You are on page 1of 142

PHƯƠNG PHÁP KỸ NĂNG

LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

1. Khái quát kiểu bài nghị luận xã hội (NLXH)


1.1. Khái niệm
Nghị luận xã hội (NLXH) là kiểu bài văn nghị luận bàn về các vấn đề xã hội -
chính trị như một tư tưởng đạo lí, một lối sống, một hiện tượng tiêu cực hoặc tích cực của
đời sống, một vấn đề thiên nhiên, môi trường...
Các dạng nghị luận xã hội: Có 3 dạng phổ biến:
- Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lý (trung thực, uống nước nhớ nguồn…)
- Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống (tình trạng học tủ, vi phạm ATGT…)
1.2. Mục đích
- Thể hiện sự hiểu biết, nhận thức, khám phá về đối tượng XH để nghị luận.
- Bộc lộ thái độ, suy nghĩ, đánh giá của bản thân về vấn đề và đặt ra những giải
pháp tích cực.
1.3. Yêu cầu
1.3.1. Yêu cầu nội dung
- Nêu rõ sự việc, hiện tượng được nghị luận, chỉ ra những biểu hiện cụ thể
- Chỉ ra nguyên nhân, thực trạng vấn đề được nghị luận
- Phân tích mặt đúng sai, lợi ích, tác hại, sự tiêu cực của vấn đề được nghị luận
- Chỉ ra để bày tỏ thái độ, ý kiến, nhận định, đưa ra giải pháp và liên hệ với bản
thân.
1.3.2. Yêu cầu hình thức
- Bố cục đảm bảo bố cục của đoạn văn hoặc bài văn theo yêu cầu của đề bài
- Có luận điểm, luận cứ, lập luận, diễn đạt rành mạch, rõ ràng
2. Cách làm bài nghị luận xã hội
2.1. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
- Giới thiệu hiện tượng nghị luận đời sống cần nghị luận
2.2. Thân bài (phát triển đoạn)
- Luận điểm 1: Nêu rõ thực trạng, hiện tượng đời sống được nghị luận
- VD: Chấp hành luật ATGT là gì? Thực trạng việc chấp hành luật ATGT trong
HS như thế nào?
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng sai, lợi ích, tác hại, sự tiêu cực của vấn đề
được nghị luận. Dùng dẫn chứng từ thực tế để chứng minh
- Luận điểm 3: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đời sống đang được nghị
luận…
+ Nguyên nhân khách quan và chủ quan
- Luận điểm: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá và đưa ra giải pháp để cải tạo vấn đề.
+ Ý kiến tán đồng, đề cao hoặc phê phán, phản đối.
+ Với hiện tượng đời sống tích cực thì đưa ra giải pháp để phát huy, với hiện
tượng đời sống tiêu cực thì đưa ra các giải pháp để hạn chế hoặc loại trừ.
2.3. Kết bài: (kết đoạn)
1
- Khái quát hiện tượng đời sống được nghị luận.
- Nêu bài học, lời khuyên và liên hệ bản thân.
3. Nghị luận về một tư tưởng đạo lý:
3.1. Mở bài: (mở đoạn)
- Giới thiệu khái quát
- Nêu tư tưởng đạo lý cần nghị luận.
3.2. Thân bài (phát triển đoạn)
- Luận điểm 1: Giải thích rõ nội dung tư tưởng đạo lý cần nghị luận
+ Giải thích các từ ngữ trọng tâm, các khái niệm.
+ Khái quát nội dung tư tưởng đạo lý từ nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa rộng, nghĩa
hẹp.
- Luận điểm 2: Phân tích các mặt đúng, tích cực, tiến bộ của tư tưởng đạo lý
+ Dùng dẫn chứng, lý lẽ từ cuộc sống văn học để chứng minh.
- Luận điểm 3: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến tư tưởng đạo lý.
+ Dùng dẫn chứng, lý lẽ từ cuộc sống và văn học để chứng minh.
- Luận điểm 4: Đánh giá ý kiến tư tưởng đạo lý đã nghị luận và rút ra bài học cho bản
thân.
3.3. Kết bài: (kết đoạn)
- Khái quát lại tư tưởng đạo lý
- Nếu ý nghĩa và rút ra bài học nhận thức về tư tưởng đạo lý đã nghị luận.
