You are on page 1of 24

MỤC LỤC

1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi?. 2


2. Sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi?. 5
3. Những hạn chế của bảo hiểm tiền gửi?. 5
4. Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi?. 7
5. Thế nào là rủi ro đạo đức trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi?. 8
6. So sánh bảo hiểm tiền gửi với các loại hình bảo hiểm khác?. 8
7. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi? cần xem lại 10
8. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi?. 10
9. Các mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi?. 10
10. Vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV)?. 11
11. Các loại phí bảo hiểm tiền gửi?. 12
12. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro?. 12
13. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi hạn chế?. 13
14. So sánh mô hình bảo hiểm tiền gửi công và tư?. 13
15. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam?. 13
16. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi toàn phần?. 13
17. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ?(so sánh BHTG của Mỹ và VN) 13
18. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Đài loan?. 14
19. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Hàn Quốc?. 14
20. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi?. 14
21. Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi?. 16
22. So sánh bảo hiểm tiền gửi với bảo hiểm thương mại?. 16
23. Hợp đồng bảo hiểm tiền gửi?. 18
24. Tại sao pháp luật hiện hành ở Việt Nam không bảo hiểm tiền gửi cho công ty?. 18
25. Đối tượng được chi trả bảo hiểm tiền gửi?. 18
26. Tại sao pháp luật Việt Nam không cho phép bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ và tiền gửi liên ngân
hàng?. 18
27. Mức chi trả bảo hiểm tiền gửi? Các yếu tố tác động đến mức chi trả bảo hiểm tiền gửi?. 18
28. Thế nào là rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi?. 18
29. Sự hình thành Quỹ bảo hiểm tiền gửi?. 19
30. Hoạt động hỗ trợ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi?. 19
31. Hoạt động cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
(DIV)?. 19
32. Đặc điểm của phí bảo hiểm tiền gửi?. 19
33. Thế nào là bảo hiểm tiền gửi bắt buộc và tự nguyện?. 19
34. Mô hình bảo hiểm tiền gửi ngầm và công khai?. 19
35. Cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?. 19
36. Mối quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng Trung ương?. 20
37. Phạm vi hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?. 21
38. Nguyên tắc hoạt động tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam?. 21
39. Phân biệt quy mô quỹ bảo hiểm tiền gửi trong điều kiện bình thường và trong điều kiện nền kinh
tế xảy ra khủng hoảng?. 22
40. Các phương pháp xác định quỹ bảo hiểm tiền gửi?. 22
41. Hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?. 22
42. Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?. 22
43. Các trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?. 23
44. Nhiệm vụ, quyền hạn của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?. 23

1
45. Các trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?. 24
46. Hãy phân tích những đặc điểm của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật của Hàn Quốc?. 24
47. Phân tích các đặc điểm của tiền gửi? Các loại tiền gửi được bảo hiểm?. 24
48. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi?. 25
49. Khi nào cần áp dụng chế độ thu phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng?. 25
50. Điều kiện đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi?. 25
1. Khái niệm, đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi?
Câu 1: Khái niệm và đặc điểm BHTG
Khái niệm về BHTG đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới. Xuất phát từ lý do hoạt động tài
chính ngân hàng luôn gắn liền với những nhạy cảm và rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy mỗi quốc gia đặt
ra yêu cầu cần có tổ chức đứng ra nắm giữ vai trò bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng
xảy ra đổ vỡ để ổn định tình hình an ninh xã hội.
Một số nước và vùng lãnh thổ có mô tả về thuật ngữ BHTG trong Luật Bảo hiểm tiền gửi như: Luật
Bảo hiểm tiền gửi của Canada hiện hành quy định: “BHTG là bảo hiểm cho những tổn thất một phần
hoặc toàn bộ tiền gửi”. Còn theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi của Đài Loan (Trung Quốc)
hiện hành thì “BHTG là một loại hình bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là các loại tiền gửi trên
lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc)”. Luật Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc năm 2005 quy định về địa vị
pháp lý của tổ chức thực hiện hoạt động BHTG (KDIC) trong việc bảo vệ các khoản tiền gửi tại các tổ
chức tham gia BHTG tại Hàn Quốc mà không có những mô tả cụ thể về khái niệm BHTG.
Theo Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI), BHTG được hiểu “Bảo hiểm tiền gửi là một hệ thống được
thiết lập để bảo vệ người gửi tiền khỏi những tổn thất về tiền gửi được bảo hiểm của họ trong trường
hợp tổ chức nhận tiền gửi không thể hoàn thành các nghĩa vụ nợ theo cam kết đối với người gửi tiền”.
Tại Việt Nam, Khoản 1, Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định cụ thể: “Bảo hiểm tiền gửi
là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền
hoặc phá sản”.
Từ những phân tích trên, BHTG có thể hiểu như sau: “Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức BHTG cam kết trả tiền gửi cho người gửi tiền tại các
tổ chức tham gia BHTG bao gồm phần gốc và lãi, khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho
người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước. Cam kết công khai này
được thể hiện dưới hình thức một hợp đồng bảo hiểm gồm có ba đối tượng: tổ chức bảo hiểm tiền
BHTG, tổ chức tham gia BHTG (các định chế trung gian tài chính có huy động tiền gửi) và người gửi
tiền”.
Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
Một là, chủ thể thực hiện bảo hiểm tiền gửi phải là tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động BHTG mang tính đặc thù là chỉ hình thành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nhằm thực
hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước. Cho nên, hoạt động BHTG không hẳn là biện pháp
bảo đảm an toàn trong lĩnh vực ngân hàng một cách thuần túy. Hoạt động BHTG cũng không mang
bản chất pháp lý của hoạt động bảo hiểm thương mại. Chính vì vậy, BHTG thường không được các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại thực hiện. Hoạt động đặc thù này được
tiến hành bởi một tổ chức tài chính đặc thù dưới tên gọi là công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG.
Tổ chức BHTG có thể mang mục tiêu lợi nhuận (hoạt động theo Luật Doanh nghiệp) hoặc không vì
mục tiêu lợi nhuận (tổ chức tài chính của Nhà nước). Tùy thuộc vào mô hình hoạt động của BHTG
mà phạm vi, chức năng, quyền hạn của tổ chức BHTG cũng được pháp luật quy định khác nhau. Tuy
nhiên, chức năng chủ yếu của tổ chức BHTG theo pháp luật của tất cả các nước thành viên thuộc Hiệp
hội BHTG quốc tế (IADI) là thực hiện nghiệp vụ BHTG. Cụ thể là bảo vệ tiền gửi thuộc sở hữu của
cá nhân, tổ chức tại các tổ chức tham gia BHTG. Để thực hiện chức năng này, các tổ chức BHTG có

2
những công cụ tài chính nhất định như Quỹ BHTG, công cụ pháp lý như quyền hạn, trách nhiệm
trong xác lập, chấm dứt quan hệ BHTG với tổ chức tham gia BHTG… Như vậy, địa vị pháp lý của
chủ thể thực hiện hoạt động BHTG được quy định trong pháp luật là công cụ đặc biệt của Nhà nước
để thực hiện các mục tiêu chính sách công của mình. Quyền hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định
là những phương tiện pháp lý để tổ chức tài chính đặc thù thực hiện có hiệu quả các hoạt động BHTG.
Hai là, đối tượng được bảo hiểm là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi của chủ thể nhận tiền gửi
đối với người gửi tiền.
Thực tiễn trong hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động vay và cho vay của các tổ chức tín dụng
tiềm ẩn vô số nguy cơ rủi ro. Do đó, đặt ra vấn đề là cần có sự đảm bảo về mặt pháp lý đối với những
khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Pháp luật về hoạt động BHTG của các quốc gia và
Việt Nam đều quy định các vấn đề liên quan đến đối tượng BHTG như loại tiền gửi được bảo hiểm,
loại tiền gửi không thuộc đối tượng được bảo hiểm, mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm, chủ sở hữu
của các khoản tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm… Việc loại trừ những khoản tiền gửi
không được bảo hiểm cũng như qui định mức bảo hiểm tiền gửi tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho
chính tổ chức BHTG và nâng cao trách nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia
BHTG. Tuy nhiên, những quy định cụ thể về đối tượng được BHTG có thể khác nhau, xuất phát từ
mục tiêu chủ yếu trong chính sách công và các điều kiện về kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Ba là, người thụ hưởng từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi là người gửi tiền
Người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ngân hàng có thể là cá nhân, tổ chức. Mục đích gửi tiền của
các chủ thể cũng rất đa dạng như để thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tiết kiệm, đầu tư… Như đã phân
tích, thì các quốc gia dựa vào nhiều tiêu chí để xác định chủ thể tham gia BHTG, trong đó các tiêu chí
được đề cập đến bao gồm loại tiền gửi, chủ thể gửi tiền, mục đích gửi tiền của chủ thể. Do đó, đối
tượng được BHTG có thể khác nhau theo quy định của pháp luật từng nước.
Pháp luật về hoạt động BHTG của hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện việc bảo hiểm cho tiền
gửi của cá nhân. Đây là quy định xuất phát từ một trong các mục tiêu cốt lõi của BHTG là bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền nhỏ khi tổ chức tín dụng nhận các khoản tiền của họ mất khả năng thanh
toán, tránh các thiệt hại về tài sản, đảm bảo đời sống cơ bản cho họ khi tổ chức tham gia BHTG bị
mất khả năng chi trả. Từ đó, tránh hiện tượng người gửi tiền đồng loạt rút tiền về do mất niềm tin vào
hệ thống ngân hàng, bảo đảm cho hoạt động ngân hàng diễn ra bình thường. Do vậy, chủ thể tham gia
BHTG được hưởng những lợi ích nhất định từ hoạt động BHTG nhưng họ không phải là chủ thể được
chi trả BHTG mặc dù họ là chủ thể đóng phí BHTG. Chủ thể tham gia BHTG chính là các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng khác có hoạt động ngân hàng trong đó có cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đa
dạng về quy mô vốn, hình thức sở hữu.
Các tổ chức tín dụng, ngân hàng có quyền bình đẳng về địa vị pháp lý trong hoạt động tín dụng, đều
thực hiện huy động tiền gửi của cá nhân, tổ chức để thực hiện các hoạt động đầu tư, tìm kiếm lợi
nhuận. Để thực hiện một trong mục tiêu của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, pháp luật quy định các tổ chức nhận tiền gửi là tổ chức tín dụng, ngân
hàng tham gia BHTG. Tùy theo quy định pháp luật của một quốc gia về hoạt động BHTG cũng như
vào từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, mà sự tham gia BHTG của các tổ chức nhận
tiền gửi có thể bằng cách tự nguyện hoặc bắt buộc nhằm bảo vệ tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ
chức này.
Bốn là, phí bảo hiểm tiền gửi là khoản phí do pháp luật quy định
Các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thoả thuận về mức phí như các loại hình bảo hiểm khác.
Các hệ thống BHTG trên thế giới thường đứng trước sự lựa chọn hai loại phí bảo hiểm: phí đồng hạng
hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng ngân hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống bảo
hiểm tiền gửi thường áp dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lí. Tuy nhiên, chế
độ tính phí này không đề cập tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ thống tổ chức tín dụng
nên không đảm bảo tính công bằng, dễ gây những phản ứng từ phía các ngân hàng lớn, có qui mô và

