NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI LÝ THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và các đặc điểm pháp lý cơ bản của đại lý thương mại. 1.1.1. Khái niệm đại lý thương mại Khái niệm ĐLTM được được xem xét đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ, từ điển từ ngữ Hán – Việt của tác giả Nguyễn Lân có giải thích “đại lý” có nguồn gốc từ chữ hán, theo đó “đại” có nghĩa là thay thế, “lý” có nghĩa là quản lý, thu xếp, xử lý. Dưới góc độ kinh tế, “đại lý” là phương thức kinh doanh, một cách thức tổ chức mạng lưới kinh doanh, mạng lưới phân phối (tiêu thụ) hàng hóa, dịch vụ của các cơ sở kinh doanh. Dưới góc độ pháp lý, tại Điều 166 Luật thương mại 2005, khái niệm đại lý thương mại được định nghĩa như sau: “Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Đây được xem là khái niệm chung về hoạt động ĐLTM. Theo quy đinh này, hoạt động đại lý không chỉ được hiểu là một hình thức trung gian, một mắt xích trong kinh doanh mà còn khái quát được bản chất và phạm vi của hoạt động ĐLTM. Hoạt đoạt động ĐLTM tồn tại hai nhóm quan hệ: Quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý; Quan hệ giữa bên đại lý với bên thứ ba bất kì. Giữa bên giao đại lý và bên thứ ba bất kì không trực tiếp giao dịch với nhau mà thông qua đại lý, bên đại lý sẽ nhân danh chính mình trong quan hệ mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên đại lý với bên thứ ba. Việc bên đại lý nhân danh chính mình trong quan hệ với bên thứ ba đã khẳng định, bên đại lý sẽ tự chịu trách nhiệm với bên thứ ba trong việc mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ với bên thứ ba. Đây cũng chính là điểm đặc trưng để phân biệt hoạt động ĐLTM với hoạt động đại diện cho thương nhân; trong hoạt động đại diện cho thương nhân, bên đại diện cho thương nhân (bên trung gian ) thực hiện các hoạt động thương mại với bên thứ ba trong phạm vi đại diện theo danh nghĩa của thương nhân giao đại diện chứ không nhân danh chính mình . Từ những phân tích nêu trên, đại lý thương mại được hiểu: “Đại lý thương mại là hoạt động trung gian thương mại được thực hiện trong hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Trong đó, bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình dùng tiền của bên giao đại lý để mua, bán hàng hóa của bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao” 1.1.2. Đặc điểm pháp lý cơ bản của đại lý thương mại Đại lý thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau đây: Môt là, đại lý thương mại là hoạt động trung gian thương mại. Theo đó, chúng ta có thể hiểu hoạt động ĐLTM là hoạt động thương mại do một chủ thể trung gian thực hiện vì lợi ích của bên ủy nhiệm để hưởng thù lao. Trong hoạt động này có sự tham gia của ba bên: (i) bên trung gian (bên đại lý) là bên cung ứng dịch vụ;(ii) bên sử dụng dịch vụ và trả thù lao là bên giao đại lý; và (iii) bên thứ ba. Hai là, trong quan đại lý thương mại bên giao đại lý và bên đại lý đều phải là thương nhân. Theo Điều 167 LTM 2005 quy định: “Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hóa cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân ủy quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ; Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hóa để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hàng hoặc bên nhận ủy quyền cung ứng dịch vụ”. Như vậy, trong quan hệ ĐLTM, bên đại lý và bên giao đại lý đều phải là thương nhân, đây là một điểm khác biệt so với quan hệ môi giới thương mại và ủy thác mua bán hàng hóa. Ba là, trong hoạt động đại lý thương mại, bên đại lý nhân danh chính mình xác lập giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích của bên giao đại lý để hưởng thù lao. Trong quan hệ hợp đồng được xác lập giữa bên đại lý và bên thứ ba, các bên ràng buộc trách nhiệm pháp