các quan hệ với bên thứ ba trước khi thực hiện giải thể. Về phía các khách hàng, đối tác của các doanh nghiệp
cũng cần lưu ý quy định này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại điểm đ, khoản 1, Điều 208 Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi chữ ký trong nghị quyết, quyết định giải thể
phải là của “chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị”
chứ không là “người đại diện” như trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Điều này góp phần làm tăng tính chặt chẽ trong
thủ tục giải thể doanh nghiệp vì đây là một thủ tục quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của cả doanh nghiệp.

Ngoài ra, tại điểm a, khoản 5, Điều 208 bổ sung thêm các khoản “bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp” vào các
khoản được ưu tiên thanh toán và điểm b, khoản 1, Điều 210 đã đưa báo cáo thanh toán hết các khoản nợ tiền đóng “bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp” vào số giấy tờ cần thiết của hồ sơ giải thể doanh nghiệp. Ví dụ, tháng 5/2015 chị X khi
đang là nhân viên của công ty A và công ty xin nợ tiền bảo hiểm y tế do thiếu ngân sách. Đến đầu năm 2016, công ty bị
phá sản. Vì chưa có quy định cụ thể trong Luật Doanh nghiệp 2014 nên chị X bị công ty quỵt phần tiền nợ bảo hiểm y
tế. Đến năm 2021, chị X tham gia một công ty mới B vì khó khăn nên cũng xin nợ. Đến khi công ty B phá sản thì theo
Luật Doanh nghiệp 2020 công ty B buộc thanh toán hết khoản nợ tiền bảo hiểm y tế cho chị X. Việc bổ sung quy định
này nhằm bảo vệ người lao động cũng như những khoản tiền, quyền lợi của họ trong DN khi doanh nghiệp thực hiện
việc giải thể. 

Luật Doanh Nghiệp năm 2020 đồng thời bỏ yêu cầu có “con dấu, giấy chứng nhận mẫu dấu (nếu có) và giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp” trong hồ sơ giải thể. Đây cũng là một phần giảm nhẹ thủ tục giúp đỡ cho các doanh nghiệp
trong quá trình làm hồ sơ giải thể.
Mười ba là, về việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành viên 

Tại Điểm d Khoản 2 Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Ngoài các quyền quy định tại khoản 1 Điều
này, thành viên, nhóm thành viên sở hữu từ 10% số vốn điều lệ trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn do Điều lệ công ty
quy định hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này có các quyền sau đây: “Yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị
quyết, quyết định của Hội đồng thành viên trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc họp Hội đồng thành viên, nếu
trình tự, thủ tục, điều kiện cuộc họp hoặc nội dung nghị quyết, quyết định đó không thực hiện đúng hoặc không phù hợp
với quy định của Luật này và Điều lệ công ty”. Quy định này gây hạn chế quyền của các “thành viên thiểu số” - có tỷ lệ
phần vốn góp thấp khi không có quyền được độc lập yêu cầu Tòa án hủy bỏ nghị quyết, quyết định của Hội đồng thành
viên dù biết rằng cuộc họp Hội đồng thành viên thực hiện theo trình tự, thủ tục không đúng hoặc không phù hợp với quy
định của Luật (ví dụ như, không gửi thông báo mời họp cho thành viên công ty). Quy định này cũng đã gây bất lợi cho
việc thành viên công ty tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại. 