III. THỰC HÀNH
Đề 1: Viết đoạn văn khoảng 10 đến 15 dòng trình bày suy nghĩ về đạo làm con đối với
cha mẹ.
* Triển khai ý:
- Mở đoạn: đề hoàn thiện nhân cách con người cần phải thấu hiểu và làm theo
những đạo lý trong đó: Đạo làm con với cha mẹ là căn bản nhất.
- Thân bài: (phát triển)
+ Giải thích: đạo lý là những điều đã được cả cộng đồng thừa nhận và làm theo đó
là lẽ sống, là yêu cầu đối với mọi người.
+ Nêu những biểu hiện của hiện tượng: Là con phải biết ơn đối với công sinh
thành, nuôi dưỡng của cha mẹ; là con phải nghe lời cha mẹ, phải hiểu được niềm vui của
cha mẹ; Là con cái thành đạt, hạnh phúc, là con phải có trách nhiệm đối với cha mẹ.
+ Bác bỏ những ý kiến, quan niệm, hành động trái với đạo lý làm con: Hiện nay
trong xã hội vẫn còn hiện tượng con cái cãi lại cha mẹ, chây lười trong học tập, không có
ý thức tu dưỡng đạo đức, làm cho cha mẹ phiền lòng, có những người con đã lớn vẫn là
gánh nặng của cha mẹ; thậm chí có những người ngược đãi cha mẹ, ăn ở trái với đạo lý.
+ Rút ra bài học cho bản thân: Trước những tấm gương về tấm lòng người con với
cha mẹ hợp đạo lý cần học tập, trân trọng và có thái độ kiên quyết lên án những kẻ làm
con lỗi đạo với cha mẹ.
- Kết đoạn: Là con cái phải giữ đạo hiếu với cha mẹ, đó là một đạo lý vững bền,
cốt lõi mà mọi người cần phải nhớ và noi theo.

2
+ Giữ đạo hiếu với cha mẹ là một trong những nhân cách con người đóng góp vào
sự văn minh, phát triển của xã hội.
------------------------------------------------------------------------------------------------

Đề 2: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 - 15 dòng, trình bày suy nghĩ của em về việc
hiện nay có một bộ phận học sinh vi phạm an toàn giao thông (ATGT).
* Triển khai ý
- Mở đoạn : xã hội càng phát triển, càng có nhiều vấn đề nảy sinh trong đố có một
vấn đề nhức nhối khiến cả XH phải lưu tâm, đó là vấn đề ATGT, đáng buồn là có một bộ
phận học sinh vi phạm ATGT.
- Thân bài ( phát triển)
+ Nêu thực trạng ATGT hiện nay ở khắp nơi trên đất nước, từ thành thị đến nông
thôn đặc biệt là ở các thành phố lớn, nhiều hành vi vi phạm luật ATGT đã dẫn đến những
tai nạn nghiêm trọng, ý thức tham gia GT của nhiều người, đặc biệt là HS còn rất thấp.
Tình trạng HS hiên ngang tập trung giữa lòng đường, dàn hàng 3, 4 lạng lách, đánh võng,
điều khiển xe cơ giới không đội mũ bảo hiểm, không có giấy phép lái xe tương đối phổ
biến.
+ Phân tích các mặt đúng, sai khi học sinh vi phạm ATGT thể hiện ý thức kém,
không hiểu biết về luật ATGT gây nguy hiểm cho bản thân và cho những người cùng
tham gia GT, đó là những hành động sai trái, vi phạm luật ATGT.
+ Nguyên nhân: Nhiều học sinh vi phạm ATGT bởi họ không có ý thức đúng về
việc chấp hành luật khi tham gia GT, coi thường mạng sống của chính mình và của người
khác, do đường giao thông xuống cấp, có nhiều bất cập.
+ Nêu giải pháp: Về phía mỗi HS cần có ý thức tìm hiểu và chấp hành luật khi
tham gia GT, xem ATGT là hạnh phúc, nhà nước và XH cần tăng cường truyền thông về
ATGT, nâng cấp mạng lưới giao thông, xây dựng và thực thi nghiêm chỉnh luật ATGT.
- Kết đoạn: ATGT là nghiêm chỉnh chấp hành luật GT, tham gia GT an toàn cho
mình và cho mọi người. Mỗi HS cần ý thức, nhận thức sâu sắc về việc chấp hành ATGT
xem đó là việc hoàn thiện nhân cách một con người trong đời sống hiện tại.