lý với nhau mà không liên quan đến bên giao đại lý. Trừ một số trường hợp về trách nhiệm chất lượng hàng hóa hay chất lượng dịch vụ quy định tại Khoản 2 Điều 173 LTM 2005 hoặc quy định trách nhiệm liên đới với bên đại lý trong trường hợp bên đại lý vi phạm pháp luật mà có phần lỗi của bên giao đại lý tại Khoản 5 Điều 173 LTM 2005. Bốn là, hoạt động đại lý thương mại có sự tham gia của ba bên chủ thể và song song tồn tại hai nhóm quan hệ. Trong quan hệ ĐLTM có sự tham gia của ba chủ thể là bên giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba bất kì và song song tồn tại hai nhóm quan hệ: (i) quan hệ đại lý thương mại giữa bên giao đại lý và bên đại lý; (ii) quan hệ mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ giữa bên đại lý và bên thứ ba. Các quan hệ này phát sinh trên quan hệ hợp đồng. Năm là, quan hệ đại lý thương mại có tính chất ổn định và gắn bó lâu dài giữa các chủ thể. Với mong muốn mở rộng mạng lưới kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ, đưa sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tới đông đảo người tiêu dùng, đồng thời tăng sức cạnh tranh để cạnh tranh với các đối thủ khác trong nền kinh tế, các thương nhân đã lựa chọn ĐLTM như là một phương án tối ưu để biến những mong muốn đó thành sự thật. Tuy nhiên, để đạt được những điều đó, quan hệ đại lý không thể chỉ tồn tại ngày một ngày hai mà phải ổn định và lâu dài đủ để hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất có mặt trên thị trường và được đông đảo người tiêu dùng trên thị trường biết đến, bên đại lý có thời gian đầu tư trang thiết bị để thực hiện công việc đã thỏa thuận. Sáu là, trong quan hệ đại lý thương mại, bên giao đại lý là chủ sở hữu của hàng hóa đã giao cho bên đại lý để bán cho khách hàng hoặc số tiền đã giao cho bên đại lý mua hàng. Trong quan hệ này, bên đại lý chỉ đóng vai trò là người trung gian, không phải là bên bán, bên mua hàng hóa hay bên cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý mà chỉ đơn thuần là người thực hiện dịch vụ trung gian nhận tiền của bên giao đại lý để mua hàng từ người thứ ba cho bên giao đại lý, nhận hàng của bên giao đại lý để bán cho người thứ ba. 1.2. Phân loại đại lý thương mại. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động ĐLTM được chia làm hai loại: Đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung ứng dịch vụ. Hoạt động đại lý mua bán hàng hóa gồm hai nhóm quan hệ: quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý; quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba, trong quan hệ đại lý giữa bên giao đại lý và bên đại lý được xác lập trên cơ sở hợp đồng, các bên thỏa thuận với nhau bằng văn bản về việc bên đại lý thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa cho bên giao đại lý, bên giao đại lý phải trả thù lao cho bên đại lý. Cùng với việc mở rộng phạm vi về đối tượng trong hoạt động đại lý mua bán hàng hóa, LTM 2005 còn mở rộng phạm vi hoạt động ĐLTM nói chung. Từ việc chỉ quy định về hoạt động đại lý mua bán hàng hóa, nay ĐLTM đã bao gồm cả các hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ.Theo đó, Đại lý cung ứng dịch vụ được hiểu là hoạt động thương mại, trong đó bên bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Căn cứ vào hình thức bên giao đại lý trả thù lao cho bên đại lý ĐLTM được chia làm hai loại: Đại lý hưởng theo hoa hồng và đại lý hưởng theo chênh lệch giá Đại lý hưởng theo hoa hồng: là hình thức đại lý mà trong đó, giá mua, giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng do bên giao đại lý ấn định và bên đại lý được hưởng thù lao từ việc bên giao đại lý trích tỉ lệ phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ đó; tỉ lệ phần trăm này do các bên thỏa thuận. Thông thường loại đại lý này có thể dễ dàng nhận thấy nhất ở hình thức