 Qua những phân tích và đánh giá trên cho thấy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, bổ
sung những điều khoản và quy định mới nhằm phù hợp hơn với thực tế đang diễn ra đối với doanh nghiệp, đồng thời,
tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Bằng những điểm mới mang tính đột phá, Luật
Doanh nghiệp năm 2020 đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp không chỉ trong việc gia nhập thị trường mà cả
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những sửa đổi nổi bật đó là những thay đổi tích cực, thuận lợi hơn
cho doanh nghiệp trong việc tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp. 
Bên cạnh việc bổ sung thêm các điều khoản mới để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan như các điều khoản về
quyền kế thừa của các công ty mới, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trước ngày công ty được chuyển đổi loại hình thì
Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã bỏ đi một số điều khoản được cho là không cần thiết, ví dụ như tóm tắt thủ tục chuyển
nhượng trong cổ phiếu, yêu cầu đăng báo việc mất cổ phiếu, yêu cầu về chủ doanh nghiệp tư nhân,... Ngoài ra, Luật
doanh nghiệp 2020 còn giúp gia tăng cơ hội lựa chọn loại hình doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức. Nhìn chung,
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách gia nhập thị trường chuyển mạnh sang
nâng cao chất lượng doanh nghiệp, cụ thể là khung pháp lý về quản trị công ty.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 được ban hành và có hiệu lực mang nhiều ý nghĩa thiết thực, tuy vậy, để thực sự có
được những cơ hội, doanh nghiệp cần phải hiểu và biết cách áp dụng luật mới sao cho hiệu quả, đúng hướng. 
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Trên đây là 15 điểm mới được chọn lọc của Luật doanh nghiệp 2020 liên quan đến doanh nghiệp nhà nước có sự
thay đổi đáng chú ý so với Luật doanh nghiệp 2014, 4 điểm thay đổi và bổ sung của Luật doanh nghiệp 2020 về Doanh
nghiệp tư nhân so với Luật doanh nghiệp 2014, 13 điểm thay đổi về tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp so với
Luật doanh nghiệp 2014. 
Tựu trung lại, về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp ở Luật
doanh nghiệp 2020 có tổng cộng 32 điểm mới, sửa đổi, bổ sung được chọn lọc so với Luật doanh nghiệp 2014. Luật
Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, bổ sung những điều khoản và quy định mới nhằm phù hợp
hơn với thực tế đang diễn ra đối với doanh nghiệp, đồng thời, tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp
năm 2014. Bằng những điểm mới mang tính đột phá, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp không chỉ trong việc gia nhập thị trường mà cả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những sửa
đổi nổi bật đó là những thay đổi tích cực, thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong việc tổ chức lại, giải thể và phá sản
doanh nghiệp. 
Bên cạnh việc bổ sung thêm các điều khoản mới để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan như các điều khoản về
quyền kế thừa của các công ty mới, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trước ngày công ty được chuyển đổi loại hình thì
Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã bỏ đi một số điều khoản được cho là không cần thiết, ví dụ như tóm tắt thủ tục chuyển
nhượng trong cổ phiếu, yêu cầu đăng báo việc mất cổ phiếu, yêu cầu về chủ doanh nghiệp tư nhân,... Ngoải ra, Luật
doanh nghiệp 2020 còn giúp gia tăng cơ hội lựa chọn loại hình doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức. Nhìn chung,
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách gia nhập thị trường chuyển mạnh sang
nâng cao chất lượng doanh nghiệp, cụ thể là khung pháp lý về quản trị công ty.
Có thể nói, Luật Doanh nghiệp 2020 hướng đến mục tiêu tổng thể là cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh
tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm duy trì tăng
trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2020 được ban hành và có hiệu lực mang nhiều ý nghĩa thiết thực, tuy vậy, để
thực sự có được những cơ hội, doanh nghiệp cần phải hiểu và biết cách áp dụng luật mới sao cho hiệu quả, đúng hướng. 

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LDN 2020 VỀ
DNNN, DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN, TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ VÀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
1. Nhận xét của các nhà làm luật, chuyên gia 

 Ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng CIEM Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Theo ông Hiếu, Luật Doanh nghiệp 2020 có 5 thay đổi quan trọng, tác động tích cực đến thúc đẩy phát triển doanh
nghiệp và thu hút vốn đầu tư.
Thứ nhất, cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường.

Thứ hai, nâng cao khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp và nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông theo
chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt và phổ biến.

Thứ ba, nâng cao hiệu lực quản trị và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có sở hữu nhà nước.

Thứ tư, thúc đẩy phát triển thị trường vốn nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho sản xuất, đầu tư kinh doanh.

