You are on page 1of 20

Họ và tên: Trần Ngọc Vượng

Lớp: 23MQT20
PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp là
quyền quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Phát huy quyền này, các
doanh nghiệp phát huy những thế mạnh, những sáng tạo trong kinh doanh. Trong
quá trình kinh doanh, tùy thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà họ có thể lựa
chọn cho mình những đối tác kinh doanh phù hợp nhất. Về nguyên tắc, không ai
được can thiệp vào sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp
cũng ý thức được điều này. Để đạt được mục đích trong kinh doanh, doanh nghiệp
không ngần ngại xâm phạm vào quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khác
nhằm gây ra sự thiệt hại trong quá trình cạnh tranh. Bên cạnh đó, khách hàng đôi
khi cũng là đối tượng của những cạnh tranh không lành mạnh, chi phối quyền tự do
kinh doanh của doanh nghiệp khác. Chính vì vậy Phát Luật về Cạnh Tranh được ra
đời, nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được kinh
doanh tự do và công bằng nhất có thể. Hôm nay e sẽ phân tích về một số hành vi
cạnh tranh không lành mạnh:
1. Khái quát cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh
1.1. Khái quát về cạnh tranh
a) Khái niệm cạnh tranh
- Cạnh tranh có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Từ góc độ kinh
tế - pháp lý, cạnh tranh được hiểu là sự chạy đua (ganh đua) giữa các thành viên
cùng một thị trường nhằm mục đích lôi kéo khách hàng, gia tăng thị phần của một
thị trường hàng hóa, dịch vụ cụ thể.
- Cạnh tranh với tính chất là động lực nội tại thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế chỉ tồn tại trong điều kiện kinh tế thị trường. Cạnh tranh không những là
môi trường và động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, tăng năng suất
lao động, tăng hiệu quả của các doanh nghiệp, mà còn là yếu tố quan trọng làm
lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - xã hội.
b) Nhận dạng cạnh tranh
- Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của công quyền vào hoạt động kinh
doanh, thị trường được chia thành hai hình thái: Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự
điều tiết.
- Căn cứ vào cơ cấu thành viên thị trường và mức độ tập trung trong một
lĩnh vực kinh doanh, thị trường được phân chia thành các hình thái: Cạnh tranh
hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo (mức độ cao nhất là độc quyền).
- Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức cạnh tranh, các hành
vi cạnh tranh trên các hình thái, thị trường được phân chia thành: Cạnh tranh lành
mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
1.2. Pháp luật cạnh tranh
Luật Cạnh tranh (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ
5, ngày 12 tháng 6 năm 2018, Luật có hiệu lực từ 01/7/2019.
So với Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh mới được xây dựng trên
cơ sở có sự kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong đó nhấn
mạnh mục tiêu tăng cường hiệu quả thực thi, phục vụ cho mục tiêu quan trọng nhất
là: Tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa
các doanh nghiệp trên thị trường, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận thị trường,
phân bổ hiệu quả các nguồn lực,nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
2. Một số nội dung chính của Luật Cạnh tranh năm 2018
2.1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác
động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam;
hành vi cạnh tranh không lành mạnh; tố tụng cạnh tranh; xử lý vi phạm pháp luật
về cạnh tranh; quản lý nhà nước về cạnh tranh.
Đối tượng áp dụng của Luật này bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm
cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
- Hiệp hội ngành, nghề hoạt động tại Việt Nam.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan.
So với Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật này quy định điều chỉnh cả hành vi
hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam cho dù hành vi được thực hiện ở trong hay
ngoài lãnh thổ Việt Nam. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh nhằm mục tiêu:
Thứ nhất, tạo hành lang pháp lý để điều tra và xử lý toàn diện mọi hành vi
cạnh tranh dù xảy ra tại đâu nhưng có tác động hoặc có khả năng gây tác động tiêu
cực đối với cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, góp phần bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh cho thị trường trong nước.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan cạnh tranh Việt Nam hợp tác với cơ
quan cạnh tranh của các nước khác trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cạnh
tranh, tạo điều kiện thực thi các cam kết về cạnh tranh trong các Hiệp định thương
mại song phương và đa phương.
Luật cũng quy định bổ sung cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài có liên quan vào đối tượng áp dụng nhằm bao quát mọi chủ thể có thể thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Việc quy định mở rộng đối tượng áp
dụng phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế chung của một Chính
phủ kiến tạo, liêm chính, khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp để thúc đẩy cạnh
tranh, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, không phân biệt đối
xử.
2.2. Các hành vi bị nghiêm cấm đối với cơ quan nhà nước
Cơ quan nhà nước thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường
sau đây:
- Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân
phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng,
sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ với
doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước
hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật;
- Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp;
- Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh
tranh trên thị trường;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động
cạnh tranh.
Tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, ép buộc hoặc tổ
chức để doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành
mạnh.
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật tiếp tục
quy định đồng thời có sửa đổi và bổ sung hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước,
theo đó, cơ quan nhà nước bị nghiêm cấm thực hiện một số các hành vi gây cản trở
cạnh tranh trên thị trường. Quy định này là hết sức cần thiết bởi với quyền lực nhà
nước được trao, cơ quan nhà nước có khả năng lạm dụng quyền lực để thực hiện
các hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cơ quan nhà nước là một chủ
thể đặc thù của Luật Cạnh tranh nên có quy định riêng để điều chỉnh.