====================================================

Đề 3: Viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 - 15 dòng, bàn luận về việc sử dụng điện
thoại di động (ĐTDĐ) trong học sinh hiện nay.
* Triển khai ý:
- Mở đoạn: Xã hội càng phát triển, cuộc sống càng hiện đại, việc sử dụng điện
thoại vốn là một biểu hiện của nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên việc sử dụng điện thoại
của học sinh hiện nay lại nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cần bàn luận.
- Thân bài (phát triển)
+ Thực trạng việc sử dụng ĐTDĐ: ĐTDĐ là phương tiện liên lạc hữu ích rất phổ
biến trong đời sống xã hội hiện đại. Trong HS có nhiều bạn sử dụng ĐTDĐ nhưng không
3
đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục đích, không đảm bảo được văn minh vi phạm nội quy
trong lớp học: Để nhạc chuông to, nghe và gọi dung ngôn ngữ không đúng mực.
+ Phân tích các mặt đúng, sai… việc sử dụng ĐTDĐ trong học sinh không phải là
không có tác dụng, nó giúp cho việc thông tin liên lạc được nhanh chóng, thuận tiện
nhưng bên cạnh đó việc sử dụng ĐTDĐ không đúng mục đích đã đem lại những hạn chế,
thậm chí những hệ lụy không đáng như: HS sử dụng ĐTDĐ trong giờ học làm ảnh hưởng
đến thầy cô, bạn bè và đặc biệt là ảnh hưởng đến bản thân học sinh không tập trung vào
bài học, không tiếp thu được bài, nếu cứ tái diễn việc làm này HS sẽ không có kết quả
học tập tốt, ý thức rèn luyện kém làm ảnh hưởng đến thành tích của tập thể lớp…Sử dụng
ĐTDĐ không đúng lúc, đúng mục đích tích cực làm ảnh hưởng đến mọi người và để lại
hậu quả đáng tiếc cho bản thân là việc không nên làm đối với học sinh.
+ Có bạn học sinh cho rằng việc sử dụng ĐTDĐ lúc nào, tại đâu, như thế nào là do
thói quen và sự lựa chọn của cá nhân được tự do, thoải mái theo ý mình đây là quan niệm
đáng phê phán.
- Kết đoạn: Phê phán những bạn HS sử dụng ĐTDĐ không có văn hóa, không
đúng mục đích. Bản thân phải có ý thức và xây dựng cho mình thói quen sử dụng ĐTDĐ
có văn hóa, đồng thời nhắc nhở các bạn khác sử dụng ĐTDĐ đúng lúc, đúng mục đích,
sử dụng ĐTDĐ một cách hiệu quả tích cực, thể hiện là người HS có phong cách văn
minh hiện đại, có văn hóa.
==========================================================
Đề 4: Viết một văn bản ngắn khoảng trình bày ý kiến của em về hiện tượng nghiện
“internet” trong học sinh hiện nay.
* Triển khai ý
- Mở bài: Xã hội càng phát triển, cuộc sống càng hiện đại, ngày càng có nhiều phát
minh, thành tựu giúp cho đời sống của con người ngày càng tiện ích, văn minh, hiện đại
hơn, Internet là một trong những phát minh, thành tựu lớn của nhân loại. Cũng như
ĐTDĐ bên cạnh những mặt tích cực thì việc con người lạm dụng sử dụng không đúng
mục đích sẽ đem lại những điều không tốt, không tích cực, thậm chí còn để lại những hậu
quả khó lường.
+ Hiện nay việc sử dụng internet dẫn đến “nghiện” trong học sinh nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp cần bàn luận.
- Thân bài ( phát triển)
+ Luận điểm 1: Thực trạng hiện nay
Internet đã xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng vài chục năm trở lại đây (11/1997).
Bên cạnh những mặt tích cực, xuất hiện những mặt tiêu cực đối với người sử dụng như
có biểu hiện: Lạm dụng quá mức internet, nghiện internet đến mức phải cai.
