Professional Documents
Culture Documents
Ngọc Anh
Ngọc Anh
6
See N. Valticos, ‘Une Nouvelle Forme d’Action Internationale: Les “Contacts Directs”’,27
AFDI, 1981, p. 481, and V. Leary, ‘Lessons from the Experience of the International Labour
Organisation’ in Alston, United Nations and Human Rights, p. 611.
Tổ chức Văn hóa và Khoa học Giáo dục của Liên Hợp Quốc7
UNESCO ra đời vào tháng 11 năm 1946 và có quan hệ với Liên Hợp Quốc vào
ngày 14 tháng 12 cùng năm.8 Mục đích của tổ chức được công bố trong Điều 1
của hiến pháp là đóng góp cho hòa bình và an ninh bằng cách thúc đẩy sự hợp tác
thông qua khoa học giáo dục và văn hóa ‘để tiếp tục tôn trọng đem công lý đến
với nhà nước pháp quyền và các quyền con người và các quyền tự do cơ bản
được củng cố cho các dân tộc trên thế giới. ’ Tổ chức bao gồm một Hội nghị họp
hai năm một lần và trong đó tất cả các quốc gia thành viên đều có đại diện là Ban
chấp hành do hội nghị bầu ra và ban giám đốc kín do Tổng giám đốc đứng đầu.
Theo Điều 4 (4), các quốc gia thành viên cam kết đệ trình các Công ước và Nghị
quyết lên các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia trong vòng một năm kể từ khi
thông qua và có thể được yêu cầu gửi báo cáo về hành động đã thực hiện. 9 Không
giống như ILO, UNESCO không có quy định hiến pháp nào để xem xét các
khiếu nại liên quan đến việc thực hiện các thủ tục công ước. Tuy nhiên, vào năm
1962, một Nghị định thành lập Ủy ban Hòa giải và Văn phòng hòa chuyên trách
đã được thông qua để giúp giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia
thành viên của Công ước 1960 về Chống Phân biệt đối xử trong Giáo dục. Nó có
hiệu lực vào năm 1968 và cuộc họp đầu tiên của Ủy ban gồm 11 thành viên là
vào năm 1971. Nó nhằm mục đích cung cấp các văn phòng chuyên trách của
mình để đạt được một thỏa thuận thân thiện giữa các quốc gia thành viên của
công ước đã đề cập. Vào năm 1978, Ban chấp hành của UNESCO đã thông qua
quyết định 104 EX/3.3, theo đó ban chấp hành thành thiết lập một thủ tục để xử
lý các thông tin liên lạc cá nhân cáo buộc vi phạm nhân quyền. Mười điều kiện
để được thừa nhận được đưa ra bao gồm yêu cầu rằng các quyền con người bị vi
phạm phải thuộc thẩm quyền của UNESCO trong các lĩnh vực văn hóa và thông
tin khoa học giáo dục và nhu cầu truyền thông tương thích với lợi ích nhân quyền
quốc tế. Điều kiện đối với các biện pháp khắc phục trong nước khá khác so với
trường hợp của các cơ quan nhân quyền khác ở chỗ tất cả những thông tin liên
lạc cần làm là cho biết ‘liệu có nỗ lực nào đã được thực hiện để làm suy giảm các
biện pháp khắc phục trong nước hay không. . . và kết quả của một sự cám dỗ như
vậy nếu có’. Cơ quan điều tra là Ủy ban Điều hành về Công ước và Khuyến nghị,
gồm có hai mươi bốn thành viên và thường họp hai lần một năm trong phiên họp
riêng.10 Việc kiểm tra thông tin liên lạc là bí mật. Ủy ban quyết định xem một
cuộc trao đổi có được chấp nhận hay không và sau đó đưa ra quyết định về kết
7
See e.g. S. Marks, ‘The Complaints Procedure of the United Nations Educational, Scien-tific
and Cultural Organisation’ in Hannum,Guide to International Human Rights Practice,p. 107;
D. Weissbrodt and R. Farley, ‘The UNESCO Human Rights Procedure: An Evalu-ation’, 16
HRQ, 1994, p. 391; P. Alston, ‘UNESCO’s Procedures for Dealing with Human Rights
Violations’, 20 Santa Clara Law Review, 1980, p. 665; H. S. Saba, ‘UNESCO and Human
Rights’ in Vasak and Alston, International Dimensions of Human Rights, vol. II,p. 401;
Robertson and Merrills, Human Rights, p. 288, and UN Action, pp. 308 and 321.
