You are on page 1of 8

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LUẬT THƯƠNG MẠI

ĐỀ TÀI: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI LÝ


TRONG THƯƠNG MẠI QUÁ TRÌNH GIAO KẾT THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Cao Duy


Mã sinh viên: 11191323
Lớp: Luật kinh tế 61B
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Thị Nguyệt

Hà Nội 2021
ĐỀ TÀI: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẠI LÝ TRONG THƯƠNG MẠI
QUÁ TRÌNH GIAO KẾT THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI TẠI
VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Kết cấu của đề tài

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI


1.1. Khái niệm chung về đại lý thương mại
1.1.1. Khái niệm về đại lý thương mại
Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả
thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung
ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Thông thường trong quan hệ đại lý thương mại sẽ bao gồm bên giao đại lý và bên đại
lý. Luật thương mại 2005 quy định về đại lý thương mại như sau:
+ Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng
cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ.
+ Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để
làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.
Các bên giao kết với nhau dưới hình thức hợp đồng đại lý.
1.1.2. Đặc điểm của đại lý thương mại
Điều 166  Luật thương mại 2005  quy định: “Đại lý thương mại là hoạt động thương
mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên địa lý nhân danh chính mình
mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách
hàng để hưởng thù lao.”
Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam hiện hành, đại lý thương mại có những
đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, trong quan hệ đại lý có sự tham gia của ba bên chủ thể: bên giao đại lý,
bên đại lý và bên thứ ba.
 Trong quan hệ đại lý, song song tồn tại hai nhóm quan hệ: thứ nhất là quan hệ giữa bên
giao đại lý và bên đại lý; thứ hai đó là quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba. Các quan hệ này
phát sinh trên cơ sở hợp đồng. Hai nhóm quan hệ này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Quan hệ giữa bên đại lý và bên giao đại lý là tiền đề cho những giao dịch của bên đại lý với
bên thứ ba. Bên giao đại lý có ủy quyền cho bên đại lý thực hiện việc mua bàn hàng hóa,
cung ứng dịch vụ cho mình thì bên đại lý mới được nhân danh chính mình tiến hành giao dịch
thương mại với bên thứ ba vì lợi ích của bên giao đại lý.
Thứ hai, bên đại lý nhân danh chính mình tiến hành giao dịch thương mại với bên
thứ ba vì lợi ích của bên giao đại lý để hưởng thù lao.
Trong hoạt động đại lý thương mại, bên đại lý phải là thương nhân, là các tổ chức kinh
tế thành lập hợp pháp, cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên và có
đăng kí kinh doanh theo Điều 6 Luật Thương mại 2005. Các thương nhân này có tư cách
pháp lý hoàn toàn độc lập với bên giao đại lý và bên thứ ba. Họ không phải là người làm
công ăn lương như giám đốc (tổng giám đốc) doanh nghiệp, không phải là chi nhánh hay văn
phòng đại diện của bên thuê dịch vụ. Những người này chỉ được thực hiện hoạt động trong
phạm vi, quyền hạn theo quy định trong nội bộ thương nhân đó. Còn bên đại lý thương mại
có trụ sở riêng, có tư cách pháp lý độc lập, tự định đoạt thời gian làm việc, thực hiện mọi
quyền hạn có được của mình và tự chịu trách nhiệm về những hoạt động đó.
Mặc dù có tư cách pháp lý độc lập, bên đại lý thực hiện việc mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ không vì lợi ích của bản thân mà vì  lợi ích của bên giao đại lý. Lợi ích mà họ
nhận được trong hoạt động kinh doanh này không phải lợi nhuận từ việc mua bán hàng hóa
mà là thù lao họ nhận được từ bên thuê dịch vụ khi họ hoàn thành công việc của mình. Khác
với hoạt động đại lý, việc trả thù lao cho bên thực hiện dịch vụ không phải nghĩa vụ bắt buộc
với bên thuê dịch vụ trong giao dịch dân sự.
Thứ ba, phạm vi hoạt động của đại lý thương mại
Phạm vi hoạt động là giới hạn hay những lĩnh vực thương mại mà ben đại lý được thực
hiện theo sự ủy quyền của bên giao đại lý để giao kết hợp đồng với bên thứ ba.   Luật thương
mại 2005  đã  mở rộng phạm vi hoạt động của đại lý thương mại so với Luật thương mại
1997 và các văn bản khác về đại lý. Luật thương mại 2005 quy định đại lý thương mại không
chỉ hoạt động trong lĩnh vực mua bán hàng hóa nà còn cả cung ứng dịch vụ.
Luật thương mại 2005 không quy định các loại dịch vụ thương mại. Đối với các loại
hành hóa, dịch vụ kinh doanh cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều
kiện thì đại lý phải tuân thủ những quy định của Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 13/06/2006
Quy định chi tiết  Luật thương mại 2005 về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện.
Thứ tư, cơ sở phát sinh đại lý thương mại
Quan hệ đại lý thương mại được xác lập bằng hợp đồng, được gọi là hợp đồng đại lý.
Hợp đồng đại lý được giao kết giữa thương nhân giao đại lý và thương nhân làm đại lý. Hợp
đồng chính là kết quả của sự thỏa thuận giữa hai bên chủ thế. Theo Điều 168  Luật thương