2.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Luật quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm trong các trường hợp
sau:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường
liên quan ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Thỏa
thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng
hóa, cung ứng dịch vụ. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng
sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để một hoặc các bên
tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng
hóa, cung ứng dịch vụ. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp
khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị
trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường
liên quan hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư. Thỏa thuận áp đặt
hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho
doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Thỏa thuận không giao
dịch với các bên không tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ
sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia
thỏa thuận. Các thỏa thuận này gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các
công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với
một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và
11 Điều 11 của Luật Cạnh tranh khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng
gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
Thay vì quy định cấm dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận như trong Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật này quy định các
tiêu chí đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể làm cơ sở quy định cấm đối với một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, bao gồm cả thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc, ngoài những thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh có tính chất nghiêm trọng bị cấm theo nguyên tắc vi
phạm mặc nhiên. Quy định của Luật cho phép kiểm soát mọi hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, cả theo chiều ngang và theo chiều dọc, gây tác động hoặc có
khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
2.4. Tiêu chí xác định sức mạnh thị trường đáng kể làm cơ sở xác định
doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
a) Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh
thị trường đáng kể hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan.
Sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được
xác định căn cứ vào một số yếu tố sau đây: Tương quan thị phần giữa các doanh
nghiệp trên thị trường liên quan được đánh giá trên cơ sở so sánh thị phần giữa các
doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan; Sức mạnh tài chính,
quy mô của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được cánh giá căn cứ vào năng lực
tài chính, khả năng tiếp cận nguồn vốn, tín dụng và các nguồn tài chính khác, tổng
nguồn vốn, tổng tài sản, số lao động, quy mô sản xuất, mạng lưới phân phối, tiêu
thụ hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp đó trong tương quan
với các doanh nghiệp khác là đối thủ cạnh tranh; Rào cản gia nhập, mở rộng thị
trường đối với doanh nghiệp khác được đánh giá dựa trên những yếu tố ảnh hưởng
đến việc quyết định của doanh nghiệp khi gia nhập, mở rộng thị trường; Khả năng
nắm giữ, tiếp cận, kiểm soát thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc
nguồn cung hàng hóa, dịch vụ được, đánh giá căn cứ vào ưu thế của doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh nhờ việc nắm giữ, kiểm soát mạng
lưới phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn cung hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường; Lợi thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật của doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp được đánh giá căn cứ vào ưu thế về công nghệ, hạ tầng kỹ thuật của doanh
nghiệp, nhóm doanh nghiệp đang sở hữu hoặc sử dụng cho sản xuất, kinh doanh so
với đối thủ cạnh tranh; Quyền sở hữu, nắm giữ, tiếp cận cơ sở hạ tầng được đánh
giá để xác định ưu thế của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp so với đối thủ cạnh
tranh căn cứ vào mức độ thiết yếu, khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ được đánh giá để xác định ưu thế của doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh căn cứ vào mức độ thiết yếu, khả năng tiếp cận
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ; Khả năng chuyển sang nguồn cung hoặc cầu đối với các
hàng hóa, dịch vụ liên quan khác được xác định dựa trên chi phí và thời gian cần
thiết để khách hàng, doanh nghiệp chuyển sang mua, bán hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp khác trên cùng thị trường liên quan; Các yếu tố đặc thù trong ngành,
lĩnh vực mà doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh được
đánh giá để xác định ưu thế của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp so với đối thủ
cạnh tranh trong điều kiện cụ thể của ngành, lĩnh vực đó.
Luật quy định bổ sung thêm các yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác
định doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường.
Điều này là phù hợp đảm bảo xác định chính xác sức mạnh thị trường của doanh
nghiệp và phản ánh đúng thực tiễn cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, các hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm được sửa
đổi để phản ánh rõ bản chất hành vi thông qua việc nhấn mạnh yếu tố hậu quả và
tác động của hành vi.
b) Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng
hành động gây tác động hạn chế cạnh tranh và có sức mạnh thị trường đáng kể
hoặc có tổng thị phần thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
- Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
- Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên
quan;
- Năm doanh nghiệp trở lên có tổng thị phần từ 85% trở lên trên thị trường
liên quan.
Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nêu trên không bao gồm
doanh nghiệp có thị phần ít hơn 10% trên thị trường liên quan.
c) Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp
nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan.
2.5. Kiểm soát tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế bao gồm các hình thức sau đây:
- Sáp nhập doanh nghiệp;
- Hợp nhất doanh nghiệp;
- Mua lại doanh nghiệp;
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
- Các hình thức tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Tập trung kinh tế bị cấm khi doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây
tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên
thị trường Việt Nam.
Cách tiếp cận trong kiểm soát tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh năm
2018 có sự thay đổi căn bản, theo đó tập trung kinh tế được coi là quyền của doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh gắn với quyền tự do kinh doanh. Luật không
quy định cấm tập trung kinh tế một cách cứng nhắc dựa trên mức thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường
liên quan như trong Luật Cạnh tranh năm 2004 mà thay vào đó chỉ quy định cấm
doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác
động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Doanh nghiệp được tiến
hành tập trung kinh tế nếu việc tập trung kinh tế không gây tác động tiêu cực đến
cạnh tranh trên thị trường.
