Professional Documents
Culture Documents
Lớp : 11DNH1
MSSV : 1112140030
Lớp : 11DNH1
MSSV : 1112140030
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Giáo viên:
LỜI MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
1.2.5: Các tổ chức bảo quản và giám sát tài sản của Quỹ:..............................3
1.3: Vai trò quỹ đầu tư trong nền kinh tế thị trường...............................................3
1.6: Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán.....................................11
1.6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ...............12
1.6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ............12
1.6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư....................................12
1.6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ...12
2.2: Những kết quả đạt được những hạn chế của Quỹ Đầu Tư ở Việt Nam.........24
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ Ở VIÊT
NAM:...................................................................................................................... 39
3.1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và
phát triển của Quỹ đầu tư..................................................................................41
3.1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng
khoán của Quỹ đầu tư.......................................................................................43
3.1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện
pháp tăng cung kích cầu....................................................................................44
3.2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu
tư chuyên nghiệp...............................................................................................48
3.2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công
chúng................................................................................................................49
Theo đó các QĐT tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi ngân hàng
là nơi thu nhận tiền từ một số lượng lớn nhà đầu tư và tiến hành đầu tư số vốn đó
vào các tài sản tài chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền và các công cụ của thị
trường tài chính.
Các quỹ tín thác theo mô hình của Nhật Bản được coi là sản phẩm được hình
thành nhằm đầu tư số tiền tập hợp được từ một số lớn các nhà đầu tư vào chứng
khoán chủ yếu dưới sự quản lý của những người không phải là người đầu tư và
phân phối lợi nhuận thu được cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ mà họ đóng góp vào
quỹ.
Từ các định nghĩa nêu trên, ta có thể rút ra định nghĩa chung cho QĐT. QĐT
được coi là phương tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các nhà đầu tư và
được ủy thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp để tiến hành đầu tư mang
lại lợi nhuận cao nhất cho những người góp vốn.
dịch nếu được uỷ thác. Họ được thanh toán phí theo tỷ lệ % giá trị tài sản ròng trung
bình của Quỹ trong năm hoặc trên số tiền mà dịch vụ tư vấn thực hiện.
1.2.5: Các tổ chức bảo quản và giám sát tài sản của Quỹ:
Một ngân hàng, công ty tín thác (Trustee Company) hoặc các tổ chức đủ tiêu
chuẩn sẽ được thuê làm người bảo quản các tài sản của Quỹ (tiền măt, chứng khoán
…). Tổ chức này thường là một ngân hàng vì các ngân hàng có sẵn cơ sở vật chất
kỹ thuật cho việc giữ và bảo quản tài sản cũng như có một hệ thống thanh toán, thu
chi chuyên nghiệp. Các tổ chức bảo quản tài sản chỉ chịu trách nhiệm bảo quản sự
an toàn tài sản cho Quỹ, định giá tài sản và theo dõi sự biến động tài sản trong và
ngoài nước. Trong mô hình tín thác các tổ chức bảo quản tài sản còn chịu trách
nhiệm giám sát hoạt động của Quỹ để đảm bảo quyền lợi cho người đầu tư. Tất cả
những chỉ thị của công ty quản lý Quỹ về thu chi, đầu tư của Quỹ sẽ chỉ được ngân
hàng thực hiện nếu phù hợp với những quy định trong Thư tín thác ký kết giữa công
ty quản lý Quỹ và tổ chức bảo quản giám sát
1.3: Vai trò quỹ đầu tư trong nền kinh tế thị trường
Nó góp phàn bình ổn gái cả trên thị trường thứ cấp, giúp cho sự phát triển của
thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp
đầu tư khoa học.
QĐT góp phần là xã hội hóa hoạt động đầu tư chứng khoán. Các quỹ tạo một
phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán yêu
thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu
tư vào quỹ
nghiệp cần phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định và lãi suất vay cao. QĐT ra
đời hạn chế một số nhược điểm cơ bản của việc cho vay ngân hàng.
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn: lợi ích này có được từ việc quỹ phát hành
và giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút dược sự chú
Quỹ đóng chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán ra công chúng. Quỹ chỉ
thực hiện phát hành cổ phiếu quỹ hay chứng chỉ quỹ một lần với số lượng cổ phần
nhất định.
Quỹ đóng có thể phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu.
Sau khi phát hành lần đầu, cổ phần quỹ sẽ được giao dịch trên thị trường thứ
cấp hoặc thị trường OTC. Giá của cổ phần quỹ được quyết định bởi cung cầu trên
thị trường (có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị tài sản ròng của quỹ).
Những người tham gia vốn ban đầu không được phép rút vốn lại bằng cách
bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ đầu tư.
Quỹ đóng có tính chất vốn ổn định nên thường có khả năng đầu tư vào các dự
án lớn và các chứng khoán có tính thanh khoản thấp hơn nhiều so với quỹ đầu tư
dạng mở.
Quy mô vốn của quỹ đầu tư dạng đóng chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi
nhuận thu được: Quỹ dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp hoặc thị
trường chứng khoán; sau đó dùng số tiền và vốn lãi thu được để đầu tư tiếp
Luôn phát hành những cổ phiếu mới để tăng vốn và cũng sẵn sàng chuộc lại cổ
phiếu đã phát hành.
Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đều là cổ phiếu thường
Cổ phần của quỹ không được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư
mua bán cổ phần trực tiếp với quỹ hoặc các nhà môi giới của quỹ
Giá bán cổ phần quỹ (Offer Price) = Giá trị tài sản ròng (NAV) + Khoản phí
mua (Load)
Giá mua lại (Bid Price) = Giá trị tài sản ròng (NAV) – khoản phí nhất định
theo quy định
Các nhà đầu tư có thể rút vốn bất cứ lúc nào nếu thấy hoạt động của quỹ đầu
tư không hiệu quả → quỹ luôn phải duy trì một tỉ lệ lớn các tài sản có tính thanh
khoản cao (trái phiếu chính phủ, chứng khoán được niêm yết trên SGDCK)
Ít có khả năng đầu tư vào các dự án lớn có tiềm năng và những dự án có lợi
nhuận lớn nhưng độ rủi ro cao.
- Ngoài ra:
Thông thường, cả quỹ đóng và mở đều được quản lí bởi các công ty quản lí
quỹ chuyên nghiệp (Investment adviser)
Các quỹ đầu tư tính phí mua bán (Sales Commission) bằng cách cộng trừ một
tỉ lệ phí vào giá mua và giá bán được gọi là Quỹ tính phí (Load Fund). Các quỹ tính
phí lúc nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ gọi là (Front – End Load Fund). Các quỹ tính
phí lúc nhà đầu tư bán chứng chỉ quỹ gọi là (Back – End Load fund)
Các quỹ không tính phí mua bán gọi là quỹ không tính phí (No Load Fund)
Quỹ mở thực hiện việc cổ phần mới một cách liên tục nên các nhà đầu tư bất
cứ lúc nào cũng có thể đầu tư vào quỹ bằng việc mua cổ phần do quỹ phát hành
Tổng tài sản của quỹ mở tăng liên tục tùy thuộc vào lượng tài sản ra vào quỹ.
