You are on page 1of 8

GIỚI THIỆU VỀ CẢM QUAN

Tiến sĩ Maria Montessori đã viết trong cuốn sách “Khám phá của đứa trẻ” trang 119, “thực
tế dấu hiệu nhận thức đóng vai trò thường trực ngay từ rất sớm. Nhận thức cảm tính, rất
quan trọng đối với thế giới thú vị này, nhận thức cảm tính rất quan trọng để hiểu thế giới.”
Giác quan là “người kết nối” bởi vì bất cứ khi nào chúng ta chạm vào thứ gì đó thì nó có
liên quan với đồ vật đó/với thế giới. Khi còn là một bào thai trong bụng mẹ, đứa trẻ đã thu
thập được những ấn tượng về việc nghe giọng nói của mẹ, nghe thấy nhịp tim của mẹ, ngửi
thấy mùi của mẹ, cảm nhận nước ối (mùi vị, sự êm dịu, nhiệt độ của chất lỏng...). Những
hiểu biết ban đầu này giúp trẻ định hướng được mùi và giọng nói của mẹ khi mới sinh. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng mùi của nước ối khi còn trong bụng mẹ tương tự như mùi trên
bầu ngực của mẹ. Khi trẻ vừa chào đời, nếu trẻ được áp da kề da vào ngực mẹ, trẻ đã có
bản năng và hướng về vú mẹ để bú. Những ấn tượng này trở thành trí thông minh của đứa
trẻ và tồn tại cho đến khi đứa trẻ được sinh ra.
Các giác quan đã có, nhưng nó vẫn còn rất thô sơ đối với một đứa trẻ. Khi trẻ làm việc với
các vật liệu giác quan sẽ giúp trẻ tinh chỉnh các giác quan này ngày càng chính xác hơn. Sự
hoàn thiện của 5 giác quan sẽ mang đến cho trẻ những thứ cần thiết để trở thành chất liệu
xây dựng trí thông minh của trẻ.

Quan điểm lịch sử của vật liệu giác quan


Tiến sĩ Wilhelm là một nhà khoa học đến từ Đức - người thiết kế các khối gỗ để hỗ trợ trẻ
em. Tiến sĩ Maria Montessori đã mượn ý tưởng này và biến nó trở nên hữu ích trong trại tị
nạn và lớp casa để trẻ em phát triển giác quan. Đó là lịch sử của Pink Tower.
Tiến sĩ Eward Seguin là một nhà tâm lý học, ông đã làm việc một thời gian với trẻ em có
vấn đề về thính giác và ông đã tạo ra hộp âm thanh, thẻ màu và một vài khay đầu tiên của
tủ Hình học.
Friedrich Froebel (Đức) là cha đẻ của giáo dục sớm , ông nghĩ ra các khối hình học.
Maria Montessori đã học hỏi từ nhiều nhà giáo dục và nhà tâm lý học, bà đã áp dụng các
học cụ và điều chỉnh chúng để trở nên phù hợp hơn.
Mario Saint thiết kế nhiều học cụ cho toán học và tiểu học - nhưng một số tài liệu có thể sử
dụng trong giác quan như khối nhị thức, khối tam thức, hộp cấu tạo tam , hình vuông
decanomial (thập phân), hình thể hình học... gián tiếp chuẩn bị cho trẻ học toán.
Năm 1930, Tiến sĩ Maria Montessori và Mario làm việc với các học cụ và tạo ra Hình học
và Đại số, cải tiến tủ lá.
Maria Montessori cũng là một người rất yêu âm nhạc. Bà đã mời Anna Macoroni tạo ra các
nhạc cụ trong lớp Casa, ngày nay chúng ta gọi là The Bells (Bộ chuông).