Đối với HS nhiều bạn hiện nay sử dụng internet để chơi game, xem phim, giao lưu
trực tuyến đến mức quên ăn, quên ngủ, quên học hành, thiếu thực tế (sống ảo). Tâm trí
lúc nào cũng hướng về những điều thu nhận được từ internet. Để có tiền truy cập internet
nhiều bạn đã phải cắt giảm tiền ăn sang, nói dối để xin tiền cha mẹ, thậm chí có bạn ăn
cắp tiền của gia đình, bạn bè, ăn cắp ngoài xã hội để có tiền chơi game, mua thiết bị điện
thoại, mua tài khoản game… bỏ học để đi chơi game, truy cập mạng để kết bạn không
4
biết địa chỉ, không biết danh tính thật, bị dụ dỗ vào các hoạt động vô bổ, không có lợi, dễ
bị tổn hại đến vật chất, tinh thần
+ Luận điểm 2: Phân tích chỉ ra những mặt tích cực, tiêu cực
Tích cực: Internet là thành tựu kỳ diệu cử con người, là đỉnh cao của sự phát triển
KHCN trong xã hội hiện đại, nó góp phần rút ngắn khoảng cách giữa con người với con
người, trao đổi thông tin một cách nhanh chóng. Internet giúp chúng ta làm giàu vốn kiến
thức một cách nhanh chóng nếu biết khai thác nó hiệu quả.
Tiêu cực: Nếu say mê internet một cách thái quá sẽ gây tác hại khôn lường đến
cuộc sống của con người như: mất thời gian, ảnh hưởng sức khỏe, tiêu tốn tiền bạc,,,, bên
cạnh đó còn làm ảnh hưởng tới các giá trị đạo đức, truyền thống của dân tộc nếu tập trung
khai thác sử dụng nó một cách tiêu cực. Ở mức độ cao hơn còn có thể làm tê liệt ý thức
con người, mất cảm giác về cuộc sống xung quanh, biến con người trở lên vô cảm, thậm
trí còn bị ảnh hưởng tới sức khỏe tâm thần.
+ Luận điểm 3 : Nguyên nhân và giải pháp
- Nguyên nhân chủ quan: bản thân học sinh và gia đình không ý thức hết được tác
hại của internet khi được sử dụng không đúng mục đích, lạm dụng internet, không làm
chủ được bản thân khi sử dụng internet.
- Nguyên nhân khách quan: Việc tổ chức và quản lý mạng internet còn lỏng lẻo
- Về phái xã hội: Cần quản lý thông tin trên mạng một cách khoa học và hiệu quả,
ngăn chặn những thông tin xấu, thông tin, dữ liệu không phù hợp với lứa tuổi,cấm người
chưa đủ tuổi truy cập vào những thông tin này. Nhà trường và các cấp quản lý cần thành
lập những tổ chức giúp đỡ, tư vấn những học sinh bị rơi vào tình trạng nghiện internet.
- Bản thân mỗi học sinh cần được tuyên truyền, giáo dục, và tự ý thức được cách
sử dụng intenet một cách đúng mục đích, thiết thực hiệu quả nhất.
- Luận điểm 4: Mỗi học sinh phải biết cách sử dụng internet một cách đúng mức
và hiệu quả. Không lạm dụng internet một cách thái quá để trở thành nô lệ của nó.
(THÔNG TIN THAM KHẢO CÁC CON NHÉ)
Với nhiều chính sách phát triển từ phía cơ quan quản lý nhà nước cũng như nỗ lực
của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, Internet đã không chỉ được triển khai, cung cấp tới
người dân thành thị mà cả vùng sâu, vùng xa đều được hưởng các tiện ích từ kết nối
mạng.
Số người có nhu cầu sử dụng Internet ngày càng tăng, mạng Internet đã được mở
rộng tới tận cấp huyện, xã, về tới các vùng sâu, vùng xa với giá cước dịch vụ ngày càng
rẻ, số lượng người sử dụng Internet ngày càng cao, các nhà cung cấp dịch vụ ngày càng
đầu tư thêm nhiều công nghệ, thiết bị hiện đại và tiên tiến, tạo thêm nhiều sự lựa chọn
phù hợp cho khách hàng.
Tuy nhiên, mọi sự phát triển đều có mặt trái của nó. Người ta đã liệt kê ra được
nhiều vấn nạn xảy ra có nguyên do từ Internet. Gần đây, ngày càng có nhiều clip sex, bạo
lực được tung lên mạng; những nội dung khiêu dâm được truyền bá bởi thanh thiếu niên
mới lớn. Tất cả những điều đó cho thấy, cách sử dụng Internet của một bộ phận người
Việt, đặc biệt là giới trẻ, đang đi chệch hướng. Internet đáng lý ra phải mang lại những cơ

5
hội học tập cho giới trẻ, nhưng vì những lý do khác nhau, nó đã trở thành một không gian
sống ảo độc hại.