8
See General Assembly resolution 50 (I).
9
See, for example, the obligation to submit reports under article 7 of the 1960 Convention
against Discrimination in Education. See also UN Action, p. 163.
10
Formerly the Committee on Conventions and Recommendations in Education, ibid., pp.
321–2. See also A/CONF.157/PC/61/Add.6, 1993.
quả. Nhiệm vụ của Ủy ban là đạt được một ‘giải pháp thân thiện được thiết kế để
thúc đẩy việc thúc đẩy các quyền con người nằm trong phạm vi các lĩnh vực
năng lực của UNESCO’.11 Các báo cáo bí mật được đệ trình cho Ban điều hành
mỗi phiên họp có chứa thông tin thích hợp cộng với các khuyến nghị. 12 Cũng cần
lưu ý rằng theo thủ tục này, Lãnh đạo nói chung có vai trò tìm cách tăng cường
hành động của UNESCO trong việc thúc đẩy quyền con người và tự tin khởi
xướng các cuộc tham vấn để giúp đạt được các giải pháp cho các vấn đề nhân
quyền cụ thể.13 UNESCO đã công bố một báo cáo vào năm 1993 liên quan đến
các hoạt động của thủ tục lưu ý rằng Ủy ban đã xem xét 414 trường hợp từ năm
1978 đến năm 1993, trong đó đã giải quyết 241 trường hợp riêng lẻ. 14 Không rõ
thủ tục đã thành công như thế nào vì tính bảo mật nghiêm ngặt đã ràng buộc nó, 15
khoảng thời gian cần thiết để tạo ra kết quả và tỷ lệ cao các trường hợp được
tuyên bố là không chấp nhận được.16
Một thủ tục đặc biệt để áp dụng với những người mất tích đã được thiết lập
bởi Ủy ban. Thông tin của những người như vậy được đưa vào Danh sách Đặc
biệt nếu không đủ thông tin đến từ chính phủ đang được đề cập và được Ủy ban
kiểm tra.17 Trong các trường hợp liên quan đến vi phạm nhân quyền cá nhân và
cụ thể, UNESCO cũng có thể xem xét các câu hỏi về sự vi phạm nghiêm trọng
có hệ thống hoặc rõ ràng đối với nhân quyền do chính sách trái với nhân quyền
do một nhà nước áp dụng hoặc từ sự tích lũy các trường hợp riêng lẻ tạo thành
một khuôn mẫu nhất quán.18 Trong trường hợp có những câu hỏi như vậy, vấn đề
này sẽ được thảo luận công khai bởi Ban Chấp hành của Đại hội.19
11
Decision 104.EX/3.3, para. 14(k).
12
In the April 1980 session, for example, forty-five communications were examined as to
admissibility, of which five were declared inadmissible, thirteen admissible, twenty
suspended and seven deleted from the agenda. Ten communications were examined on the
merits, UNESCO Doc. 21 C/13, para. 65. Between 1978 and September 2003 508
communications were examined: see Marks, ‘UNESCO Complaints Procedure’, p. 120.
13
Ibid., paras. 8 and 9.
14
See UNESCO Doc. 141/EX/6 and Weissbrodt and Farley, ‘UNESCO Human Rights Pro-
cedure’, p. 391. It was noted that during this period, 129 individuals were either released or
acquitted, 20 authorised to leave and 34 to return to the state concerned, 24 were able to
resume banned employment or activity, and 11 were able to resume a banned publication or
broadcast, ibid.
15
See G. H. Dumont, ‘UNESCO’s Practical Action on Human Rights’, 122 International
Social Sciences Journal, 1989, p. 585, and K. Partsch, ‘La Mise en Oeuvre des Droit de
l’Homme par l’UNESCO’, 36 AFDI, 1990, p. 482.
16
Weissbrodt and Farley note that of sixty-four cases studied only five were declared admissi-
ble, ‘UNESCO Human Rights Procedure’, p. 399. Of these, three concerned one particular
country in Latin America. One case was considered over a nine-and-a-half-year period and
another was considered over eight-and-a-half years.