GIÁC QUAN
GIÁC QUAN THỊ GIÁC
Mắt là cơ quan mà chúng ta sử dụng để kết nối với não, nó cho phép chúng ta nhìn và phân
biệt màu sắc, form, hình dạng, kích thước và kích cỡ.
NẾM - VỊ GIÁC
Lưỡi là bộ phận trong miệng giúp chúng ta cảm nhận vị.
KHỨU GIÁC
Mũi – khứu giác là cơ quan giúp chúng ta ngửi thấy mùi. Chúng ta sử dụng rất nhiều thần
kinh khướu giác nhưng không biết đến chúng, chúng ta không nhận thức được những mùi
nào đang được đưa vào và ghi nhận bởi não. Khi em bé còn trong bụng mẹ, em đã có thể
ngửi thấy mùi nước ối, mùi của mẹ em. Khi đứa trẻ được sinh ra, nó có thể ngửi thấy mùi
hương của mẹ trước khi nhìn thấy khuôn mặt của người mẹ, chúng ta biết được rằng khứu
giác đang lấp đầy trong ký ức.
CẢM GIÁC THÍNH GIÁC
Bộ phận chúng ta dùng để nghe là tai và một số bộ phận bên trong tai như ống tai, màng
nhĩ... Thính giác vẫn hoạt động dù chúng ta đang ngủ, mắt có thể nhắm lại được nhưng tai
thì không. Khi chúng ta ngủ nhưng tai vẫn có thể nghe thấy mọi thứ, những âm thanh này
có thể đánh thức chúng ta – ví dụ như tiếng đồng hồ báo thức, tiếng ồn lớn, chuông cảnh
báo… Khi chúng ta ngủ và bị đánh thức bởi âm thanh đó, chúng ta có thể ngủ tiếp và quên
đi âm thanh đó, hoặc hoàn toàn tỉnh giấc khi chúng ta tạo ra âm thanh có mục đích. Tai có
thể nghe được tốc độ âm lượng, phân biệt được nhịp, âm vực của âm thanh, nhận biết âm
thanh thuộc loại gì, chuyển động của âm thanh.
CẢM GIÁC XÚC GIÁC (CẤU TRÚC, CHỦ ĐỀ BARIC, STEREOGRA)
Trẻ em tìm hiểu về kết cấu/cấu tạo thông qua bàn tay của chúng. Đôi tay hoạt động cùng
với các cơ, trẻ sờ vào đồ vật thấy thô ráp, nhẵn nhụi và tiếp thu ấn tượng này.
Khi tay chạm vào một vật thể, chúng ta có thể cảm nhận được nhiệt độ của vật thể (nóng
hoặc lạnh) do cảm giác nhiệt sử dụng da của chúng ta.
Khi chúng ta khiêng một vật, baric sense giúp chúng ta cảm nhận được trọng lượng nặng
hay nhẹ, chúng ta biết cần phải mang vật nặng hay nhẹ với bao nhiêu lực.
Steronothic sense, đây là giác quan liên kết với các cơ giúp chúng ta cảm nhận được đồ vật,
cảm giác 3 chiều. Ví dụ, khi chúng ta cho tay vào túi và tìm một cây bút, tay của chúng ta
chạm vào các đồ vật trong túi, có đủ hình dạng và gửi những ấn tượng này đến não. Dựa
vào kinh nghiệm, chúng ta biết rằng mình cần phải tìm ra những đặc tính của cây bút như
dài, cứng, nhẹ, ngòi nhọn… Và tất cả những cảm nhận này đều được chúng ta sờ, cảm nhận
bằng tay để tìm được cây bút phù hợp trong số nhiều đồ vật khác trong túi - chúng ta có thể
tìm đồ vật bằng tay mà không cần phải nhìn.

1) MỤC ĐÍCH CHUNG


Giúp trí tuệ tổ chức và phân loại hình ảnh nhận được từ môi trường
Khi một đứa trẻ được sinh ra, nó tiếp nhận những ấn tượng từ thế giới xung quanh bằng
mọi giác quan, đây là cách nó tìm hiểu về thế giới này một cách vô thức. Tất cả những cảm
giác mà bé đang thu thập và ghi nhớ trong não từ mùi, vị, xúc giác… và những ấn tượng
này vô cùng hỗn độn. Khi được 2 tuổi rưỡi - 6 tuổi, trẻ bắt đầu khám phá và cần tổ
chức/sắp xếp những ấn tượng này từ tất cả các giác quan. Giáo cụ giác quan không cung
cấp thông tin mới nhưng giúp trẻ hiểu rõ hơn về các giác quan bằng cách gọi tên, kết nối,
so sánh… Ví dụ khi nhìn vào thẻmàu giúp trẻ nhìn rõ màu sắc, chúng ta tìm tương tự theo
thứ tự, sắp xếp tăng dần.
XÂY DỰNG MỘT BỘ SƯU TẬP SỨC MẠNH CỦA TRỪU TƯỢNG