Giao Được giao dịch trên thị trường Đơn vị quỹ được giao dich trực
dịch chứng thứ cấp như thông qua HOSE tiếp thông qua công ty quản lý Quỹ
chỉ quỹ và các đại lý phân phối
Giá giao Có thể tương đương hoặc không Tương đương giá trị tài sản
dịch bằng giá trị tài sản ròng. Các cổ ròng (NAV) của đơn vị quỹ tại thời
phiếu có thể được giao dịch với điểm công ty quản lý quỹ mua lại
mức giá cao ( giá cổ phiếu cao hơn đơn vị quỹ theo giá trị thực tế của
NAV) hoặc tại mức giá thấp (giá cổ quỹ
phiếu thấp hơn NAV) so với giá trị
thức của NAV
Tài sản Có thể là tài sản có tính thanh Tài sản cần có tính thanh khoản
cơ sở khoản hoặc ít thanh khoản (trái phiếu niêm yết, cổ phiếu niêm
Được đầu tư vào cổ phiếu OTC yết)
và cổ phiếu doanh nghiệp chưa
niêm yết
Phí -phí phát hành luôn được cộng -hoa hồng bán hàng khi mua
vào giá ban đầu hoặc khi bán hoặc cả 2, để chi trả
-phí quản lý của công ty quản lý cho các chi phí liên quan đếnđơn vị
quỹ quỹ và chi phí Marketing
Các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ là cổ đông và họ có quyền bầu ra thành viên
của Hội Đồng Quản Trị. Các tổ chức tham gia vào cơ cấu hoạt động QĐT dạng
Công ty là công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản. Ngoài ra tùy theo từng nước
có dự tham gia của các đại lý chuyển nhượng và nhà bảo lãnh hành chính.
Trong quy mô này công ty quản lý quỹ hoạt động như mọt nhà tư vấn đầu tư do
hội đồng quản lý quỹ thuê làm quản lý đầu tư và họ được hưởng phí từ việc quản lý
đầu tư đó. Thông thường, các Công ty quản lý có đội ngủ các nhà điều hành quản lý
quỹ rất chuyên nghiệp. Họ có trình độ chuyên môn và phân tích đầu tư cao. Nhà
đầu tư có trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và thực
hiện công việc quản trị kinh doanh khác. Có một vài quỹ, việc quản lý đầu tư và
quản trị kinh doanh nói chung tác rời nhau do các tổ chức khác nhau đã nhận.
Ngân hàng bảo quản là nơi bảo quản tài sản của quỹ, đồng thời tiến hành giao
hoặc nhận các chứng khoán trong giao dịch.
Ngoài ra các tổ chức tham gia nêu trên, tùy theo từng nước có đại lý chuyển
nhượng hoặc nhà đầu tư bảo lãnh phát hành chính tham gia vào hoạt động cảu quỹ
đầu tư. Đại lý ủy nhiệm thường được ủy nhiệm mua hoặc bán lại cổ phần của quỹ
(nếu quỹ đó là quỹ dạng mở). Nhà bảo lãnh phát hành chính giúp quỹ chào bán và
phân phối cổ phần quỹ cho các nhà đầu tư.
đóng góp hình thành nên quỹ. Mô hình này thể hiện rõ vai trò của ba bên tham gia
vào hoạt động của quỹ: Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám satvaf bảo quản, các
nhà đầu tư.
Công ty quản lý đứng ra thành lập quỹ, tiến hành huy động vốn, thực hiện việc
đầu tư theo mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ.
Ngân hàng giám sát và bảo quản mô hình này có vai trò quan trọng hơn nhiều so
với ngân hàng giám sát và bảo quản mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo quản vốn và
các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát và bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát
hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo thực hiện các mục tiêu và chính sách
đã nêu ra. Quan hệ giũa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát, bảo quản được
thực hiện bằng hợp đông giám sát trong đó quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của
hai bên trong việc giám sát thực hiện giám sát việc đầu tư dể đảm bảo quyền lợi của
các nhà đầu tư.
Người đầu tư là người đóp góp vốn vào quỹ và ủy thác việc đầu tư cho công ty
quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đã đóng góp của
họ. việc góp vốn đâu tư thực hiện bằng việc họ mua các chứng chỉ đầu tư do công ty
quản lý quỹ thay mặc quỹ phát hành.
Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là cổ đông như mô hình quỹ đầu
tư dạng công ty mà chỉ dơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ
hoạt động đầu tư của quỹ.
1.6: Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán
hay đi vay vốn để đầu tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn ngắn hạn để trang trải các chi
phí tạm thời khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn
1.6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản. Tổ chức
này chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà đầu tư, trên thế
giới hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thông thường là ngân hàng.
Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo quản tài sản trong quá
trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn mà phải cùng bàn bạc, biểu
quyết với các chủ thể khác như công ty quản lý quỹ
1.6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ
Khi các nhà đầu tư đầu tư hoặc rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác định giá phải
dựa trên nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với các nhà đầu tư mua
hoặc bán chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách thức xác định giá trị tài sản
của quỹ khi mua bán chứng chỉ.
1.6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư
Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút vốn đầu tư
vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư
Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà
nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các nhà đầu tư
1.6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ
Hầu hết các nước đều ngăn cấm các giao dịch giữa các chủ thể có liên quan với
quỹ. Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là các giao dịch liên quan tới tài sản
của quỹ giữa một bên là Quỹ đầu tư và một bên là chủ thể khác như công ty quản lý
quỹ, ngân hàng bảo quản giám sát, người bảo lãnhphát hành, nhà tư vấn… mà việc
giao dịch này có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của người đầu tư hiện tại của quỹ
Tại Mỹ các Quỹ đầu tư hoạt động theo hai mô hình là mô hình công ty và mô
hình tín thác. Trong đó thì mô hình công ty đặc biệt là các quỹ dạng mở chiếm ưu
thế hơn cả
Ngoài một số rủi ro hệ thống(như rủi ro thị trường, lãi suất, lạm phát, thiếu tính
thanh khoản, pháp lý và rủi ro tín nhiệm khi các đánh giá tính nhiệm về doanh
nghiệp bị thay đổi so với đánh giá ban đầu do các yếu tố khách quan), rủi ro xung
đột lợi ích, rủi ro mô hình định lượng và rủi ro về cơ sở dữ liệu là ba loại rủi ro lớn
ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của Quỹ:
xây dựng song song nhằm dự phòng cho những kịch bản thị trường có những thay
đổi lớn và phức tạp.
1. Quỹ đầu tư chứng khoán bao gồm quỹ đại chúng và quỹ thành viên.
1. Việc thành lập và chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng của quỹ đại chúng do
công ty quản lý quỹ thực hiện theo quy định tại Điều 90 của Luật này và phải đăng
ký với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
2. Việc thành lập quỹ thành viên do công ty quản lý quỹ thực hiện theo quy định tại
Điều 95 của Luật này và phải báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
1. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đại chúng dạng đóng bao gồm chào bán chứng
chỉ quỹ lần đầu ra công chúng, phát hành chứng chỉ quỹ để tăng vốn. Việc chào
bán, phát hành chứng chỉ quỹ phải được Công ty quản lý quỹ đăng ký với Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước. Tổng mức vốn huy động dự kiến cho Quỹ phải được quy
định rõ trong Điều lệ Quỹ (theo mẫu tại Phụ lục số 1 kèm theo Quy chế này) và Bản
Cáo bạch.
2. Việc phát hành chứng chỉ quỹ để tăng vốn cho các lần tiếp theo được thực
hiện cho các nhà đầu tư hiện hữu của quỹ thông qua phát hành quyền mua chứng
chỉ quỹ. Quyền mua chứng chỉ quỹ được phép chuyển nhượng. Trường hợp nhà đầu
tư hiện hữu không thực hiện quyền mua chứng chỉ quỹ, phần chứng chỉ quỹ còn dư
có thể được chào bán cho các nhà đầu tư khác.
3. Điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ lần đầu ra công chúng:
a) Giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán ít nhất 50 (năm mươi) tỷ đồng Việt
Nam;
b) Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào
bán chứng chỉ quỹ;
c) Có quy trình nghiệp vụ quản lý quỹ, quy trình kiểm soát nội bộ, quy trình
quản lý rủi ro phù
hợp.
4. Điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ cho các lần tiếp theo:
b) Lợi nhuận của Quỹ trong năm liền trước năm đề nghị tăng vốn phải là số
dương;
c) Công ty quản lý quỹ không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động
chứng khoán và thị trường chứng khoán trong thời hạn hai (02) năm, tính đến thời
điểm tăng vốn;
d) Phương án phát hành thêm chứng chỉ quỹ và phương án đầu tư số vốn thu
được phải được Đại hội nhà đầu tư thông qua.
5. Tổ chức quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp không
được tham gia mua chứng chỉ quỹ. Các doanh nghiệp nhà nước không được sử dụng
vốn của Nhà nước để mua chứng chỉ quỹ.
6. Căn cứ vào mục tiêu, cơ cấu danh mục và tài sản đầu tư, Công ty quản lý quỹ
phải xác lập cụ thể loại hình Quỹ theo tính chất, mục tiêu và cơ cấu đầu tư. Tên của
Quỹ phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát
âm được, phải thể hiện rõ bản chất của loại hình quỹ và có ít nhất hai thành tố sau
đây:
b) Tên riêng.
7. Các nội dung tại Khoản 6 Điều này phải được thể hiện trong Hồ sơ xin đăng
ký lập Quỹ, trong Điều lệ Quỹ và Bản Cáo bạch.
1. Việc giải thể Quỹ được tiến hành trong các trường hợp sau đây:
a) Quỹ kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong Điều lệ Quỹ và Giấy Chứng nhận
đăng ký lập quỹ mà không được gia hạn;
b) Đại hội nhà đầu tư tự nguyện giải thể Quỹ hoặc quyết định giải thể Quỹ
trước khi kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong Điều lệ Quỹ theo quy định tại Khoản
2 Điều này.
2. Các trường hợp Đại hội nhà đầu tư quyết định giải thể Quỹ trước khi kết thúc
thời hạn:
a) Công ty quản lý quỹ đề nghị chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với Quỹ hoặc
Công ty quản lý quỹ giải thể, bị phá sản hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động của
Công ty quản lý quỹ bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thu hồi mà không xác lập
được Công ty quản lý quỹ thay thế theo thời hạn quy định tại Điều lệ Quỹ;
b) Ngân hàng giám sát đề nghị chấm dứt Hợp đồng giám sát, Ngân hàng giám
sát giải thể, bị phá sản hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng
khoán của Ngân hàng giám sát bị thu hồi mà không xác lập được Ngân hàng giám
sát thay thế theo thời hạn quy định tại Điều lệ Quỹ;
c) Đại hội nhà đầu tư quyết định chuyển toàn bộ tài sản của Quỹ vào một Quỹ
khác;
d) Các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ Quỹ.
3. Trường hợp quy định tại Điểm a Khoản 1, Điểm c Khoản 2 Điều này, tối
thiểu ba (03) tháng trước ngày giải thể Quỹ, Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng
giám sát phải triệu tập Đại hội nhà đầu tư và trình phương án giải thể Quỹ hoặc lấy
ý kiến bằng văn bản về phương án giải thể để Đại hội nhà đầu tư quyết định.
Trường hợp Quỹ buộc phải giải thể theo quy định tại Điểm a, Khoản 2 Điều này,
Ngân hàng giám sát và Ban đại diện Quỹ phải triệu tập Đại hội nhà đầu tư hoặc lấy
ý kiến bằng văn bản về việc giải thể. Trường hợp Quỹ phải giải thể theo quy định
tại Điểm b, d Khoản 2 Điều này, Công ty quản lý quỹ và Ban đại diện quỹ phải triệu
tập Đại hội nhà đầu tư hoặc lấy ý kiến bằng văn bản về việc giải thể. Phương án giải
thể Quỹ phải được các bên có liên quan thống nhất trong thời điểm sớm nhất và
phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
4. Trong trường hợp quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều này, Công ty quản lý
quỹ phải gửi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước các tài liệu sau:
a) Thông báo về việc chuyển tài sản của Quỹ sang một Quỹ khác trong đó nêu
rõ thời gian dự kiến thực hiện việc này;
b) Biên bản và Nghị quyết của Đại hội nhà đầu tư của các Quỹ có liên quan nêu
rõ:
- Thông qua việc sáp nhập và chuyển toàn bộ tài sản của Quỹ sang Quỹ khác.
Việc sáp nhập Quỹ phải được thực hiện công bằng, công khai, minh bạch, đảm bảo
quyền lợi của các nhà đầu tư;
- Các khoản nợ của Quỹ bị giải thể sẽ được thanh lý đầy đủ và hợp lý trước khi
chuyển tài sản Quỹ sang Quỹ mới.
c) Phương án sáp nhập đã được Đại hội nhà đầu tư của các quỹ có liên quan
thông qua.
Phương án này phải đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư của Quỹ hình thành sau
khi sáp nhập;
d) Xác nhận của Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng giám sát bằng văn bản về
việc sẽ chịu trách nhiệm hoàn tất các thủ tục giải thể Quỹ.
5. Trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ khi nhận được các tài liệu nói trên, Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận việc giải thể Quỹ. Trường hợp không chấp
thuận, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước giải thích và nêu rõ lý do bằng văn bản.
Trong vòng năm (05) ngày làm việc kể từ khi việc chuyển tài sản của Quỹ sang Quỹ
mới hoàn tất, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát phải gửi Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước báo cáo chi tiết về việc chuyển tài sản của Quỹ sang Quỹ mới, giá
trị chuyển nhượng, giá trị tài sản ròng của Quỹ trước khi và sau khi sáp nhập, giá trị
tài sản ròng trên một đơn vị chứng chỉ quỹ trước khi và sau khi sáp nhập, tỷ lệ
chuyển đổi chứng chỉ quỹ và các thông tin có liên quan.
6. Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm hoàn tất việc
thanh lý tài sản Quỹ và phân chia tài sản Quỹ cho nhà đầu tư theo phương án được
Đại hội nhà đầu tư thông qua.
7. Trong trường hợp Quỹ bị giải thể theo quy định tại Điểm a, Khoản 2 Điều
này, Ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm hoàn tất việc thanh lý tài sản Quỹ.
Trường hợp Quỹ bị giải thể theo quy định tại Điểm a Khoản 1, Điểm b, c Khoản 2
Điều này, Ngân hàng giám sát, Công ty quản lý quỹ chịu trách nhiệm hoàn tất việc
thanh lý tài sản Quỹ. Trong trường hợp không xác định được tổ chức chịu trách
nhiệm hoàn tất việc thanh lý tài sản Quỹ và phân chia tài sản Quỹ, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước có quyền chỉ định một tổ chức độc lập thực hiện việc thanh lý tài
sản và phân chia tài sản Quỹ cho nhà đầu tư theo phương án và với chi phí thanh lý
được Đại hội nhà đầu tư thông qua.