3
uy tín lớn trên thị trường. Do vậy, các nước đã dần chuyển đổi sang chế độ tính phí theo mức độ rủi
ro.
Theo cách tính phí này, cơ sở để xác định tỉ lệ phí BHTG là kết quả phân loại tổ chức tham gia
BHTG. Ngân hàng nào hoạt động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỉ lệ phí BHTG cao, ngược lại
ngân hàng nào hoạt động tốt, rủi ro thấp sẽ được áp dụng mức tính phí thấp. Việc tính phí bảo hiểm
theo mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG sẽ tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng
giữa các tổ chức này và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động BHTG. Nếu áp dụng mức phí đồng
hạng, các ngân hàng dễ hoạt động bất cẩn, huy động vốn với lãi suất cao, hoạt động đầu tư với độ rủi
ro lớn và luôn an tâm là các khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được bảo hiểm. Trong trường hợp này
hệ thống ngân hàng dễ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng do các ngân hàng bị “yếu đi”, đổ bể, mất uy
tín trên thương trường kinh doanh tín dụng và tổ chức chi trả bảo hiểm cũng phải chịu hậu quả nặng
nề liên quan đến các khoản chi phí bảo hiểm cho người gửi tiền.
Hoa Kỳ là nước tiên phong triển khai cách tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro vào năm 1993, mặc
dù trong một thời gian dài kể từ khi tổ chức BHTG công khai của Nhà nước - FDIC được thành lập
năm 1933, Hoa Kỳ đã áp dụng cơ chế tính phí đồng hạng. Tuy nhiên, việc tính phí dựa vào mức độ rủi
ro của từng ngân hàng cũng đòi hỏi phải có nguồn lực để quản lý hệ thống một cách thích hợp và xác
định cụ thể những phương pháp, những tiêu chí - là cơ sở tin cậy cho việc phân loại rủi ro của ngân
hàng. Nó được xác định bởi mục tiêu của việc áp dụng chế độ tính phí này là khuyến khích các ngân
hàng không tiến hành quá nhiều những hoạt động rủi ro và tạo sự công bằng trong việc tính phí, đóng
góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Các nước thường dựa vào các tiêu chí định tính và định
lượng để tính mức độ rủi ro, tuy nhiên, theo xu hướng giảm dần các tiêu chí định tính, tăng các tiêu
chí định lượng.
· Đặc điểm:
Thứ nhất, bảo hiểm tiền gửi thực hiện nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền, trong đó đặc
biệt chú trọng tới những người gửi tiền nhỏ thường là những người bị hạn chế nhất định trong tiếp
cận và khả năng phân tích thông tin của tổ chức nhận tiền gửi. Ngoài ra, người gửi tiền được bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình kể cả khi họ gửi tiền ở các tổ chức khác (chứ không phải chỉ ở ngân
hàng), ví dụ gửi ở các tổ chức bảo hiểm nhân thọ, các tổ chức nhận uỷ thác đầu tư trên thị trường
chứng khoán, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Họ luôn có quyền được cung cấp các thông tin kịp
thời, đầy đủ về cơ chế chính sách liên quan đến bảo vệ người gửi tiền. Vậy một khi quyền lợi của
người gửi tiền được bảo đảm thì thực tế cho thấy, bảo hiểm tiền gửi góp phần tăng cường lòng tin của
công chúng vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, điều này được thể hiện thông qua việc bảo hiểm tiền
gửi đưa ra cách xử lý các khoản nợ - tiền gửi của từng ngân hàng và hạn chế sự lây lan của ngân hàng
này sang ngân hàng khác, thông qua đó đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho
các giao dịch tài chính giữa các ngân hàng và chủ thể khác trong nền kinh tế được thực hiện có hiệu
quả hơn.
Thứ hai, bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm phi thương mại: Đa số pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi trên thế giới đều có quy định bảo hiểm tiền gửi hoạt động không nhằm mục tiêu sinh lời mà
thực hiện những mục tiêu xã hội, vì lợi ích của cộng đồng. Điều này phân biệt với các loại hình bảo
hiểm khác hoạt động theo luật kinh doanh bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản…
Thứ ba, bảo hiểm tiền gửi trên thực tế có thể được thực hiện một cách công khai hoặc ngầm,
tuy nhiên bảo hiểm tiền gửi công khai sẽ hữu ích hơn đối với người giải tiền, vì rằng mô hình này gắn
với luật pháp điều chỉnh, thường gắn với trách nhiệm của tổ chức tài chính Nhà nước (tổ chức thay
mặt Nhà nước bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền), lợi ích của người gửi tiền được bảo đảm bằng
những thông tin minh bạch và dịch vụ tư vấn của hệ thống bảo hiểm tiền gửi, nhờ đó mà người gửi
tiền biết được cách sử dụng tiền một cách hiệu quả nhất, kể cả khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
bị lâm vào tình trạng phá sản họ cũng không bị “mất trắng” số tiền gửi của mình. Thêm vào đó, một
hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai giúp cảnh báo sớm về những “trục trặc” trong hoạt động và liên

4
quan đến khả năng tài chính của các tổ chức nhận tiền gửi, thông qua đó giảm thiểu rủi ro cho hệ
thống ngân hàng. Nhờ có chức năng giám sát an toàn hệ thống mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi công
khai thông qua tổ chức tài chính Nhà nước có những ưu điểm nhất định so với bảo hiểm của các quỹ
bảo hiểm tiền gửi. Các quỹ này chỉ thực hiện chức năng chi tiền mặt cho người gửi tiền sau khi tổ
chức nhận tiền gửi bị phá sản. Trong khi đó, bảo hiểm của tổ chức tài chính Nhà nước không chỉ thực
hiện chức năng đó mà còn nhằm ngăn chặn sự phát triển của các khoản nợ xấu, nợ khó đòi, hạn chế
những rủi ro tiềm ẩn dẫn đến sự đổ vỡ của các ngân hàng thông qua hoạt động không chỉ giám sát, mà
còn cả hoạt động hỗ trợ tài chính dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ...cho các ngân
hàng trước khi lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ tư, bảo hiểm tiền gửi có thể được thực hiện trong phạm vi hạn chế (các khoản tiền gửi
được bảo hiểm đến một giới hạn nhất định) hoặc được bảo hiểm hoàn toàn( mọi người gửi tiền và tất
cả các khoản tiền đền được bảo hiểm). Điều này còn phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế – xã hội của
từng nước, trong từng giai đoạn khác nhau. Ví dụ, vào thời kỳ nền kinh tế ổn định, thị trường tài chính
phát triển, các quốc gia thường áp dụng cơ chế bảo hiểm có giới hạn các khoản tiền gửi nhằm củng cố
lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, duy trì sự ổn định hoạt động của hệ thống này. Khi
nền kinh tế bị khủng hoảng, thường áp dụng cơ chế bảo hiểm hoàn toàn nhằm ngăn chặn một cách
hữu hiệu hiện tượng rút tiền đồng loạt, bởi lẽ người gửi tiền trong trường hợp này hoàn toàn tin tưởng
rằng bảo hiểm tiền gửi sẽ bảo vệ quyền lợi của họ một cách triệt để khi ngân hàng nào đó bị đổ vỡ (ví
dụ như một số nước đã làm Ecuador, Hàn Quốc, Mehico, Nhật bản...).
Thứ năm, Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là tổ chức tài chính có nhận tiền gửi
của công chúng dưới các hình thức nhất định. Với một hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai thì sự
tham gia của các tổ chức này là bắt buộc, nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức này, tạo
nguồn vốn hoạt động cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó, rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối
tượng đa dạng, tránh tình trạng chỉ có ngân hàng. tổ chức tín dụng yếu kém mới mua bảo hiểm, còn
những ngân hàng, tổ chức tín dụng hoạt động tốt thì không mua bảo hiểm.Trên cơ sở đó làm giảm
mức độ rủi ro của bản thân tổ chức bảo hiểm tiền gửi và gánh nặng của Chính phủ trong việc hỗ trợ
tài chính chi trả bảo hiểm. Ở điểm này ta thấy bảo hiểm tiền gửi khác với loại hình bảo hiểm khác có
thể bắt buộc và có thể tự nguyện như bảo hiểm xã hội, hoặc tham gia hoàn toàn do ý chí các bên như
loại hình bảo hiểm theo luật kinh doanh bảo hiểm.
Thứ sáu, Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản phí do pháp luật quy định. Các bên tham gia quan hệ
bảo hiểm tiền gửi không thể thoả thuận về mức phí như các loại hình bảo hiểm khác. Các hệ thống
bảo hiểm tiền gửi trên thế giới thường đứng trước sự lựa chọn hai loại phí bảo hiểm: phí đồng hạng
hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng ngân hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống bảo
hiểm tiền gửi thường áp dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lý. Tuy nhiên,
chế độ phí này không đề cấp đến tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ thống nên không
đảm bảo tính công bằng, dễ gây phản ứng từ phía ngân hàng mạnh, có quy mô và uy tín lớn trên thị
trường. Do vậy, những xu hướng của những năm trở lại đây, các nước chuyển đổi sang chế độ tính phí
theo mức độ rủi ro. Theo cách tính này, cơ sở để xác định tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi là kết quả phân
loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng nào hoạt động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải chịu
tỷ lệ phí bảo hiểm tiền gửi cao, ngược lại ngân hàng nào hoạt động tốt, rủi ro thấp sẽ được áp dụng
tính phí thấp và còn có thể được miễn phí. Việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt động
của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức này và thể
hiện xu thế thị trường trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó, nó còn góp phần hạn chế rủi ro
đạo đức phát sinh. Nếu áp dụng một mức phí, các ngân hàng dễ hoạt động bất cân, huy động vốn với
lãi suất cao, hoạt động đầu tư với độ rủi ro lớn và luôn an tâm là các khoản tiền của khách hàng được
bảo hiểm. Trong trường hợp này hệ thống ngân hàng dễ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng do các
ngân hàng bị yếu đi, đổ bể, mất uy tín trên thương trường và tổ chức chi trả bảo hiểm cũng phải chịu
hậu quả nặng nề liên quan đến chi phí bảo hiểm cho người gửi tiền.

5
Thứ bảy, Đối tượng được bảo hiểm là đối tượng rất đặc biệt: nghĩa vụ thanh toán các khoản
tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Người nộp phí bảo hiểm tiền gửi tách rời
người thụ hưởng bảo hiểm. Có thể nói, tiền gửi - tài sản có tính rủi ro cao, rủi ro của nó có mối liên
quan mật thiết với hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo
hiểm, là cơ sở tính phí bảo hiểm tiền gửi định kỳ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm tiền gửi nói chung là bảo vệ người gửi tiền nhỏ. Tiền gửi tiết kiệm và
tiền gửi của cả nhân bằng nội tệ là loại tiền gửi mà đến nay tất cả các hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên
thế giới đều bảo vệ. Việc loại trừ những khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như quy định mức bảo
hiểm tiền gửi tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho chính tổ chức bảo hiểm tiền gửi và nâng cao trách
nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Các khoản tiền gửi
không được bảo hiểm thường là bằng ngoại tệ hoặc là của các tổ chức. Việc quyết định bảo hiểm cho
đồng ngoại tệ hay không là một vấn đề nan giải đối với mỗi quốc gia. ở những quốc gia mà tiền gửi
bằng ngoại tệ chiếm tỷ lệ thấp, các giao dịch chủ yếu được thực hiện thông qua đồng nội tệ thì việc
loại trừ đối tượng bảo hiểm là đồng ngoại tệ là điều dễ dàng được chấp nhận. Ở những nước đang phát
triển, việc loại trừ đồng ngoại tệ thường gắn với lý do tổ chức bảo hiểm tiền gửi không có đủ số ngoại
tệ để thanh toán cho người gửi tiền khi sự kiện bảo hiểm xảy ra”. Tiền gửi liên ngân hàng thường
không được bảo hiểm vì đây là tiền gửi của các tổ chức kinh doanh trực tiếp tiền tệ, có cơ hội tiếp cận
tốt các thông tin và kiểm soát được mức độ rủi ro đối với các khoản tiền của họ”. Trong khi đó, chính
sách bảo hiểm tiền gửi có mục tiêu bảo vệ người gửi tiền có thu nhập thấp và bị hạn chế bởi khả năng
tiếp cận thông tin ngân hàng. Ngoài ra, tiền của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội cũng hay bị loại
trừ, không được bảo hiểm bởi là tiền gửi trong tài khoản của các chủ thể này không thuần tuý nhằm
mục tiêu tích lũy, tiết kiệm mà thường để thực hiện các giao dịch thanh toán liên quan đến hoạt động
của tổ chức. Vì vậy các tổ chức này có cơ hội nắm bắt các thông tin về ngân hàng mà họ quyết định
gửi tiền, không nhất thiết phải thuộc đối tượng được bảo vệ trực tiếp của chính sách bảo hiểm tiền
gửi.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm tiền gửi?
· Sự cần thiết phải bảo hiểm tiền gửi xuất phát từ vai trò của tiền gửi đối với hoạt động của
hệ thống ngân hàng và vai trò của ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế: Tiền gửi là
nguồn vốn huy động chủ yếu của các NHTM, chi phối tới các hoạt động của ngân hàng, quyết
định tới sự tồn tại của ngân hàng. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng trong thời buổi hội nhập rất cần
có nguồn vốn dồi dào để mở rộng sản phẩm, dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình.Chính tiền gửi của khách hàng la “hòn đá tảng”, là cơ sở để mở rộng quy mô hoạt động của
ngân hàng, vì vậy cần phải có các thiết chế nhất định phù hợp để bảo vệ tiền gửi của khách hàng,
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Đặc biệt, việc bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền là rất cần thiết khi các tổ chức nhận tiền gửi bị lâm vào tình trạng
phá sản, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, trên cơ sở đó đảm bảo an toàn cho
hoạt động hệ thống ngân hàng.
· Sự cần thiết phải bảo hiểm tiền gửi cũng xuất phát từ mục tiêu của nó là bảo vệ người gửi
tiền, trong đó đặc biệt chú trọng tới người gửi tiền “nhỏ”. Người gửi tiền “nhỏ” thường là những
người bị hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và khả năng phân tích thông tin của tổ chức nhận
tiền gửi. Những người này thường “nhạy cảm” và dễ bị “tổn thương”, bị tác động nhiều hơn bởi
những thông tin xấu về ngân hàng so với những người gửi tiền khác như các tổ chức kinh doanh,
các nhà đầu tư chuyên nghiệp. Dựa trên các nguồn thông tin không chính xác cho nên đã dẫn đến
hành động rút tiền đồng loạt gây ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của ngân hàng.
· Hoạt động bảo hiểm tiền gửi còn tạo điều kiện cho các ngân hàng nhỏ, mới thành lập có thể
cạnh tranh được với các ngân hàng lớn; tăng cường tiết kiệm và khuyến khích tăng trưởng kinh
tế, xác định mức độ can thiệp của chính phủ đối với các thiệt hại xảy ra khi một ngân hàng hoặc
các ngân hàng bị đổ bể: Có thể nói, các ngân hàng trong hệ thống thường có sự chênh lệch nhau