Sức mạnh trừu tượng là khả năng sử dụng trí tưởng tượng về những gì chúng ta đã biết và
tạo ra một cái gì đó mới mà chúng ta chưa từng trải qua. Chẳng hạn, khi đọc một cuốn sách
có đoạn tả một bãi biển mà ta chưa từng đến, người viết miêu tả những hình ảnh về bãi biển
như tiếng sóng, màu nước, gió, mây, thời tiết, cảm xúc vui vẻ... Chúng ta có thể dùng
những cảm giác, trải nghiệm, hình ảnh mình đã trải qua ở một bãi biển khác mà mình từng
du lịch để biến những hình ảnh đó thành hiện thực, đó là sức mạnh của sự diễn giải giúp
chúng ta hình thành những gì tác giả đã viết trong sách. Có như vậy, trí óc mới có thể trừu
tượng hóa những phẩm chất tốt đẹp, sáng tạo ra những cái mới và rồi chúng ta mới có thể
tạo ra những phát kiến mới.
Trong lớp học Montessori, trẻ được cung cấp các giáo cụ giác quan để học các trải nghiệm
về âm thanh, mùi, vị, kết cấu, nhiệt, baric/trọng lượng... Khi làm việc với các giáo cụ, trẻ sẽ
thu thập mọi thông tin trừu tượng và hiểu được ngữ cảnh trừu tượng. Ví dụ, khi chúng ta
nghĩ về hình ảnh của chiếc cốc trong não mà không cần phải cầm hoặc nhìn thấy chiếc cốc
thật, chúng ta vẫn có thể hiểu chiếc cốc trông như thế nào và chiếc cốc dùng để làm gì, bởi
vì chúng ta đã có kinh nghiệm với chiếc cốc trước đó. Thông qua việc làm việc với các vật
liệu giác quan, trẻ xây dựng hình ảnh rõ nét và hình thành khái niệm trừu tượng bên trong
trẻ. Ví dụ, khi chúng ta nói với bé 3 tuổi về hình vuông, bé sẽ biết tính chất của hình vuông
là các cạnh có cùng số đo, vì trong tự nhiên bé đã nhìn thấy rất nhiều hình vuông và bây
giờ giáo viên giúp bé gọi tên các hình học bằng 4 cạnh bằng nhau gọi là hình vuông. Trẻ sẽ
kết hợp tất cả các hình ảnh, tính chất và tên của sự vật. Giáo viên cung cấp ngôn ngữ cho
tất cả những kinh nghiệm mà trẻ có, khi trẻ khám phá, học cụ giúp trẻ phân loại. Ví dụ khi
trẻ làm việc với gậy đỏ, chúng ta đặt tên gắn với đặc điểm của que như dài, ngắn và trẻ sẽ
hiểu khái niệm trừu tượng.
Mối quan hệ giữa các vật liệu giác quan và xu hướng của con người thể hiện rõ qua cách
trẻ em làm việc với các vật liệu. Họ thường bị thu hút bởi màu sắc, họ tò mò khám phá các
chất liệu, họ làm việc với nó và lặp đi lặp lại cùng một công việc. Cũng có trật tự. Khi dạy
các bài giác quan, giáo viên sẽ không nói “hãy xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn”, trật tự trong
vật liệu đã có sẵn thứ tự hình dạng, kích thước, màu sắc… và trẻ dùng trật tự đó để tiếp thu
bài và hiểu các học cụ. Trong giờ học giác quan, các bé sẽ cùng trò chơi trí nhớ khám phá
các dụng cụ học tập.
Tại lớp học, trẻ được tự do làm việc với học cụ, đây là cơ hội để trẻ khám phá bài học, làm
đi làm lại nhiều lần cho đến khi hiểu hết học cụ. Tính chính xác của việc có được một công
việc sẽ là một kinh nghiệm tích cực cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Sau mỗi phần trình
bày, giáo viên nên hỏi trẻ "Con có muốn thực hiện lại hoạt động này không?" và "Con
có thể làm việc với tài liệu này bất cứ khi nào con muốn và bao nhiêu lần con muốn" -
khuyến khích trẻ tích cực làm việc và được phép lặp lại công việc.
Trẻ làm việc với các học cụ để tinh chỉnh và thông qua làm việc, trẻ đạt được độ chính xác
của các học cụ.
Trẻ sẽ tinh chỉnh các giác quan của mình qua từng nhiệm vụ để đạt được độ chính xác cao.
Ví dụ, khi trẻ làm việc với hộp âm thanh, trẻ sẽ học cách nghe âm thanh to nhỏ, sau đó
ghép nối từng âm thanh và xếp hạng tăng dần/giảm dần của âm vực. Trẻ sẽ rút ra được kinh
nghiệm sau mỗi nhiệm vụ, và dần dần đạt được độ chính xác. Chúng ta càng cho phép trẻ
lặp lại nhiệm vụ với đồ dùng học tập, chúng sẽ càng đạt được sự hoàn hảo hơn. Khi trẻ
hoàn thành công việc một cách chính xác, trẻ sẽ có được sự hoàn hảo của riêng mình.
Thông qua các học cụ giác quan, trẻ học từ vựng một cách chính xác, cho phép trẻ hiểu và
sử dụng từ vựng chính xác trong giao tiếp.