Thứ năm, tạo thuận lợi hơn cho tổ chức lại và mua bán doanh nghiệp.

“Có thể thấy, với việc tiếp tục kế thừa, phát huy kết quả và tác động tốt của các cải cách trong các Luật Doanh
nghiệp 2000 – 2005 -2014 trong hiện thực hoá đầy đủ quyền tự do kinh doanh trong ngành nghề mà pháp luật không
cấm hoặc không hạn chế, Luật Doanh nghiệp 2020 sẽ cải thiện mạnh mẽ chất lượng quản trị nói riêng và doanh nghiệp
nói chung, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia.”

 ThS. Trần Thị Nga, Học viện Hành chính Quốc gia nhận xét về LDN 2020
 .Tiếp tục tạo thuận lợi quá trình gia nhập thị trường, khởi sự kinh doanh: Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã đặt
mục tiêu sửa đổi nhằm tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động thành lập và đăng ký doanh nghiệp; cắt giảm chi phí và thời
gian trong khởi sự kinh doanh; góp phần nâng xếp hạng chỉ số khởi sự kinh doanh lên ít nhất 25 bậc (theo xếp hạng của
WB). Các thay đổi này của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và cùng một số cải cách khác đã được thực hiện về thuế môn
bài, hóa đơn điện tử,… rút ngắn đáng kể cả thời gian và chi phí cho khởi sự kinh doanh, nâng cao xếp hạng của Việt
Nam theo đánh giá của quốc tế (cụ thể là đánh giá của WB).

Cải thiện khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp và bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông: Bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông
là một nội dung quan trọng nhất của khung pháp luật về quản trị công ty. Quy định về bảo vệ cổ đông tốt sẽ đóng góp
quan trọng làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh an toàn và thông qua đó sẽ thúc đẩy và huy động
vốn đầu tư. Các thay đổi quan trọng của Luật Doanh nghiệp năm 2020 so với Luật Doanh nghiệp năm 2014 là: mở rộng
mức độ và phạm vi quyền của cổ đông nhằm tạo điều kiện thuận lợi để cổ đông bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình; hạn
chế người quản lý lạm dụng địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho công ty và cổ đông; mở rộng quyền tiếp cận thông tin
của cổ đông về tình hình hoạt động của công ty; tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện quyền khởi kiện người quản lý;
thúc đẩy mô hình quản trị theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt (bỏ yêu cầu bắt buộc thành lập Ban kiểm soát đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn mà không phải là doanh nghiệp nhà nước, thay vào đó công ty có thể lựa chọn mô hình
quản trị và kiểm soát phù hợp tình hình kinh doanh và thông lệ quốc tế),…

Nâng cao hiệu lực quản trị, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có sở hữu nhà nước, thúc đẩy phát triển thị
trường vốn: Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi nhiều quy định về doanh nghiệp có sở hữu nhà nước nhằm nâng
cao hiệu lực quản trị như: tăng mức độ kiểm soát tập quyền, chống xung đột lợi ích và bảo đảm tính minh bạch hóa
trong hoạt động của DNNN, bổ sung quy định để mở rộng phạm vi đối tượng, người có liên quan (bao gồm thêm đối
tượng: con rể, con dâu, anh em bên chồng) trong cơ cấu quản trị và kiểm soát giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi; bổ
sung quy định công khai hóa thông tin của doanh nghiệp… Những thay đổi của khung pháp lý về quản trị doanh nghiệp
sẽ nâng cao mức độ bảo vệ cổ đông, qua đó sẽ đóng góp quan trọng làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh
doanh an toàn và, nhờ vậy, thúc đẩy và huy động vốn đầu tư. Quản trị tốt độ an toàn sẽ tăng niềm tin cho nhà đầu tư và
góp phần phát triển thị trường vốn.