Dù gì, không thể phủ nhận được những lợi ích to lớn mà chúng ta có được từ
Internet. Chung tay phát huy điểm mạnh, đẩy lùi cái xấu từ Internet không phải là nhiệm
vụ của một cá nhân, một tổ chức hay doanh nghiệp, điều đó cần có sự hợp sức của cả
cộng đồng.
Thông tin tham khảo về internet vào Việt Nam như thế nào?
Năm 1991, Tiến sỹ Mai Liêm Trực lúc đó giữ vị trí Tổng cục trưởng Tổng cục
Bưu điện, đơn vị vừa đóng vai trò quản lý nhà nước vừa cung cấp dịch vụ bưu chính viễn
thông duy nhất ở Việt Nam có cơ hội được tham dự một hội nghị mang tầm quốc tế tại
Mỹ và đã được giới thiệu về Internet. Với tầm nhìn của mình, tiến sĩ Trực xác định, đất
nước sẽ không thể hội nhập và phát triển nếu không có Internet, thậm chí còn bị cô lập và
trở nên tụt hậu.
Ở thời điểm này, ít ai có thể ngờ rằng một đơn vị nhỏ bé nằm trong Viện Khoa học
Việt Nam lại chính là người lĩnh sứ mạng đưa Internet về Việt Nam, mang tên NetNam.
Ông Trần Bá Thái, nguyên Giám đốc NetNam kể rằng, Việt Nam bắt đầu mở cửa từ
những năm 90, nhưng trước đó Viện Khoa học Việt Nam đã có sự hợp tác quốc tế tương
đối tốt. Nhiều cán bộ của Viện đã được đào tạo ở Đông Âu và cả Tây Âu từ những năm
trước đó. Đây là lợi thế dẫn đến “cơ duyên” cho NetNam trở thành người tiên phong
nghiên cứu về Internet tại Việt Nam. "Năm 1992, chúng tôi may mắn được dự cuộc họp
về Internet quốc tế lần 2 ở Kobe (Nhật Bản). Thời kỳ đó, Internet mới chỉ dừng lại trong
giới khoa học và một số trường đại học của Mỹ và châu Âu. Ban đầu, chúng tôi nhìn
nhận Internet như là hướng khoa học để tìm hiểu.
Đến năm 1992, chúng tôi đã kết nối với một nhóm nghiên cứu của Trường Đại
học Quốc gia Úc để thử nghiệm Internet. Chúng tôi thử nghiệm với nhóm của ông Rob
Hurle ở Trường Đại học Quốc gia Úc nhưng cả hai chưa từng gặp mặt mà chỉ nói chuyện
qua điện thoại. Lúc đó chúng tôi tạo tài khoản và thử nghiệm với tên miền của Úc vì tên
miền quốc gia của Việt Nam .vn chưa được đăng ký trên Internet. Địa chỉ email đầu tiên
của chúng tôi lập ở Úc là hanoi@coombs.anu.edu.au. Địa chỉ này dùng như một thùng
thư đầu mối cho toàn bộ email liên lạc giữa Việt Nam và thế giới. Mỗi người sử dụng ở
Việt Nam được tạo một địa chỉ email mang tên miền Việt Nam theo dạng
username@hanoi.ac.vn. Khi chuyển sang Úc, những địa chỉ này được gắn dưới
coombs.anu.edu.au để thông thương quốc tế ..." ông Trần Bá Thái nhớ lại. Nhóm kỹ thuật
NetNam chính là đội quản lý hệ thống tên miền quốc gia (.vn) cho đến khi chuyển giao
lại cho đơn vị quản lý nhà nước về tên miền (sau này là VNNIC) vào năm 1997, khi
Internet chính thức vào Việt Nam.
Năm 2001, Tuần báo Á Châu (Asia Week) đã bình chọn ông Trần Bá Thái cùng
hai người khác của Ấn Độ và Mông Cổ với danh hiệu Người hùng kỹ thuật số (Digital
Revolutionaries) vì những nỗ lực tột bậc để đưa Internet đến với cộng đồng.
