You are on page 1of 3

Đỏ: pp

Đen : nói

1. Kiểu pháp luật là gì?

Kiểu pháp luật là một nhóm pháp luật có những đặc điểm cơ bản, đặc thù giống nhau, thể hiện tập trung ở cơ sở kinh tế và tính
giai cấp của pháp luật đó.

Nhờ khái niệm kiểu pháp luật mà chúng ta có thể nhận thức được một cách cụ thể là logic về bản chất và ý nghĩa xã hội của các
pháp luật được xếp trong cùng một kiểu, về những điều kiện tồn tại và phát triển của các pháp luật đó. Những thông tin đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, nhận thức, đánh giá, về những điểm cơ bản, đặc thù của một kiểu (nhóm) pháp luật như bản
chất, vai trò, điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật nào đó.

Trên cơ sở các quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã xem xét lịch sử xã hội như là một quá trình
lịch sử tự nhiên của sự thay thế một hình thái kinh tế – xã hội khác. Mỗi một hình thái kinh tế – xã hội là một kiểu lịch sử của xã hội
được thiết lập trên cơ sở của một phương thức sản xuất.

Pháp luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng. Bản chất, nội dung của pháp luật suy cho cùng là do cơ sở kinh tế quyết định,
vì vậy để phân loại các kiểu pháp luật đã tồn tại trong lịch sử cần dựa vào hai tiêu chuẩn: một là, dựa trên cơ sở kinh tế nào và quan
hệ sản xuất; hai là, sự thể hiện ý chí của giai cấp và củng cố quyền lợi của giai cấp nào trong xã hội.

Sự ra đời của kiểu pháp luật phong kiến


 Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai ra đời trên cơ sở thay thế nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Pháp luật phong kiến ra đời ở Trung Quốc vào thế kỷ III trước Công nguyên, ở Tây Âu và Ấn Độ
vào khoảng thế kỷ V

 Pháp luật phong kiến có một số đặc điểm cơ bản như mang tính đẳng cấp, đặc quyền, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các tư tưởng tôn giáo, có các hình phạt dã man, tàn bạo, phát triển không toàn
diện (nặng về hình sự, nhẹ về dân sự; nặng về công pháp, nhẹ về tư pháp), thể hiện sự bất bình đẳng
về giới tính.

 Khác với pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến được xây dựng trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân
của địa chủ, quý tộc phong kiến về tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất và sự bóc lột nông dân
thông qua chế độ tô, thuế. Pháp luật phong kiến có đặc điểm sau:

1. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật phong kiến


a) Pháp luật phong kiến phân chia xã hội phong kiến thành những đẳng cấp khác nhau và
quy định cho mỗi đẳng cấp những đặc quyền khác nhau
- Theo pháp luật phong kiến thì xã hội được chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau và
sự phân chia giai cấp này còn xảy ra trong gia đình, cộng đồng -> Việc phân chia xã
hội có ý nghĩa tạo ra trật tự giữa các thành viên trong gia đình, giữa kẻ cầm quyền và
kẻ bị trị
- Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố cho mỗi đẳng cấp có những đặc quyền
riêng. Giai cấp thống trị được chia thành nhiều đẳng cấp với tước vị quý tộc, địa vị
xã hội khác nhau như vương, công, hầu, bá, tử, nam.
- Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố những đặc quyền riêng dành cho từng giai
cấp và thực sự thì giai cấp bị trị không hề có bất cứ quyền lợi nào. Ngược lại; vua
chúa, địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều quyền lợi: xét xử nông dân, đặt ra luật lệ, thu
thuế, tịch thu tài sản của những người nông dân
- Tính đặc quyền của pháp luật phong kiến còn được thể hiện ở việc căn cứ vào từng
giai cấp để quyết định sự trừng phạt. Những hành vi xâm phạm, xúc phạm vua chúa,
quan lại sẽ bị trừng trị nặng. Còn sự xâm hại đến nông dân chỉ bị phạt nhẹ, thậm chí
có thể dùng tiền để mua chuộc
 Tính chất đặc quyền thể hiện rõ ràng sự vô lý và bất bình đẳng trong xã hội phong
kiến
b) Pháp luật phong kiến dung túng việc sử dụng bạo lực và sự tùy tiện của địa chủ phong
kiến đối với nông dân và những người lao động khác trong xã hội
- Pháp luật phong kiến hợp pháp hóa sự chuyên quyền, tùy tiện sử dụng các hình phạt
vô nhân đạo lên giai cấp bị trị
- Theo quy định của pháp luật phong kiến thì địa chủ có thể tự mình xét xử và tra tấn
nông dân khi tra khảo. Pháp luật phong kiến còn bắt ép nông dân “nhường lại” đất
đai, tài sản hay thậm chí là vợ con của mình; nếu không sẽ bị đánh đập, hành hạ,
thậm chí là giết chết để cưỡng đoạt
- Tòa án phong kiến có thể xét xử bất kì một vụ việc nào: nhà nước, đạo đức, tín
ngưỡng,... Tòa án sau khi đã tuyên án sẽ phải thực thi ngay lập tức, nhiều lúc bản án
chỉ là lời tuyên bố bằng miệng của quan lại, vua chúa mà không cần căn cứ vào bất
cứ điều gì
- Pháp luật cho phép địa chủ, quý tộc phong kiến có toàn quyền tra tấn, xét xử và áp
dụng tất cả các hình phạt đối với nông dân mà không cần điều kiện. Ăngghen viết:
“Trong những chương giảo huấn của Bộ luật Carôlỉna nói đến việc “cắt tai’’, “xéo
mũi”, “khoét mắt”, “chặt ngón tay và bàn tay”, “chặt đầu”, “buộc vào bánh xe đánh
cho gẫy chân tay”, “thiêu đốt”, “kẹp bằng kìm nung đỏ”, “phanh thây”... không một
chương nào mà bọn lãnh chúa nhân hậu và bọn bảo hộ lại không thể áp dụng với
nông dân của chúng, tuỳ theo sở thích” Pháp luật cho phép mọi người trong xã hội
có thể giải quyết tranh chấp với nhau bằng cách dùng bạo lực như đấu gươm hoặc
đấu súng.
c, Ba là, pháp luật phong kiến quy định những hình phạt và cách thi hành hình phạt
rất dã man, hà khắc.
- Hình phạt mà pháp luật phong kiến đưa ra với mục đích gây đau đớn về thể xác và
tinh thần cho những người nông dân, đồng thời hạ thấp giá trị của giai cấp bị trị. Vì
đó mà các mối quan hệ trong xã hội thường bị hình sự hóa và pháp luật hình sự
phong kiến được quan tâm chú ý và phát triển hơn bao giờ hết
- Các biện pháp dã man như: dìm xuống nước, chôn sống, ném vạc dầu, thiêu sống,...
được áp dụng vô cùng rộng rãi và phổ biến
- Pháp luật phong kiến còn cho phép áp dụng hình sự liên đới, nghĩa là những người
thân, máu mủ trong gia đình đều phải chịu trách nhiệm cho việc làm của phạm nhân
mặc dù họ không liên quan. Chế độ này được áp dụng theo quy tắc, thứ nhất là đối
với người có cùng huyết thống, hôn nhân; thứ hai là đối với những người có quan hệ
làng xóm. Những hình phạt tàn khốc: tru di tam tộc, tru di cửu tộc,...
 Với những chế độ hình sự liên đới như trên cũng đã hạn chế phần nào hạn chế những
hành động “bạo loạn” hay chống phá lại giai cấp cầm quyền của người dân
d, Pháp luật phong kiến thiếu thong nhất và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, đạo
đức phong kiến.
- Vì sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước và các tổ chức tôn giáo nên tổ chức tôn giáo
trong nhiều trường hợp đã can thiệp vào công việc chung của nhà nước và ngược lại.
Điều này khiến cho nhà nước phong kiến ghi nhận nhiều quy định lễ, giáo, đạo đức
phong kiến thành những quy định của pháp luật phong kiến
- Tất cả những hành vi trái với phong tục tập quán, lễ giáo sẽ bị pháp luật trừng trị, ở
nhiều nước nếu người dân không đi lễ ở nhà thờ cũng bị coi là phạm tội,...
- Thực trạng này đã được Voltare phản ánh khá sinh động trong tác phẩm của ông là:
“Nếu anh du ngoạn trên đất Pháp, thì mỗi lần anh thay ngựa là mỗi lần luật lệ thay
đổi”.

You might also like