17
UNESCO Doc. 108 EX/CR/HR/PROC/2 Rev. (1979).
18
Decision 104. EX/3.3, para. 10.
19
Ibid., para. 18
Gợi ý đọc thêm
The Future of UN Human Rights Treaty Monitoring (eds. P. Alston and J.
Crawford), Cambridge, 2000
Guide to International Human Rights Practice (ed. H. Hannum), 4th edn,
Ardsley, 2004
T. Meron, The Humanization of International Law, The Hague, 2006
J. Rehman, International Human Rights Law, London, 2002
A. H. Robertson and J. Merrills, Human Rights in the World, 4th edn,
Manchester, 1996
H. Steiner, P. Alston and R. Goodman, International Human Rights in Context,
3rd edn, Oxford, 2008
C. Tomuschat, Human Rights, Oxford, 2003
7
Khu vực bảo vệ nhân quyền
Châu Âu20
24
See further below, p. 359. Note also Assembly Order 508 (1995). The Committee on the Honouring of
Obligations and Commitments by Member States of the Council of Europe (known as the Monitoring
Committee) commenced operations in April 1997 under the authorisation of Assembly resolution 1115
(1997). This Committee is responsible for ver-ifying the fulfilment of the obligations assumed by the
member states under the terms of the Council of Europe Statute, the European Convention on Human
Rights and all other Council of Europe conventions to which they are parties, as well as the honouring of
the commitments entered into by the authorities of member states upon their accession to the Council of
Europe. It reports directly to the Assembly.
25
Committee of Ministers resolution (99) 50. The Commissioner cannot consider individual petitions and
exercises functions other than those of the supervisory bodies of Council of Europe human rights
instruments. No general reporting system exists in this framework.
26
See e.g. CommDH(2002)7, Opinion 1/2002 on certain aspects of the United Kingdom 2001 derogation
from article 5(1) of the European Convention on Human Rights.
27
See e.g. Recommendations CommDH/Rec(2001)1 concerning the rights of aliens wishing to enter a
Council of Europe member state and the enforcement of expulsion orders, and CommDH/Rec(2002)1
concerning certain rights that must be guaranteed during the arrest and detention of persons following
‘cleansing’ operations in the Chechen Republic of the Russian Federation.
28
See e.g. the visit to Russia including Chechnya, Press Release 072a (2003).
Công ước Châu Âu về Nhân quyền29
Công ước được ký kết vào ngày 4 tháng 11 năm 1950 và có hiệu lực vào tháng 9 năm
1953.30 Cùng với mười ba Nghị định, nó bao gồm nhiều loại quyền chủ yếu là dân sự và
chính trị.31 Phần mở đầu lưu ý rằng các quốc gia châu Âu có cùng chí hướng và có một di
sản chung là các lý tưởng truyền thống chính trị, các lý tưởng tự do và pháp quyền. Bản
thân các quyền được đề cập trong Công ước bao gồm quyền được sống (Điều 2) cấm tra
tấn và nô lệ (Điều 3 và 4) quyền tự do và an toàn của con người (Điều 5) quyền được xét
xử công bằng và công khai trong một thời gian hợp lý trước một tòa án độc lập và khách
quan được thành lập theo luật (Điều 6), cấm pháp luật hình sự có hiệu lực hồi tố (Điều 7)
quyền được tôn trọng cuộc sống riêng tư và gia đình (Điều 8) tự do suy nghĩ và tự do tôn
giáo (Điều 9) tự do ngôn luận (Điều 10) tự do hội họp và lập hội (Điều 11), quyền kết
hôn và thành lập gia đình (Điều 12) quyền được giải quyết thích đáng trước cơ quan có
thẩm quyền quốc gia nếu một trong các quyền hoặc tự do của Công ước bị vi phạm (Điều
13) và điều khoản không phân biệt đối xử liên quan đến việc hưởng các quyền và tự do
theo Công ước (Điều 14). Ngoài ra, một số nghị định đã được thêm vào các quyền cơ bản
được bảo vệ theo Công ước. Nghị định số 1 bảo vệ quyền giáo dục tài sản và bầu cử tự do
bằng bỏ phiếu kín Nghị định số 4 cấm bỏ tù vì nợ dân sự và bảo vệ mọi người khác
quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú và quyền nhập cảnh vào đất nước của mình.