6
về thị phần, chính vì vậy khả năng cạnh tranh về huy động vốn và cho vay có sự khác nhau rất
lớn, hậu quả là việc duy trì và tăng thị phần của ngân hàng nhỏ là rất khó. Đối với các ngân hàng
chiếm thị phần lớn thì rủi ro dẫn đến phải hỗ trợ tài chính hoặc thậm chí phải chi trả bảo hiểm tiền
gửi là rất lớn đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Chính vì vậy,để tạo điều kiện cho việc duy trì và
phát triển thị phần của ngân hàng nhỏ, hạn chế rủi ro cho các ngân hàng lớn thì BHTG ra đời thực
sự là giải pháp hữu hiệu.
3. Những hạn chế của bảo hiểm tiền gửi?
Có thể nói, Thường bất kỳ vấn đề nào cũng có 2 mặt của nó (mặt tốt - mặt xấu hay ưu điểm - hạn
chế) - tính hai mặt của vấn đề. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi cũng vậy bên cạnh ưu điểm vai trò to lớn
của nó nó cũng có những hạn chế nhất định. Biểu hiện rõ nét của các hạn chế này là các vấn đề rủi ro
đạo đức và rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng. Để hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động hiệu quả cần
nghiên cứu các loại rủi ro này trên cơ sở đó tạo cơ chế kiểm soát hữu hiệu các rủi ro và giảm thiểu tối
đa những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
● Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là rủi ro xuất phát từ hành vi cư xử thiếu đạo đức của những chủ thể hưởng lợi ích từ
bảo hiểm tiền gửi, qua đó tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển lành mạnh của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi. Rủi ro đạo đức có thể xuất phát từ hành vi chủ yếu của người hưởng lợi là người gửi
tiền hoặc tổ chức tiền gửi bảo hiểm tiền gửi.
Cư xử thiếu đạo đức theo cơ chế bảo hiểm tiền gửi tạo nên là hiện tượng bất cập trong việc tiếp cận
thực hiện các dịch vụ hoạt động ngân hàng của các đối tượng thụ hưởng lợi ích từ BHTG. Một trong
những biểu hiện của rủi ro đạo đức là khi đã được bảo hiểm, người gửi tiền tức là người được bảo
hiểm tin tưởng là đã được bảo hiểm nên sẽ ít quan tâm hơn tới thu nhập hoặc tiếp cận thông tin về tình
hình của hoạt động ngân hàng nhận tiền gửi. Mặt khác các ngân hàng nhận tiền gửi khi là thành viên
của hệ thống bảo hiểm tiền gửi thường cho rằng sự đổ vỡ ngân hàng rất khó xảy ra, do vậy họ thường
có xu hướng đầu tư và những hoạt động có tính rủi ro cao để thu lợi nhuận lớn hơn nhằm đáp ứng lợi
ích của cổ đông. Khi các hoạt động đầu tư này không thu được lợi nhuận thì hậu quả phản ứng chịu
cũng rất nặng nề đó là tình trạng khó khăn về tài chính có thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng.
Vậy rủi ro đạo đức do bảo hiểm tiền gửi tạo nên có thể gây ra những ảnh hưởng xấu trong hệ thống
ngân hàng, ảnh hưởng đến sự vận động khách quan của quy luật cung cầu tiền gửi trong nền kinh tế
thị trường (hiện tượng bắt méo quy luật). Chính vì vậy việc giảm thiểu rủi ro đạo đức là vấn đề rất
quan trọng, có tính chi phối lớn tới khả năng đạt được mục tiêu cơ bản của hoạt động bảo hiểm tiền
gửi. Hệ thống bảo hiểm tiền gửi cần được thiết lập để khuyến khích tất cả các bên liên quan trong
quan hệ bảo hiểm tiền gửi và các chủ thể khác (người gửi tiền, các chủ nợ, các ngân hàng, người vay
tiền, người giám sát, các cơ quan chức chính phủ, các nhà luật gia, các thẩm phán) hoạt động theo
hướng phục vụ mục đích tăng cường sức mạnh cho hệ thống ngân hàng. Ví dụ, hệ thống bảo hiểm tiền
gửi nên được thiết lập công khai, rõ ràng, có luật pháp điều chỉnh cụ thể nhằm thông tin cho tất cả mọi
người biết về hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động dựa trên nguyên tắc nào, nếu tham gia vào hệ
thống này thì quyền lợi của họ được đảm bảo ra sao, mức chi trả như thế nào. Dựa vào đó, các nhà
giám sát ngân hàng có thể quyết định sử dụng các biện pháp kịp thời xử lý các vấn đề của ngân hàng,
có quyền đóng cửa, giải thể ngân hàng.
● Rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng
Một hệ thống bảo hiểm tiền gửi không công khai không bắt buộc thường rơi vào tình trạng không xác
định đúng đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi các tổ chức tín dụng hoạt động tốt có uy tín, khả năng
tài chính mạnh thường có xu hướng không muốn tham gia bảo hiểm tiền gửi để khỏi phải mất chi phí
mà vẫn được thu hồi một cách gián tiếp lợi ích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang lại. Trong khi
đó các tổ chức tín dụng yếu kém hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn thường đi tiên phong trong hoạt động
đóng phí bảo hiểm tiền gửi và tham gia hệ thống này, bởi lẽ nếu rủi ro xảy ra tổ chức bảo hiểm tiền
gửi sẽ có những hỗ trợ nhất định về tài chính, sẽ chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền. Như vậy, rủi ro

7
được chuyển từ tổ chức tín dụng sang tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Đương nhiên, tổ chức kiểm tiền gửi
không mong muốn chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuy nhiên không phải lúc nào cũng có được đầy đủ thông
tin chính xác về các tổ chức tín dụng và khó có thể kiểm soát từ tất cả các hoạt động của tổ chức tín
dụng nên tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể sai lầm trong việc lựa chọn nhầm đối tượng tham gia bảo
hiểm tiền gửi hoặc có thể xác định mức phí bảo hiểm tiền gửi không tương thích với mức độ rủi ro
trong hoạt động ngân hàng của TCTD đó.
Vậy rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng là loại rủi ro có tính phổ biến trong hoạt động BHTG xuất phát từ
việc tổ chức BHTG khó xác định vsaf cập nhật thông tin, điều hành của tôt chức tham gia BHTG -
TCTD. Rủi ro ngày có thể gây áp lực tài chính lớn đối với tổ chức BHTG. Ngoài ra, rủi ro lựa chọn
nhầm đối tượng có thể phá vỡ cơ chế cộng đồng tương trợ, cơ chế bảo đảm sự hoạt động bền vững
của tổ chức BHTG. BHTG cũng như các loại hình bảo hiểm khác, hoạt động dựa trên nguyên tắc
đóng góp của số đông bù đắp ho rủi ro của sối ít. Nếu hệ thống BHTG có sự tham gia của đa số các
TCTD - cả tốt và yếu kém thì sec tạo ra cơ chế bù đắp rủi ro hữu hiệu cho các TCTD yếu kém nếu
những tổ chức này bị rơi vào tình trạng đổ bể. Trong tường hợp thành viên tham gia BHTG là những
TCTD yếu kém thì việc đóng của chấm dứt sự tồn tại của tổ chức BHTG (tổ chức chi trả bảo hiểm) là
điều không mong muốn nhưng khó tránh khỏi. Trên thực tế, rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng đã phát
sinh ở 8 hệ thống BHTG thược 8 vùng của nước Mỹ vào những năm 1910 - 1930, làm cho các hệ
thống BHTG này không có khả năng chi trả đầy đủ, kịp thời BHTG cho người gửi tiền và kết quả là
phải đóng của.
Chính vì vậy việc tham gia BHTG nên mang tính bắt buộc đối với tất cả các tổ chức có nhận tiền gửi
của công chứng, Điều này tạo cơ chế hỗ trợ chéo giữa các tổ chức thành viên tham gia BHTG.
4. Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi?
Quan hệ BHTG được xác lập giữa hai chủ thể là tổ chức BHTG (cơ quan bảo hiểm tiền gửi) và tổ
chức tham gia BHTG (tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động
theo Luật các tổ chức tín dụng được nhận tiền gửi của cá nhân).
Trước hết, về các quy định liên quan đến tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tổ chức BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước được giao thực hiện chính sách công về BHTG.
Ở Việt Nam hiện nay, chỉ duy nhất 01 tổ chức triển khai và thực hiện chủ trương chính sách, pháp
luật về BHTG là tổ chức BHTGVN - tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, thực hiện chính sách BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh
của hoạt động ngân hàng. Với vai trò là góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD; sự
ổn định về chính trị, an ninh và trật tự xã hội, tiền đề cho ổn định và phát triển kinh tế.
Đối với các tổ chức BHTG là cơ quan thuộc chính phủ hoặc doanh nghiệp nhà nước, hội đồng
quản trị thường bao gồm quan chức cấp cao của các cơ quan giám sát tài chính. Sự tham gia của
các quan chức cấp cao này trong hội đồng quản trị của BHTG sẽ tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan và tổ chức BHTG trong việc quản lý tổ chức tham gia BHTG và xử lý các tổ
chức có vấn đề.
Tuy nhiên, sự tham gia quá mức của các cơ quan giám sát tài chính sẽ tác động xấu đến tính độc
lập của tổ chức BHTG.
Thứ hai, về quy định liên quan đến tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Theo Điều 6, Luật BHTG năm 2012 và Điều 4, Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của
Chính phủ thì tổ chức tham gia BHTG là các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận
tiền gửi của cá nhân, bao gồm: Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần,
Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, Quỹ tín dụng
nhân dân và các tổ chức nhận tiền gửi khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về các quy định liên quan đến người được bảo hiểm tiền gửi.