mại, “Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương”. Quy định này thể hiện sự rõ ràng, mạch lạc trong việc ghi nhận những
thỏa thuận. Với quy định này, một mặt các bên có thể dễ dàng thực hiện những điều khoản đã
thỏa thuận trong hợp đồng, mặt khác đó cũng là cơ sở để giải quyết những tranh chấp sau
này.
1.2. Khái niệm chung về hợp đồng đại lý thương mại
1.2.1. Khái niệm về hợp đồng đại lý thương mại
Hợp đồng đại lý là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, một bên (bên đại lý) được sự ủy
quyền của bên kia (bên giao đại lý) cam kết nhân danh bên giao đại lý thực hiện một hoặc
nhiều giao dịch theo sự ủy quyền và vì lợi ích của bên kia để được nhận một khoản tiền thủ
lao do các bên thỏa thuận.
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng đại lý thương mại
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa là các thương nhân.
Quan hệ đại lý mua bán hàng hóa được xây dựng trên cơ sở hợp đồng, giữa bên giao
đại lý và bên đại lý.
Theo Điều 167 Luật thương mại 2005 quy định về bên giao đại lý và bên đại lý:
1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua
hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng
dịch vụ.
2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để
làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.
Như vậy theo quy định của pháp luật thì cả bên giao đại lý và bên đại lý đều phải là
thương nhân.
Bên giao đại lý và bên đại lý phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp; cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Bên
giao đại lý là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài giao hàng hóa cho đại lý
bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua. Đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa xuất
nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý sau khi được Bộ Công
Thương cho phép. Để hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa có hiệu lực pháp luật thì các bên
phải có năng lực chủ thể thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Thứ hai, bên đại lý phải dùng chính danh nghĩa của mình để thực hiện việc mua
bán hàng hóa cho bên giao đại lý.
Đây là một đặc điểm quan trọng của hợp đồng đại lý, cho phép phân biệt hợp đồng đại
lý với hợp đồng đại diện cho thương nhân. Trong quan hệ hợp đồng đại lý, do bên giao đại lý
thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho mình thông qua bên đại lý nên bắt buộc phải có quyền
kinh doanh những hàng hóa đó, hay nói cách khác là phải có ngành, nghề kinh doanh phù
hợp với hàng hóa đại lý. Do bên đại lý thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý
bằng chính danh nghĩa của mình nên phải có ngành, nghề kinh doanh phù hợp với hàng hóa
đại lý mua, đại lý bán. Từ nghĩa vụ cụ thể của bên đại lý là nhân danh chính mình để thực
hiện việc mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa nhất định cho bên giao đại lý nên bên giao
đại lý phải có đăng ký kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hóa ghi trong hợp đồng .
Thứ ba, trong quan hệ hợp đồng đại lý, chủ sở hữu hàng hóa là bên giao đại lý, đại
lí chỉ là người được bên giao đại lý giao việc định đoạt hàng hóa. Bên giao đại lý hoàn
toàn không chuyển quyền sở hữu hàng hóa (trong trường hợp đại lý bán) hoặc tiền
(trong trường hợp đại lý mua).
Cơ sở để bên đại lý bán hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý là sự ủy nhiệm quyền
mua, bán hàng hóa của bên giao đại lý. Đặc điểm này làm cho hợp đồng đại lý mua bán hàng
hóa hoàn toàn khác hợp đồng mua bán hàng hóa. Đặc trưng nổi bật nhất của hợp đồng mua
bán hàng hóa là có sự chuyển quyền sở hữu hàng hóa cũng như chuyển giao rủi ro từ người
bán sang cho người mua, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong quan hệ đại lý
mua bán hàng hóa, bên đại lý chỉ giao hàng hóa cho bên đại lý bán hàng mà không chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho bên đại lý (bên giao đại lý chỉ chuyển quyền chiếm hữu hàng hóa
cho bên đại lý). Khi bên đại lý giao kết, thực hiện hợp đồng với khách hàng, quyền sở hữu
hàng hóa sẽ được chuyển từ bên giao đại lý sang cho khách hàng. Bên đại lý chỉ có vai trò
của một người làm dịch vụ trung gian nối liền sự liên kết của bên giao đại lý với khách hàng.
Với tư cách là chủ sở hữu của hàng hóa, bên giao đại lý được toàn quyền định đoạt đối với
hàng hóa của mình cũng như phải chịu rủi ro đối với hàng hóa cũng như gánh chiu mọi trách
nhiệm với khách hàng về chất lượng của hàng hóa (trừ trường hợp hàng hóa hư hỏng do lỗi
của bên đại lý).
Thứ tư, để thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý phải thực hiện các hành vi thực
tế.
Bên đại lý nhận hàng hóa từ bên giao đại lý để giao cho người mua trong trường hợp
đại lý bán, hoặc nhận tiền từ bên giao đại lý để thanh toán cho khách hàng; nhận hàng từ
khách hàng để giao cho bên đại lý trong trường hợp đại lý mua hàng.
Đặc điểm này giúp phân biệt hợp đồng đại lý với hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa,
trong đó bên được ủy thác chủ yếu thực hiện các hành vi pháp lý (bên được ủy thác chỉ sử