Nghị định số 6 quy định việc bãi bỏ hình phạt tử hình trong khi Nghị định số 7 quy định
khác nhau rằng một người nước ngoài cư trú hợp pháp tại một tiểu bang sẽ không bị trục
xuất khỏi tiểu bang đó trừ khi có quyết định phù hợp với luật pháp rằng một người bị kết
án tội hình sự sẽ không bị trục xuất. Có quyền được tòa án cấp trên xem xét lại lời kết án
29
See e.g. Jacobs and White: The European Convention on Human Rights (eds. C. Ovey and R. C. A.
White), 4th edn, Oxford, 2006; D. J. Harris, M. O’Boyle and C. Warbrick, Law of the European
Convention on Human Rights, London, 1995; M. W. Janis, R. S. Kay and A. W. Bradley, European
Human Rights Law: Text and Materials, 3rd edn, Oxford, 2008; S. Greer, The European Convention on
Human Rights: Achievements, Problems and Prospects, Cambridge, 2006; G. Letsas, A Theory of
Interpretation of the European Convention on Human Rights, Oxford, 2007; La Convention Europ
´eenne des Droits de l’Homme (eds. P.Imbert and L. Pettiti), Paris, 1995; L. J. Clements, N. Mole and
A. Simmons, European Human Rights: Taking a Case under the Convention, 2nd edn, London, 1999;
The European System for the Protection of Human Rights (eds. R. St J. Macdonald, F. Matscher and
H.Petzold), Dordrecht, 1993; A. H. Robertson and J. G. Merrills, Human Rights in Europe, 4th edn,
Manchester, 2001; P. Van Dijk, G. J. H. Van Hoof, A. Van Rijn and L. Zwaak, Theory and Practice of
the European Convention on Human Rights, 4th edn, Antwerp, 2006; P. J. Velu and R. Ergel, La
Convention Europ´eenne des Droits de l’Homme, Brussels, 1990; G. Cohen- Jonathan, La Convention
Europ´eenne des Droits de l’Homme, Paris, 1989; E. Lambert, Les Effets des Arrˆets de la Cour Europ
´eenne des Droits de l’Homme, Brussels, 1999, and K.Starmer, European Human Rights Law, London,
1999. See also L. G. Loucaides, Essays on the Developing Law of Human Rights, Dordrecht, 1995; J.
G. Merrills, The Development of International Law by the European Court of Human Rights, 2nd edn,
Manchester, 1993,and A. Drzemczewski, The European Human Rights Convention in Domestic Law,
Oxford,1983.
30
All forty-seven member states of the Council of Europe have ratified the Convention.
31
Protocol No. 14, dealing with procedural issues, is not yet in force: see below, p. 360. Economic and
social rights are covered in the European Social Charter, 1961. See below, p. 360.
hoặc bản án đó và không ai có thể bị xét xử hoặc trừng phạt lại trong thủ tục tố tụng hình
sự đối với hành vi phạm tội mà cuối cùng người đó đã được tuyên trắng án hoặc bị kết
án. Nghị định số 12 cấm phân biệt đối xử trong khi Nghị định số 13 bãi bỏ án tử hình.
