You are on page 1of 3

KHÁI QUÁT VỀ ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI

Hội chợ, triển lãm thương mại: Được quy định từ Điều 129 đến 140 Luật Thương mại
1. Khái niệm:
Luật Thương mại định nghĩa về hội chợ và triển lãm thương mại là “hoạt động xúc tiến thương
mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân
trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp
đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ” (Điều 129).
 Đánh giá điều luật: Theo như quy định trên thì người đọc không thể xác định được thế
nào là hội chợ, triển lãm thương mại. Như vậy, tính minh bạch trong khái niệm được quy
định vẫn chưa được thể hiện làm người đọc có thể nhầm tưởng 2 đối tượng này là một.
Khái niệm kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại được quy định tại khoản 1 Điều 130
đó là việc một bên thương nhân cung cấp dịch vụ tổ chức hoặc tham gia hội chợ, triển lãm
thương mại cho một thương nhân khác để nhận thù lao dịch vụ.
2. Chủ thể:
Về mặt chủ thể được quy định tại Điều 131 Luật thương mại gồm 02 chủ thể: chủ thể tổ chức và
chủ thể tham gia. Tuy nhiên, điều luật lại quy định chung về quyền tổ chức và tham gia của cả
hai chủ thể này. Cụ thể, đổi với thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân Việt Nam,
chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam được quyền trực tiếp tổ chức, tham gia hoặc
thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện đối với hàng hoá
mà mình kinh doanh. Về văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp tổ chức,
tham gia mà phải thuê bên thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực
hiện khi được thương nhân đó uỷ quyền. Đối với thương nhân nước ngoài có quyền trực tiếp
tham gia hoặc thuê thương nhân cung cấp dịch vụ thay mặt mình tham gia, trong trường hợp họ
muốn tổ chức phải thuê bên kinh doanh dịch vụ này của Việt Nam thực hiện.
 Đánh giá điều luật: Xét về tính thống nhất: về quy định về điều kiện để văn phòng đại
diện thực hiện việc tổ chức, tham gia hộ chợ, triển lãm chưa thống nhất với các quy định
pháp luật khác bởi lẽ theo khoản 2 Điều 44 LDN 2020 VPDD “Văn phòng đại diện là đơn vị phụ
thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó.”
Như vậy theo quy định của LDN thì VPDD đã được đại diện theo uỷ quyền cho thương nhân thì không cần thiết phải
quy định về trường hợp được thương nhân uỷ quyền nữa. Xét về tính hợp lý thì các quy định trên có sự phân biệt đối
xử giữa các chủ thể khác nhau và làm tăng thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp.
3. Hình thức:
Có hai hình thức tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm là: Tại Việt Nam (Điều 132) và tại nước
ngoài (Điều 133)
Đối với tại Việt Nam hội chợ, triển lãm được tổ chức phải được đăng ký và phải được xác nhận
bằng văn bảng của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương. Cụ thể, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 29 Nghị Định 81/2018/NĐ-CP thì Sở Công
Thương nơi địa phương tổ chức sẽ là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Đối với tại nước ngoài thì chỉ thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại
mới được tổ chức cho thương nhân khác tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại nước ngoài
và phải đăng ký với Bộ Công Thương. Ngoài ra, điều luật còn quy định thương nhân không kinh
doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm mà tổ chức hoặc tham gia về hàng hoá mà mình kinh doanh
phải tuân theo quy định về xuất khẩu hàng hoá => Đánh giá: quy định về xuất khẩu hàng hoá ở
đây vẫn chưa rõ ràng nên tính minh bạch vẫn chưa được thể hiện.
4. Hợp đồng:
Về hình thức hợp đồng giữa các bên được quy định tại khoản 2 Điều 130 là bằng văn
bản và các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
 Đánh giá: về các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương vẫn chưa cụ thể chưa liệt
kê các hình thức quy định, rõ ràng dẫn đến việc tính minh bạch vẫn chưa được thể hiện
Về đối tượng của hợp đồng:
Trường hợp hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam được quy định tại Điều 134: Về
hàng hoá, dịch vụ không được phép tham gia như thuộc diện cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh, chưa được phép lưu thông, hàng cấm nhập khẩu, hàng giả, hàng vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ (trừ trường hợp trưng bày, giới thiệu để so sánh với hàng thật). Đối