8
Về lý thuyết, người được BHTG không phải là chủ thể tham gia quan hệ BHTG nhưng lại là chủ
thể có quyền lợi liên quan đến BHTG. Chính vì vậy, pháp luật các nước thường có những quy
định dành riêng cho loại chủ thể này, với tư cách là chủ thể cần được bảo vệ quyền lợi bằng cơ
chế BHTG.
Ở Việt Nam, khoản 2 Điều 4 Luật BHTG năm 2012 đã quy định: “Người được bảo hiểm tiền gửi
là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ”. Theo quy định của
Luật BHTG năm 2012, hiện nay người được BHTG chỉ có 01 đối tượng là cá nhân có tiền gửi tại
tổ chức tham gia BHTG, quy định này đã làm thay đổi căn bản về đối tượng người được BHTG.
5. Thế nào là rủi ro đạo đức trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi?
Xây dựng chế độ bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là việc làm có lợi cho việc hoàn thiện hệ thống tài chính
một quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tiễn, BHTG cũng gây ra hiện tượng rủi ro đạo đức trong kinh
doanh ngân hàng (NH), ảnh hưởng đến kỷ luật thị trường.
Rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng là việc cho vay mạo hiểm quá mức giữa ngân hàng và
khách hàng vay, gây hậu quả nặng nề cho người gửi tiền và bản thân ngân hàng. Rủi ro đạo đức có thể
đến từ phía khách hàng, khi họ cố tình che giấu thông tin và thực hiện những hoạt động gây rủi ro cho
khoản vốn vay mà người cho vay không mong muốn. Rủi ro đạo đức còn đến từ chính sự lựa chọn, bố
trí sử dụng nhân sự ngân hàng thiếu năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức nghề nghiệp, dẫn đến sự
thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng với khách hàng để che giấu thông tin thật,
nâng khống giá trị tài sản thế chấp và cố tình vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn cho vay, miễn
sao có tiền “lại quả”, thậm chí lừa đảo, chiếm đoạt tiền của khách hàng và ngân hàng trong huy động
và rút tiền…
Rủi ro đạo đức nói đến khuynh hướng các bên liên quan có hành vi kinh doanh rủi ro, nhưng họ lại tin
rằng sẽ không chịu hậu quả từ các hành vi này. Cụ thể, trong chế độ BHTG, người gửi tiền sẽ có
khuynh hướng gửi tiền vào những nơi lãi suất cao, vì họ cho rằng khoản tiền gửi của họ đã được tổ
chức nhận tiền gửi mua bảo hiểm, hay họ cho rằng có sự đảm bảo của nhà nước đối với số tiền gửi
này. Nếu như tổ chức nhận tiền gửi phá sản thì họ sẽ được đền bù từ BHTG, vì vậy họ không quan
tâm đánh giá mối quan hệ giữa mức sinh lời và độ rủi ro trong hoạt động gửi tiền. Từ đó, họ không
tham gia tích cực vào quá trình giám sát hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi.
6. So sánh bảo hiểm tiền gửi với các loại hình bảo hiểm khác?

Tiêu thức Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm thương mại

Tính chất hoạt Hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh doanh với mục đích sinh lợi.
động

Cơ chế bảo hiểm Thông thường, các TCTD có nhận tiền Cơ chế tự nguyện, theo thỏa thuận
gửi phải tham gia BHTG theo cơ chế bắt
buộc được pháp luật quy định

Hợp đồng bảo Giữa tổ chức BHTG và tổ chức tham gia Tổ chức bảo hiểm ký kết hợp đồng
hiểm BHTG không ký kết hợp đồng bảo hiểm. bảo hiểm với tổ chức, cá nhân có
nhu cầu được bảo hiểm.

Đối tượng được Được xác định theo các quy định pháp Được xác định theo thỏa thuận
bảo hiểm luật. trong hợp đồng bảo hiểm.

Đối tượng nộp Được xác định theo quy định pháp luật Tổ chức, cá nhân ký hợp đồng bảo
phí bảo hiểm của từng quốc gia (*) hiểm với tổ chức bảo hiểm.

Người được thụ Được xác định theo quy định pháp luật Người được chỉ định thụ hưởng

9
hưởng tiền bảo của từng quốc gia (tại Việt Nam, xem trong hợp đồng bảo hiểm.
hiểm mục E) (**)
(*) Tại Việt Nam, Theo Điều 6, Luật BHTG và Điều 4, Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013
của Chính phủ:
- Tổ chức tham gia BHTG là các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài được
nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng hợp tác xã, Quỹ tín
dụng nhân dân (QTDND), và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy
định của Luật các TCTD.
- Tổ chức tài chính vi mô (TCVM) phải tham gia BHTG đối với tiền gửi của cá nhân bao gồm cả tiền
gửi tự nguyện của khách hàng TCVM, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức
TCVM.
- Ngân hàng chính sách không phải tham gia BHTG.
Như vậy, các tổ chức phải tham gia BHTG gồm: NHTM, ngân hàng hợp tác xã, QTDND, tổ chức
TCVM và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân.
(**) Tại Việt Nam, Theo Khoản 2 Điều 4 Luật BHTG, người được BHTG là cá nhân có tiền gửi bằng
đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia BHTG dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định
của Luật các TCTD, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật BHTG tại tổ chức tham gia
BHTG.
7. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi? cần xem lại
Theo Điều 4 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 thì “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài, tổ chức tương hỗ cung cấp bảo hiểm vi mô phải bồi
thường, trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.”
Sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm tiền gửi có ý nghĩa là căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ cho trả bảo
hiểm tiền gửi bởi tổ chức BHTG cho người gửi tiền theo hạn mức chi trả nhất định. Sự kiện bảo hiểm
trong bảo hiểm tiền gửi được hiểu là khi TCTD BHTG rơi vào một trong trường hợp sau:
● Giải thể bắt buộc do không có khả năng thanh toán khoản nợ đến hạn hoặc;
● Phá sản
8. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi?
Theo Điều 3 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012:
“Bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy
trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt
động ngân hàng.”
Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống bảo hiểm tiền gửi có khác nhau nhưng tựu chung đều
nhằm đạt được mục đích sau:
· Bảo vệ số đông người gửi tiền, đối tượng có tiền gửi ít hạn chế trong tiếp cận
thông tin về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức huy động
tiền gửi;
· Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và tạo điều kiện cho
các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng, tránh đổ vỡ ngân hàng;
● Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài
chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau;
● Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người gửi tiền, tổ chức tài chính, Chính phủ và
giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp có tổ chức tín dụng
đổ bể.
9. Các mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi?

10
Mỗi quốc gia lựa chọn mô hình khác nhau, mỗi mô hình quyết định chức năng nhiệm vụ của tổ
chức BHTG từ đó, thiết kế một mô hình tổ chức để thực hiện chức năng nhiệm vụ cho phù hợp.
Hiện nay, trên thế giới, BHTG có các mô hình hoạt động khác nhau như:
Mô hình chuyên chi trả: Theo mô hình này, tổ chức BHTG được thành lập chỉ nhằm thực hiện
một nhiệm vụ là chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, nhằm
thực hiện một số mục tiêu của chính sách công, trong đó 2 mục tiêu quan trọng nhất là khẳng định
cam kết của chính phủ về sự bảo đảm của nhà nước thông qua một tổ chức và cơ chế BHTG công
khai và mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền (nhỏ) thông qua việc hình thành cơ chế bồi thường.
Mô hình giảm thiểu rủi ro: Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền tổ chức
bảo hiểm tiền gửi theo mô hình này còn tham gia cùng với cơ quan nhà nước và ngân hàng Trung
ương vào hoạt động giám sát và đánh giá rủi ro của các ngân hàng và định chế tài chính khác, góp
phần bảo đảm sự an toàn và hoạt động bình thường của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia; tính
phí bảo hiểm dựa trên cơ sở định mức rủi ro tiếp nhận xử lý nợ và thu hồi nợ đối với các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản; được cho các nghiệp vụ kinh doanh đầu tư nhằm bảo toàn
phát triển vốn ban đầu cũng như tăng cường sức mạnh tài chính, giảm dần sự phụ thuộc vào ngân
sách của Chính phủ.
Mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng: Tổ chức BHTG vừa thực hiện chức năng chi trả vừa thực
hiện một số quyền hạn, như: hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn trong
thanh toán; theo dõi và khuyến nghị sự cẩn trọng và phòng tránh rủi ro đối với các tổ chức tham
gia BHTG; tham gia xử lý nợ và thu hồi nợ của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản… Qua đó, các
mục tiêu cần đạt được của chính sách công như hạn chế rủi ro, tránh đổ vỡ hệ thống hoặc khủng
hoảng tài chính, gia tăng niềm tin của công chúng cũng được mở rộng.
10. Vị trí pháp lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV)?
Sự ra đời và đi vào hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam(DIV) đã đánh dấu một bước phát triển
mới của hệ thống các định chế tài chính – ngân hàng ở Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của DIV trong
thời gian qua đã khẳng định: Có thể còn có những quan niệm, nhận thức khác nhau, nhưng rõ ràng
DIV là một định chế tài chính không thể thiếu trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp
phần đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của hệ thống tài chính – ngân hàng ở Việt Nam.
Theo quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 (Nghị định 89) của Chính phủ về
BHTG thì DIV là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát
triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Hoạt động của DIV phải bảo đảm an toàn vốn và tự bù
đắp chi phí.
Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ ( Nghị định 109) sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 89 tuy có những quy định mới và tăng quyền chủ động cho tổ chức BHTG,
nhưng theo đánh giá của tôi về cơ không có gì thay đổi lớn về chức năng nhiệm vụ chính của tổ chức
BHTG so với quy định tại Nghị định số 89.
Hiện nay, BHTGVN được xác định trong Luật BHTG 2012 là tổ chức tài chính nhà nước, do Thủ
tướng Chính phủ thành lập, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, đảm bảo an toàn vốn và tự bù
đắp chi phí, hoạt động trên phạm vi cả nước, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong nước và nước
ngoài. Đây là căn cứ xác định vị trí pháp lý của tổ chức BHTGVN là tổ chức tài chính Nhà nước độc
lập, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực BHTG.
Xét trên bình diện hoạt động thực tiễn của DIV cho thấy:
+ Với tên gọi và tính chất của một tổ chức bảo hiểm, DIV thanh toán chi trả tiền bảo hiểm cho người
gửi tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng chi trả bị thu hồi giấy phép hoạt động
phải giải thể, phá sản;
+ DIV thực hiện giám sát việc chấp hành các quy định về BHTG và quy định về bảo đảm an toàn
trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức nhận tiền gửi; qua đó kiến nghị với tổ chức nhận tiền gửi