Với quy định như vậy, Luật đã thể hiện được quan điểm tiến bộ là luôn tôn
trọng và cho phép doanh nghiệp được quyền thông qua hoạt động tập trung kinh tế
để phát triển kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền
kiểm soát bằng pháp luật để đảm bảo việc tập trung kinh tế không gây tác động
tiêu cực tới môi trường cạnh tranh và chỉ can thiệp trong trường hợp việc tập trung
kinh tế có nguy cơ gây tổn hại cho môi trường cạnh tranh.
2.6. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Luật quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm bao gồm:
a) Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh dưới các hình thức sau đây:
- Tiếp cận, thu thập thông tin bí mật trong kinh doanh bằng cách chống lại
các biện pháp bảo mật của người sở hữu thông tin đó;
- Tiết lộ, sử dụng thông tin bí mật trong kinh doanh mà không được phép
của chủ sở hữu thông tin đó.
b) Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng
hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch
với doanh nghiệp đó.
c) Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách
trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đó.
d) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp
hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh
nghiệp đó.
đ) Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây:
- Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp
hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa,
dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp
khác;
- So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung.
e) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có
khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch
vụ đó.
g) Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của
luật khác.
2.7. Cơ quan cạnh tranh Quốc gia
Luật quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan thuộc Bộ
Công Thương.
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh
tranh; Tiến hành tố tụng cạnh tranh; kiểm soát tập trung kinh tế; quyết định việc
miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; giải quyết khiếu nại quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh và các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và
quy định của luật khác có liên quan.
Đây là điểm mới quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả thực thi của cơ quan
cạnh tranh. Mô hình Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phù hợp với xu hướng chung của
thế giới đồng thời giúp thu giảm đầu mối, tinh gọn bộ máy, đảm bảo hoạt động
hiệu lực, hiệu quả phù hợp với bối cảnh kinh tế và các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Trong tố tụng cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan tiến hành
thông suốt các hoạt động tố tụng từ phát hiện, điều tra đến xử lý đối với hành vi vi
phạm pháp luật về cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh.
3. Thực trạng tình hình cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
- Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
Ngược lại thời gian vào thời điểm tháng 3/2014 – 11/2015, lợi dụng việc
công ty được cấp giấy phép kinh doanh bán hàng đa cấp với hàng hóa do công ty
BQP sản xuất, Lê Xuân Giang (cựu chủ tịch HĐQT Công ty Liên Kết Việt) cùng
đồng phạm cung cấp thông tin sai lệch cho người tiêu dùng để tạo lòng tin về hoạt
động kinh doanh của Liên Kết Việt và Công ty BQP.
Giang và các lãnh đạo của công ty được giới thiệu là cán bộ của Bộ Quốc
Phòng; các sản phẩm kinh doanh là sản phẩm liên doanh, liên kết sản xuất với các
doanh nghiệp, cơ quan uy tín của Bộ Quốc Phòng.
Để tạo lòng tin, Giang còn đặt làm giả bằng khen của Thủ tướng và UBND
TP.HCM tặng cho công ty và các lãnh đạo của công ty, chi nhánh, văn phòng đại
diện. Giang và đồng phạm thuyết trình với người tiêu dùng bị hại chỉ cần đóng
tiền, không cần lấy hàng hóa ra để kinh doanh là có thể trở thành nhà phân phối.
Bằng thủ đoạn trên, đến tháng 11/2015, Giang cùng đồng phạm đã mở rộng
mạng lưới phát triển được 34 chi nhánh, văn phòng đại diện, đại lý tại 27 tỉnh,
thành, lôi kéo được hơn 68.000 người tại 49 tỉnh, thành phố tham gia và nộp hơn
2.091 tỷ đồng vào công ty.
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Honda Việt Nam cảnh cáo Công ty cổ phần Pega
Ngày 11/1/2020, Pega khiến không ít người ngỡ ngàng khi ra mắt eSH, ngay
từ cái tên hay trong bài giới thiệu của CEO Đoàn Linh đều không hề phủ nhận
mẫu xe mới lấy cảm hứng từ chiếc xe ga cao cấp SH của Honda Việt Nam. Thậm
chí thương hiệu xe máy điện Việt Nam không ngại đưa trực tiếp hình ảnh của SH
lên so sánh trực tiếp với eSH từ thiết kế tới trang thiết bị và động cơ để chứng
minh eSH ưu việt hơn ở hầu hết tiêu chí trong sự kiện này.
Ngày 14/2/2020, Honda Việt Nam gửi văn bản đến Công ty cổ phần Pega,
đề nghị chấm dứt việc quảng cáo sản phẩm bằng phương pháp so sánh trực tiếp,
cụ thể là sử dụng hình ảnh Honda SH khi quảng cáo cho sản phẩm xe điện Pega
eSH.
Văn bản nêu rõ, trong buổi ra mắt sản phẩm xe điện Pega eSH (được
livestream trên Facebook), Pega đã có hành vi quảng cáo xe eSH bằng phương pháp
so sánh trực tiếp với xe ga Honda SH (so sánh về một số tiêu chí như độ an toàn,
tiếng ồn, ô nhiễm, khả năng vận hành, chống nước).