đại lý độc quyền. Đại lý hưởng theo chênh lệch giá: là hình thức đại lý mà trong đó bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý và bên đại lý được hưởng mức chênh lệch giá giữa giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá bên giao đại lý giao cho đại lý. Hình thức này thường được các bên thỏa thuận và sử dụng trong đại lý bao tiêu. Trên thực tế, hoạt động thương mại diễn ra rất phong phú và đa dạng, trong khi đó hiểu biết pháp luật của đại bộ phận cộng đồng còn chưa cao nên thường dẫn đến tình trạng nhầm lẫn giữa các loại hình hoạt động thương mại. Tác giả cũng đã phân tích, so sánh ĐLTM với một số loại hoạt động như: hoạt động bán hàng đa cấp, nhượng quyền thương mại và hoạt động bán buôn bán lẻ hàng hóa để thấy được những đặc điểm cơ bản khác biệt giữa chúng. 1.3. Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với các hoạt động trung gian thương mại khác quy định trong luật thương mại 2005 1.3.1. Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với đại diện cho thương nhân Hoạt động đại diện cho thương nhân và ĐLTM đều có liên quan tới ba chủ thể: bên chủ ủy (bên giao đại diện, bên giao đại lý), bên được ủy nhiệm (bên đại diện, bên đại lý) và bên thứ ba.Về phương diện chủ thể các bên tham gia quan hệ đều phải là thương nhân. Phạm vi hoạt động: Bên đại lý sẽ theo thỏa thuận, thực hiện bán hàng cho bên giao đại lý hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ giao đại lý cho khách hàng; bên đại diện chịu trách nhiệm về thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Từ đó ta thấy phạm vi thực hiện của đại lý thương mại là hẹp hơn, giới hạn vào việc mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ Đại diện cho thương nhân chi trả thù lao do các bên thỏa thuận về mức thù lao, trong trường hợp không có thỏa thuận thì tính theo giá dịch vụ còn đại lý thương mại trả thù lao theo Điều 171 Luật thương mại 2005, trừ trường hợp có thoả thuận khác, thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá . 1.3.2. Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với môi giới thương mại Về phương diện chủ thể bên môi giới phải là thương nhân có đăng kí kinh doanh để thực hiện dịch vụ cho bên được môi giới để hưởng thù lao, nhưng không nhất thiết phải có ngành nghề kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới, bên được môi giới có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân. Bên đại lý bắt buộc phải là thương nhân Về phạm vi hoạt động, LTM 2005 đã mở rộng so với LTM 1997 ở chỗ không chỉ bó hẹp các hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa mà còn gồm cả dịch vụ thương mại. Nội dung hoạt động của môi giới thương mại có phần rộng hơn đại lý thương mại. Hợp đồng môi giới thương mại không nhất thiết phải lập thành văn bản mà nó còn có thể được xác lập bằng lời nói, hành vi cụ thể còn hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương theo Điều 168 LTM 2005. 1.3.3. Phân biệt hoạt động đại lý thương mại với ủy thác mua bán hàng hóa Theo Điều 155 LTM 2005, ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác. Xét về bản chất, ĐLTM và ủy thác mua bán hàng hóa đều là loại hợp đồng dịch vụ, vì vậy đối tượng hướng đến giữa các bên khi giao kết là thực hiện một công việc.Vì vậy, cho dù có sự xuất hiện của hàng hóa thì ở đây nó cũng không phải là đối tượng của hợp đồng mà chỉ là đối tượng trong hợp đồng mua bán giữa bên nhận giao kết và bên thứ ba. Về mặt hình thức hợp đồng, cả ủy thác mua bán hàng hóa lẫn ĐLTM đều phải được xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Về phạm vi hoạt động, ĐLTM có phạm vi hoạt động rộng hơn, bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ trong khi ủy thác mua bán hàng hóa giới hạn ở hoạt động mua hoặc bán hàng hóa. Về chủ thể tham gia quan hệ, bên nhận ủy thác là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác, bên ủy thác là thương nhân hoặc không phải là thương nhân giao cho bên nhận uỷ thác thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình. Trong khi đó bên đại lý là thương nhân họ nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ, bên giao đại lý cũng là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ... 