11
khắc phục các sai sót trong hoạt động cũng như có biện pháp quản lý rủi ro để nâng cao chất lượng
hoạt động, đảm bảo cho hệ thống tổ chức nhận tiền gửi ngày một an toàn hơn.
11. Các loại phí bảo hiểm tiền gửi?
Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức BHTG để bảo hiểm
cho tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Mục đích của thu phí là để hình thành
nguồn quỹ có sẵn giúp xử lý kịp thời đổ vỡ TCTD và thực hiện mục tiêu bảo vệ người gửi tiền.
Nguồn vốn này bảo đảm hạn chế, hoặc không phải sử dụng ngân sách nhà nước để chi trả cho
người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG gặp vấn đề.
Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành, Luật BHTG năm 2012 không quy định khung phí và mức phí
cứng mà quy định mức phí cụ thể đối với các tổ chức tham gia BHTG dựa trên cơ sở kết quả đánh giá
rủi ro và phân loại của các tổ chức này. Đây là một bước đi tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của
ngành ngân hàng, tạo sự công bằng cho các tổ chức tham gia BHTG, khuyến khích các tổ chức tham
gia BHTG có hoạt động tốt sẽ được hưởng mức phí BHTG thấp hơn.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về BHTG thì hiện nay tổ chức BHTGVN vẫn
đang áp dụng mức phí đồng hạng đối với các tổ chức tham gia BHTG, theo đó mức phí đồng hạng
được áp dụng đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG là 0,15% trên tổng số dư tiền gửi bình quân
của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Việc tổ chức BHTGVN vẫn đang
tiếp tục áp dụng mức phí đồng hạng đã bộc lộ những hạn chế và không đảm bảo đúng quy luật thị
trường là tổ chức nào hoạt động rủi ro cao thì phải đóng phí nhiều và ngược lại; đồng thời không đảm
bảo tính công bằng và không khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG tích cực cải thiện và hoạt
động an toàn lành mạnh để được hưởng mức phí BHTG thấp.
12. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro?
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động theo mô hình giảm thiểu rủi ro có đầy đủ quyền hạn phản
ánh qua vai trò và phạm vi trách nhiệm nhằm bảo vệ người gửi tiền, giám sát rủi ro đảm bảo an
toàn của hệ thống tài chính và tham gia vào tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng. Cụ thể, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động theo mô hình giảm thiểu rủi ro được tham gia vào tất cả các giai
đoạn hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tham gia thẩm định rủi ro trong
việc cấp giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, giám sát rủi ro trong quá trình hoạt động
nhằm phát hiện sớm và có hành động can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
lâm vào tình trạng khó khăn; có quyền quyết định phương pháp xử lý; chi trả nhanh chóng và kịp
thời khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Bên cạnh đó, tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoạt động
theo mô hình giảm thiểu rủi ro cần có quy mô quỹ đủ lớn để thực hiện xử lý các tổ chức tín dụng
yếu kém và có khả năng độc lập về tài chính bao gồm quyền quyết định cơ chế tính phí hoặc xây
dựng và đệ trình lên cơ quan giám sát hợp nhất quyết định; và quyền tiếp cận nguồn tài chính bổ
sung từ các cơ quan Chính phủ và trên thị trường tài chính. Việc áp dụng mô hình giảm thiểu rủi
ro đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi liên quan đến mô hình quản lý hệ thống ngân hàng khi chức
năng giám sát và xử lý tổ chức tín dụng yếu kém được giao cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Qua thời gian , mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro được xem là cơ chế tốt trong thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ của BHTG. Trong cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ từ tháng 9/2008, hệ
thống BHTG theo mô hình này đã góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ngân
hàng, củng cố niềm tin dân chính và giảm thiểu chi phí khi xử lý các ngân hàng đổ vỡ.
13. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi hạn chế?
14. So sánh mô hình bảo hiểm tiền gửi công và tư?
15. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam?
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) hoạt động theo mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng. Với điều
kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, việc lựa chọn mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng như thể hiện
trong Luật BHTG 2012 là hoàn toàn phù hợp.

12
Thứ nhất, phù hợp với khuôn khổ pháp lý hiện tại về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng ở nước
ta. Theo quy định của Luật NHNN, chức năng thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng hiện
đã và đang được trao cho NHNN. Với tư cách là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung
ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NHNN có đầy đủ các quyền hạn, năng lực và
các công cụ cần thiết để thực hiện tốt chức năng này. Trong khi đó, BHTG Việt Nam chỉ là một tổ
chức tài chính do Nhà nước thành lập ra, không phải là một cơ quan quản lý nhà nước, do đó không
có đủ các công cụ cần thiết để thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra, giám sát an toàn hoạt động
ngân hàng. Và phù hợp với thực tiễn hoạt động của BHTG Việt Nam.
Lí do thứ hai, không tạo ra sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong việc thanh
tra, giám sát các TCTD. Việc có hai cơ quan cùng thực hiện chức năng thanh tra, giám sát an toàn
hoạt động của các TCTD sẽ không những gây tốn kém chi phí xã hội khi hai cơ quan cùng thực hiện
một chức năng; mà còn tạo gánh nặng cho các TCTD khi phải chịu sự thanh tra của hai cơ quan khác
nhau.
Tại Việt Nam, Điều 8 và Điều 29 Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012 quy định: BHTG là tổ chức tài chính
Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. Luật BHTG cũng xác
định rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước đối với BHTG. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về BHTG; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về BHTG, đồng thời bổ sung một điều riêng về trách nhiệm quản lý nhà nước về
BHTG của NHNN.
Ngoài ra, Luật còn quy định Bộ, cơ quan ngang bộ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý nhà nước về BHTG;
và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước
về BHTG tại địa phương.
BHTGVN hiện nay có cơ cấu tổ chức gần giống với mô hình doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ: HĐQT, Kiểm soát viên, TGĐ và bộ máy giúp việc (Phó TGĐ, Trụ sở chính, 6 chi
nhánh khu vực và các văn phòng đại diện).
16. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi toàn phần?
17. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ?(so sánh BHTG của Mỹ và VN)
So sánh BHTG của Mỹ và Việt Nam
Khác với hệ thống BHTG có bề dày lịch sử gần 90 năm của Mỹ, hệ thống BHTG Việt Nam chỉ mới ra
đời từ năm 2000. Từ năm 2000 đến 2012, các văn bản điều chỉnh hoạt động BHTG Việt Nam chỉ là
các văn bản dưới luật do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành. Chỉ đến năm 2012,
Quốc hội mới chính thức thông qua Luật BHTG. Việc ban hành Luật BHTG năm 2012 là một bước
tiến quan trọng nhằm tạo khuôn khổ pháp lý giúp cho hoạt động BHTG hiệu quả hơn, tiếp tục là chỗ
dựa vững chắc cho người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Hệ thống PL BHTG của Mỹ và Việt Nam có một vài điểm khác biệt cụ thể như sau:
Xác định phí bảo hiểm trên cơ sở rủi ro
Theo khoản 2 điều 20 Luật BHTG, “NHNN quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này”. Nguyên
tắc này được ngầm hiểu là phí BHTG được xác định dựa trên cơ sở rủi ro: nếu rủi ro cao thì phí
BHTG cao, và ngược lại.
Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 21 Nghị định 68/2013/NĐ-CP và điều 7 Thông tư 24/2014/TT- NHNN,
về bản chất, cách tính phí BHTG vẫn trên nguyên tắc cào bằng. Cụ thể là mức 0,15%/năm (tính trên
số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG) được áp
dụng chung cho tất các tổ chức tham gia BHTG. DIV không được tự quyết định mức phí này dựa trên
đánh giá, xếp loại rủi ro của tổ chức tham gia BHTG. Sự điều chỉnh mức phí bảo hiểm phải do Thủ
tướng quyết định trên cơ sở đề nghị của DIV và phải có ý kiến của NHNN Việt Nam và Bộ Tài chính.

13
Có thể thấy, quy định này là hoàn toàn khác với quy định về mức phí BHTG của Mỹ cũng như thẩm
quyền của FDIC trong việc xác định mức phí BHTG tại Mỹ.
Chức năng giám sát các tổ chức nhận tiền gửi tham gia BHTG của DIV vẫn còn hạn chế
Điều 13 Luật BHTG về quyền và nghĩa vụ của DIV chỉ quy định tổ chức này có chức năng giám sát
từ xa việc tuân thủ pháp luật về BHTG của các tổ chức tham gia BHTG, tổng hợp, phân tích và xử lý
thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và báo cáo NHNN để xử lý. Đối với mọi vấn đề
khác, DIV cũng đều phải tham chiếu và báo cáo với NHNN. Những quy định này cho thấy DIV
không có đủ quyền lực như FDIC trong lĩnh vực giám sát ngân hàng mà nguyên nhân chính là do địa
vị pháp lý của BHTG Việt Nam không như FDIC.
18. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Đài loan?
19. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Hàn Quốc?
20. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi?
Thứ nhất, hoạt động bảo hiểm tiền gửi hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở các nước
cũng như ở Việt Nam có vai trò căn bản là bảo vệ người gửi tiền.Vai trò này của hoạt động bảo hiểm
tiền gửi nhằm bảo vệ họ trước những hậu quả của sự đổ vỡ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Bởi lẽ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, quỹ bảo hiểm tiền gửi sẽ góp
phần làm giảm bớt gánh nặng đối với người gửi tiền thông qua cơ chế chi trả toàn bộ hoặc một phần
khoản tiền gửi của họ.
Thứ hai, hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp phần duy trì và nâng cao niềm tin của người gửi
tiền vào hệ thống ngân hàng. Tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác có thể thuộc sở hữu
của tổ chức, cá nhân. Số tiền gửi của mỗi tổ chức, cá nhân có thể có giá trị lớn hoặc nhỏ. Trường hợp
các tổ chức nhận tiền gửi bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán có thể gây những thiệt hại
nhất định cho người gửi tiền, đặc biệt là “người gửi tiền nhỏ”. Nếu tổ chức đó có “vấn đề”, hoặc có
những thông tin “thất thiệt” về hoạt động của một tổ chức nhận tiền gửi, người gửi tiền có thể “ồ ạt rút
tiền gửi”. Nếu không xử lý kịp thời thì hiện tượng đó có thể lan rộng sang các tổ chức tín dụng khác.
Do đó, tổ chức nhận tiền gửi tham gia bảo hiểm tiền gửi có thể tránh được những hậu quả của hiện
tượng người gửi tiền rút tiền gửi hàng loạt. Việc xử lý kịp thời, có hiệu quả trong trường hợp một tổ
chức nhận tiền gửi gặp khó khăn không chỉ góp phần quan trọng vào việc gây dựng, duy trì niềm tin
của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng mà còn bảo đảm an toàn cho cả hệ thống ngân hàng quốc
gia.
Thứ ba, hoạt động bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng, góp phần
duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Hệ thống ngân hàng đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, an toàn và ổn định
thì các nguồn lực tài chính được luân chuyển nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, trường
hợp một hay một số ngân hàng “có vấn đề”, có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc
gia và nền tài chính nói chung. Nghĩa là rủi ro trong hoạt động ngân hàng là rủi ro mang tính hệ
thống. Đề phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro trong hoạt động ngân hàng, ở các quốc gia, chủ thể thực
hiện hoạt động bảo hiểm tiền gửi là một trong các chủ thể tham gia giám sát hoạt động tài chính, ngân
hàng. Các chủ thể trong hệ thống giám sát tài chính, ngân hàng thực hiện theo những quy tắc, chỉ tiêu
giám sát hiện đại, trong đó có hoạt động giám sát từ xa. Trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện hoạt động
bảo hiểm tiền gửi phân tích rủi ro trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
và đưa ra cảnh báo sớm về rủi ro đó để tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi áp dụng các biện pháp
ngăn chặn. Như vậy, thông qua các hoạt động bảo hiểm tiền gửi như giám sát từ xa, cảnh báo sớm,
hoặc can thiệp kịp thời đối với ngân hàng đang gặp khó khăn, có thể giúp ngăn chặn hoặc khắc phục
tình trạng đổ vỡ ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định đối với hoạt động ngân hàng và hoạt động tài
chính nói riêng.