Giống như các điều ước quốc tế khác, Công ước Châu Âu đặt ra nghĩa vụ đối với các
quốc gia thành viên phải tôn trọng nhiều quy định khác nhau. Trong trường hợp này,
Công ước cũng đã được đưa vào luật trong nước của tất cả 13 quốc gia thành viên hiện
hành32, mặc dù Công ước không quy định về cách thức chính xác của các quốc gia thành
viên để thực hiện các nghĩa vụ nội bộ có liên quan. 33 Nghị định này đã được nhấn mạnh
rằng:
không giống như các điều ước quốc tế trước kia, Công ước bao gồm nhiều hơn
các cam kết có đi có lại giữa các quốc gia ký kết. Nó tạo ra nhiều hơn và cao hơn
một mạng lưới các nghĩa vụ khách quan thực hiện song phương và song phương,
nói cách là lợi ích mở đầu từ việc thực thi tập thể.34
Ngoài ra, một cách tiếp cận từ xa và linh hoạt hơn để giải thích Công ước đã được thông
qua.35 Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã nhấn mạnh rằng Công ước là một công cụ sống
cần được giải thích trong điều kiện hiện nay và cách tiếp cận này không chỉ áp dụng cho
các quyền cơ bản được bảo vệ theo Công ước mà còn cho những điều khoản chi phối
hoạt động của bộ máy thực thi Công ước.36 Ngoài ra, Tòa án cũng lưu ý rằng đối tượng và
mục đích của Công ước với tư cách là một công cụ bảo vệ các cá nhân, đòi hỏi các điều
khoản của Công ước phải được giải thích và áp dụng để các biện pháp bảo vệ của Công
ước trở nên thiết thực và hiệu quả.37 Công ước cũng cần được giải thích phù hợp nhất có
thể với các nguyên tắc khác của luật pháp quốc tế. 38 Người ta đã nhấn mạnh rằng Công
ước là một công cụ quan trọng không thể thiếu của trật tự công cộng châu Âu (“ordre
public”).39 Tất nhiên, Công ước áp dụng trong lãnh thổ của các quốc gia ký kết nhưng vấn
đề áp dụng ngoài lãnh thổ đã được giải quyết. Tòa án đã giải thích khái niệm ‘thẩm
quyền’ theo Điều 1 để bao gồm khả năng áp dụng để dẫn độ hoặc trục xuất một người bởi
một quốc gia ký kết đến lãnh thổ của một quốc gia không ký kết 40 và tình huống mà các
32
The UK incorporated the Convention in the Human Rights Act 1998. See e.g. J. Polakiewicz and V.
Jacob-Foltzer, ‘The European Human Rights Convention in Domestic Law’, 12 HRLJ, 1991, pp. 65 and
125, and Harris et al., Law of the European Convention, p. 24, note 2.
33
See e.g. the Swedish Engine Drivers’ Union case, Series A, vol. 20, 1976, p. 18; 58 ILR, pp. 19, 36.
See also the Belgian Linguistics case, Series A, vol. 6, 1968, p. 35; 45 ILR, pp. 136, 165.
34
See article 1 and Ireland v. UK, Series A, vol. 25, 1978, pp. 90–1; 58 ILR, pp. 188, 290–1. See also
Loizidou v. Turkey, Series A, vol. 310, 1995, pp. 22–3; 103 ILR, p. 622.
35
See e.g. the Tyrer case, Series A, vol. 26, 1978; 58 ILR, p. 339, and see also the Marckx case, Series A,
vol. 31, 1979; 58 ILR, p. 561, although not to the extent of adding new rights or new jurisdictions
thereby, see Johnston v. Ireland, Judgment of 18 December 1986 and Bankovi´c v. Belgium, Judgment
of 12 December 2001, 123 ILR, p. 94. See also below, chapter 16, p. 937.
36
See Loizidou v. Turkey, Series A, vol. 310, 1995, p. 23; 103 ILR, p. 622.
37
See Soering v. UK, Series A, vol. 161, 1989, p. 34; 98 ILR, p. 270; Artico v. Italy, Series A, vol. 37, p.
16 and Loizidou v. Turkey, Series A, vol. 310, p. 23; 103 ILR, p. 622.
38
See Al-Adsani v. UK, Judgment of 21 November 2001, para. 60; 123 ILR, p. 41.
39
Loizidou v. Turkey, Series A, vol. 310, pp. 24 and 27; 103 ILR, p. 622.
40
See e.g. Soering v. UK, Series A, vol. 161, 1989, pp. 35–6.
