Professional Documents
Culture Documents
Dịch - Giới Thiệu Về Cảm Quan
Dịch - Giới Thiệu Về Cảm Quan
Tiến sĩ Maria Montessori đã viết trong cuốn sách “Khám phá của đứa trẻ” trang 119, “thực
tế dấu hiệu nhận thức đóng vai trò thường trực ngay từ rất sớm. Nhận thức cảm tính, rất
quan trọng đối với thế giới thú vị này, nhận thức cảm tính rất quan trọng để hiểu thế giới.”
Giác quan là “người kết nối” bởi vì bất cứ khi nào chúng ta chạm vào thứ gì đó thì nó có
liên quan với đồ vật đó/với thế giới. Khi còn là một bào thai trong bụng mẹ, đứa trẻ đã thu
thập được những ấn tượng về việc nghe giọng nói của mẹ, nghe thấy nhịp tim của mẹ, ngửi
thấy mùi của mẹ, cảm nhận nước ối (mùi vị, sự êm dịu, nhiệt độ của chất lỏng...). Những
hiểu biết ban đầu này giúp trẻ định hướng được mùi và giọng nói của mẹ khi mới sinh. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng mùi của nước ối khi còn trong bụng mẹ tương tự như mùi trên
bầu ngực của mẹ. Khi trẻ vừa chào đời, nếu trẻ được áp da kề da vào ngực mẹ, trẻ đã có
bản năng và hướng về vú mẹ để bú. Những ấn tượng này trở thành trí thông minh của đứa
trẻ và tồn tại cho đến khi đứa trẻ được sinh ra.
Các giác quan đã có, nhưng nó vẫn còn rất thô sơ đối với một đứa trẻ. Khi trẻ làm việc với
các vật liệu giác quan sẽ giúp trẻ tinh chỉnh các giác quan này ngày càng chính xác hơn. Sự
hoàn thiện của 5 giác quan sẽ mang đến cho trẻ những thứ cần thiết để trở thành chất liệu
xây dựng trí thông minh của trẻ.
GIÁC QUAN
GIÁC QUAN THỊ GIÁC
Mắt là cơ quan mà chúng ta sử dụng để kết nối với não, nó cho phép chúng ta nhìn và phân
biệt màu sắc, form, hình dạng, kích thước và kích cỡ.
NẾM - VỊ GIÁC
Lưỡi là bộ phận trong miệng giúp chúng ta cảm nhận vị.
KHỨU GIÁC
Mũi – khứu giác là cơ quan giúp chúng ta ngửi thấy mùi. Chúng ta sử dụng rất nhiều thần
kinh khướu giác nhưng không biết đến chúng, chúng ta không nhận thức được những mùi
nào đang được đưa vào và ghi nhận bởi não. Khi em bé còn trong bụng mẹ, em đã có thể
ngửi thấy mùi nước ối, mùi của mẹ em. Khi đứa trẻ được sinh ra, nó có thể ngửi thấy mùi
hương của mẹ trước khi nhìn thấy khuôn mặt của người mẹ, chúng ta biết được rằng khứu
giác đang lấp đầy trong ký ức.
CẢM GIÁC THÍNH GIÁC
Bộ phận chúng ta dùng để nghe là tai và một số bộ phận bên trong tai như ống tai, màng
nhĩ... Thính giác vẫn hoạt động dù chúng ta đang ngủ, mắt có thể nhắm lại được nhưng tai
thì không. Khi chúng ta ngủ nhưng tai vẫn có thể nghe thấy mọi thứ, những âm thanh này
có thể đánh thức chúng ta – ví dụ như tiếng đồng hồ báo thức, tiếng ồn lớn, chuông cảnh
báo… Khi chúng ta ngủ và bị đánh thức bởi âm thanh đó, chúng ta có thể ngủ tiếp và quên
đi âm thanh đó, hoặc hoàn toàn tỉnh giấc khi chúng ta tạo ra âm thanh có mục đích. Tai có
thể nghe được tốc độ âm lượng, phân biệt được nhịp, âm vực của âm thanh, nhận biết âm
thanh thuộc loại gì, chuyển động của âm thanh.
CẢM GIÁC XÚC GIÁC (CẤU TRÚC, CHỦ ĐỀ BARIC, STEREOGRA)
Trẻ em tìm hiểu về kết cấu/cấu tạo thông qua bàn tay của chúng. Đôi tay hoạt động cùng
với các cơ, trẻ sờ vào đồ vật thấy thô ráp, nhẵn nhụi và tiếp thu ấn tượng này.