Honda Việt Nam cho hay, Pega đã sử dụng hình ảnh của Honda SH mà không
được sự chấp thuận của Honda Việt Nam. Hành vi nêu trên của Công ty Pega đã
xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Honda Việt Nam, ảnh
hưởng xấu đến hình ảnh, thương hiệu của xe SH do Honda Việt Nam sản xuất.
Honda Việt Nam khẳng định hành vi quảng cáo xe eSH của Công ty Pega
bằng phương pháp so sánh trực tiếp với xe SH đã vi phạm một số điều trong Luật
quảng cáo và Luật cạnh tranh. Honda yêu cầu Pega phải cải chính công khai bằng
văn bản thông báo, gỡ hình ảnh, lời nói so sánh với xe SH đăng tải trên chính
fanpage Facebook PEGA-HKbike và các phương tiện thông tin đại chúng đồng thời
chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, thông tin liên quan đến xe SH của Honda Việt
Nam trên bất kỳ bài quảng cáo/bài đăng/hình ảnh hay video nào khác kể từ ngày
nhận được thông báo và cam kết không tái diễn trong tương lai bao gồm cả những
mẫu xe khác của Honda.
Động thái của Honda Việt Nam được cho là khá mềm mỏng khi đưa ra thông
báo giải quyết riêng chưa muốn nhờ đến sự can thiệp của luật pháp.
Tuy nhiên, hãng xe Nhật Bản cũng tỏ ra cứng rắn khi thông báo trong vòng 5
ngày nhận được văn bản nếu Pega không thực hiện những yêu cầu mà Honda cho là
hợp pháp kể trên sẽ bảo lưu quyền tiến hành bất kỳ hành vi pháp lý nào khác để bảo
vệ quyền lợi của công ty bao gồm cả việc khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại mà
không cần báo trước.
- Phân biệt đối xử của hiệp hội.
Jetstar kiện Vinapco
Vụ kiện phát sinh từ việc Vinapco ngưng cung cấp xăng cho các máy bay
của Jetstar vào ngày 1/4/2008 dẫn đến hậu quả hàng loạt máy bay của Jetstar phải
“nằm sân” còn hành khách của Jetstar thì phải “nằm vạ nằm vật” tại các sân bay do
hoãn, hủy chuyến.
Vụ án này lạ bởi phương thức giải quyết và hệ quả từ vụ kiện. Đây là một
tranh chấp thương mại và có thể giải quyết bằng nhiều cách thức. Cách truyền
thống là kiện ra tòa để giải quyết theo hợp đồng mua bán xăng giữa hai bên.
Tuy nhiên, nếu khởi kiện bằng một vụ án kinh tế thông thường, khả năng
thắng lợi của Jetstar là không chắc chắn vì Vinapco cũng có lý khi Jetstar vẫn còn
nợ tiền mua xăng của Vinapco. Hơn nữa, để chứng minh thiệt hại từ việc hủy
chuyến bay, từ sự thiệt hại về uy tín... là điều rất khó đối với Jetstar.
Điều quan trọng là nếu đi theo hướng tranh chấp hợp đồng thông thường,
ngay cả khi Jetstar thắng kiện, nguyên nhân căn bản của vụ tranh chấp vẫn còn:
Jetstar sẽ vẫn phải mua xăng của Vinapco vì Vinapco vẫn độc quyền bán xăng tại
các sân bay.
Vì vậy, kiện tại Hội đồng Cạnh tranh Quốc gia theo Luật Cạnh tranh là một
chọn lựa thông minh. Vinapco sẽ chứng minh thế nào khi mà từ trước đến nay, chỉ
có Vinapco một mình một chợ bán xăng tại các sân bay Việt Nam.
Vị trí độc quyền của Vinapco là khá rõ ràng. Hơn nữa, Hội đồng Cạnh tranh
Quốc gia còn có thể xóa bỏ vị thế độc quyền của Vinapco trong việc phân phối
xăng tại các sân bay khi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác thâm nhập thị
trường này.
Phân tích kết quả vụ kiện trên, ta nhận thấy rằng thiệt hại của Vinapco
không chỉ là số tiền phạt 3 tỉ đồng mà quan trọng là khả năng bị tách ra khỏi “bầu
sữa” Vietnam Airlines và phải tự đương đầu với sự cạnh tranh của các doanh
nghiệp khác trong tương lai.
Phán quyết này đánh thẳng vào vị thế độc quyền của Vinapco - nguyên nhân
sâu xa dẫn đến tranh chấp. Đấy mới là thiệt hại to lớn nhất mà Vinapco phải gánh
chịu từ vụ kiện.
Nhưng với Jetstar, thắng lợi không được tính bằng 3 tỉ đồng mà Vinapco bị
phạt (vì số tiền này sẽ nộp cho Nhà nước chứ Jetstar không hưởng được đồng nào)
mà là phá được thế độc quyền của Vinapco trong việc cung cấp xăng cho máy bay.
Khi Vinapco không có được độc quyền nữa, Jetstar sẽ có cơ hội chọn nhà
cung cấp xăng cho mình, chứ không còn bị lệ thuộc hoàn toàn vào Vinapco theo
kiểu “không có xăng thì đố máy bay bay được”.
Suy rộng hơn, thị trường phân phối xăng cho máy bay đã được mở ra cho
các doanh nghiệp tiềm năng muốn thâm nhập thị trường này. Hành khách cũng có
quyền hy vọng giá vé sẽ giảm khi mà giá xăng giảm do sự cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp.