Như vậy, xét cả trực tiếp và gián tiếp thì Luật Doanh nghiệp năm 2020 sẽ tác động rất lớn đến phát triển thị trường
vốn, giúp doanh nghiệp cơ hội lớn hơn trong huy động nguồn vốn đầu tư ngoài nguồn vốn vay từ tài chính tín dụng
truyền thống. Tuy nhiên, việc hoàn thiện và thực thi luật pháp chỉ hướng tới tạo lập môi trường, mở rộng cơ hội cho
doanh nghiệp. Việc tận dụng thành công cơ hội sẽ phụ thuộc phần lớn, nếu không nói chủ yếu vào chính doanh nghiệp:
các doanh nghiệp có nhận thức và nỗ lực tích cực thì sẽ có nhiều điều kiện để thành công lớn hơn hoặc nhanh hơn. 

 Luật sư Nguyễn Thanh Hà ( Công ty Luật SB Law)


“Nhìn chung, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách gia nhập thị trường
chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng doanh nghiệp, cụ thể là khung pháp lý về quản trị công ty.”

 Luật sư Vương Văn Quang – Công ty Luật TNHH Penfield


“Trong thời kỳ mà nền kinh tế đang vận động và phát triển nhanh như hiện nay, việc gỡ bỏ những rào cản pháp lý,
cụ thể là việc xóa bỏ nội dung giới hạn về thời gian sở hữu cổ phần tối thiểu, để các nhà đầu tư có thể tiếp cận và tiếp
quản các doanh nghiệp mà họ đầu tư là điều cần làm nhằm trả cho họ quyền bảo vệ, giám sát tài sản mà họ đầu tư một
cách nguyên vẹn và đầy đủ. Đặc biệt, khi các nhà làm luật coi doanh nghiệp cổ phần là trung tâm của loại hình công ty
đối vốn, đặt trọng tâm về tính liên kết vốn, sự luân chuyển của dòng vốn đầu tư thì việc điều chỉnh một nội dung nhỏ
này để đảm bảo về tính nhất quán về quyền sở hữu tài sản được ghi nhận trong pháp luật dân sự, từ đó gia tăng quyền
hạn cho các nhà đầu tư trong Luật doanh nghiệp lại càng cần thiết.”

 CN. Lê Thị Hiền, Khoa Đào tạo cơ sở, Trường cao đẳng luật miền Trung
“Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách thủ tục gia nhập thị trường chuyển
mạnh sang nâng cao chất lượng doanh nghiệp, xây dựng được khung pháp lý về quản trị công ty. Với những đột phá
này, các doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tận dụng thành công để tạo ra những đột phá mới, góp phần cải cách thể chế kinh tế,
nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước
ngoài nhằm duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.”