Khi tay chạm vào một vật thể, chúng ta có thể cảm nhận được nhiệt độ của vật thể (nóng
hoặc lạnh) do cảm giác nhiệt sử dụng da của chúng ta.
Khi chúng ta khiêng một vật, baric sense giúp chúng ta cảm nhận được trọng lượng nặng
hay nhẹ, chúng ta biết cần phải mang vật nặng hay nhẹ với bao nhiêu lực.
Steronothic sense, đây là giác quan liên kết với các cơ giúp chúng ta cảm nhận được đồ vật,
cảm giác 3 chiều. Ví dụ, khi chúng ta cho tay vào túi và tìm một cây bút, tay của chúng ta
chạm vào các đồ vật trong túi, có đủ hình dạng và gửi những ấn tượng này đến não. Dựa
vào kinh nghiệm, chúng ta biết rằng mình cần phải tìm ra những đặc tính của cây bút như
dài, cứng, nhẹ, ngòi nhọn… Và tất cả những cảm nhận này đều được chúng ta sờ, cảm nhận
bằng tay để tìm được cây bút phù hợp trong số nhiều đồ vật khác trong túi - chúng ta có thể
tìm đồ vật bằng tay mà không cần phải nhìn.
Sức mạnh trừu tượng là khả năng sử dụng trí tưởng tượng về những gì chúng ta đã biết và
tạo ra một cái gì đó mới mà chúng ta chưa từng trải qua. Chẳng hạn, khi đọc một cuốn sách
có đoạn tả một bãi biển mà ta chưa từng đến, người viết miêu tả những hình ảnh về bãi biển
như tiếng sóng, màu nước, gió, mây, thời tiết, cảm xúc vui vẻ... Chúng ta có thể dùng
những cảm giác, trải nghiệm, hình ảnh mình đã trải qua ở một bãi biển khác mà mình từng
du lịch để biến những hình ảnh đó thành hiện thực, đó là sức mạnh của sự diễn giải giúp
chúng ta hình thành những gì tác giả đã viết trong sách. Có như vậy, trí óc mới có thể trừu
tượng hóa những phẩm chất tốt đẹp, sáng tạo ra những cái mới và rồi chúng ta mới có thể
tạo ra những phát kiến mới.
Trong lớp học Montessori, trẻ được cung cấp các giáo cụ giác quan để học các trải nghiệm
về âm thanh, mùi, vị, kết cấu, nhiệt, baric/trọng lượng... Khi làm việc với các giáo cụ, trẻ sẽ
thu thập mọi thông tin trừu tượng và hiểu được ngữ cảnh trừu tượng. Ví dụ, khi chúng ta
nghĩ về hình ảnh của chiếc cốc trong não mà không cần phải cầm hoặc nhìn thấy chiếc cốc
thật, chúng ta vẫn có thể hiểu chiếc cốc trông như thế nào và chiếc cốc dùng để làm gì, bởi
vì chúng ta đã có kinh nghiệm với chiếc cốc trước đó. Thông qua việc làm việc với các vật
liệu giác quan, trẻ xây dựng hình ảnh rõ nét và hình thành khái niệm trừu tượng bên trong
trẻ. Ví dụ, khi chúng ta nói với bé 3 tuổi về hình vuông, bé sẽ biết tính chất của hình vuông
là các cạnh có cùng số đo, vì trong tự nhiên bé đã nhìn thấy rất nhiều hình vuông và bây
giờ giáo viên giúp bé gọi tên các hình học bằng 4 cạnh bằng nhau gọi là hình vuông. Trẻ sẽ
kết hợp tất cả các hình ảnh, tính chất và tên của sự vật. Giáo viên cung cấp ngôn ngữ cho
tất cả những kinh nghiệm mà trẻ có, khi trẻ khám phá, học cụ giúp trẻ phân loại. Ví dụ khi
trẻ làm việc với gậy đỏ, chúng ta đặt tên gắn với đặc điểm của que như dài, ngắn và trẻ sẽ
hiểu khái niệm trừu tượng.
Mối quan hệ giữa các vật liệu giác quan và xu hướng của con người thể hiện rõ qua cách
trẻ em làm việc với các vật liệu. Họ thường bị thu hút bởi màu sắc, họ tò mò khám phá các
chất liệu, họ làm việc với nó và lặp đi lặp lại cùng một công việc. Cũng có trật tự. Khi dạy
các bài giác quan, giáo viên sẽ không nói “hãy xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn”, trật tự trong
vật liệu đã có sẵn thứ tự hình dạng, kích thước, màu sắc… và trẻ dùng trật tự đó để tiếp thu
bài và hiểu các học cụ. Trong giờ học giác quan, các bé sẽ cùng trò chơi trí nhớ khám phá
các dụng cụ học tập.