- Bán phá giá

Vinasun kiện Grab

Vinasun kiện Grab là vụ án tranh chấp về lĩnh vực kinh doanh thương mại
tại Việt Nam giữa hai doanh nghiệp là Vinasun và Grab, thông qua phán quyết
phúc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đối với hoạt
động vận tải hành khách trong bối cảnh Công nghiệp 4.0, kinh tế chia sẻ, tạo nên
sức hút lớn đối với xã hội về kinh doanh và kinh tế. Ở tranh chấp này, Vinasun
được xem như là doanh nghiệp đại diện cho taxi cổ điển từ thời kỳ đầu, còn Grab
đại diện cho taxi công nghệ thế hệ mới, dẫn tới những tranh cãi về việc tuân thủ
chính sách kinh tế và quy định pháp luật, cách thức kinh doanh mới dần chiếm ưu
thế của kinh tế Việt Nam.

Trong vụ việc, Grab là một doanh nghiệp mới hoạt động chủ yếu về công
nghệ, tiến vào Việt Nam và kinh doanh trong lĩnh vực vận tải hành khách, đề xuất
và được phê duyệt thí điểm đề án ứng dụng phần mềm hỗ trợ quản lý và kết nối
hoạt động vận tải hành khách, phát triển nhanh chóng và dần chiếm ưu thế trong
thị trường ngành nghề này. Năm 2017, Vinasun, một hãng taxi truyền thống lớn
trong nước, không có bất kỳ giao dịch dân sự nào với Grab, đã đưa ra các tuyên bố
cho rằng Grab có những hành vi vi phạm pháp luật trong ngành nghề kinh doanh
có điều kiện, được nhận những ưu đãi lớn và bất bình đẳng so với taxi truyền
thống, trực tiếp tạo thành thiệt hại lớn đối với Vinasun, sau đó khởi kiện lên tòa án.
Vụ kiện diễn biến những năm 2017–20 và kết thúc với việc Vinasun thắng kiện, đã
mở ra những tranh luận, quan điểm, nhận định lớn về vấn đề cạnh tranh trên thị
trường và việc ban hành văn bản luật đáp ứng xu hướng phát triển công nghệ thời
kỳ mới.

Được thành lập từ những năm 2000, Vinasun bắt đầu tham gia vào lĩnh vực
dịch vụ vận tải hành khách bằng taxi theo hình thức cơ bản, tức là sở hữu các xe ô
tô, tuyển dụng và ký kết hợp đồng lao động với người lao động là các tài xế, và
quảng bá, cung cấp dịch vụ vận tải. Sau đó, Vinasun duy trì tốc độ phát triển, tập
trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh và thị trường miền Nam, trở thành một
trong những hãng taxi lớn nhất cả nước vào những năm 2010. Năm 2014, một
doanh nghiệp nước ngoài là Grab bắt đầu tiến hành kinh doanh tại Việt Nam thông
qua Grab Việt Nam xoay quanh hoạt động cung cấp dịch vụ công nghệ kết nối
khách hàng và bên cung cấp dịch vụ, trong đó có dịch vụ vận tải hành khách, chủ
yếu trong nội thành các đô thị với các ứng dụng là GrabBike, GrabCar, GrabTaxi.

Giai đoạn 2015–16, Grab gửi đề nghị thí điểm kế hoạch ứng dụng khoa học
công nghệ hỗ trợ quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng
lên Bộ Giao thông Vận tải và được Bộ trưởng Đinh La Thăng cấp phép (gọi
tắt: Quyết định 24) hoạt động tại các thành thị Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh
và Đà Nẵng rồi mở rộng ra các tỉnh khác. Vào thời điểm này, nhóm taxi cổ điển và
nhóm taxi theo công nghệ bắt đầu cạnh tranh, đại diện hãng cũ là Hiệp hội Taxi Hà
Nội kiến nghị chính quyền dừng hoạt động kinh doanh của Grab vì cho rằng hãng
cạnh tranh không lành mạnh, trốn thuế và phá giá, trong khi đó, các hãng taxi
truyền thống bị quản lý chặt, đóng nhiều thứ thuế khác nhau. Năm 2016, Grab đẩy
mạnh các ứng dụng vận tải và tăng cường khuyến mãi, giảm giá để thu hút tài xế,
trong khi các hãng taxi truyền thống trong đó có Vinasun đều thông báo về việc
kinh doanh thua lỗ. Năm 2017, các hãng truyền thống bắt đầu sử dụng ứng dụng
công nghệ, đề nghị ưu đãi thuế như Grab nhưng bị Bộ Tài chính bác bỏ. Tháng 5
cùng năm, Vinasun đã đệ đơn khởi kiện Grab lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh, thay đổi và bổ sung đơn hai lần vào tháng 8 và tháng 11, bắt đầu quá
trình tố tụng của vụ án.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, Grab đã tiến điều hành
điều hành xe thông qua ứng dụng và quy chế của hãng, các công việc bao gồm chỉ
định tài xế đón khách, quyết định giá cước, điều chỉnh tăng giảm giá cước hằng
ngày, trực tiếp thu tiền khách hàng thông qua thẻ tín dụng, sau đó phân phối lại cho
lái xe, trực tiếp tổ chức thực hiện hàng loạt chương trình khuyến mãi về giá cước
vận chuyển, trong đó có cả những chuyến xe 0 đồng cho khách hàng sử dụng các
loại hình của hãng như GrabCar, GrabTaxi, GrabShare. Hãng trực tiếp nhận hồ sơ
đăng ký tham gia chương trình chạy Grab của lái xe, thưởng điểm cho tài xế chạy
nhiều chuyến, quản lý lái xe, xử phạt các tài xế có hành vi vi phạm quy chế do
hãng đặt ra, quyết định mức chiết khấu, tăng giảm chiết khấu cho lái xe, mua bảo
hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện cho lái xe và khách hàng.