14
Thứ tư, hoạt động bảo hiểm tiền gửi thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức nhận
tiền gửi, tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực tài chính. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính luôn luôn có sự cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh khốc liệt. Để thu hút tiền gửi của cá nhân, tổ
chức trong xã hội, các tổ chức nhận tiền gửi thường đa dạng hóa, hiện đại hóa các dịch vụ tín dụng.
Giữa các tổ chức nhận tiền gửi với quy mô lớn nhỏ khác nhau bao giờ cũng có “độ chênh lệch” về khả
năng thu hút khách hàng.người gửi tiền thường có xu hướng chọn các tổ chức nhận tiền gửi có uy tín,
được biết đến rộng rãi, có “bề dày kinh nghiệm” trong lĩnh vực tín dụng. Những tổ chức này được
người gửi tiền quan niệm là ít có nguuy cơ đổ vỡ.Quan niệm đó của người gửi tiền được xây dựng và
củng cố bởi các nguyên nhân khác nhau. Đó là, các tổ chức nhận tiền gửi lớn có danh mục đầu tư đa
dạng hơn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ. Trên thực tế, các tổ
chức này đã có lịch sử phát triển khá lâu dài, kinh doanh ổn định, phát triển mạnh, được khẳng định
trong xã hội với thương hiệu của mình. Do đó, trong trường hợp các tổ chức nhận tiền gửi lớn gặp khó
khăn, họ thường được sự bảo trợ “ngầm” của Chính phủ nhằm ngăn chặn sự đổ vỡ. Vì vậy, hoạt động
bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức nhận tiền gửi nhỏ tiếp cận được với các nhóm
khách hàng khác nhau. Đối với các tổ chức nhận tiền gửi mới đi vào hoạt động, vai trò này của hoạt
động bảo hiểm tiền gửi có ý nghĩa rất lớn. Các tổ chức nhận tiền gửi có qui mô nhỏ và mới hoạt động
có điều kiện thuận lợi hơn trong triển khai các hoạt động tín dụng của mình, có khả năng cạnh tranh
với các tổ chức nhận tiền gửi quy mô lớn, góp phần tạo sự phát triển trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng.
Thứ năm, hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp phần tái cấu trúc ngân hàng. Trong nền kinh tế thị
trường, các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt là các ngân hàng đứng trước cuộc cạnh tranh rất khốc liệt.
Có ngân hàng đứng vững và phát triển mạnh. Ngược lại, có những ngân hàng bị đổ vỡ. Sự đào thải
các ngân hàng “yếu, kém” là hiện tượng tất yếu. Tuy nhiên, sự “đổ vỡ” một hoặc một số ngân hàng có
thể làm ảnh hưởng xấu đến cả hệ thống ngân hàng quốc gia. Do đó, cơ chế tiếp nhận và xử lý các
ngân hàng “đổ vỡ” thông qua hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi sẽ góp phần tái cấu trúc các ngân
hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nền kinh tế. Như vậy, trên thực tế,
khi xây dựng và triển khai các hoạt động bảo hiểm tiền gửi, các quốc gia luôn luôn xác định vai trò,
mục tiêu của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Nhìn chung, vai trò cơ bản - “sứ mệnh” của bảo hiểm tiền
gửi ở các quốc gia đã và đang triển khai các hoạt động bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người gửi tiền (đặc biệt là người gửi tiền nhỏ); duy trì và nâng cao niềm tin của người
gửi tiền vào hệ thống ngân hàng của quốc gia; giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng; tái cấu
trúc hoạt động ngân hàng; góp phần duy trì sự an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia.
21. Hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi?
22. So sánh bảo hiểm tiền gửi với bảo hiểm thương mại?
Về tính chất hoạt động: Hiện nay trên thế giới có hơn 100 quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi
hoạt động. Bảo hiểm tiền gửi là loại hình chính sách công (điều này cũng khác với một số loại hình
bảo hiểm thương mại) với vai trò cơ bản là bảo vệ người gửi tiền, bảo đảm an sinh xã hội góp phần
bảo đảm sự phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia. Sử dụng công cụ bảo
hiểm tiền gửi là thể hiện sự hội nhập trong quá trình phát triển kinh tế.
Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh, ở bất cứ quốc gia nào hệ thống BHTG hoạt động hiệu quả thì
những bất ổn trong hệ thống ngân hàng giảm xuống. Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển mạnh
mẽ của hệ thống tài chính ngân hàng luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Ðể cân bằng lợi ích giữa một
bên là sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng và một bên là bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng
nói chung và người gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra với bất cứ Chính phủ nào. Và công cụ bảo
hiểm tiền gửi là sự lựa chọn của rất nhiều quốc gia vì những lợi ích đối với xã hội và nền kinh tế. Bảo
hiểm tiền gửi không chỉ có vai trò trong bối cảnh hoạt động ngân hàng ở trạng thái bình thường và
phát triển mà nó có vai trò đặc biệt trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hoặc có nguy cơ xảy ra
khủng hoảng tài chính. Ðó cũng là nguyên nhân lý giải tại sao hàng loạt hệ thống bảo hiểm tiền gửi ở

15
các quốc gia châu Á ra đời sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực châu Á. Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được Chính phủ thành lập năm 2000 có trụ sở chính tại Hà Nội. Theo
đó, BHTGVN là một tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với vai trò
bảo vệ người gửi tiền, góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn và lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm tiền gửi có sự khác biệt với các loại hình bảo hiểm khác.
Năm vừa qua, thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhất trong vòng 80 năm
qua. Nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới bị "chao đảo" đặc biệt nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng
thậm chí có lịch sử phát triển lâu đời với quy mô lớn đã bị đổ vỡ. Trong bối cảnh đó, tổ chức BHTG
của nhiều quốc gia điển hình là ở Mỹ đã có đóng góp hiệu quả, tích cực trong việc bảo vệ người gửi
tiền, xử lý đổ vỡ bảo đảm ổn định xã hội.
Về sự điều chỉnh của pháp luật: Với chức năng và vai trò mang tính chất đặc thù, hoạt động của bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam không chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm mà Chính phủ đã
có nghị định riêng điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Về cơ chế bảo hiểm: Ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác khi chủ thể tham gia bảo hiểm sẽ
xuất hiện mối quan hệ trực tiếp giữa một bên là đối tượng bảo hiểm và một bên là đối tượng được bảo
hiểm. Còn ở bảo hiểm tiền gửi thì khác, mặc dù người gửi tiền là người được hưởng lợi trực tiếp từ
chính sách bảo hiểm tiền gửi nhưng không xuất hiện mối quan hệ trực tiếp về bảo hiểm tiền gửi giữa
người gửi tiền và tổ chức BHTG trừ trường hợp xảy ra đổ vỡ của tổ chức tín dụng. Theo quy định, bất
cứ một tổ chức (tín dụng hoặc không phải là tổ chức tín dụng nhưng có hoạt động ngân hàng trừ ngân
hàng chính sách hoặc tiết kiệm bưu điện - gọi là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi) nào có hoạt động
huy động tiền gửi của dân cư thì phải tham gia bảo hiểm tiền gửi một cách bắt buộc và phải đóng phí
trên tổng số dư tiền gửi theo tỷ lệ do pháp luật quy định. Mặc dù là người được hưởng lợi từ chính
sách bảo hiểm tiền gửi, nhưng người gửi tiền không phải đóng phí bảo hiểm tiền gửi, trách nhiệm
đóng phí thuộc về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (điều này là một điểm khác biệt so với các loại
hình bảo hiểm thương mại khác). Trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị giải thể
hoặc phá sản thì BHTG sẽ thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền với mức bảo
hiểm là 50 triệu đồng cho mỗi khoản tiền gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Số tiền vượt
quá 50 triệu đồng người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình thanh lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi với thứ tự ưu tiên theo quy định của pháp luật về giải thể hoặc phá sản.
Về đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi: Là các tổ chức tín dụng hoặc không phải là tổ chức tín
dụng nhưng có hoạt động ngân hàng. Ðối tượng tham gia của các loại hình bảo hiểm thương mại là
các tổ chức hoặc cá nhân.
Cơ chế tham gia: Cơ chế tham gia là bắt buộc còn đối với các loại hình khác thì có thể thỏa thuận.
Hình thức pháp lý tham gia: Ở BHTG đó là sự bắt buộc của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
mà không thông qua hợp đồng bảo hiểm. Còn ở các loại hình bảo hiểm thương mại khác thì thông
thường phải thông qua hợp đồng bảo hiểm.
Nội dung bảo hiểm: Ở bảo hiểm tiền gửi là sự bắt buộc theo những quy định của pháp luật còn ở các
loại hình bảo hiểm khác thì có thể do sự lựa chọn của chủ thể về nội dung tham gia bảo hiểm.
Ngoài sự khác biệt cơ bản nêu trên, giữa bảo hiểm tiền gửi và các loại hình bảo hiểm thương mại khác
còn có những khác biệt về mô hình tổ chức, về cách thức tổ chức hoạt động...
Tóm lại, bảo hiểm tiền gửi là công cụ tài chính được Chính phủ sử dụng để bảo vệ người gửi tiền, góp
phần bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi là chỗ dựa
"niềm tin" cho dân đối với hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia, góp phần thúc đẩy quá trình huy
động vốn để phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vai trò như vậy nên Chính phủ rất chú trọng việc
xây dựng và phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
23. Hợp đồng bảo hiểm tiền gửi?
24. Tại sao pháp luật hiện hành ở Việt Nam không bảo hiểm tiền gửi cho công ty?

16
25. Đối tượng được chi trả bảo hiểm tiền gửi?
Là người được chi trả bảo hiểm đối với khoản tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức này bị
phá sản. Pháp luật Việt Nam hướng tới bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền là cá nhân nhỏ, vì vậy,
người thụ hưởng bảo hiểm là các cá nhân gửi bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tin phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, trừ
trường hợp không được bảo hiểm (Điều 18 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012)
26. Tại sao pháp luật Việt Nam không cho phép bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ và tiền gửi liên
ngân hàng?
27. Mức chi trả bảo hiểm tiền gửi? Các yếu tố tác động đến mức chi trả bảo hiểm tiền gửi?
● Ở Việt Nam, thời hạn chi trả bảo hiểm là 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả
tiền bảo hiểm, BHTGVN có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG. Số
tiền gửi của người gửi tiền được bảo hiểm bao gồm cả tiền gốc và lãi vượt quá hạn mức
trả tiền bảo hiểm thì phần vượt quá sẽ được giải quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ
chức tham gia BHTG theo quy định của pháp luật.
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định số tiền gửi tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả
các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG
khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm là 75 triệu đồng Việt Nam (theo Quyết định số
21/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
⇒ Có thể nói, chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm được coi là công cụ cốt lõi để thực hiện chính
sách BHTG, nó có tác động rất lớn đến sự ổn định của hệ thống tài chính - ngân hàng thông qua
yếu tố kỷ luật thị trường.
● Hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp phải đồng thời thỏa mãn hai yếu tố: (i) Hạn mức phải
đủ cao để bảo vệ đại đa số người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, hiểu biết
hạn chế; (ii) Hạn mức phải đủ thấp để những người gửi tiền lớn không chạy theo các hành
vi rủi ro, chạy đua tìm kiếm ngân hàng trả lãi suất cao nhất mặc dù bản thân người gửi
tiền biết ngân hàng đó có rủi ro cao hơn.
28. Thế nào là rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi?
Một hệ thống bảo hiểm tiền gửi không công khai không bắt buộc thường rơi vào tình trạng không xác
định đúng đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi các tổ chức tín dụng hoạt động tốt có uy tín, khả năng
tài chính mạnh thường có xu hướng không muốn tham gia bảo hiểm tiền gửi để khỏi phải mất chi phí
mà vẫn được thu hồi một cách gián tiếp lợi ích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang lại. Trong khi
đó các tổ chức tín dụng yếu kém hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn thường đi tiên phong trong hoạt động
đóng phí bảo hiểm tiền gửi và tham gia hệ thống này, bởi lẽ nếu rủi ro xảy ra tổ chức bảo hiểm tiền
gửi sẽ có những hỗ trợ nhất định về tài chính, sẽ chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền. Như vậy, rủi ro
được chuyển từ tổ chức tín dụng sang tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Đương nhiên, tổ chức kiểm tiền gửi
không mong muốn chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuy nhiên không phải lúc nào cũng có được đầy đủ thông
tin chính xác về các tổ chức tín dụng và khó có thể kiểm soát từ tất cả các hoạt động của tổ chức tín
dụng nên tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể sai lầm trong việc lựa chọn nhầm đối tượng tham gia bảo
hiểm tiền gửi hoặc có thể xác định mức phí bảo hiểm tiền gửi không tương thích với mức độ rủi ro
trong hoạt động ngân hàng của TCTD đó.
Vậy rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng là loại rủi ro có tính phổ biến trong hoạt động BHTG xuất phát từ
việc tổ chức BHTG khó xác định vsaf cập nhật thông tin, điều hành của tôt chức tham gia BHTG -
TCTD. Rủi ro ngày có thể gây áp lực tài chính lớn đối với tổ chức BHTG. Ngoài ra, rủi ro lựa chọn
nhầm đối tượng có thể phá vỡ cơ chế cộng đồng tương trợ, cơ chế bảo đảm sự hoạt động bền vững
của tổ chức BHTG. BHTG cũng như các loại hình bảo hiểm khác, hoạt động dựa trên nguyên tắc
đóng góp của số đông bù đắp ho rủi ro của sối ít. Nếu hệ thống BHTG có sự tham gia của đa số các
tCTD - cả tốt và yếu kém thì sec tạo ra cơ chế bù đắp rủi ro hữu hiệu cho các TCTD yếu kém nếu