Tại lớp học, trẻ được tự do làm việc với học cụ, đây là cơ hội để trẻ khám phá bài học, làm
đi làm lại nhiều lần cho đến khi hiểu hết học cụ. Tính chính xác của việc có được một công
việc sẽ là một kinh nghiệm tích cực cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Sau mỗi phần trình
bày, giáo viên nên hỏi trẻ "Con có muốn thực hiện lại hoạt động này không?" và "Con
có thể làm việc với tài liệu này bất cứ khi nào con muốn và bao nhiêu lần con muốn" -
khuyến khích trẻ tích cực làm việc và được phép lặp lại công việc.
Trẻ làm việc với các học cụ để tinh chỉnh và thông qua làm việc, trẻ đạt được độ chính xác
của các học cụ.
Trẻ sẽ tinh chỉnh các giác quan của mình qua từng nhiệm vụ để đạt được độ chính xác cao.
Ví dụ, khi trẻ làm việc với hộp âm thanh, trẻ sẽ học cách nghe âm thanh to nhỏ, sau đó
ghép nối từng âm thanh và xếp hạng tăng dần/giảm dần của âm vực. Trẻ sẽ rút ra được kinh
nghiệm sau mỗi nhiệm vụ, và dần dần đạt được độ chính xác. Chúng ta càng cho phép trẻ
lặp lại nhiệm vụ với đồ dùng học tập, chúng sẽ càng đạt được sự hoàn hảo hơn. Khi trẻ
hoàn thành công việc một cách chính xác, trẻ sẽ có được sự hoàn hảo của riêng mình.
Thông qua các học cụ giác quan, trẻ học từ vựng một cách chính xác, cho phép trẻ hiểu và
sử dụng từ vựng chính xác trong giao tiếp.
1 - Trò chơi khoảng cách: Mảnh ghép được cất sang bàn khác, trẻ lấy được ở xa. Trẻ sẽ
thực hiện nhiều động tác và tập trung vào việc ghi nhớ tưởng tượng trong thời gian dài hơn.
2. Chơi trò ghép từ những vật liệu này với thứ gì đó trong môi trường. Ví dụ, bạn sẽ đặt
một bảng màu lên bàn và trẻ sẽ tìm các đồ vật phù hợp trong môi trường. Trẻ em có thể kết
nối kinh nghiệm vật chất của chúng với thế giới thực.
3. Phân loại: trong thế giới tự nhiên có rất nhiều điểm giống nhau, trẻ cần phân biệt được
các đối tượng đó bằng cách nhìn ra sự khác biệt. ví dụ trẻ làm việc với ô màu số 3, trong đó
có các thẻ màu với các biến thể màu sắc. Trẻ cần nhìn vào sự khác biệt, mức độ khác biệt,
mức độ khác biệt là bao nhiêu. Sau đó trẻ xếp theo mức độ tăng dần/giảm dần cấp độ.
Một thử thách đối với trò chơi trí nhớ là trò chơi theo nhóm và chỉ chơi khi trẻ thích.
Khi trẻ đã đạt trình độ mới có thể cung cấp cho trẻ vốn từ - ngôn ngữ so sánh.
Một điều nữa - biến tấu là một biến tấu của trẻ tự làm thông qua sự khám phá của trẻ.
Chúng tôi không bao giờ làm điều đó cho trẻ em vì chúng tôi muốn trẻ em có thể tự xây
dựng khuôn mẫu và nhận thức của riêng mình. Trí óc phát triển dựa trên việc làm việc với
các vật liệu, xây dựng kinh nghiệm của bản thân và tạo ra thứ gì đó của trẻ. Chúng ta nên ở
ngoài và quan sát công việc của trẻ, quan sát sự khám phá của trẻ trước khi đưa ra bất kỳ
kết luận nào.
Trình bày vào đúng thời điểm có thể là một thách thức. Chúng ta cho trẻ ngôn ngữ, trò chơi
trí nhớ, cho trẻ cách suy nghĩ khác biệt, tương tác với học cụ, tất cả những điều đó là cách
kích thích trẻ.
Nếu trẻ sử dụng học theo cách khác mà trẻ nghĩ ra mà không phá hủy tài liệu đó, giáo viên
nên cho phép trẻ làm như vậy vì điều đó xuất phát từ sự khám phá và khám phá chính
mình.