1.4. Vai trò của đại lý thương mại trong nền kinh tế Đại lý thương mại được coi là phương thức kinh doanh truyền thống, phổ biến và được các thương nhân sử dụng khá sớm trong lịch sử phát triển thương mại và ngày nay vẫn được ưa chuộng. Việc sử dụng dịch vụ ĐLTM có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, bởi những vài trò sau: Thứ nhất, hoạt ĐLTM mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong quá trình tổ chức mạng lưới phân phối, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Thứ hai, hoạt động ĐLTM góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá và từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Đại lý thương mại đóng vai trò như một mắt xích, một cầu nối, nối các chủ thể kinh tế lại với nhâu, tạo nên một mạng lưới kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao không chỉ cho chính các chủ thể mà còn thúc đẩy sự phất triển của nền kinh tế. Đại lý thương mại không chỉ tạo cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ phân phối sản phẩm trong nước, mà nó còn góp phần mở rộng thị trường ra nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư, thúc đẩy quá trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ, lưu thông hàng hóa. Qua đó, ĐLTM tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế trong và ngoài nước. 1.5. Nội dung pháp luật về đại lý thương mại Luật thương mại 2005 đã đưa ra định nghĩa chung về các hoạt động trung gian thương mại bên cạnh các định nghĩa về từng loại hoạt động trung gian, đồng thời quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ trung gian thương mại trong đó có hoạt động ĐLTM. Bên cạnh BLDS quy định các vấn đề chung về đại lý thương mại, LTM 2005 được xây dựng điều chỉnh những vấn đề chuyên biệt của hoạt động thương mại, trong đó có ĐLTM. Đây được coi là nguồn trực tiếp, quan trọng điều chỉnh các hoạt động thương mại nói chung và hoạt động ĐLTM nói riêng. Ngoài ra, pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐLTM ở Việt Nam còn được đề cập trong nhiều bộ luật, luật và các văn bản dưới luật khác. Do vậy, nội dung chủ yếu pháp luật về ĐLTM bao gồm: - Nhóm quy phạm pháp luật quy định về các hình thức ĐLTM - Nhóm quy phạm pháp luật quy định về hợp đồng ĐLTM - Nhóm quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ đại lý thương mại Kết luận chương Hoạt động trung gian thương mại được hình thành khá sớm và là kết quả tất yếu trong quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội trong lĩnh vực phân phối hàng hóa sản phẩm và dịch vụ tới người tiêu dùng. Hoạt động trung gian thương mại nói chung và ĐLTM nói riêng là hoạt động mang lại lợi ích kinh tế cao cho các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sử dụng dịch vụ này và để đồng thời đảm bảo cho công tác quản lý đạt hiệu quả, nhà nước đã ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐLTM. Để có thể hiểu rõ hơn các quy phạm này trước hết chúng ta cần hiểu một số vấn đề lý luận về ĐLTM và pháp luật về ĐLTM. Trong phạm vi chương này, bài tiểu luận đã tiến hành tìm hiểu khái niệm và đặc điểm pháp lý về ĐLTM, nêu và phân tích một số vấn đề lý luận về ĐLTM, từ phân tích các các góc độ đánh giá về ĐLTM, tác giả đã đưa ra khái niệm ĐLTM; phân tích, so sánh ĐLTM với một số loại hình hoạt động thương mại nằm và không nằm trong hoạt động trung gian thương mại, cũng như vai trò và tầm quan trọng của đại lý thương mại trong nền kinh tế thị trường.