8. Tiền thu được từ thanh lý tài sản Quỹ và các tài sản còn lại khi giải thể được
thanh toán theo trật tự ưu tiên sau đây:
a) Thanh toán các chi phí giải thể Quỹ, các khoản Quỹ phải trả cho Công ty
quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát. Trong trường hợp Quỹ buộc phải giải thể do Giấy
phép thành lập và hoạt động của Công ty quản lý quỹ hoặc Giấy chứng nhận đăng
ký hoạt động lưu ký chứng khoán của Ngân hàng giám sát bị Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước thu hồi, các khoản Quỹ phải trả cho
Công ty quản lý quỹ và cho Ngân hàng giám sát sẽ không phải thanh toán kể từ
ngày Giấy phép thành lập và hoạt động của Công ty quản lý quỹ hoặc Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán của Ngân hàng giám sát bị Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước thu hồi;
c) Thanh toán các khoản Quỹ phải trả khác theo quy định của pháp luật (nếu
có);
d) Phần tài sản còn lại của Quỹ được dùng để thanh toán cho nhà đầu tư tương
ứng với tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư trong Quỹ.
9. Trong thời hạn năm ngày (05) làm việc, kể từ ngày hoàn tất việc giải thể
Quỹ, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát hoặc tổ chức làm nhiệm vụ thanh lý
tài sản Quỹ theo quy định tại Khoản 7 Điều này phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước về kết quả giải thể Quỹ, bao gồm cả các thông tin về chi phí thanh lý, giá
trị thanh lý của một đơn vị quỹ phải trả cho nhà đầu tư, thời điểm thanh toán cho
nhà đầu tư và các thông tin có liên quan khác
1. Việc thành lập Quỹ thành viên phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
và phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Vốn góp tối thiểu là năm mươi (50) tỷ đồng Việt Nam;
b) Có tối đa ba mươi (30) thành viên góp vốn và chỉ bao gồm thành viên là
pháp nhân. Tổ chức tham gia góp vốn thành lập Quỹ thành viên chỉ được phép sử
dụng vốn của chính mình, không bao gồm các nguồn vốn ủy thác đầu tư, vốn chiếm
dụng từ các cá nhân, tổ chức khác;
c) Quỹ được uỷ thác cho một Công ty quản lý quỹ được cấp phép quản lý quỹ
thực hiện việc quản lý;
d) Tài sản của Quỹ thành viên được lưu ký tại một Ngân hàng lưu ký không
phải là người có liên quan với Công ty quản lý quỹ.
2. Trong quá trình thành lập Quỹ thành viên, các tổ chức, cá nhân tham gia
thành lập Quỹ không được sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng
cáo, kêu gọi góp vốn, thăm dò thị trường.
3. Việc đặt tên cho Quỹ phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Khoản 6 Điều
3 Quy chế này.
4. Công ty quản lý quỹ phải cung cấp cho các tổ chức có nhu cầu góp vốn vào
Quỹ thành viên Bản Cáo bạch tóm tắt. Tại trang bìa của Bản Cáo bạch phải nêu rõ
nguyên tắc hoạt động của Quỹ:
“Quỹ này không phải tuân thủ các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư của Quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng.
Việc đầu tư vào Quỹ này chỉ phù hợp đối với các tổ chức sẵn sàng chấp nhận mức
rủi ro cao tiềm tàng từ việc đầu tư của Quỹ. Tổ chức đầu tư vào Quỹ này cần cân
nhắc kỹ trước khi quyết định đầu tư”.
5. Hồ sơ thành lập quỹ thành viên do Công ty quản lý quỹ gửi Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước bao gồm:
b) Điều lệ Quỹ;
c) Hợp đồng lưu ký tài sản Quỹ phù hợp với Điều lệ Quỹ;
d) Biên bản thoả thuận góp vốn và Danh sách các thành viên góp vốn theo quy
định tại Điểm c, Khoản 2 Điều 9 Quy chế này;
e) Giấy xác nhận của Ngân hàng lưu ký về quy mô vốn đã huy động;
g) Biên bản họp và Quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản
trị, Quyết định của Hội đồng thành viên hoặc của Chủ sở hữu thành viên góp vốn về
việc tham gia góp vốn vào Quỹ và cử người đại diện phần vốn góp theo uỷ quyền,
văn bản ủy quyền, bản sao hợp lệ Giấy Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu của
người đại diện theo ủy quyền.
6. Công ty quản lý quỹ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ và chính xác của hồ sơ.
Trường hợp phát hiện hồ sơ đã nộp Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có những thông
tin không chính xác, bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ,
hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm hoặc theo yêu cầu
của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Công ty quản lý quỹ phải sửa đổi bổ sung hồ
sơ kịp thời. Bản sửa đổi, bổ sung gửi cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước phải có
chữ ký của những người đã ký trong hồ sơ hoặc của những người có cùng chức
danh với những người đó.
7. Trong thời hạn mười lăm (15) ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ Hồ sơ báo
cáo việc lập Quỹ thành viên hợp lệ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước gửi thông báo
bằng văn bản xác nhận việc lập Quỹ thành viên cho Công ty quản lý quỹ. Vốn của
Quỹ thành viên chỉ được giải ngân sau khi có thông báo xác nhận việc lập Quỹ của
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
1. Việc giải thể Quỹ được tiến hành trong các trường hợp theo quy định tại Điều
14 Quy chế này.
2. Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng lưu ký chịu trách nhiệm hoàn tất việc
thanh lý tài sản Quỹ theo phương án mà Đại hội thành viên đã thông qua. Trong
trường hợp không xác định được Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng lưu ký chịu trách
nhiệm hoàn tất việc thanh lý tài sản Quỹ theo phương án mà Đại hội thành viên đã
thông qua. Trong trường hợp không xác định được Ngân hàng lưu ký, Công ty quản
lý quỹ chịu trách nhiệm hoàn tất việc thanh lý tài sản Quỹ theo phương án mà Đại
hội thành viên đã thông qua. Trong trường hợp không xác định được cả Công ty
quản lý quỹ và Ngân hàng lưu ký, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có quyền chỉ
định một tổ chức độc lập thực hiện việc thanh lý tài sản Quỹ với chi phí thanh lý và
theo phương án thanh lý được Đại hội thành viên chấp thuận.
3. Tiền thu được từ thanh lý tài sản Quỹ và các tài sản còn lại khi giải thể được
thanh toán theo trật tự ưu tiên quy định tại Khoản 8 Điều 14 Quy chế này.
4. Trong thời hạn năm (05) ngày làm việc, kể từ ngày hoàn tất việc giải thể
Quỹ, Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng lưu ký hoặc tổ chức làm nhiệm vụ thanh lý
tài sản Quỹ phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về kết quả giải thể Quỹ
bao gồm các thông tin về chi phí thanh lý, giá trị thanh lý trên một đơn vị quỹ phải
trả cho nhà đầu tư, thời điểm thanh toán từng thành viên góp vốn và các thông tin có
liên quan khác.
2.2: Những kết quả đạt được những hạn chế của Quỹ Đầu Tư ở Việt Nam
Năm 2009, TTCK Việt Nam phục hồi nhờ vào các gói kích thích kinh tế
của Chính phủ. Mặc dù giá của các chứng chỉ quỹ có phục hồi nhẹ, nhưng TTCK
Việt Nam vẫn kém hấp dẫn so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế
giới. Tất nhiên, điều này khiến giá trị thị trường chứng chỉ quỹ tiếp tục suy giảm
và mức chiết khấu (mức chênh lệch giữa giá các chứng chỉ quỹ và giá trị tài sản
ròng của chứng chỉ quỹ) tiếp tục duy trì tại mức âm khá cao.
Năm 2010 là năm thất bát của quỹ đầu tư (QĐT), kể cả QĐT nước ngoài và
cả 5 QĐT nội địa đang niêm yết trên sàn TP.HCM. Giá trị tài sản ròng (NAV) của
hầu hết các QĐT nước ngoài đầu tư vào Việt Nam năm 2010 đều sụt giảm, giá
CCQ bị chiết khấu ít thì 10% - 15%, nhiều thì 30% - 40% so với NAV.