Theo Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) xem xét, cho ý kiến tại
phiên họp thứ 43 diễn ra vào sáng 23/03/2020:
Doanh nghiệp nhà nước; phạm vi điều chỉnh, quy định đối tượng hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp; chào bán
trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là các nội dung lớn còn nhiều ý kiến khác nhau đã được các
thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung thảo luận, cho ý kiến tại phiên họp.
Về phạm vi điều chỉnh, quy định đối tượng hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp (Điều 1, Điều 2 và Chương VIIa
của dự thảo Luật), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, có 2 loại ý kiến. Cụ thể, loại ý kiến thứ nhất
là nhất trí đưa nội dung quy định về hộ kinh doanh vào dự thảo Luật Doanh nghiệp như phương án Chính phủ đã trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, đồng thời, đề nghị bổ sung các nội dung trên cơ sở luật hóa tối đa các quy định đã được áp
dụng ổn định trong thực tiễn thời gian qua của Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng
ký doanh nghiệp để có một chương quy định đầy đủ về hộ kinh doanh.
(2) Bài đánh giá của Luật sư Nguyễn Phương Thảo tại Công ty luật Hoàng Anh về Điều 193: Thực hiện quyền
của chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về thực hiện trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong một số trường hợp đặc biệt mà người này không thể thực hiện được
quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình để đảm bảo lợi ích của chính họ, của doanh nghiệp, người lao động, khách
hàng, nhà nước và bên có liên quan. Về cơ bản, chủ doanh nghiệp tư nhân có địa vị pháp lý tương tự như Chủ sở hữu
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, chỉ khác về mức độ trách nhiệm – chủ sở hữu là trách nhiệm hữu hạn;
còn chủ doanh nghiệp tư nhân là trách nhiệm vô hạn. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp năm 2014 không có quy định
tương tự như đối với chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp chủ doanh
nghiệp tư nhân bị tạm giam, bị kết án tù… nhưng không rõ cách thức thực hiện quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân
trong trường hợp này. Do đó, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung quy định về thực hiện quyền, trách nhiệm,
nghĩa vụ chủ doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc biệt, như: chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân
sự, bị tạm giam, kết án tù, bị tước quyền hành nghề...
Đánh giá của đại diện Bộ Tài chính, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu và Luật sư Trương Thanh Đức về Điều 128 Luật Doanh
nghiệp 2020 về việc chào bán trái phiếu riêng lẻ:
Trước những ý kiến của đại diện Bộ Tài chính, Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cho rằng khung pháp lý như hiện nay còn
nhiều lỗ hổng và chưa đủ để kiểm soát và ngăn chặn rủi ro.
Đồng quan điểm, Luật sư Trương Thanh Đức cũng bày tỏ sự không đồng tình về pháp lý phát hành trái phiếu riêng lẻ.
Cụ thể, ông trích dẫn khoản 2 Điều 128 Luật Doanh nghiệp 2020 về việc chào bán trái phiếu riêng lẻ và cho rằng 99%
các doanh nhân và doanh nghiệp không thể hiểu được điều này.
Ông nhận định Điều 128 Luật Doanh nghiệp 2020 là “rất có vấn đề”, nếu không sửa luật hay không có sự giải thích
thì nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp đều có sự lúng túng. Cũng về khung pháp lý, nhận định về quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2020 về việc không chào bán trái phiếu riêng lẻ qua phương tiện thông tin đại chúng, Luật sư
Trương Thanh Đức cho rằng việc này đi ngược với công nghệ hiện nay.
Theo luật sư, việc chào bán có càng nhiều người mua, người biết càng tốt, giống như đấu giá và chỉ cần đảm bảo điều
kiện bán không quá 100 nhà đầu tư. “Nhà đầu tư mất tiền đi quảng cáo để mọi người biết đến và có sự cạnh tranh nên
việc chào bán qua phương tiện thông tin đại chúng là không sai”, ông Trương Thanh Đức cho hay. Theo ông, việc
cấm bán cho nhà đầu tư không chuyên là không có lý. Ông cho rằng bảo vệ nhà đầu tư là cần thiết, nhưng phải cân
đối và hợp lý trong tổng thể giữa nhà phát hành và người mua.
Ở góc độ doanh nghiệp, trước những rủi ro của nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông
Nguyễn Quang Thuân chỉ ra 4 giải pháp để hỗ trợ phòng tránh rủi ro cho các nhà đầu tư là sử dụng tư vấn chuyên
nghiệp, tự đánh giá rủi ro nếu có khả năng, đa dạng hóa kênh đầu tư cùng đặc điểm, hiểu về kết quả tín nhiệm nhà
phát hành và trái phiếu.

2. Nhận xét của các Doanh nghiệp 

Luật Doanh nghiệp 2020 là kết quả không chỉ của việc đóng góp và nhận xét của các chuyên gia và nhà làm luật, mà
còn là kết quả của sự đóng góp ý kiến của các doanh nghiệp. Các hội thảo được tổ chức bởi Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Vụ Pháp chế Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã góp phần không nhỏ trong việc lấy ý
kiến doanh nghiệp để áp dụng vào dự thảo sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2014 thành Luật Doanh nghiệp 2020. 