Grab liên kết với các hợp tác xã lĩnh vực vận chuyển hành khách theo các
hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong đó thỏa thuận Grab được toàn quyền áp dụng
và lựa chọn phương pháp tính giá cước; quyết định, xây dựng các hình thức, cơ chế
và điều khoản áp dụng để quản lý, theo dõi và xử lý các khoản thanh toán trước
của người dùng cuối cùng; quyết định tất cả hình thức quảng cáo và tiếp thị,
chương trình ưu đãi. Bên cung cấp xe phải tuân thủ và chấp nhận tất cả các hình
thức thanh toán do Grab đặt ra trong bất kỳ điều kiện và điều khoản nào, là đơn vị
duy nhất xuất hóa đơn cho dịch vụ vận tải hành khách. Các hợp tác xã cấp phù hiệu
xe hợp đồng cho tài xế để họ đủ điều kiện là xe hợp đồng, không tham gia vào việc
định giá cước, điều động xe, thưởng phạt tài xế hay giải quyết khiếu nại, tranh
chấp giữa lái xe và khách hàng. Bên cạnh đó, hợp tác xã không chịu trách nhiệm về
hoạt động kinh doanh của lái xe với Grab, việc nộp thuế vận tải của lái xe, mua bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cho lái xe đều do Grab quản lý.

Trong vụ kiện, Vinasun hướng lập luận cho rằng Grab lợi dụng Quyết định
24, đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh vận tải
taxi, gây náo loạn thị trường vận tải hành khách bằng taxi, cố tình thực hiện trái
Quyết định 24 rằng đã tự đứng ra kinh doanh vận tải taxi – một công việc mà Grab
không được phép làm. Cụ thể là từ khi hoạt động tại thị trường Việt Nam, Grab sử
dụng thủ đoạn tự nhận là doanh nghiệp cung ứng phần mềm cho hợp tác xã kinh
doanh vận tải, nhưng về bản chất Grab đã, đang thực hiện hành vi kinh doanh vận
tải taxi từ chỗ là đơn vị cung ứng phần mềm gọi xe; cho rằng Grab ngụy biện, đánh
tráo khái niệm để né tránh các điều kiện kinh doanh vận tải taxi, ngành nghề kinh
doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư 2014, cố tình lách luật, trốn thuế. Vinasun
nhấn mạnh, chính việc Grab cố tình kinh doanh taxi trái pháp luật dẫn đến gây thiệt
hại cho các doanh nghiệp kinh doanh vận tải taxi, trong đó có Vinasun, cho nên
việc nguyên đơn khởi kiện để yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại là hoàn toàn có
căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Vinasun cho rằng chuỗi các hoạt động của Grab còn có chiêu mộ, thu hút lái
xe, bắt buộc lái xe nộp tiền vào tài khoản do Grab mở mới được sử dụng ứng dụng,
kết hợp tất cả thể hiện Grab đã thực hiện trọn vẹn một quy trình của doanh nghiệp
kinh doanh vận tải taxi, không phải là hoạt động của doanh nghiệp cung cấp phần
mềm ứng dụng gọi xe. Vinasun khẳng định rằng nội dung công việc của Grab được
nêu trong Quyết định 24, không có câu chữ nào cho phép họ được quyết định, tăng
giảm, thu cước phí hành khách, điều động, thưởng phạt tài xế như họ đã làm.
Về căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại, Vinasun viện dẫn các tài liệu về
kiểm toán, giám định trình bày rằng: so với 2015, lợi nhuận 2016, nửa năm 2017
của họ bị mất là hơn 75 tỷ đồng; thiệt hại là chi phí phát sinh do xe nằm bãi, không
kinh doanh gần 9 tỷ, giảm giá trị vốn hóa thị trường gần 150 tỷ đồng, tổng thiệt hại
gần 160 tỷ đồng. Với việc Grab đăng ký 12.913 xe, chiếm 54,25% số xe taxi thành
phố, Vinasun cho rằng tổng số thiệt hại về lợi nhuận do Grab gây ra cho nguyên
đơn cho đến khi khởi kiện là 54,25% của 75 tỷ đồng, tức hơn 41 tỷ đồng, tổng thiệt
hại là gần 86 tỷ đồng, tất cả đều tính theo tỷ lệ đăng ký xe. Từ lập luận chung, vấn
đề cụ thể, Vinasun cho rằng Grab thực chất là một doanh nghiệp kinh doanh vận
tải taxi, lợi dụng Quyết định 24 để thực hiện hành vi kinh doanh taxi trái phép, yêu
cầu Grab bồi thường 41 tỷ đồng thiệt hại lợi nhuận của nguyên đơn.
