You are on page 1of 8

KHÁI QUÁT VỀ ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÚC TIẾN THƯƠNG

MẠI
Mục 4.Hội chợ, triển lãm thương mại:

1. Khái niệm hội chợ triển lãm thương mại:


a. Khái quát về quy định pháp luật:

Luật Thương mại định nghĩa về hội chợ và triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến
thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để
thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm
cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ.1

Thực tế, hội chợ là hoạt động mang tính định kì được tổ chức tại một địa điểm cụ thể
trong một giai đoạn thời gian nhất định, là nơi người bán và người mua trực tiếp giao
dịch mua bán (bán hàng tại chỗ hoặc giao dịch để ký kết hợp đồng). Đối với loại hình
triển lãm thương mại có hình thái gần như giống hội chợ nhưng mục đích của người tham
gia chủ yếu là để giới thiệu, quảng cáo sản phẩm chứ không nhằm mục đích bán hàng tại
chỗ.

Khái niệm kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động thương mại,
theo đó thương nhân kinh doanh dịch vụ này cung ứng dịch vụ tổ chức hoặc tham gia hội
chợ, triển lãm thương mại cho một thương nhân khác để nhận thù lao dịch vụ tổ chức hội
chợ, triển lãm thương mại.2

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Theo như quy định của pháp luật thương mại thì người đọc không thể phân biệt được
khái niệm thế nào là hội chợ, triển lãm thương mại. Điều này dẫn đến việc giao kết hợp
đồng giữa bên thương nhân tổ chức và người tham gia hay các chủ thể khác với nhau
nhầm lẫn giữa hai loại hình. Tình trạng dễ xảy đến là hợp đồng bị vô hiệu do nhầm lẫn.
Như vậy, tính minh bạch trong khái niệm được quy định vẫn chưa được thể hiện làm
người đọc có thể nhầm tưởng 2 đối tượng này là một.
1
Điều 129 Luật thương mại 2005.
2
khoản 1 Điều 130 Luật thương mại 2005.
2. Chủ thể trong hoạt động hội chợ, triển lãm thương mại:
a. Khái quát quy định của pháp luật:

Đây là những hoạt động do thương nhân thực hiện. Thực tế, như các loại hình xúc tiến
thương mại khác có thể do từng thương nhân độc lập tiến hàng thì hội chợ, triển lãm chỉ
có thể thực hiện được khi có sự tham gia đồng thời của nhiều thương nhân tại cùng một
thời gian và địa điểm xác định.

Về mặt chủ thể theo quy định trong pháp luật thương mại gồm 02 chủ thể: chủ thể tổ
chức và chủ thể tham gia. Tuy nhiên, điều luật lại quy định chung về quyền tổ chức và
tham gia của cả hai chủ thể này. Cụ thể, đổi với thương nhân Việt Nam, chi nhánh của
thương nhân Việt Nam, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam được quyền
trực tiếp tổ chức, tham gia hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm
thương mại thực hiện đối với hàng hoá mà mình kinh doanh3. Về văn phòng đại diện của
thương nhân không được trực tiếp tổ chức, tham gia mà phải thuê bên thương nhân kinh
doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại thực hiện khi được thương nhân đó uỷ
quyền4. Đối với thương nhân nước ngoài có quyền trực tiếp tham gia hoặc thuê thương
nhân cung cấp dịch vụ thay mặt mình tham gia, trong trường hợp họ muốn tổ chức phải
thuê bên kinh doanh dịch vụ này của Việt Nam thực hiện5.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Xét về tính thống nhất: Về quy định về điều kiện để văn phòng đại diện thực hiện việc tổ
chức, tham gia hộ chợ, triển lãm chưa thống nhất với các quy định pháp luật khác bởi lẽ
theo pháp luật doanh nghiện thì văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh
nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các
lợi ích đó6. Như vậy theo quy định của pháp luật doanh nghiệp thì văn phòng đại diện đã
được đại diện theo uỷ quyền cho thương nhân thì không nhất thiết phải quy định về
trường hợp được thương nhân uỷ quyền nữa.

3
khoản 1 Điều 131 Luật thương mại 2005.
4
khoản 2 Điều 131 Luật thương mại 2005.
5
Khoản 3 Điều 131 Luật thương mại 2005
6
khoản 2 Điều 44 Luật doanh nghiệp 2020.
Xét về tính hợp lý: Các quy định trên có sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể khác nhau
và làm tăng thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp, đặc biệt là thương nhân nước ngoài và văn
phòng đại diện của họ.

3. Hình thức tổ chức:


a. Khái quát quy định của pháp luật:

Về cách thức tổ chức: Thương nhân có thể trực tiếp tổ chức hoặc thông qua hợp đồng
dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại

Về địa điểm tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại: Tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài.

Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tổ chức tại Việt Nam 7: hội chợ, triển lãm được tổ
chức phải được đăng ký và phải được xác nhận bằng văn bảng của cơ quan quản lý nhà
nước về thương mại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Cụ thể, theo quy định thì Sở
Công Thương nơi địa phương tổ chức sẽ là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp
phép8.

Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tổ chức tại nước ngoài9: thì chỉ thương nhân kinh
doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại mới được tổ chức cho thương nhân khác
tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại nước ngoài và phải đăng ký với Bộ Công
Thương10. Ngoài ra, điều luật còn quy định thương nhân không kinh doanh dịch vụ hội
chợ, triển lãm mà tổ chức hoặc tham gia về hàng hoá mà mình kinh doanh phải tuân theo
quy định về xuất khẩu hàng hoá.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Xét về tính hợp lý: Đối với thương nhân không kinh doanh dịch vụ hội chợ, triễn lãm
thương mại khi tổ chức tại nước ngoài không được phép tổ chức cho thương nhân khác
tham gia so với tổ chức trong nước. Điều này tạo ra sự phân biệt đối xử giữa trong và

7
Điều 132 Luật thương mại 2005.
8
điểm a khoản 2 Điều 29 Nghị Định 81/2018/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 22/05/2018.
9
Điều 133 Luật Thương mại 2005.
10
điểm b khoản 2 Điều 29 Nghị Định 81/2018/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 22/05/2018.
ngoài nước, cũng như chi phí doanh nghiệp tổ chức không thu lại được một phần ngân
sách tổ chức, làm cho chi phí doanh nghiệp gia tăng.

4. Hợp đồng:
4.1 Hình thức hợp đồng:
a. Khái quát quy định pháp luật:

Hợp đồng dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại phải được lập thành văn bản và các hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương11.

Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ
liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật12.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Theo quy định về liên quan đến hình thức hợp động dịch vụ hội chợ triển, triển lãm
thương mại đã được quy định cụ thể, rõ ràng.

4.2 Về đối tượng của hợp đồng:


a. Khái quát quy định pháp luật:

Để đảm bảo trật tự kinh doanh thương mại, pháp luật quy định một số điều kiện đối với
hàng hoá, dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại.

Trường hợp hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam được quy định 13: Về hàng hoá,
dịch vụ không được phép tham gia như thuộc diện cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh,
chưa được phép lưu thông, hàng cấm nhập khẩu, hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ (trừ trường hợp trưng bày, giới thiệu để so sánh với hàng thật). Đối với hàng quản lý
chuyên ngành phải tuân thủ quy định về quản lý chuyên ngành. Hàng tạm nhập phải được
tái xuất trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hội chợ, triển lãm thương mại kết thúc. Ngoài
ra, hàng hoá tạm nhập tái xuất tham gia hội chợ, triển lãm phải tuân theo quy định của
pháp luật.

11
khoản 2 Điều 130 Luật thương mại 2005.
12
khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005.
13
Điều 134 Luật thương mại 2005.
Trường hợp hội chợ, triển lãm thương mại tại nước ngoài 14: tất cả hàng hoá, dịch vụ đều
được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại trừ trường hợp hàng hoá, dịch vụ cấm xuất
khẩu. Hàng hoá dịch vụ, cấm xuất khẩu chỉ được tham gia hội chợ, triển lãm thương mại
khi có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính Phủ. Hàng hoá tạm xuất để tham gia hội chợ
triển lãm phải tái nhập trong vòng 1 năm kể từ ngày xuất, nếu quá thời hạn quy định
thương nhân phải chịu thuế và nghĩa vụ tài chính khác. Đồng thời việc tạm xuất, tái nhập
phải tuân thủ quy định của pháp luật.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Về tính minh bạch chưa được thể hiện trong quy định hàng hoá tham gia hội chợ tại Việt
Nam: Bởi lẽ khái niệm hàng hoá chưa được phép lưu thông là loại hàng gì chưa được thể
hiện. Điều này khiến cho người đọc không thể hình dung và có khái niệm cụ thể về hàng
hoá chưa được phép lưu thông.

Về tính thống nhất chưa được thể hiện trong quy định hàng hoá tham gia hội chợ tại Việt
Nam: Bởi lẽ đối với hàng giả thì pháp luật quy định cấm kinh doanh, sản xuất, vận
chuyển. Đồng thời, pháp luật hình sự còn truy cứu trách nhiệm đối với các hành vi này.
Vậy vấn đề ở đây là hàng giả bằng cách nào mà thương nhân đó có được để so sánh trong
hội chợ, triển lãm thương mại khi mà nhiều quy định pháp luật liên quan điều chính hàng
hoá đó không được tồn tại.