17
những tổ chức này bị rơi vào tình trạng đổ bể. Trong tường hợp thành viên tham gia BHTG là những
TCTD yếu kém thì việc đóng của chấm dứt sự tồn tại của tổ chức BHTG (tổ chức chi trả bảo hiểm) là
điều không mong muốn nhưng khó tránh khỏi. Trên thực tế, rủi ro lựa chọn nhầm đối tượng đã phát
sinh ở 8 hệ thống BHTG thược 8 vùng của nước Mỹ vào những năm 1910 - 1930, làm cho các hệ
thống BHTG này không có khả năng chi trả đầy đủ, kịp thời BHTG cho người gửi tiền và kết quả là
phải đóng của.
Chính vì vậy việc tham gia BHTG nên mang tính bắt buộc đối với tất cả các tổ chức có nhận tiền gửi
của công chứng, Điều này tạo cơ chế hỗ trợ chéo giữa các tổ chức thành viên tham gia BHTG.
29. Sự hình thành Quỹ bảo hiểm tiền gửi?
30. Hoạt động hỗ trợ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi?
Theo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửivừa được Chính phủ
ban hành, trường hợp nguồn vốn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi tạm thời không đủ để trả tiền bảo
hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi được tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách Nhà
nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc được vay của tổ chức tín dụng, tổ chức khác có
bảo lãnh của Chính phủ.
31. Hoạt động cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
(DIV)?
32. Đặc điểm của phí bảo hiểm tiền gửi?
33. Thế nào là bảo hiểm tiền gửi bắt buộc và tự nguyện?
34. Mô hình bảo hiểm tiền gửi ngầm và công khai?
35. Cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?
Cơ cấu tổ chức của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thực hiện theo các văn bản: Quyết định số
3090/QĐ-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Quyết định số
290/QĐ-BHTG ngày 19/09/2016 của Hội đồng quản trị bảo hiểm tiền gửi Việt Nam về việc sửa tên
Chi nhánh bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tại Hà Nội và thành lập thêm 02 Chi nhánh bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam; Quyết định số 289/QĐ-BHTG ngày 19/05/2016 của Hội đồng quản trị bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam về việc thành lập thêm 02 phòng ban tại Trụ sở chính bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. CCơ cấu
tổ chức của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam gồm có: Hội đồng quản trị (tối đa 07 thành viên); Ban điều
hành gồm Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc (tối đa 06 Phó Tổng Giám đốc); Kiểm soát viên
(tối đa 3 thành viên); 18 phòng, ban tại trụ sở chính và 08 chi nhánh tại các khu vực trọng điểm trên
cả nước.
36. Mối quan hệ giữa tổ chức bảo hiểm tiền gửi và ngân hàng Trung ương?
NHNNVN có địa vị pháp lý là cơ quan ngang bộ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ,
ngân hàng và là ngân hàng trung ương thực hiện phát hành tiền, điều tiết lượng tiền lưu thông và là
ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Đồng thời nó cũng có tư cách pháp ngân, 100% vốn pháp định
thuộc sở hữu nhà nước
DIV thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm nhưng bảo hiểm một loại hàng hoá đặc biệt có liên quan mật thất
tới lĩnh vực mà NHNN chịu trách nhiệm quản lý là tiền tệ, cụ thể đó là tiền gửi - đối tượng huy động
vốn chính trong hoạt động ngân hàng, do vật cũng gắn chặt với hoạt động ngân hàng. Cho nên tất yếu
DIV chịu sự quản lý của NHNN VN trong việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi, và quy
định khác như kiểm tra các quy định an toàn trong hệ thống ngân hàng của các tổ chức tham gia
BHTG phải kiểm tra theo nội dung về quy tắc đảm bảo an toàn do NHNN VN quy định, chứ không
theo căn cứ chủ quan của DIV, do đó hệ quả của công tác kiểm tra là DIV có quyền kiến nghị với
NHNN chỉ về những vi phạm của TCTD BHTG nếu là vi phạm về quy định an toàn do NHNN quy
định.
Bên cạnh đó, một trong chức năng của DIV là đảm bảo củng cố hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn
hiệu quả, phát triển lành mạnh cho nên DIV còn có trách nhiệm phối hợp thực hiện chức năng chung

18
về một số vấn đề giám sát, kiểm tra các TCTD BHTG, thông tin báo cáo vấn đề liên quan đến BHTG,
áp dụng các biện pháp xử lý TCTD BHTG và lúc này vị trí của DIV ngang hàng với NHNN.
Ngoài ra, Thống đốc NHNN còn được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền trong việc thực hiện chức năng
của chủ sở hữu là nhà nước; tham dự kỳ họp HĐQT của DIV khi cần thiết, nhận các báo cáo định kỳ,
đột xuất.
Đặc biệt, khi mất khả năng chi trả thì DIV không có nghĩa vụ báo cáo với NHNN về tình trạng của
mình mà được xử lý một cách rất chủ động, thể hiện được nguyên tắc tự chịu trách nhiệm trong thực
hiện nghĩa vụ. Đồng thời DIV được tiếp cận các nguồn lực tài chính khác nhau dễ dàng, linh hoạt
hoặc được vay vốn, hỗ trợ đặc biệt, quyền phát hành trái phiếu vay nợ công chúng; vay nợ tổ chức
khác có bảo lãnh Chính phủ.
Như vật, quan hệ của DIV với NHNN là quan hệ tương đối độc lập trong việc thực hiện hoạt động
BHTG. DIV tự chịu trách nhiệm và chủ động trong xử lý vấn đề tài chính nội bộ, xư rlys TCTD
BHTG dưới góc độ liên quan đến tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm.
37. Phạm vi hoạt động kiểm tra, giám sát của cơ quan bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?
Trước hết, về hoạt động giám sát của tổ chức BHTG.
BHTGVN thực hiện công tác giám sát thông qua việc thu thập, tổng hợp thông tin báo cáo đầu
vào phục vụ cho hoạt động giám sát từ 02 nguồn: thông tin báo cáo về tiền gửi được bảo hiểm từ
tổ chức tham gia BHTG và thông tin báo cáo về tình hình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG
từ dữ liệu thông tin của Ngân hàng Nhà nước… Từ nguồn thông tin báo cáo đầu vào, BHTGVN
thực hiện xử lý số liệu của các tổ chức tham gia BHTG; nghiên cứu, theo dõi tình hình kinh tế
trong nước và ngoài nước có tác động đến hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG; theo dõi và
phản ánh kịp thời diễn biến thị trường tiền tệ - ngân hàng, làm cơ sở lập báo cáo giám sát theo
định kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu.
Thứ hai, về các quy định liên quan đến hoạt động kiểm tra của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Tổ chức BHTG thực hiện hoạt động kiểm tra đối với tổ chức tham gia BHTG về các nội dung sau:
Kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG; kiểm tra việc chấp hành các quy
định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHTG là hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như: cơ quan hành chính nhà nước, tòa án… Tuy nhiên, hiện nay
pháp luật Việt Nam đang có những quy định theo hướng ghi nhận các chức năng này của tổ chức
BHTGVN, trong khi tổ chức này không phải là cơ quan hành chính nhà nước hay cơ quan tư
pháp. Để thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG, tổ chức
BHTGVN có quyền và nghĩa vụ: “Theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi; kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý hành vi vi phạm quy định của
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Thực hiện quy định về giám sát tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTGVN đã xây dựng, ban
hành các văn bản và quy trình nghiệp vụ về giám sát từ xa, xây dựng các chỉ tiêu giám sát về hoạt
động của tổ chức tín dụng (TCTD), áp dụng kỹ thuật tổng hợp, phân tích, đánh giá sự tuân thủ
pháp luật cũng như những thay đổi trong điều kiện hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Thông
qua hoạt động giám sát từ xa, tổ chức BHTGVN đã phát hiện nhiều tổ chức tham gia BHTG có vi
phạm trong hoạt động, trong đó số lượt vi phạm các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động
ngân hàng chiếm tỷ lệ cao. Tổ chức BHTGVN phối hợp với NHNN trong việc thực hiện nghiệp
vụ giám sát đối với tổ chức tham gia BHTG trong phạm vi cả nước. Ở mức độ khái quát, có thể
đánh giá, hoạt động giám sát của tổ chức BHTGVN cùng với hoạt động thanh tra của NHNN Việt
Nam đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an toàn hệ thống TCTD cũng như bảo vệ quyền
lợi của người gửi tiền.
38. Nguyên tắc hoạt động tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam?

19
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm đến người gửi tiền thuộc đối tượng được
bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng
thanh toán.
39. Phân biệt quy mô quỹ bảo hiểm tiền gửi trong điều kiện bình thường và trong điều kiện nền
kinh tế xảy ra khủng hoảng?
40. Các phương pháp xác định quỹ bảo hiểm tiền gửi?
Phương thức xác định theo người gửi tiền. Đây là cách xác định mức chi trả tiền bảo hiểm
tối đa với mỗi người gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi mà không căn cứ vào số lượng tài
khoản hoặc sổ tiết kiệm.
Phường thức xác định mức chi trả tiền bảo hiểm theo tài khoản
41. Hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?
Các giải pháp trước đổ bể như mua lại, hợp nhất, hỗ trợ tài chính ..nếu được thực hiện thành công tốn
rất ít chi phí và Nhà nước sẽ không phải chịu chi phí từ ngân sách. Muốn áp dụng được biện pháp này,
đòi hỏi Chính phủ, các cơ quan giám sát tài chính và bản thân tổ chức có vấn đề phải hành động sớm
như khuyến khích, thậm chí sử dụng các biện pháp mạnh để tổ chức có vấn đề nỗ lực hơn trong việc
tìm kiếm giải pháp cho mình hoặc có những chính sách ưu đãi nhất định đối với tổ chức mua lại, làm
cầu nối giữa hai bên trong khi có các công ty mua lại sẵn sàng tiếp quản tổ chức đổ bể. Tức là khi các
tổ chức mua lại nhìn nhận đây là một vụ làm ăn có lợi, tổ chức có vấn đề khi được sáp nhập, mua lại
có khả năng cải thiện, hoạt động hiệu quả trở lại, bù đắp số vốn đã bỏ ra và mang lại lợi nhuận. Bên
cạnh đó các cơ quan giám sát cũng cần có những cơ chế phù hợp để tiến hành giám sát và kiểm tra
hoạt động sáp nhập, mua lại; xác định tính hợp pháp của tổ chức mua lại nợ tiềm năng. Tổ chức này
phải là một tổ chức hoạt động lành mạnh hoặc là một nhóm các nhà đầu tư có đủ vốn để mua lại và
vận hành tổ chức bị đổ bể, có khả năng quản lý tổ chức đó.
Đối với các tổ chức có quy mô lớn mà sự đổ vỡ của nó có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tài chính
cũng như nền kinh tế nếu rơi vào tình trạng thiếu hụt khả năng thanh toán tạm thời, tổ chức bảo hiểm
tiền gửi hoặc cơ quan giám sát có thẩm quyền có thể cung cấp một khoản hỗ trợ tài chính cho tổ chức
đó, giúp tổ chức này giải quyết được những khó khăn trước mắt, có thời gian để cải tổ hoạt động của
mình, thoát khỏi đổ vỡ. Khi áp dụng biện pháp này đòi hỏi cơ quan cung cấp tài chính cần có những
điều khoản chặt chẽ, kiểm soát được hoạt động của tổ chức nhận vốn đảm bảo nguồn vốn mà họ cung
cấp được sử dụng đúng mục đích.
Đối với những tổ chức có quy mô nhỏ hoạt động yếu kém việc đổ vỡ của nó không có ảnh hưởng gì
lớn đến thị trường tiền tệ và sự ổn định của hệ thống tài chính cũng như sau khi tất cả những nỗ lực
của bản thân tổ chức này, của các cơ quan giám sát tài chính không mang lại hiệu quả tích cực, tổ
chức đó sẽ bị đóng cửa, biện pháp thường được áp dụng trong hoàn cảnh này là thanh lý và chi trả tiền
gửi cho người gửi tiền. Lúc này yêu cầu bức thiết là việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người
gửi tiền phải được tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người dân, hạn
chế tâm lý lo sợ dẫn đến rút tiền hàng loạt tại các tổ chức tín dụng khác. Tài sản của tổ chức tín dụng
bị đổ vỡ phải được thanh lý nhanh gọn, tránh thất thoát, thu hồi tối đa vốn về cho Nhà nước và đảm
bảo quyền lợi của các bên liên quan.
42. Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?
Chứng nhận tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là văn bản thể hiện việc một tổ chức tín dụng đã
tham gia BHTG. Người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG sẽ được BHTGVN bảo vệ không chỉ
thông qua chính sách chi trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tín dụng đó lâm vào tình trạng mất khả năng
chi trả hoặc phá sản, mà còn được bảo vệ thông qua các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, tham gia kiểm
soát đặc biệt, hỗ trợ tài chính…
Luật Bảo hiểm tiền gửi (2012) quy định, chậm nhất 15 ngày trước ngày khai trương hoạt động, tổ
chức tham gia BHTG phải nộp hồ sơ đề nghị cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức

20
bảo hiểm tiền gửi. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị cấp Chứng
nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có
trách nhiệm cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đối với trường hợp cấp lại, BHTGVN thực
hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp lại Chứng nhận tham gia
bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Luật cũng nêu rõ, tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi phải niêm yết công khai bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các
điểm giao dịch có nhận tiền gửi.
43. Các trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?
Khoản 1 và 2, Điều 16, Luật BHTG quy định tổ chức tham gia BHTG bị thu hồi Chứng nhận tham gia
BHTG trong những trường hợp dưới đây:
- NHNN có văn bản tạm đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi đối với TCTD theo quy định của pháp luật
- NHNN có văn bản thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, giấy phép thành lập chi
nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của pháp luật.
44. Nhiệm vụ, quyền hạn của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam?
Theo Điều 9 Quyết định 1395/QĐ-TTg ngày 13/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định
Điều lệ về tổ chức hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) thì BHTGVN có các
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
"(1) Xây dựng chiến lược phát triển BHTG để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện.
(2) Kiến nghị, đề xuất với NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về việc
xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về BHTG; ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ
sung, thay thế, bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động
BHTG.
(3) Cấp, cấp lại và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG.
(4) Yêu cầu tổ chức tham gia BHTG cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm theo định
kỳ hay đột xuất.
(5) Cung cấp thông tin cho NHNN và tiếp cận thông tin của NHNN.
(6) Tính và thu phí BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Luật BHTG và
các văn bản pháp luật liên quan.
(7) Quản lý, sử dụng và bảo toàn nguồn vốn BHTG.
(8) Chi trả và ủy quyền chi trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG theo quy định của Luật
BHTG và các văn bản pháp luật liên quan.
(9) Theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG; kiến nghị NHNN xử
lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về BHTG.
(10) Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và
kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây
mất an toàn trong hệ thống ngân hàng.
(11) Bảo đảm bí mật số liệu tiền gửi và tài liệu liên quan đến BHTG của tổ chức tham gia
BHTG theo quy định của pháp luật.
(12) Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách Nhà nước theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp
nguồn vốn của tổ chức BHTG tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; tiếp nhận các nguồn tài trợ của
các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động.
(13) Tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG theo quy định
của NHNN; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Chính
phủ.

21
(14) Tổ chức tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTG; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ về BHTG, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ và xác quản lý phù hợp với yêu cầu phát
triển của tổ chức BHTG.
(15) Thực hiện các cam kết đối với tổ chức tham gia BHTG và các cam kết khác thuộc trách
nhiệm của BHTGVN.
(16) Đổi mới, hiện đại hóa công nghệ và phương thức quản lý phù hợp với yêu cầu phát triển
của BHTGVN.
(17) Thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của pháp luật; tuyển chọn, thuê
mướn, bố trí, đào tạo nguồn nhân lực, lựa chọn hình thức trả lương, thưởng theo quy định của pháp
luật.
(18) Tiếp nhận, quản lý và sử dụng đúng mục đích vốn điều lệ; nguồn vốn được bổ sung; đất
đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
(19) Chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý theo quy định
pháp luật.
(20) Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của
BHTGVN và của tổ chức tham gia BHTG.
(21) Chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát của NHNN và các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
(22) Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác khi được Thủ tướng Chính phủ hoặc Thống
đốc NHNN giao”.
45. Các trường hợp cấp đổi Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi?
Điều 8, Quy chế cấp và thu hồi Chứng nhận tham gia BHTG ban hành kèm Quyết định số 408/QĐ-
BHTG-HĐQT ngày 28/6/2016 của BHTGVN, quy định tổ chức tham gia BHTG được cấp lại Chứng
nhận tham gia BHTG trong các trường hợp sau:
- Được phép phục hồi hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân theo Quyết định của NHNN.
- Bị mất, rách nát, hư hỏng Chứng nhận tham gia BHTG.
- Có sự thay đổi tên của tổ chức tham gia BHTG.
- Có sự thay đổi thông tin chứng nhận tham gia BHTG.
- Nhận được thông báo của BHTGVN về việc thay đổi mẫu Chứng nhận tham gia BHTG.
46. Hãy phân tích những đặc điểm của cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật của Hàn
Quốc?
47. Phân tích các đặc điểm của tiền gửi? Các loại tiền gửi được bảo hiểm?
Tiền gửi là tài sản có tính rủi ro cao
Tính rủi ro của tiền gửi liên quan mật thiết với hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định
loại tiền gửi nào được bảo hiểm, là cơ sở tính phí bảo hiểm tiền gửi định
Pháp luật Việt Nam chỉ bảo hiểm cho tiền gửi của cá nhân bằng Việt Nam đồng (VNĐ), không bảo
hiểm tiền gửi của tổ chức và không bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ. Điều này không bảo đảm sự bình
đẳng của những người gửi tiền khi gửi vào ngân hàng và khó bảo đảm nguồn vốn huy động cho tổ
chức nhận tiền gửi để phát triển hoạt động ngân hàng trong bối cảnh hội nhập. Trong khi đó, pháp luật
của nhiều nước trên thế giới bảo hiểm tiền gửi cả bằng đồng nội tệ và ngoại tệ, bảo hiểm tiền gửi của
cả cá nhân lẫn tổ chức.
Tiền gửi bằng ngoại tệ
Các loại tiền được bảo hiểm là
- Tiền gửi tiết kiệm: là khoản tiền của cá nhận được gửi tại tôe chức tín dụng nhằm mục đích hưởng
lãi. Tiền gửi tiết kiệm này có kỳ hạn hay không có kỳ hạn đều là đối tượng của BHTG
- Tiền gửi có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có xác định thời hạn gửi hoặc không
xác định thời gian gửi. Loại tiền gửi không kỳ hạn thường được dùng chi trả cho các hoạt động kinh
doanh sản xuất, rút bất kỳ lúc nào hoặc sử dụng để thanh toán

22
- Tiền mua giấy tờ có giá ghi danh do tổ chức tham gia BHTG phát hành. Điều lưu ý là trái phiếu và
chứng chỉ tiền gửi không phải là loại vô danh và phải của các chính tổ chức nhận tiền gửi đó phát
hành.
48. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi?
Đây là loại hình bảo hiểm rất đặc thù, với đối tượng được bảo hiểm là nghĩa vụ thanh toán các khoản
tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Do tính đặc thù này của bảo hiểm tiền gửi
mà pháp luật điều chỉnh nó cũng phải có những nội dung nhất định phù hợp, nhằm bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền, gây dựng được niềm tin của công chúng và hệ thống ngân hàng, qua đó đảm bảo
an toàn và ổn định của hệ thống tài chính. Theo đó, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cần quy định về
những nội dung sau:
● Mô hình bảo hiểm tiền gửi
● Chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này, đối
tượng bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm
● Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi
⇒ Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm
điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi, bao gồm các quy định về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi, hạn mức bảo hiểm, đối tượng được bảo
hiểm tiền gửi, các trình tự, thủ tục chi trả bảo hiểm tiền gửi
49. Khi nào cần áp dụng chế độ thu phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng?
Hiện nay, trên thế giới có 2 phương thức thu phí chủ yếu: đồng hạng và theo mức độ rủi ro. Với cách
tính phí đồng hạng, số tiền phí phải nộp được tính theo một tỷ lệ phí đồng nhất áp dụng cho tất cả các
tổ chức tham gia BHTG. Cách tính phí theo mức độ rủi ro với các tỷ lệ phí khác nhau, có phân biệt áp
dụng cho từng nhóm tổ chức tham gia BHTG theo nguyên tắc tổ chức có rủi ro cao hơn phải nộp phí
cao hơn và ngược lại.
Khảo sát của Hiệp hội BHTG quốc tế tại 63 quốc gia trên thế giới cho thấy, hiện nay, có 38/63 nước
đang áp dụng phí đồng hạng, 25/63 nước áp dụng mức phí phân biệt. Theo thông lệ quốc tế, các tổ
chức BHTG có xu hướng áp dụng phương thức tính phí đồng hạng trong giai đoạn tổ chức BHTG
mới thành lập, sau đó chuyển sang áp dụng phương thức tính phí theo mức độ rủi ro (xuất phát từ hai
yếu tố chủ yếu: i) sau một thời gian hoạt động, tổ chức BHTG tích lũy đủ nguồn lực, kinh nghiệm, có
khả năng đánh giá, xếp hạng, phân loại các tổ chức tham gia BHTG một cách phù hợp; ii) từ yêu cầu
của chính hệ thống ngân hàng).
50. Điều kiện đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi?
Việt Nam hiện nay theo mô hình BHTG công khai và sự tham gia BHTG là bắt buộc đối với các tổ
chức có nhận tiền gửi của công chúng. Theo pháp luật về BHTG ở Việt Nam các tổ chức tín dụng và
các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của tố chức, cá nhân phải tham gia BHTG bắt
buộc. Các tổ chức tham gia BHTG phải niêm yết công khai về tham gia BHTG tại trụ sở và các điểm
giao dịch.
Theo Điều 6 Luật Bảo hiểm tiền gửi và Điều 4 Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính
phủ:
- Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được
nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân
dân, và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Các tổ
chức tín dụng.
- Tổ chức tài chính vi mô phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của cá nhân bao gồm cả
tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ
chức tài chính vi mô.
- Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.

23
Như vậy, các tổ chức phải tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm: Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp
tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận
tiền gửi của cá nhân bằng đồng Việt Nam.
Điều 15, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải niêm yết công
khai bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các điểm giao dịch có nhận tiền gửi.
Trong đó, bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi là bản sao do Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
cấp từ sổ gốc.
Như vậy, người gửi tiền có thể nhận biết tổ chức tín dụng đã tham gia bảo hiểm tiền gửi qua việc quan
sát điểm giao dịch của tổ chức tín dụng có treo bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi hay
không.
Bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi có đầy đủ thông tin của Chứng nhận tham gia bảo
hiểm tiền gửi, gồm: Tên tổ chức bảo hiểm tiền gửi; tên tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; nội dung
khác theo quy định của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

24

You might also like