Sau khi Luật Doanh nghiệp 2020 được thông qua, hàng loạt các hội thảo phổ biến do các Hiệp hội Doanh nghiệp vừa
và nhỏ khu vực cũng như các tổ chức chuyên nghiệp như Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP HCM (ITPC)
thực hiện tổ chức để phổ biến về các điểm mới và chú ý về mặt pháp lý trong Luật Doanh nghiệp mới. Tại đây, các
doanh nghiệp đã nêu lên nhận xét của mình về các quy định, điều luật mới. Ông Nguyễn Quốc Khánh (Chủ tịch Hiệp
hội doanh nghiệp tỉnh Sơn La) cho rằng Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã được cập nhật cho phù hợp với tình hình mới
khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và rộng trên trường quốc tế, đồng thời cũng tháo gỡ những vướng mắc, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. 

Ông Cao Tiến Đoan (Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Bất động sản Đông Á, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp
tỉnh Thanh Hóa) cho rằng việc một số quy định về doanh nghiệp đồng thời được làm rõ và nới lỏng, tinh giản góp phần
không nhỏ giúp cho việc nắm bắt và hiểu biết các quy định của pháp luật về doanh nghiệp và kinh doanh dễ dàng hơn.
Trong quá trình hoạt động, các vấn đề mà các nhà đầu tư và doanh nghiệp luôn luôn đối mặt là quyền sở hữu trí tuệ, thủ
tục hành chính, mô hình hoạt động, thuế, tranh chấp hợp đồng… Hiểu biết về luật, nắm rõ luật sẽ giảm thiểu rủi ro, tạo
sự ổn định cho công ty và giúp nhà đầu tư định hướng chiến lược phát triển dài hạn cho doanh nghiệp. Cty

Nhận xét của Cty Luật TNHH Linh Nga và Cộng sự:

Với quy định mới này chủ doanh nghiệp tư nhân có nhiều cơ hội lựa chọn những loại hình doanh nghiệp hơn trong
quá trình tái cấu trúc lại bộ máy vận hành của mình.
Quy định cụ thể hơn về trường hợp duy nhất được thay đổi danh sách cổ đông sáng lập, quy định rõ ràng hơn so với
Luật doanh nghiệp 2014 đã xóa bỏ hoàn toàn những tranh cãi về việc có hay không thay đổi được danh sách cổ đông
sáng lập từ khi Nghị định 108/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp có
hiệu lực 10/10/2018.
Tại Hội thảo “Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư 2020 – Doanh nghiệp cần làm gì?”, các doanh nghiệp và chuyên gia
đều cho rằng, Chính phủ phải ban hành ngay các nghị định hướng dẫn những nội dung còn để ngỏ trong Luật Doanh
nghiệp 2020 để những quy định đó được chi tiết hóa và đi vào cuộc sống, nếu không thì các Luật này không thể có
tính khả thi.
3. Nhận xét của nhóm

Qua phần phân tích chi tiết, có thể thấy Luật Doanh nghiệp 2020 đã phần nào bổ sung những thiếu sót, bất cập ví dụ
như trong việc phát hành cổ phần, nới lỏng hơn ví dụ như trong vấn đề thời hạn góp vốn, các thủ tục hành chính hay
điều chỉnh lại việc sử dụng từ ngữ, kết cấu của luật cũng như có những sự dẫn chiếu tới những luật, quy định liên quan
khác. Được kỳ vọng sẽ tạo ra nhiều chuyển biến trong hoạt động của cộng đồng doanh nghiệp, tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp 2020 vẫn còn một số điểm chưa thực sự rõ ràng, thiếu hợp lý, có thể sẽ gây ra nhiều khó khăn khi áp dụng. So
với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 có nhiều nội dung sửa đổi mang tính đột phá, đổi mới
cơ bản về các quy định của Nhà nước đối với doanh nghiệp, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về
cải cách kinh tế; nhất quán với tiến trình cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký doanh
nghiệp; bổ sung các quy định không được thành lập và quản lý doanh nghiệp; cập nhật kịp thời các quy định mới phù
hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường; đồng thời, nội luật hóa các quy định có liên quan trong các điều ước
quốc tế nước ta là thành viên, góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã tiến một bước dài theo hướng nâng cấp chất lượng doanh
nghiệp, thông qua những sửa đổi có tính đột phá đối với khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực
quốc tế sẽ là nền tảng quan trọng để cải thiện mạnh mẽ chất lượng quản trị doanh nghiệp nói riêng và chất lượng doanh
nghiệp nói chung. Việc sửa đổi Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã đặt trọng tâm vào hoàn thiện khung pháp lý về tổ chức
quản trị doanh nghiệp đạt chuẩn phổ biến ở khu vực và quốc tế; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút vốn, nguồn
lực vào sản xuất – kinh doanh; góp phần nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh theo mục tiêu mà Chính phủ đã đặt
ra.