XÂY DỰNG SỨC MẠNH CỦA TRÍ NHỚ


Xây dựng trừu tượng trong tâm trí có lợi cho cuộc sống của một đứa trẻ. Chúng ta cần sử
dụng từ vựng chính xác để diễn đạt phần trừu tượng nhằm xây dựng hình ảnh/phần trừu
tượng chính xác trong tâm trí - đó là sức mạnh của trí nhớ. Các học cụ giác quan cho phép
trẻ sử dụng tay để làm mọi việc và thông qua đôi tay trẻ sẽ có thể tự xây dựng.

CẢM GIÁC PHẢI BAO GỒM:


KINH NGHIỆM CỦA KHOA HỌC
Học cụ cần được thiết kế sao cho hấp dẫn trẻ và mang tính khoa học cho trẻ.
Các đặc tính của vật liệu:
- Vật chất hóa sự trừu tượng: Đối với những khái niệm trừu tượng, chúng ta phải cụ thể hóa
nó thì mới có thể dạy cho trẻ. Ví dụ, chúng ta không thể yêu cầu trẻ "Đưa tôi màu đỏ",
"Đưa tôi to", "Đưa tôi nóng". Vì “đỏ”, “to”, “nóng” là trừu tượng, không vật chất, không
hình khối. Các vật liệu sẽ thể hiện tính chất vật lý của khái niệm trừu tượng. Vì vậy, chúng
tôi cần cô lập một tính năng cụ thể trong một học cụ cụ thể. Điều này có nghĩa là, khi
chúng ta cần giới thiệu màu sắc cho trẻ, chỉ có màu sắc thay đổi, còn chất liệu, kích thước,
hình dạng của chất liệu không thay đổi. Ví dụ, bảng màu. Các thẻ có cùng kích thước, cùng
chất liệu, có thiết kế giống nhau và chỉ có màu sắc thay đổi. Khi trẻ nhìn vào chúng, chúng
sẽ chỉ tập trung vào thông tin màu sắc.
Chìa khóa cho thế giới: Chúng tôi có 11 cặp màu, ít hơn nhiều so với số lượng màu thực tế.
Chúng ta không cần dạy trẻ tất cả các màu mà chỉ cần cho trẻ tổ chức màu chủ đạo của thế
giới màu sắc.
Chúng tôi không muốn trẻ chỉ làm việc bằng mắt mà phải dùng tay, vì vậy trong một số bài
học, chúng tôi sẽ sử dụng khăn bịt mắt để giúp trẻ khám phá bằng các giác quan.
Giới hạn về số lượng - giới hạn theo 2 cách: Cách 1, “bao biến”: mỗi bộ chỉ có 1 bộ. Lớp
chỉ có 1 tháp hồng mà không có tháp đỏ, tháp xanh vì trẻ chỉ làm tương tự với tháp nào.
Chúng tôi chỉ có 1 tháp hồng và nó cho phép trẻ khám phá thêm về các vật liệu theo nhiều
cách khác nhau.
Cách thứ hai "Có bao nhiêu mảnh trong vật chất". Ở khu vực giác quan, các vật liệu xuất
hiện trong 10 mảnh ghép như mười khối lập phương màu hồng, mười gậy màu đỏ... Điều
này nhằm kết nối với lĩnh vực toán học và chuẩn bị trí thông minh cho trẻ.
Các học cụ tương tác: Trẻ chỉ học được chất lượng/thông tin của học cụ khi trẻ làm việc với
chúng - khi trẻ làm việc, chúng tương tác với tài liệu. Giáo viên trình bày bài học chỉ là
xuất phát điểm để kết nối học cụ với trẻ chứ không có nghĩa là dạy trẻ.
Các học cụ được tự động chính xác. Ví dụ, tháp màu hồng có 10 khối lập phương và tất cả
đều rất chính xác, mỗi khối có kích thước chính xác.
Một điều quan trọng trong việc thiết kế học cụ là tất cả các học cụ đều có điểm kiểm soát
lỗi. Việc kiểm soát các lỗi của vật liệu giúp trẻ làm việc đúng cách, nó cho trẻ phản hồi về
kết quả. Mặt khác, kiểm soát lỗi giúp trẻ tự do khám phá và tìm ra quy luật của các công
cụ, tránh sự phán xét của người lớn, nó còn khuyến khích trẻ lặp lại công việc khi mỗi
lần theo một cách khác nhau sẽ cho một kết quả khác.
Chúng cần được giữ theo thứ tự đẹp mắt, chúng cần sạch sẽ và chúng cần được chuẩn
bị kỹ càng, sẵn sàng, đầy đủ, chính xác.
Chọn một chất lượng theo bất kỳ ý nghĩa nào và giới thiệu từ dưới lên trên, từ cơ bản đến
nâng cao, với mỗi bước sau đó, chúng tôi sẽ thêm một ít thông tin. Chúng tôi cần suy nghĩ
về ngôn ngữ chúng tôi sử dụng, trò chơi chúng tôi sẽ chơi... Chúng tôi bắt đầu từng bước
với phần dưới cùng của thang chỉ giới thiệu các học cụ, mô hình hóa cách xử lý nó và cảm
giác nào cần sử dụng.
Trong thế giới màu sắc, chúng tôi sẽ giới thiệu 3 màu cơ bản đầu tiên là đỏ - xanh (dương)
- vàng (ở hộp 1). Chúng tôi sẽ thực hiện ghép nối, kết hợp - và hầu hết các bài học giác
quan đều có các hoạt động giống nhau. Hoạt động đầu tiên trong giác quan luôn là ghép nối
và sau đó trẻ có thể thực hiện cấp độ tiếp theo, cần nhiều thử thách hơn.
Sau đó, con bạn sẽ làm việc với hộp màu 2 với nhiều biến thể hơn cho hình dạng trong
màu. Vẫn là 3 cặp màu cơ bản nhưng ở ô màu 2 được bổ sung thêm nhiều cặp màu hơn và
bé có nhiều thử thách hơn. Để giúp Trẻ xây dựng các kết nối logic trong não bộ, trước tiên
chúng ta sử dụng ngôn ngữ tích cực để gọi tên màu (đỏ, xanh dương, xanh lá cây...) - chúng
chỉ là ngôn ngữ chung chung. Thứ hai, kỹ thuật chúng tôi sử dụng là một bài học ba bước.
Và một kỹ thuật khác là trò chơi trí nhớ. Mục đích của kỹ thuật này là xây dựng sức mạnh
của trí nhớ.