với hàng quản lý chuyên ngành phải tuân thủ quy định về quản lý chuyên ngành. Hàng
tạm nhập phải được tái xuất trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hội chợ, triển lãm thương
mại kết thúc. Ngoài ra, hàng hoá tạm nhập tái xuất tham gia hội chợ, triển lãm phải tuân
theo quy định của pháp luật. => Đánh giá: Về tính minh bạch chưa được thể hiện trong
điều luật bỏi hàng hoá chưa được phép lưu thông là loại hàng gì. Về tính thống nhất chưa
được thể hiện bởi lẽ đối với hàng giả thì pháp luật quy định cấm kinh doanh, sản xuất mà
BLHS đã quy định như vậy vấn đề ở đây là hàng giả bằng cách nào mà thương nhân đó
có được để so sánh trong khi luật khác không cho phép.
Trường hợp hội chợ, triển lãm thương mại tại nước ngoài được quy định tại Điều 135 tất
cả hàng hoá, dịch vụ đều được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại trừ trường hợp
hàng hoá, dịch vụ cấm xuất khẩu. Hàng hoá dịch vụ, cấm xuất khẩu chỉ được tham gia
hội chợ, triển lãm thương mại khi có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính Phủ. Hàng hoá
tạm xuất để tham gia hội chợ triển lãm phải tái nhập trong vòng 1 năm kể từ ngày xuất,
nếu quá thời hạn quy định thương nhân phải chịu thuế và nghĩa vụ tài chính khác. Đồng
thời việc tạm xuất, tái nhập phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Vấn đề bán, tặng hàng hoá dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại:
Tại Việt Nam Điều 136: hàng hoá, dịch vụ được bán, tặng nhưng riêng đối với hàng hoá
nhập khẩu phải đăng ký với hải quan hoặc được cơ quan nhà nước cấp phép và chấp
thuận bằng văn bản đồng thời phải tuân thủ các quy định về quản lý chuyên ngành, thuế
và các nghĩa vụ tài chính. => đánh giá: Quy định tại điều luật vẫn chưa thể hiện được tính
minh bạch bởi hàng nào thì thuộc trường hợp đăng ký với hải quan và hàng nào thuộc
trược hợp cơ quan nhà nước cấp phép và chấp thuận và cơ quan nhà nước ở đây là tổ
chức nào.
Tại nước ngoài quy định tại Điều 137: hàng hoá xuất khẩu đi tham gia hội chợ, triển lãm
đối với hàng hoá cấm xuất khẩu chỉ được bán, tặng khi được Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận. Đối với hàng khác phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép và chấp
thuận. Đồng thời, hàng hoá phải chịu thuế và thực hiện nghĩa vụ tài chính. => đánh giá:
về tính minh bạch vẫn chưa được thể hiện bỏi co quan nhà nước có thẩm quyền ở đây là
tổ chức nào. Xét về tính hợp lý chưa phù hợp bởi thủ tục hành chính để xuất khẩu bán,
tặng hàng hoá dịch vụ phải qua nhiều bước nên doanh nghiệp sẽ bị tốn chi phí và công
sức thực hiện hơn.
Về quyền nghĩa vụ của thương nhân tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương
mại được quy định tại Điều 138, 139 thì ngoài các quy định của pháp luật họ còn thực
hiện các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận với thương nhân tổ chức.
Riêng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại được quy
định tại Điều 140 phải có nghĩa vụ niêm yết thông tin, thực hiện việc tổ chức, được quyền
yêu cầu cung cấp hàng hoá, thông tin về hàng hoá dịch vụ, nhận thù lao và các chi phí
hợp lý khác. => đánh giá: Về tính minh bạch, hợp lý, khả thi trong điều luật vẫn chưa
hiệu quả bởi lẽ các chi phí hợp lý khác ở đây là gì, có hay không việc thương nhân kinh
doanh lợi dụng quy định tại điều luật này để thu thêm chi phí khác của thương nhân thuê
dịch vụ ngoài thoả thuận của hợp đồng.
5. Thủ tục: Được quy định tại Điều 29 Nghị Định 81/2018/NĐ-CP
Đối với hội chợ, triển lãm tại Việt Nam:Thương nhân tổ chức chuẩn bị hồ sơ ( hồ sơ đăng
ký và bản sao không cần chứng thực giấy tờ liên quan đến thông tin của doanh nghiệp)
nộp cho Sở Công Thương thuộc địa phương có địa điểm tổ chức, thời gian nhận sớm nhất
365 ngày và chậm nhất 30 ngày trước ngày hội chợ, triển lãm thương mại khai mạc.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có văn bản trả lời cho thương nhân.
Đối với hội chợ triển lãm thương mại tại nước ngoài: Thì chỉ khác về hồ sơ được nộp cho
Bộ Công Thương và thời gian nhận hồ sơ chậm nhất trước 45 ngày trước ngày hội chợ,
triển lãm thương mại khai mạc.
Hình thức nộp hồ sơ có 03 hình thức là trực tiếp, qua đường bưu điện hoặc trên hệ thống
dịch vụ công trực tuyến.
Trường hợp có 2 thương nhân cùng tổ chức một hội chợ, triển lãm thương mại thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tổ chức hiệp thương để giải quyết.

You might also like