Năm 2011, Theo báo cáo của Rothschild, chỉ có 1/31 quỹ đại chúng đang
hoạt động trên TTCK Việt Nam có mức dương giá trị tài sản ròng (NAV). Đó là
quỹ đầu tư vào chứng khoán có thu nhập cố định của VinaCapital, VinaCapital
Vietnam Fixed Income Fund, với mức tăng 0,5% NAV trong cả một năm. Các quỹ
còn lại có mức âm rất lớn.
Cuối năm 2012 đầu năm 2013, nhiều quỹ đầu tư đã có mức tăng trưởng giá
trị tài sản ròng (NAV) lớn. Dù các quỹ vẫn chưa lấy lại được toàn bộ những gì đã
mất trong năm 2011, nhưng tương quan so sánh mức tăng trưởng NAV bình quân
của nhóm các quỹ đầu tư đại chúng niêm yết vào các thị trường mới nổi khác cho
thấy, thị trường chứng khoán Việt Nam đang ngày một hấp dẫn hơn.
Từ tháng 3/2008 tới nay, cùng với suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình huy động
quỹ trong nước của các CTQLQ gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ có 3 QĐT được
thành lập trong năm 2010 với tổng số vốn huy động 800 tỷ đồng. Trong số47
CTQLQ thành lập theo Luật Chứng khoán, chỉ có 13 công ty lập được quỹ trong
nước và thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ, còn các CTQLQ khác chủyếu chỉcung
cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cho các NĐT trong và ngoài nước. Vềtính chất
nguồn vốn, 23 QĐT trong nước chủyếu huy động nguồn vốn nội địa, duy nhất QĐT
thành viên của CTCP QLQ đầu tư FPT có hơn 51% vốn góp từ NĐTNN.
Bên cạnh đó, trong 23 QĐT chỉ có 5 quỹ đại chúng và 18 quỹ thành viên, thực tế
cho thấy các quỹ trong nước muốn thành lập quỹ thành viên hơn là quỹ đại chúng
do sự tiện lợi và nhanh chóng trong thể chế, chính sách cũng như dễ dàng huy động
vốn từ các NĐT thành viên hơn là các NĐT đại chúng. Như vậy, số lượng các quỹ
đại chúng vẫn còn rất hạn chế trên thị trường quỹ Việt Nam.
Loại hình QĐT đang hoạt động ở Việt Nam chưa đa dạng, phong phú:
Do các hạn chế về thể chế chính sách hay một số nguyên nhân khách quan khác mà
các loại hình QĐT hiện nay ở Việt Nam thực sự chưa đa dạng và phong phú như
trên thị trường quỹ của nước ngoài.
Quỹ thành viên được hiểu là quỹ thành lập dựa trên ý chí của các thành viên về
mục tiêu, chính sách đầu tư cũng như các điều kiện và điều khoản khác. Theo thông
lệ quốc tế, CTQLQ đăng ký thành lập quỹ thành viên và trên cơ sở các điều khoản
quỹ đã được xác nhận đăng ký để kêu gọi các NĐT góp vốn. Tại Việt Nam, quy
trình gần như ngược lại, hồ sơ thành lập quỹ yêu cầu có danh sách các thành viên
góp vốn, biên bản thỏa thuận góp vốn và giấy xác nhận của ngân hàng lưu ký về
quy mô vốn đã huy động. Đối với NĐTNN, cam kết góp vốn và việc nộp tiền chỉ áp
dụng với quỹ đã được pháp luật xác nhận thành lập. Còn với UBCK Việt Nam, quỹ
chỉ được xác nhận thành lập khi có đủ cam kết góp vốn của NĐT. Sự khác nhau này
tạo ra mâu thuẫn và đặt ra câu hỏi “con gà – quả trứng” đối với các NĐT. Mặt khác,
NĐTNN đầu tư vào quỹtrong nước còn gặp nhiều khó khăn khác về mặt giấy tờ,
thủ tục, phải có báo cáo tài chính chứng minh năng lực của NĐT. Ngoài ra, quy
định hiện hành chỉcho phép thành lập quỹđóng, theo đó, NĐT không được rút vốn
trước khi hết thời hạn của quỹ. Các quy định vềquỹmởđang được xây dựng nhưng
với tốc độ rất chậm và còn nhiều điểm vướng mắc, các CTQLQ chắc còn phải
chờ đợi để các quy định này đi vào thực tế.
Phần lớn các thương vụ đầu tư sẽ được tập trung vào các loại chứng khoán đang
và sẽ niêm yết trên TTCK Việt Nam. Chứng khoán này bao gồm chứng khoán của
các công ty đang niêm yết trên thị trường, các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
công ty, cổ phiếu của các công ty cổ phần.
Ngoài ra, mục tiêu của quỹ còn nhắm đến trong quá trình đầu tư là giúp các đơn
vị tái cơ cấu về mặt tài chính, phát triển hệ thống quản trị, nâng cao năng lực cạnh
tranh… nhằm làm gia tăng giá trị của chính các công ty này và vì thế gia tăng về
mặt giá trị các khoản đầu tư của Quỹ đầu tư VF1.
Ngân hàng giám sát: ngân hàng TNHH một thành viên HSBC
Chiến lược đầu tư năng động của Quỹ Bảo Việt Fund được ra đời từ những đúc
kết và tổng hợp điểm mạnh, yếu của những chiến lược đầu tư điển hình trước đó.
Bằng sự kết hợp giữa phương pháp phân bổ tài sản chủ động và phương pháp đầu tư
theo rổ cổ phiếu, chiến lược này đã cho thấy một số những ưu điểm nổi bật sau:
- Đa dạng hóa rủi ro dựa trên nền tảng phân bổ vào nhiều loại tài sản có đặc
tính khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi ngân hàng…
- Tiết kiệm thời gian, nắm bắt nhanh cơ hội thị trường: với chiến lược đầu
tư năng động, người quản lý danh mục chỉ cần thực hiện phân tích cơ hội thị trường
và tiến hành việc phân bổ tỷ trọng các tài sản đầu tư trong danh mục. Bên cạnh đó,
phương pháp đầu tư theo rổ cổ phiếu VN30 tạo sự linh hoạt hơn trong lựa chọn thời
điểm đầu tư, đồng nghĩa với việc bị bỏ lỡ những con sóng lớn của thị trường.
- Chi phí quản lý thấp: khác với phương pháp đầu tư chủ động, quỹ BVFED
đầu tư mô phỏng theo chỉ số VN30 giúp giảm thiểu tối đa các chi phí quản lý và vận
hành, qua đó gián tiếp tiết kiệm cho nhà đầu tư và gia tăng tỷ suất lợi nhuận đầu tư.
Có thể thấy, bất cứ chiến lược đầu tư nào đều có những điểm mạnh và điểm yếu
nhất định. Điều quan trọng là chiến lược đầu tư đó có thể hiện được sự linh hoạt,
phù hợp với tình hình thị trường cũng như mục tiêu lợi nhuận và nhu cầu của nhà
đầu tư hay không. Quỹ BVFED đã bước đầu tạo được ấn tượng tốt với nhà đầu tư
bởi chiến lược đầu tư khác biệt và linh hoạt. Với những kinh nghiệm và sự am hiểu
thị trường của Công ty Quản lý quỹ Bảo Việt, hy vọng những ưu điểm của chiến
lược đầu tư sẽ được hiện thực hóa và tạo ra hiệu quả đầu tư tốt khi quỹ chính thức đi
vào hoạt động.
là đem lại mức lợi nhuận cao với độ rủi ro hợp lý cho nhà đầu tư, VCF đầu tư một
cách có chọn lọc vào các doanh nghiệp hàng đầu với bộ máy quản lý tốt, có nền
tảng vững chắc và tăng trưởng bền vững, có mức giá hợp lý. Điểm đặc thù của VCF
so với các quỹ khác là chúng tôi luôn tìm ra những giải pháp có lợi cho tất cả các
bên thông qua việc củng cố quan hệ và tạo dựng giá trị cho tất cả các đối tác kinh
doanh.