1 - Trò chơi khoảng cách: Mảnh ghép được cất sang bàn khác, trẻ lấy được ở xa. Trẻ sẽ
thực hiện nhiều động tác và tập trung vào việc ghi nhớ tưởng tượng trong thời gian dài hơn.
2. Chơi trò ghép từ những vật liệu này với thứ gì đó trong môi trường. Ví dụ, bạn sẽ đặt
một bảng màu lên bàn và trẻ sẽ tìm các đồ vật phù hợp trong môi trường. Trẻ em có thể kết
nối kinh nghiệm vật chất của chúng với thế giới thực.
3. Phân loại: trong thế giới tự nhiên có rất nhiều điểm giống nhau, trẻ cần phân biệt được
các đối tượng đó bằng cách nhìn ra sự khác biệt. ví dụ trẻ làm việc với ô màu số 3, trong đó
có các thẻ màu với các biến thể màu sắc. Trẻ cần nhìn vào sự khác biệt, mức độ khác biệt,
mức độ khác biệt là bao nhiêu. Sau đó trẻ xếp theo mức độ tăng dần/giảm dần cấp độ.
Một thử thách đối với trò chơi trí nhớ là trò chơi theo nhóm và chỉ chơi khi trẻ thích.
Khi trẻ đã đạt trình độ mới có thể cung cấp cho trẻ vốn từ - ngôn ngữ so sánh.
Một điều nữa - biến tấu là một biến tấu của trẻ tự làm thông qua sự khám phá của trẻ.
Chúng tôi không bao giờ làm điều đó cho trẻ em vì chúng tôi muốn trẻ em có thể tự xây
dựng khuôn mẫu và nhận thức của riêng mình. Trí óc phát triển dựa trên việc làm việc với
các vật liệu, xây dựng kinh nghiệm của bản thân và tạo ra thứ gì đó của trẻ. Chúng ta nên ở
ngoài và quan sát công việc của trẻ, quan sát sự khám phá của trẻ trước khi đưa ra bất kỳ
kết luận nào.
Trình bày vào đúng thời điểm có thể là một thách thức. Chúng ta cho trẻ ngôn ngữ, trò chơi
trí nhớ, cho trẻ cách suy nghĩ khác biệt, tương tác với học cụ, tất cả những điều đó là cách
kích thích trẻ.
Nếu trẻ sử dụng học theo cách khác mà trẻ nghĩ ra mà không phá hủy tài liệu đó, giáo viên
nên cho phép trẻ làm như vậy vì điều đó xuất phát từ sự khám phá và khám phá chính
mình.

You might also like