Trong tranh tụng, Grab hướng lập luận cho rằng Tòa án không có thẩm
quyền giải quyết vụ việc này, đã vi phạm pháp luật tố tụng khi thụ lý vụ án. Bị đơn
phản đối toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho rằng thẩm quyền
thuộc cơ quan khác, và vụ án này phải được đình chỉ.
Về kinh doanh vận tải, Grab cho rằng tòa không có thẩm quyền giải quyết vì
bị đơn kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ hỗ trợ
quản lý và kết nối hoạt động vận tải hành khách theo hợp đồng, được cấp phép
theo Quyết định 24, thẩm quyền thuộc về Bộ Giao thông Vận tải, và trên thực tế đã
được giải quyết bởi Bộ tại Quyết định 24 và Kế hoạch thí điểm. Do đó, Grab phản
hồi rằng nếu Vinasun không đồng ý với việc giải quyết của Bộ và cho rằng trái
pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, thì phải khiếu
nại lên Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ kiện hành chính.
Với yêu cầu xét về hoạt động quảng cáo và cạnh tranh không lành mạnh khi
nguyên đơn cho rằng thiệt hại xảy ra là do bị đơn thực hiện các chương trình
khuyến mãi tùy tiện, trái pháp luật (không đăng ký, không được phép của cơ quan
quản lý), gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp taxi khác qua hành động
kêu gọi các lái xe tham gia sử dụng phương thức kinh doanh của Grab mà không
cần ký kết với các doanh nghiệp taxi khác, thì Grab cho rằng, để quyết định có
chấp nhận yêu cầu khởi kiện hay không, tòa án phải xem xét rằng có đúng là Grab
có các hành vi vi phạm nêu trên hay không, mà việc này thì lại không thuộc thẩm
quyền của tòa án. Ở khuyến mãi, Grab viện dẫn định nghĩa liên quan tới xúc tiến
thương mại, việc không thông báo hoặc không đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền trước khi thực hiện khuyến mãi là hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, và giả dụ nếu Grab có hành vi vi phạm này thì cơ
quan có thẩm quyền xem xét và giải quyết phải là Cục Quản lý thị trường của Bộ
Công Thương, chỉ khi cơ quan này đã có kết luận là có hành vi vi phạm thì khi đó
tòa án mới có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Grab viện dẫn luật, cho rằng Luật
Cạnh tranh 2004 là luật chính được áp dụng, do cơ quan quản lý cạnh tranh phụ
trách, do đó tòa án không có thẩm quyền với vấn đề cạnh tranh. Grab cho rằng
trong trường hợp tòa án quyết định không đình chỉ vụ án, thì đề nghị đưa Uber Việt
Nam tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bởi lẽ
họ cũng đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam tương tự như bị đơn.
Về thiệt hại mà Vinasun đưa ra, Grab cho rằng yêu cầu này không có căn cứ,
việc tính tỷ trọng xe ô tô tham gia hoạt động của Grab là 54,25% là vô lý, bởi lẽ, số
đầu xe đã đăng ký hoạt động tại thời điểm tháng 6 năm 2017 không có nghĩa cũng
là số đầu xe đã đăng ký hoạt động tại từng thời điểm cụ thể trong năm 2016 và
trong các tháng nửa đầu năm 2017. Vì vậy, kết luận là Grab đề nghị tòa án đình chỉ
giải quyết vụ án, nếu không đình chỉ thì đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
Vinasun.
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở
phiên sơ thẩm tại trụ sở ở số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường Bến Thành. Tòa sơ
thẩm đã viện dẫn nguyên tắc tòa án, căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại trong lĩnh vực kinh doanh, giữa hai bên không có ký kết hợp đồng,
nên xác định tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, phát sinh từ hoạt động kinh doanh, có mục đích lợi nhuận, dẫn tới là vụ
án tranh chấp kinh doanh thương mại, tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết.
Từ các hồ sơ vụ án, chứng cứ và trình bày của các bên, tòa sơ thẩm nhận định rằng
có đủ căn cứ để xác định, từ 2014, Grab đã thực hiện việc kinh doanh vận tải bằng
xe ô tô (taxi) nhưng không chấp hành các quy định của pháp luật về điều kiện kinh
doanh vận tải bằng xe ô tô và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tòa sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại
của Vinasun theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại, buộc Grab phải bồi thường hơn
4,8 tỷ sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân
sự có thẩm quyền; không chấp nhận yêu cầu bồi thường còn lại. Tòa sơ thẩm cũng
kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ba
việc: một là quản lý hoạt động kinh doanh vận tải Grab theo quy định của pháp
luật, sửa đổi nội dung Quyết định 24 cho phù hợp với thực tế (nếu tiếp tục thực
hiện thí điểm này); hai la kiến nghị Bộ Tài chính ban hành giải pháp quản lý về giá
cước vận chuyển, về thuế đối với Grab theo luật định về doanh nghiệp kinh doanh
vận tải; và ba là kiến nghị cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam xem xét trách nhiệm
của Grab trong việc thực hiện các nghĩa vụ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động tham gia làm việc cho Grab theo đúng
quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát thành phố kháng nghị,
và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp cao kháng nghị bổ sung theo hướng bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong khi đó, Vinasun kháng cáo yêu cầu chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, buộc bị đơn bồi thường toàn bộ thiệt hại với số
tiền 41 tỷ đồng, Grab kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không đồng ý bồi thường
theo yêu cầu của nguyên đơn.