Chiến lược đầu tư 90% quy mô Quỹ sẽ được đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, 10% cò
lại sẽ đầu tư vào các hạn mục đầu tư ngắn hạn
Lĩnh vực đầu tư Các lĩnh vực trọng yếu và chiến lược, có tiềm năng và tốc độ tăng trưởng
nhanh tại Việt Nam
(không đầu tư trực tiếp vào bất động sản và hạ tầng)
Tiêu chuẩn đầu tư Đầu tư vào những doanh nghiệp hàng đầu, có đội ngũ lãnh đạo tốt với mứ
giá cạnh tranh,
Quy mô đầu tư Không đầu tư nhiều hơn 15% giá trị tài sản ròng của Quỹ vào một doan
nghiệp, và không quá 30% giá trị tài sản ròng của Quỹ vào các công t
trong cùng một tập đoàn hoặc một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫ
nhau
Thông qua chiến lược đầu tư chủ động, chúng tôi tin rằng có thể đạt được mục
tiêu đầu tư một cách nhất quán đem lại lợi nhuận cao nhất cho các nhà đầu tư.
Mục tiêu của quỹ là nắm bắt những cơ hội của một nền kinh tế mở cửa, đang
tăng trưởng nhanh và năng động.
Theo đuổi một chiến lược đầu tư dài hạn và cơ bản, Quỹ tập trung vào cổ
phiếu của các công ty có lợi thế cạnh tranh cao và bền vững trong những ngành có
tốc độ tăng trưởng cao với mức giá hợp lý. Chiến lược này đảm bảo đem lại những
giá trị hấp dẫn trong dài hạn với mức rủi ro thấp.
Quỹ ưu tiên đầu tư vào các ngành nhằm nâng cao điều kiện sống và giá trị
cho xã hội. Đầu tư vào các ngành phát triển không lành mạnh, đặc biệt là những
ngành có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khoẻ cộng đồng và môi trường sẽ không được
khuyến khích.
Dựa vào kỹ năng của đội ngũ chuyên gia và nguồn lực của tổ chức, VCAM khai
thác các cơ hội đầu tư nhiều tiềm năng. Quỹ cam kết:
Áp dụng quy trình đầu tư có hệ thống, có phương pháp để xác định và đánh
giá các cơ hội đầu tư nhằm đạt hiệu quả cao. Tất cả các khoản đầu tư đều phải trải
qua một quá trình khảo sát và đánh giá chi tiết và toàn diện.
Áp dụng phương pháp đổi mới, sáng tạo dựa trên kỹ thuật quản lý tài sản đa
dạng để đưa ra các giải pháp thích hợp cho khách hàng.
Xây dựng danh mục đầu tư đa dạng nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất với
mức rủi ro thấp nhất.
Luôn đồng hành với đội ngũ nhân viên, các đối tác và các nhà đầu tư.
Tận dụng được các mối quan hệ quốc tế và trong ngành, VCAM không chỉ
đóng vai trò của nhà đầu tư tài chính mà còn là một đối tác chặt chẽ của các công ty
được đầu tư, đem lại giá trị gia tăng cho các công ty này thông qua việc tư vấn và
ráp nối các đối tác cùng ngành với nhau. Phương châm đầu tư của chúng tôi là : An
toàn, Ổn định và Hiệu quả.
Quy trình đầu tư là sự kết hợp của cả phương pháp từ trên xuống và từ dưới
lên trong việc rà soát và phân tích nhằm lựa chọn chính xác những cổ phiếu phù hợp
nhất.
Nhận thức được những đặc thù của việc tiến hành kinh doanh trong một thị
trường trẻ, mới nổi, việc Phân tích rủi ro là trọng tâm của quy trình đầu tư. Việc
khảo sát toàn diện doanh nghiệp được tiến hành cho mỗi thương vụ đầu tư thông
qua việc đi khảo sát thực tế tại hiện trường, gặp gỡ với các bên có liên quan của
doanh nghiệp, các chuyên gia trong ngành – đây là những bước bắt buộc trước khi
đưa ra quyết định đầu tư.
Sau khi tiến hành đầu tư, chúng tôi luôn theo sát doanh nghiệp để đánh giá rủi
ro và ra quyết định kịp thời cho mỗi khoản đầu tư.
Ngày 02/04/2010, Quỹ đầu tư Năng động Việt Nam được cấp giấy chứng nhận
đăng ký lập Quỹ số 14/UBCK-GCN với thời hạn hoạt động 05 (năm) năm, thuộc
loại hình quỹ đóng.
Vào ngày 09/07/2010, Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã cấp Quyết định
niêm yết số 142/QĐ-SGDHCM cho phép Quỹ đầu tư Năng động Việt Nam niêm
yết chứng chỉ quỹ trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh với nội dung:
Ngân hàng giám sát: Ngân Hàng Far East National - CN TP. HCM
Mục tiêu đầu tư chính của Quỹ đầu tư VFA là nắm bắt được xu hướng tăng
trung hạn và dài hạn của thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên mô hình đầu tư
theo xu hướng (trend-following) nhằm mang lại lợi nhuận ròng cho quỹ song song
với mục tiêu bảo toàn vốn khi thị trường diễn biến không thuận lợi.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, Quỹ đầu tư VFA sử dụng mô hình đầu tư theo xu
hướng thị trường (trend following). Mô hình đầu tư theo xu hướng thị trường ứng
dụng phương pháp định lượng như sử dụng các mô hình thống kê một khối lượng
lớn dữ liệu trên hệ thống máy vi tính để nắm bắt chính xác các xu hướng trung và
dài hạn xuất hiện trên các thị trường khác nhau. Nói một cách cụ thể, mô hình này
đầu tư dựa trên cơ chế như sau: mua khi thị trường có xu hướng tăng và bán khống
khi thị trường có xu hướng giảm. Vì bán khống (short sell) chưa được thực hiện ở
thị trường Việt Nam, chiến lược đầu tư theo xu hướng mà Quỹ đầu tư VFA sử dụng
không thể tìm kiếm lợi nhuận khi thị trường đi vào xu hướng giảm.
Tuy nhiên, chiến lược đầu tư theo xu hướng thị trường mà Quỹ đầu tư VFA đề
ra vẫn có khả năng tạo ra lợi nhuận ở cả hai xu hướng thị trường (xu hướng lên và
xu hướng xuống) trong tương lai khi luật cho phép nghiệp vụ bán khống được thực
hiện. Chiến lược đầu tư theo xu hướng thị trường không tìm cách dự đoán thị
trường mà thay vào đó là giải ngân khi thị trường đã xuất hiện các xu thế rõ ràng và
thoát khỏi thị trường (exit) khi các xu thế trên đã kết thúc hoặc đảo chiều. Hơn nữa,
phương pháp đầu tư này có mức lợi nhuận không tương quan với phương pháp đầu
tư truyền thống (“buy and hold”) vì chiến lược đầu tư theo xu hướng thị trường
thực hiện bảo toàn vốn khi thị trường diễn biến không thuận lợi.