hành vi của các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia ký kết có được thực hiện hay
không trong hoặc ngoài biên giới quốc gia tạo ra các hiệu ứng bên ngoài lãnh thổ của
họ.41 Hơn nữa, trong một động thái quan trọng, Tòa án ở Loizidou kiện Thổ Nhĩ Kỳ nhấn
mạnh rằng trách nhiệm của một quốc gia ký kết cũng có thể phát sinh khi quốc gia đó
thực hiện quyền kiểm soát hiệu quả hoặc ‘kiểm soát tổng thể có hiệu quả’ đối với một
khu vực bên ngoài lãnh thổ quốc gia của mình bất kể tính hợp pháp của việc kiểm soát đó
cho dù các quốc gia đó sở hữu đại lý và quan chức hoặc do hành vi của chính quyền địa
phương cấp dưới.42 Mặc dù vậy, Tòa án đã tuyên bố rằng việc công nhận quyền tài phán
ngoài lãnh thổ của một quốc gia ký kết là đặc biệt và rằng quyền tài phán của Công ước
về cơ bản là theo lãnh thổ.43 Các nguyên tắc này đã được khẳng định lại một lần nữa
trong Ilașcu kiện Moldova và Nga, trong đó Tòa án nhấn mạnh rằng quyền tài phán chủ
yếu thuộc về lãnh thổ, lưu ý rằng trong những trường hợp ngoại lệ, nhà nước có thể
không chịu trách nhiệm đối với các vi phạm Công ước khi bị ngăn cản thực hiện thẩm
quyền của mình trên một phần lãnh thổ của mình cho dù do sự chiếm đóng quân sự của
lực lượng vũ trang của một quốc gia khác kiểm soát hiệu quả lãnh thổ có liên quan các
hành động chiến tranh hoặc nổi dậy hoặc các hành động của một quốc gia nước ngoài hỗ
trợ việc thiết lập một nhà nước ly khai trong lãnh thổ của quốc gia liên quan. 44 Hơn nữa,
trách nhiệm của các quốc gia sẽ được thực hiện khi đó là hậu quả của hành động quân sự,
cho dù hợp pháp hay bất hợp pháp, quốc gia đó thực hiện quyền kiểm soát hiệu quả trên
thực tế đối với một khu vực nằm ngoài lãnh thổ quốc gia của quốc gia đó. Việc kiểm soát
tổng thể một khu vực là đủ và trách nhiệm của nhà nước không chỉ bao gồm các hành vi
của binh lính và quan chức của mình mà còn đối với các hành vi của chính quyền địa
phương tồn tại ở đó nhờ quân đội và các hỗ trợ khác.45
Liên kết với vấn đề thẩm quyền theo lãnh thổ là câu hỏi liệu Tòa án có thẩm quyền
đối với các quốc gia được đề cập (hoặc quyền tài phán ratione personae (của các quốc
gia thành viên)). Trong vụ Behrami kiện Pháp, Tòa án trong một đơn vị chống lại một số
quốc gia liên quan đến các hoạt động được thực hiện như một phần của quốc tế hiện hành
ở Kosovo (dù là KFOR quân sự hay UNMIK dân sự) thì phải quyết định xem vi điều
hành được cập nhật là do hoặc không thể quy kết cho các quốc gia liên quan như quyền
được tìm thấy trong bảng tài liệu hoặc điều đó có thể không được phép tranh cãi với Liên
Hợp Quốc hay không. Tòa án kết luận rằng KFOR đang thực thi quyền hạn theo Chương
41
See e.g. Drozd and Janousek v. France and Spain, Series A, vol. 240, 1992, p. 29. See als Issa v.
Turkey, Judgment of 30 May 2000, and Ocalan v. Turkey, Judgment of 14 December 2000.
42
Series A, vol. 310, p. 20; 103 ILR, p. 622. See also Cyprus v. Turkey, European Court of
Human Rights, Judgment of 10 May 2001, paras. 75 ff.; 120 ILR, p. 10.
43
See Bankovi´c v. Belgium, Judgment of 12 December 2001, paras. 63, 67 and 71; 123 ILR, pp. 110,
111 and 113. The Court noted that ‘the Convention is a multi-lateral treatyoperating ... in an essentially
regional context and notably in the legal space (espace juridique) of the contracting states’, ibid., para.
80. See also Issa v. Turkey, Judgment of 16 November 2004, paras. 65 ff., where the Court held that the
degree of control exercised by Turkish troops during a large-scale incursion into northern Iraq did not
amount to overall control, and Assanidze v. Georgia, Judgment of 8 April 2004.
44
Judgment of 8 July 2004 at paras. 312–13.
45
Ibid, paras. 314–19.
VII được ủy quyền hợp pháp của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vì vậy về nguyên tắc
hành động bị buộc tội là do Liên hợp quốc và do đó không phải do các quốc gia bị đưa ra
trước Tòa án.46
một cá nhân, trong những điều kiện nhất định có thể tuyên bố là nạn nhân của một
hành vi vi phạm chỉ do tồn tại các biện pháp bí mật hoặc pháp luật cho phép các
biện pháp bí mật mà không cần phải cáo buộc rằng các biện pháp đó trên thực tế
đã được áp dụng cho mình.74
Ví dụ, một người họ hàng gần của nạn nhân cũng có thể nêu vấn đề trong đó hành vi vi
phạm bị cáo buộc là phương hại cá nhân hoặc nơi tồn tại lợi ích cá nhân hợp lệ. 75
applications, and fifive applications against Turkey, 1982. See also the application brought by Georgia
against Russia, 2007.