Hai bản kháng nghị có nội dung tương đồng rằng đề nghị bác yêu cầu kháng
cáo của Vinasun, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Grab, bác toàn bộ yêu cầu đòi
bồi thường thiệt hại của nguyên đơn đối với bị đơn. Bởi hai Viện cho rằng việc toà
sơ thẩm nhận định thiệt hại phát sinh xe nằm bãi không kinh doanh được là do lỗi
của bị đơn, thế nhưng, xe nằm bãi còn nhiều lý do khác như: xe cũ chờ sửa chữa,
bảo trì hay thay thế, tài xế xin nghỉ có nhiều lý do. Mặt khác, Viện trưởng cho rằng
nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại giảm sút về lợi nhuận chỉ duy nhất
do hành vi trái pháp luật của bị đơn gây ra vì lợi nhuận doanh nghiệp do nhiều yếu
tố khách quan, chủ quan tác động, trong đó có nhiều yếu tố rất quan trọng như hoạt
động quản trị, điều hành, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp đó; và doanh thu
của nguyên đơn sụt giảm (nếu có) có phần là do người tiêu dùng đã lựa chọn Grab
vì sự ưu thế của nó so với Vinasun.
Từ các nhận định, tòa phúc thẩm tuyên không chấp nhận kháng nghị của hai
Viện trưởng, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Vinasun lẫn Grab, giữ
nguyên bản án sơ thẩm và kiến nghị sửa đổi thí điểm, cước, thuế và bảo hiểm
tương tự với tòa sơ thẩm, xử Grab phải bồi thường cho Vinasun hơn 4,8 tỷ đồng,
nguyên đơn và bị đơn chịu án phí lần lượt là 144 và 113 triệu đồng. Bên cạnh đó là
chi phí giám định, tòa buộc Grab hoàn trả 347 triệu đồng tiền giám định cho
Vinasun, còn Vinasun phải tự chịu 2,6 tỷ đồng tiền giám định.
Trong suốt diễn biến vụ kiện Vinasun và Grab, có nhiều ý kiến từ cộng
đồng, xã hội lẫn giới học thuật đối với vụ việc này. Có thể kể tới quan điểm việc
Grab dần chiếm ưu thế dựa trên công nghệ là xu thế của kinh tế thế giới lẫn Việt
Nam, đáp ứng được nhu cầu thay đổi nhanh của khách hàng, phần đông người tiêu
dùng tin tưởng và sử dụng dịch vụ công nghệ của các hãng công nghệ như
Grab; sự phát triển của hãng sử dụng công nghệ là hệ quả của việc cạnh tranh trên
thị trường. Về mặt pháp lý, có sự tranh cãi về thẩm quyền giải quyết vụ việc này
thuộc về tòa án hay cơ quan khác; nhiều quan điểm đề xuất chỉnh sửa luật, sửa đổi,
bổ sung văn bản quy phạm pháp luật để kiểm soát lĩnh vực này cho phù hợp với
những thay đổi đang có. Bên cạnh đó, các hãng taxi truyền thống như Vinasun,
Vinataxi, Mai Linh Group trong quá trình kiện tụng cũng đã bắt đầu có sự thay đổi
khi áp dụng công nghệ, sử dụng các ứng dụng liên kết với khách hàng.
Năm 2020, sau khi có phán quyết phúc thẩm, Vinasun thắng kiện, một số
hãng taxi truyền thống bắt đầu liên kết với nhau và có xu hướng khởi kiện Grab.
Cũng đầu năm này, sau thời gian dài thảo luận, kiến nghị, đề xuất và soạn
thảo, Chính phủ Việt Nam ban hành văn bản mới, dừng các thí điểm như Grab, đưa
yếu tố sử dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh vận tải ô tô (gồm taxi), đánh
thuế, yêu cầu bảo hiểm cho tất cả các hình thức kinh doanh vận tải cũ và mới, xây
dựng thị trường cạnh tranh mới ở Việt Nam.
4. Đề xuất, giải pháp
Về phía nhà nước:
- Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về cạnh
tranh không lành mạnh
- Triển khai nghiêm túc các quy định về xử phạt hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
- Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra các DN, đặc biệt với các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Tăng cường đào tạo cán bộ
Về phía Hiệp hội doanh nghiệp:
- Tăng cường xây dựng các chương trình hợp tác nghiên cứu, học tập trao
đổi kinh nghiệm với các nước có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực
pháp luật cạnh tranh nói chung và trong việc đấu tranh chống hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nói riêng
- Thường xuyên phối hợp với cơ quan quản lý trong việc góp ý hoàn thiện
chính sách
Về phía cộng đồng doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ việc tuân thủ các quy định của pháp
luật về kinh doanh nói chung, các chính sách về cạnh tranh nói riêng.
- Doanh nghiệp chủ động xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh
chuyên nghiệp và dài hạn
Về phía người tiêu dùng:
- Cần tìm hiểu các quy định của pháp luật
- Cần tẩy chay các sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, vi phạm pháp luật,
có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh, nếu phát hiện những sản phẩm,
hàng hóa là sản phẩm của hành vi cạnh trạnh không lành mạnh có thể lên
án và vận động người tiêu dùng tẩy chay, bài trừ sản phẩm cũng như
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh sản phẩm.

You might also like