Các quy định trong Luật Doanh nghiệp 2020 được coi là có nhiều điểm mới, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong
giai đoạn gia nhập thị trường nói riêng và trong quá trình đầu tư, kinh doanh nói chung. Ví dụ về việc: Thêm đối tượng
bị cấm thành lập doanh nghiệp thì Luật Doanh nghiệp 2020 còn bổ sung thêm 01 đối tượng khác không được thành lập
và quản lý doanh nghiệp: Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực
nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự. Về tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp thì tại khoản 2
Điều 40 Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung thêm yêu cầu, tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp kèm
theo cụm từ “Địa điểm kinh doanh” (hiện nay chỉ áp dụng với chi nhánh, văn phòng đại diện). Một thay đổi khác đó là
Luật Doanh nghiệp 2020 đã rút ngắn thời hạn thông báo tạm ngừng kinh doanh từ 15 ngày xuống còn 03 ngày làm việc
trước ngày tạm ngừng kinh doanh và một số thay đổi tích cực khác. Từ đó có thể thấy, việc ban hành Luật Doanh
nghiệp 2020 là cần thiết, khắc phục được những thiếu sót, hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014 để các doanh nghiệp có
thể nắm bắt những cơ hội cũng như thực hiện chúng một cách hiệu quả nhất.

Như vậy, trong lần sửa đổi bổ sung này, phạm vi khá bao trùm tạo được sự công bằng, công khai, minh bạch cho môi
trường đầu tư. Đồng thời tạo tính thống nhất đồng bộ giữa bộ Luật và hướng tới hội nhập quốc tế, trong các Hiệp định
thương mại tự do, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư kinh doanh, mà đặc biệt là đối với
hoạt động đầu tư nước ngoài.
Những sửa đổi, bổ sung về cơ bản đã giải quyết được những yêu cầu thực tiễn và được nhà đầu tư đánh giá cao. Tuy
nhiên vẫn còn những vấn đề chưa đáp ứng được những kỳ vọng, một số quy định mới đưa vào luật trong quá trình
hướng dẫn, triển khai vào thực tế cũng sẽ có những vướng mắc.
Hiện nay, Việt Nam đang tham gia rất nhiều những Hiệp định thương mại với những cam kết cao về mở cửa thị
trường và hội nhập kinh tế khu vực. Để có thể duy trì sản xuất và kinh doanh cũng như phát triển bền vững, hội nhập
sâu rộng, thì những thay đổi của Luật Doanh nghiệp 2020 là rất cần thiết và quan trọng. Sự thay đổi này đã đáp ứng
được yêu cầu tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, đảm bảo sự đồng bộ, rõ ràng hơn trong các quy định, sửa
nhiều điều tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Những sửa đổi, bổ sung đã khắc phục được cơ bản những bất cập,
khiếm khuyết của Luật hiện hành, phù hợp với thực tiễn, giảm bớt gánh nặng chi phí, thời gian cho doanh nghiệp trong
việc tuân thủ quy định của Luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG III