4.3 Vấn đề bán, tặng hàng hoá dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại:
a. Khái quát quy định pháp luật:

Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tổ chức tại Việt Nam 15: Hàng hoá, dịch vụ được
bán, tặng nhưng riêng đối với hàng hoá nhập khẩu phải đăng ký với hải quan hoặc được
cơ quan nhà nước cấp phép và chấp thuận bằng văn bản đồng thời phải tuân thủ các quy
định về quản lý chuyên ngành, thuế và các nghĩa vụ tài chính.

14
Điều 135 Luật thương mại 2005.
15
Điều 136 Luật thương mại 2005.
Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tổ chức tại nước ngoài 16: Hàng hoá xuất khẩu đi
tham gia hội chợ, triển lãm đối với hàng hoá cấm xuất khẩu chỉ được bán, tặng khi được
Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Đối với hàng khác phải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp phép và chấp thuận. Đồng thời, hàng hoá phải chịu thuế và thực hiện
nghĩa vụ tài chính.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Đối với hội chợ, triển lãm trong nước: Quy định tại điều luật vẫn chưa thể hiện được tính
minh bạch bởi hàng nào thì thuộc trường hợp đăng ký với hải quan và hàng nào thuộc
trược hợp cơ quan nhà nước cấp phép và chấp thuận và cơ quan nhà nước ở đây là tổ
chức nào.

Đối với hội chở, triển lãm tổ chức ở nước ngoài: Về tính minh bạch vẫn chưa được thể
hiện bỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở đây là tổ chức nào. Xét về tính hợp lý chưa
phù hợp bởi thủ tục hành chính để xuất khẩu bán, tặng hàng hoá dịch vụ phải qua nhiều
bước nên doanh nghiệp sẽ bị tốn chi phí và công sức thực hiện hơn.

4..4 Về quyền nghĩa vụ của thương nhân tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm
thương mại:

a. Khái quát quy định pháp luật:

Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam17: Tổ chức, cá nhân tham gia thực
hiện các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận với thương nhân tổ chức; bán, tặng cho hàng
hoá, cung ứng dịch vụ được trưng bày giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại theo
quy định của pháp luật; được tạm nhập, tái xuất hàng hoá, tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để
trưng bày đồng thời phải tuân thủ các quy định về tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại
tại Việt Nam.

Đối với hội chợ, triển lãm thương mại tại nước ngoài18: Ngoài những quyền và nghĩa vụ
như đối với hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân tham gia còn
16
Điều 137 Luật thương mại 2005
17
Điều 138 Luật thuong mại 2005.
18
Điều 139 Luật thương mại 2005.
phải thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật
Việt Nam.

Riêng đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại19: Thương
nhân phải có nghĩa vụ niêm yết thông tin, thực hiện việc tổ chức, được quyền yêu cầu
cung cấp hàng hoá, thông tin về hàng hoá dịch vụ, nhận thù lao và các chi phí hợp lý
khác.

b. Đánh giá quy định pháp luật:

Ddối với quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm
thuong mại: Về tính minh bạch, hợp lý, khả thi trong điều luật vẫn chưa hiệu quả bởi lẽ
các chi phí hợp lý khác ở đây là gì, có hay không việc thương nhân kinh doanh lợi dụng
quy định tại điều luật này để thu thêm chi phí khác của thương nhân thuê dịch vụ ngoài
thoả thuận của hợp đồng.

5. Thủ tục đăng ký tổ chức:

Được quy định tại Điều 29 Nghị Định 81/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22/05/2018.

Đối với hội chợ, triển lãm tại Việt Nam:Thương nhân tổ chức chuẩn bị hồ sơ ( hồ sơ đăng
ký và bản sao không cần chứng thực giấy tờ liên quan đến thông tin của doanh nghiệp)
nộp cho Sở Công Thương thuộc địa phương có địa điểm tổ chức, thời gian nhận sớm nhất
365 ngày và chậm nhất 30 ngày trước ngày hội chợ, triển lãm thương mại khai mạc.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có văn bản trả lời cho thương nhân.

Đối với hội chợ triển lãm thương mại tại nước ngoài: Thì chỉ khác về hồ sơ được nộp cho
Bộ Công Thương và thời gian nhận hồ sơ chậm nhất trước 45 ngày trước ngày hội chợ,
triển lãm thương mại khai mạc.

Hình thức nộp hồ sơ có 03 hình thức là trực tiếp, qua đường bưu điện hoặc trên hệ thống
dịch vụ công trực tuyến.

19
Điều 140 Luật thương mại 2005.
Trường hợp có 2 thương nhân cùng tổ chức một hội chợ, triển lãm thương mại thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tổ chức hiệp thương để giải quyết.

You might also like