dụng danh nghĩa của mình ký hợp đồng với khách hàng; còn việc giao hàng, thanh toán có
thể được thực hiện trực tiếp giữa bên ủy thác với khác hàng). Bên đại lý mua bán hàng hóa
được tự do hơn bên nhận ủy thác trong việc lựa chọn bên thứ ba để giao kết và thực hiện hợp
đồng.
Việc bên nhận ủy thác thực hiện mua bán hàng hóa cho bên ủy thác phải tuân thủ
nghiêm ngặt chỉ dẫn của bên ủy thác. Nhưng bên đại lý trong quan hệ đại lý mua bán hàng
hóa được tự do trong việc tìm kiếm, giao kết hợp đồng với các bên thứ ba mà không chịu sự
tác động của bên giao đại lý.
Thứ năm, hợp đồng đại lý là một dạng của hợp đồng dịch vụ.
Bên đại lý bán hàng hóa hoặc mua hàng cho bên giao đại lý để nhận thù lao. Trong
quan hệ hợp đồng đại lý, lợi ích bên đại lý được hưởng chính là thù lao đại lý mà xét dưới
khía cạnh pháp lý thì khoản tiền này chính là thù lao dịch vụ mà bên giao đại lý phải thanh
toán cho bên đại lý do sử dụng dịch vụ mua bán hàng hóa của bên đại lý.
1.2.3. Hình thức và nội dung của hợp đồng đại lý thương mại
Theo Điều 169 đại lý có các hình thức là:
– Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một
khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý.
– Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại
lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một
số loại dịch vụ nhất định.
– Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ
chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc
hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.
– Các hình thức đại lý khác mà các bên thỏa thuận.
Quan hệ đại lý thương mại được xác lập bằng hợp đồng đại lý thương mại. Hợp đồng
đại lý thương mại được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên trong đó bên giao đại lý nhân danh
mình mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho
khách hàng và bên giao đại lý có nghĩa vụ trả thù lao cho hoạt động đại lý này của bên đại lý.
Nội dung (Quyền và nghĩa vụ của bên đại lý với bên giao đại lý.)
a) Bên đại lý
– Nghĩa vụ của bên đại lý (theo điều 175 Luật thương mại):
+ Mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng hóa, giá cung
ứng dịch vụ do bên giao đại lý ấn định.
+ Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý.
+ Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp
luật.
+ Thanh toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng đối với đại lý bán; giao hàng mua đối
với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ.
+ Bảo quản hàng hoá sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao đối với đại lý
mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất
lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra.
+ Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình hoạt động đại lý
với bên giao đại lý.
+ Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được giao kết hợp
đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải
tuân thủ quy định của pháp luật đó.
– Quyền của bên đại lý (theo điều 174 Luật thương mại 2005):
+ Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp quy định
tại khoản 7 Điều 175 của Luật thương mại 2005.
+ Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản
dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý.
+ Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên
quan để thực hiện hợp đồng đại lý.
+ Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý bao
tiêu.
+ Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại.
b) Bên giao đại lý.
– Nghĩa vụ của bên giao đại lý (điều 173 Luật thương mại 2005).
+ Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại
lý.
+ Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng
dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ.
+ Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý.
+ Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc
hợp đồng đại lý.
+ Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên
nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra.
– Quyền của bên giao đại lý (theo điều 172 Luật thương mại 2005).
+ Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng.
+ Ấn định giá giao đại lý.
+ Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của pháp luật.
+ Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý.
+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.
CHƯƠNG 2: KỸ NĂNG XÁC LẬP, THỰC HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
PHÁT SINH TRONG HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI
2.1. Kỹ năng xác lập hợp đồng đại lý thương mại
2.1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng đại lý thương mại
2.1.2. Hình thức của hợp đồng
2.1.3. Nội dung hợp đồng
2.1.4. Các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng
2.1.5. Quy trình giao kết hợp đồng
2.2. Kỹ năng thực hiện hợp đồng
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của các bên
2.2.2. Nguyên tắc khi thực hiện hợp đồng
2.3. Kỹ năng giải quyết tranh chấp khi phát sinh

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THÀNH PHÁP LUẬT VÀ NÂNG


CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI

bất cập, hạn chế gì? Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ấy? Các giải pháp hoàn thiện
PL về…

You might also like