Đặt trong hoàn cảnh cụ thể dưới cái nhìn tổng quan nhất dưới đánh giá khách quan của chuyên gia và các doanh
nghiệp cũng như những đánh giá mang tính chủ quan của nhóm, có thể thấy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã tiến một
bước dài theo hướng nâng cấp chất lượng doanh nghiệp, thông qua những sửa đổi có tính đột phá đối với khung khổ
pháp lý về quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế sẽ là nền tảng quan trọng để cải thiện mạnh mẽ chất lượng
quản trị doanh nghiệp nói riêng và chất lượng doanh nghiệp nói chung. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp 2020 có nhiều
bước tiến mới, quan trọng và phù hợp hơn với tình hình đổi mới của nước ta hiện nay. Sự ra đời của luật mới này đã kịp
thời xóa bỏ những hạn chế, bất cập còn tồn đọng, được cho là không phù hợp của luật Doanh nghiệp 2014 trong thời đại
mới nữa. Ngoài ra, Luật DN 2020 đã quy định rõ ràng và dễ hiểu hơn, đơn giản hóa một số thủ tục liên quan đến doanh
nghiệp giúp bản thân các doanh nghiệp nắm bắt, hiểu rõ các quy định và tuân thủ theo đúng luật ban hành đề ra. Đồng
thời mang tính chuyển biến để phù hợp với sự phát triển, tiến bộ xã hội, góp phần hoàn thiện trong quá trình sửa đổi, đổi
mới luật Doanh nghiệp ở nước ta.
KẾT LUẬN

Có thể nói, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp là những nội
dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta. Việc tìm hiểu và chỉ ra những điểm mới của luật doanh nghiệp
năm 2020 so với luật doanh nghiệp năm 2014 về những khía cạnh trên có vị trí, vai trò to lớn góp phần hoàn thiện hơn
các quy định pháp luật, đáp ứng với chương trình cải cách tư pháp trong tình hình mới. Bên cạnh những đóng góp tích
cực, quan trọng của luật Doanh nghiệp 2014 về việc xây dựng các thủ tục thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh
nghiệp đơn giản hơn, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta nhưng song song với nó vẫn còn tồn tại một số
hạn chế, bất cập không còn phù hợp cho các doanh nghiệp. Do đó, những điểm mới của luật doanh nghiệp năm 2020 ra
đời nhằm khắc phục những hạn chế đó sao cho phù hợp với những chuyển biến xã hội thời đại mới. Liên tục cập nhật bổ
sung hoàn thiện hơn giúp các doanh nghiệp hiểu luật, tuân thủ theo đúng luật ban hành đề ra. Nhìn chung, luật doanh
nghiệp 2020 đã quy định tương đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề cần thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc nắm bắt các
nội dung liên quan tới doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức lại và phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên,
một số điểm mới, sửa đổi trong luật doanh nghiệp 2020 vẫn còn quy định chưa rõ ràng, cũng như gây khó khăn cho các
doanh nghiệp khi áp dụng như liên quan đến thủ tục giải thể doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh. Do đó, các doanh
nghiệp cần hiểu tìm hiểu rõ về luật doanh nghiệp để thuận lợi cho quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp của
mình. Đồng thời, các nhà làm luật cần đề ra những  giải pháp khắc phục những thiếu sót còn tồn đọng trong luật doanh
nghiệp 2020 để bản thân các doanh nghiệp dễ áp dụng, tránh vi phạm pháp luật.
Trong tình hình kinh tế hiện nay, Việt Nam đã và đang không ngừng hội nhập nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào
nhiều tổ chức thương mại thế giới như WTO, ASPEC,...để mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, giáo dục, an
ninh-quốc phòng. Để có thể duy trì bền vững mối quan hệ hợp tác đó cũng như phát triển kinh tế trong nước vững mạnh
thì những điểm mới, sửa đổi của Luật doanh nghiệp 2020 là vô cùng quan trọng. Điều này giúp luật pháp cho các chủ
thể doanh nghiệp áp dụng và thực thi nghiêm chỉnh hơn, thay đổi để phù hợp hơn với tình hình hiện tại, giúp cho các
doanh nghiệp vừa hoạt động đúng luật vừa gắn với sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, thúc đẩy sự tiến kịp so
với các nước tiên tiến trên thế giới.

? Phân tích sự thay đổi về DNNN qua các thời kỳ từ khi có LDN năm 1995 đến nay: Khái niệm, đặc điểm, các loại
hình DN và cơ cấu tổ chức của DNNN?

You might also like