Với chiến lược đầu tư vào rổ cổ phiếu đại diện cho VN-Index, cơ cấu danh mục
đầu tư theo ngành nghề của Quỹ đầu tư VFA chủ yếu dựa trên cơ cấu ngành nghề
của các cổ phiếu có vốn hóa thị trường lớn. Do hầu hết các tổng công ty nhà nước
cổ phần hóa và các công ty tư nhân lớn có mức vốn điều lệ lớn, ảnh hưởng nhiều
đến vốn hóa thị trường và tỷ trọng của các cổ phiếu hiện tại đang niêm yết khi các
công ty mới này lên niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tùy theo tiến độ niêm yết của các tổng công ty nhà nước cổ phần hóa và các
công ty tư nhân lớn, cơ cấu đầu tư của Quỹ sẽ thay đổi cho phù hợp. Dự kiến lĩnh
vực đầu tư của VFA sẽ chia thành 12 nhóm ngành nghề với tỷ trọng phân được chia
làm 2 giai đoạn dựa trên tiến độ cổ phần hóa và niêm yết dự kiến của các công ty
lớn.
Quỹ đầu tư Doanh nghiệp Hàng đầu Việt Nam (Quỹ đầu tư VF4) được Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước cấp phép phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng
theo giấy phép số 04/UBCK-GCN ngày 18/12/2007 và Tổng vốn huy động được từ
công chúng là 806.460.000.000 đồng tương ứng với số lượng Đơn Vị Quỹ là
80.646.000 đơn vị. Ngày 28/02/2008, Quỹ đầu tư Doanh nghiệp Hàng đầu Việt
Nam được cấp giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ số 11/UBCK-GCN với thời hạn
hoạt động 10 năm, thuộc loại hình quỹ đóng.
Vào ngày 03/06/2008, Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã cấp Quyết định
niêm yết số 58/QĐ-SGDHCM cho phép Quỹ đầu tư Doanh nghiệp Hàng đầu Việt
Nam niêm yết chứng chỉ quỹ trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh với
nội dung:
Ngân hàng giám sát: Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC – CN. Tp. HCM
Quỹ đầu tư VF4 ra đời với mục tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp hàng đầu hoạt
động trong các ngành cơ bản của nền kinh tế Việt Nam. Cơ hội đầu tư vào các
doanh nghiệp này xuất hiện từ quá trình cổ phần hóa những tổng công ty lớn của
nhà nước trong giai đoạn 2007 – 2010 cũng như sự lớn mạnh và xu hướng cổ phần
hóa của khối doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp đầu tư là các doanh nghiệp
giá trị lớn đã và chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Danh mục
đầu tư của quỹ sẽ được xây dựng nhằm mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa
rủi ro cho nguồn vốn đầu tư của quỹ.
Quỹ đầu tư VF4 chủ yếu đầu tư vào các doanh nghiệp hàng đầu hoạt động trong
các ngành cơ bản, chủ đạo của nền kinh tế Việt Nam. Những doanh nghiệp này hoạt
động trong các lĩnh vực, ngành nghề bao gồm nhưng không giới hạn như: năng
lượng, vật liệu - khai khoáng, tài chính, ngân hàng, viễn thông, cơ sở hạ tầng, bất
động sản, hàng tiêu dùng và những doanh nghiệp này luôn nằm trong tốp 20 doanh
nghiệp hàng đầu của ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp đó đang hoạt động và có vốn
điều lệ tối thiểu là 150 tỷ đồng Việt Nam
Tùy theo tiến độ cổ phần hóa cũng như tiến trình niêm yết sau cổ phần hóa, cơ
cấu đầu tư của Quỹ sẽ thay đổi. Với quyết định cổ phần hóa gắn liền với niêm yết
của các doanh nghiệp thì tỷ trọng cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ
tăng dần, tỷ trọng cổ phiếu chưa niêm yết sẽ giảm dần.
Cơ cấu đầu tư của Quỹ đầu tư VF4 được phân bổ như sau:
70% tổng giá trị tài sản sẽ được đầu tư vào cổ phần của các công ty đại
chúng chưa niêm yết, cổ phần của các tổ chức phát hành riêng lẻ, là các doanh
nghiệp lớn của Nhà nước được cổ phần hóa, các tài sản tài chính khác. Việc đầu tư
vào cổ phần của các tổ chức phát hành riêng lẻ và các tài sản tài chính khác sẽ
không vượt quá 10% tổng giá trị tài sản của Quỹ.
25% sẽ được đầu tư vào những doanh nghiệp niêm yết và đang giao dịch trên
thị trường chứng khoán,
Chính sách phân bổ ngành nghề của Quỹ đầu tư VF4 được cân nhắc dựa trên
quy mô vốn hóa của các doanh nghiệp cổ phần hóa, và trên những phân tích, dự báo
ngành nghề của Công ty quản lý quỹ VFM về tiềm năng tăng trưởng, mức sinh lời...
nhằm đảm bảo mục tiêu hoạt động của Quỹ đầu tư VF4.
Dưới đây là các nhóm ngành nghề đầu tư dự kiến của Quỹ đầu tư VF4. Cơ cấu
ngành nghề này có thể thay đổi theo từng thời điểm nhằm nắm bắt cơ hội đầu tư
cũng như theo tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp.
Tỷ trọng đầu tư
Nhóm ngành nghề
(%)
Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm soátthì
các nhà đầu tư không thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khoánvì họ
không tin tưởng vào khả năng sinh lợi trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình
trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng và thị trường chứng
khoán nói chung. Một nền kinh tế ổn định còn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có
thể duytrì sự phát triển ổn định của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong
và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, quan tâm tới việc mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm cách
huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường chứng
khoán. Đây là xu hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát
triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán sẽ phong phú.
Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn hơn đối với người
đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của cácchứng khoán, làm cho hoạt động
kinh doanh chứng khoán sôi động.
Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạmphát
trong điều kiện chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giớitrong xu
hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện
pháp cơ bản sau:
- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư pháttriển.
Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách
khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế
quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo
hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện,cải tiến thiết bị công
nghệ theo chiều sâu.
doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp
xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngoài, cần nhanh chóng chỉnh sửa nhằm
khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ
lệ cổ phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%.
3.1.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và
phát triển của Quỹ đầu tư
Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành cácQuỹ đầu
tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và
trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động, do vậy rất
cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai
đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò to
lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hìnhthành và phát triển Công ty tín thác đầu tư.
Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có
những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua các cổ
phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore
chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích
tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó
ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ
giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập
công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công
chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến
khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức khác.
nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫncòn bị bỏ ngỏ. Các nhà
quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng đểthu hút nguồn vốn đầu tư gián
tiếp này, một phần vì sợ các nhà đầutư nướcngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng
hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra
vào năm 1997. Nhưng trên thực tế,tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường Việt
Nam hiện nay chiếm chưa đến1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy
ra khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa
tới kênh thu hút vốn này.
Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nòng cốt
cho thị trường chứng khoán. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất
định cho việc thành lập các công ty chứng khoán hoặc tăng vốn điều lệ cho các
ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân hàng thành lập công ty
chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với công ty chứng khoán nước ngoài.
Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương
thức thanh toán… tạo điều kiện cho mọi hoạtđộng trên thị trường chứng khoán nói
chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng
được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản cho các Quỹ
đầu tư. Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng Khoán nhà
nước đã ký giấy phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước
chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi các Quỹ đầu tư ra
đời.
3.1.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng
khoán của Quỹ đầu tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc
chắn khi thành lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn.
Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của
quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước đối với sự hoạt động
và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.
Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư theo quy
định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trườngchứng khoán:
Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty
quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Với
quy định như vậy thì Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân, không thuộc sự điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật
thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên
tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư
cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp nhân kinh
doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế
độ miễn trừ nhất định để quỹnày được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định
về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ
đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên
góc độ thuế.
Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được chia từ các quỹ hoặc
chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu vào và lợi
nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ.
Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại
hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay
thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ tận dụng được hết
mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng.
3.1.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện
pháp tăng cung kích cầu
Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khoán. Để
Quỹ đầu tư hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩymạnh hoạt động
của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế,
số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường tập
trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngoài quầy, mức cầu cũng
không khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà
nước phải đảm bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung
kích cầu trên thị trường chứng khoán.
Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị
trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hoá chứng khoán
cho thị trường là một vấn đề rất quan trọng. Thực tiễn các thịtrường chứng khoán
thế giới đã chứ ng minh rằng một thị trường chứng khoán sẽ không thể hoạt động
một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị trường
không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một thị trường như vậy được coi là một
thị trường mỏng, thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động
bởi các yếu tố khách quan bên ngoài,không đảm đương được vai trò là nơi huy động
và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội. Một trong những
mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào chứng
khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường
còn hạn chế. Để tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu
quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hoá chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ
đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay,
khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ
phiếu phát hành để bán ra bên ngoài cho công chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở
hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho
cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp còn cao hơn 38% do đó tỷ lệ bán cho
công chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hoá có triển vọng làm
ăn tốt thì các nhà đầu tư riêng lẻ là công chúng khó có thể mua được cổ phiếu của
các doanh nghiệp này. Vì thế, việc dành quyền ưu tiên mua cho các
Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa có thể
thựchiện biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá phổ cho
côngchúng qua việc họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ. Có thể áp dụng các giải
pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng
Hoá cho thị trường như tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ
đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho đầu tư của ngân sách là rất lớn nên
việc vận dụng công cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội chi ngân
sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh
việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công
trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ
là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước.
Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy địnhhai hình
thức mới của việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thông qua các nhà bảo
lãnh phát hành và thông qua đấu thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán, mục
đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể giao dịch trên thị trường.
Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ cấu
phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu
chính phủ dài hạn có mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái
phiếu chính phủ cũng không nên cao hơn lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng
khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, trái
phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành
từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát
hành phải có khối lượng tương đối lớn. Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn
hàng hoá không nhỏ khác cho thị trường chứng khoán là trái phiếu công ty. Để đảm
bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh nghiệp, hiện nay việc
cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt
giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà
nước. Điều này thúc đẩy họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu
công ty.
Nhà nước khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng và
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính
sách cho phép chuyển công ty liên doanh thành công ty cổ phần, chính sách khuyến
khích phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư
nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu
đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách
niêm yết giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán… Hiện tại, quy mô vốn của
các Quỹ đầu tư nước ngoài đã giảm xuống còn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn
này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện nay trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết vào
khoảng 140triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20%
cổ phiếu của các công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư
vào thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư
nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường chứng khoán.
Ngoài việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng chứng khoán
thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn
những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường.
Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra làphải tạo lập
một cơ chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích công chúng đầu tư vào chứng
khoán. Để kích cầu, trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu
hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường
chứng khoán và đầu tư chứng khoán.Có chính sách ưu đãi về thuế đối với các nhà
đầu tư và thị trường chứngkhoán trong giai đoạn đầu khi mới thành lập. Chưa nên
áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập ròng từ đầu tư chứng khoán, chưa
nên đánh vào cổ tức thu được từ đầu tư chứng khoán. Thực hiện miễn giảm thuế đối
với các công ty chứng khoán trong vài năm đầu mới thành lập để tăng cường sức
mạnh tài chính của nó, nhanh chóng hội nhập vào thị trường vốn đang cạnh tranh
ngày càng khốc liệt giữa các nước. Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một
cách hợp lý để người lao động có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của
doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được mua chịu một số cổ
phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi
Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị trường,
muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn điều lệ
của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho
các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng
thương mại.
Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân,
các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như
chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp…
3.2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu
tư chuyên nghiệp
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự
thành công của một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư
chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa
trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của quỹ, người ta
cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không
còn làm cho quỹ nữa.
Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên
nghiệp điều hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành
công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn
có đội ngũ chuyên viên phân tích tài chính.
Hiện nay, các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ
theo các kênh:
- Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích
chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài
chính tín dụng. Sau đó các nhân viên này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi
sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên nghiệp.
- Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ, sau đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho
các nhân viên này.
- Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu
tư ở một số nước. Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp
thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức
nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có
kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà quản lý
chuyên nghiệp cho quỹ.
3.2.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công
chúng
Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt
Nam. Do vậy, một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn của các nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư.
Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu
tư cho công chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng
thu hút các nhà đầu tư tham gia vào Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự
thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và tham gia của công chúng.
Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào thị
trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để
phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng như
tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực
này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán. Nhưng với vai trò là
người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm
bảo các thông tin trên thị trường chứng khoán là chính xác, trung thực. Có như vậy
mới giúp những người ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị
trường được dễ dàng.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ
thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng tương xứng với tầm quan trọng về
yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới chỉ dừng lại
ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các
chương trình đào tạo vẫn còn quá ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh, chưa mở rộng sang các tỉnh thành khác.
KẾT LUẬN
TTCK Việt Nam vẫn đang trên đà hội nhập và phát triển, ưu tiên hàng đầu
trong quá trình đi lên của TTCK là đảm bảo chất lượng và tính đa dạng của hàng
hóa nhằm thu hút sự tham gia đầu tư của nhiều cá nhân và tổ chức ngày càng
chuyên nghiệp đầu tư vào thị trường. Xuất phát từ nhu cầu trên mà việc hình thành
và phát triển các mô hình quản lý quỹ và QĐT có ý nghĩa rất lớn nhằm gia tăng các
định chế trung gian cho thị trường và hướng thị trường đi đến sự tăng trưởng ổn
định và bền vững.
Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 có thể xem là thập kỷ bùng nổ của TTCK mới
nổi. Việc thị trường các nước mới nổi này liên tục tăng trưởng với tốc độ 2 thậm chí
3 con số minh chứng cho những thay đổi sâu sắc trong nên kinh tế toàn cầu. Cơ hội
đầu tư và thu hút vốn của các thị trường này là rất lớn. Do đó, việc hình thành
và phát triển các QĐT chứng khoán trên các thị trường này để đảm bảo hoạt động
đầu tư quy cũ và giúp cho thị trường phát triển bền vững là việc làm cần thiết trong
giai đoạn hiện nay. QĐT chứng khoán có thể xem là một mô hình phù hợp định
hướng cho sự phát triển thị trường các nước mới nổi trong giai đoạn hiện nay và
trong tương lai.
Việt Nam là một TTCK còn tương đối non trẻ nhưng đang trong đà tăng
trưởng tốt. Phát triển và hoàn thiện QĐT chứng khoán cũng là giải pháp thiết thực
phục vụ cho chiến lược phát triển vốn và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
thế giới. Trong giới hạn của mình, luận văn cũng đã nghiên cứu và đề xuất các giải
pháp nhằm phát triển QĐT chứng khoán vì đây là loại hình phù hợp cho các TTCK
mới nổi như Việt Nam
1. Giáo trình “thị trường chứng khoán” Tác giả: TS. Nguyễn Thị Mỹ
Dung (Chủ biên), Bùi Nguyên Hoàn, Ths. Trần Văn Trung.