68
Series A, vol. 25, 1978; 58 ILR, p. 188. Note also the Court’s decision in Cyprus v. Turkey, Judgment
of 10 May 2001; 120 ILR, p. 10.
69
Cyprus v. Turkey (Third Application) 13 DR 85 (1978).
70
The total number of new applications in 2007 was estimated at 54,000, of which 41,700 were allocated
to a decision body. As at 31 December 2007, there were a total of 103,850 applications pending, of
which some 79,000 were pending before a decision body: see Annual Report for 2007 (2008), p. 134.
71
Note that the issue of reservations to former articles 25 and 46 (concerning the jurisdiction of the Court
prior to Protocol XI) was discussed in the case-law. The Court noted that while temporal reservations
could be valid, reservations beyond this were not: see Loizidou v. Turkey (Preliminary Objections),
Series A, vol. 310, 1995; 103 ILR, p. 622. The Court, in dismissing the territorial limitations upon the
Turkish declarations under articles 25 and 46, held that such declarations therefore took effect as valid
declarations without such limitations, Series A, vol. 310 pp. 27–9. Turkey had argued that if the
limitations were not upheld, the declarations themselves would fall. Not to adopt this approach would,
the Court noted, have entailed a weakening of the Convention system for the protection of human
rights, which constituted a European constitutional public order, and would run counter to the aim of
greater unity in the maintenance and further realisation of human rights, ibid. See also the Commission
Report in Chrysostomos v. Turkey 68 DR 216.
72
See e.g. X v. Austria 7 DR 87 (1976) concerning legislation on abortion.
73
See e.g. Pine Valley v. Ireland, Series A, vol. 222, 1991; Johnston v. Ireland, Series A, vol. 112, 1986;
Marckx v. Belgium, Series A, vol. 31, 1979; Campbell and Cosans v. UK, Series A, vol. 48, 1982;
Eckle v. Federal Republic of Germany, Series A, vol. 51, 1982 and Vijayanathan and Pusparajah v.
France, Series A, vol. 241-B, 1992.
74
The Klass case, Series A, vol. 28, 1979, pp. 17–18; 58 ILR, pp. 423, 442. See also e.g. the Marckx
case, Series A, vol. 31, 1979, pp. 12–14; 58 ILR, pp. 561, 576; the Dudgeon case, Series A, vol.
45,1982, p. 18; 67 ILR, pp. 395, 410; the Belgian Linguistics case, Series A, vol. 6, 1968; 45 ILR, p.
136 and Norris v. Ireland, Series A, No. 142, 1988; 89 ILR, p. 243.
75
See e.g. Application 100/55, X v. FRG, 1 Yearbook of the ECHR, 1955–7, p. 162 and Application
1478/62, Y v. Belgium, Yearbook of the ECHR, 1963, p. 590. See also Cyprus v. Turkey, Judgment of
Tòa án chỉ có thể giải quyết một vấn đề khi tất cả các biện pháp khắc phục trong nước đã
hết theo các quy tắc được chấp nhận chung của luật pháp quốc tế và trong thời hạn sáu
tháng kể từ ngày đưa ra quyết định cuối cùng.76 Các biện pháp khắc phục đó phải có hiệu
lực. Trường hợp không có các biện pháp khắc phục trong nước để làm kiệt quệ hành vi
hoặc quyết định bị khiếu nại, thông thường sẽ được coi là ‘quyết định cuối cùng’ cho các
mục đích của Điều 26.77 Trường hợp các vụ việc liên bang cũng như quy tắc sáu tháng.78
Ngoài ra, không có đơn kiến nghị nào có thể được xử lý mà ẩn danh hoặc về cơ bản
giống như một vấn đề đã được xem xét và bất kỳ kiến nghị nào không phù hợp với Công
ước rõ ràng là không có cơ sở79 hoặc một việc lạm dụng quyền kiến nghị là không thể
chấp nhận được.