Email đầu tiên của Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Tháng 4/1994, Giáo sư Đặng Hữu, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trường, đã giao cho nhóm kỹ thuật của Viện Công nghệ thông tin/NetNam thiết
6
lập email để phục vụ cho chuyến viếng thăm của Thủ tướng Thụy Điển. "Hồi đó, để phục
vụ cho việc thiết lập email cho Thủ tướng, chúng tôi phải tự tạo phương tiện làm việc cơ
động: mua “trao tay” một chiếc laptop đơn sắc (đen trắng) đã qua sử dụng nặng 3- 4 kg
của một Việt kiều ở Mỹ mang về" ông Trần Bá Thái kể lại.
Những năm đó, Internet vẫn là chuyện “tranh tối, tranh sáng” nên để có tên miền
Việt Nam (.vn) Giáo sư Trần Văn Đắc, Thứ trưởng Bộ KHCN và Môi trường đã ký công
văn nhưng không đóng dấu, để fax sang APNIC đăng ký tên miền quốc gia (.vn). Sau khi
có địa chỉ tên miền rồi, NetNam mới tạo lập máy chủ email đầu tiên có tên miền Việt
Nam và kết nối với Internet thế giới, vẫn qua cửa ngõ nước Úc. “Thời kỳ đó, chúng tôi
chưa có kinh nghiệm lắm về cấu hình, quản lý tên miền, nên địa chỉ email của Thủ tướng
là vvkiet@badinh.ac.vn thay vì vvkiet@badinh.gov.vn.”. Email đầu tiên giữa hai nguyên
thủ quốc gia Việt Nam và Thụy Điển đã được thực hiện như vậy. Cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt đã gửi Bức thư điện tử đầu tiên ra thế giới
"Người hùng Internet" tìm lối đi riêng
Tháng 3/1997, Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về quản lý, khai thác và sử
dụng Internet. Theo đó, chỉ doanh nghiệp nhà nước mới được cấp phép ISP. Lúc đó,
NetNam chưa là doanh nghiệp mà chỉ là một Mạng dịch vụ của Viện Công nghệ thông
tin. Tổng Cục Bưu điện đã cấp giấy phép tạm thời ISP cho Viện Công nghệ thông tin vào
tháng 10/1997, trước khi Internet chính thức được kết nối tại Việt Nam (11/1997).
NetNam trở thành doanh nghiệp nhà nước vào tháng 11/1998, và các nhà công nghệ bắt
đầu hành trình kinh doanh dịch vụ Internet trong một thị trường ngày càng cạnh tranh
khốc liệt.
Năm 1999 đến 2000 NetNam là ISP đầu tiên tung ra gói cước dial up trọn gói tính
tiền theo tháng thay vì theo phút như bình thường. Ngay sau đó gói cước này đã được thị
trường đón nhận tích cực. Những năm 2002-2003, có nhiều thời điểm NetNam đứng
trong TOP 2 về thị phần thẻ internet trả trước (internet prepaid), với sản phẩm nổi tiếng
“thẻ Internet sinh viên”.
Bài tập về nhà: Trình bày ý kiến của em về hiện tượng nghiện “học tủ” của một bộ
phận học sinh hiện nay.
Tham khảo 1
Đề bài: Nghị luận xã hội về vấn đề học vẹt và học tủ.
Mỗi người có một phương pháp học tập khác nhau tuy nhiên hiện nay, có rất nhiều
lựa chọn cho mình cách học tủ và học vẹt. Phương pháp học tập này đang ngày
một trở nên phổ biến.
Học tủ là cách học sinh lựa chọn những phần, bài học mà học sinh đó cho là có khả
năng cao xuất hiện trong bài kiểm tra, bài thi. Học vẹt là cách nói ẩn dụ, ví cách
học của học sinh với con vẹt – bắt chước, nói nhại lại, nhưng không hiểu gì. Khi
học thuộc bài, đọc rất trôi chảy nhưng không nắm chắc nội dung, học một cách
máy móc và thụ động.
Nghị luận về học tủ và học vẹt

7
Ngoài việc giúp cho học sinh qua cái bài kiểm tra, bài thi, dù là học vẹt hay học tủ
thì cả hai cách học này đều mang lại nhiều tác hại trực tiếp tới học sinh. Học tủ chỉ
mang tính chất xác suất, may rủi nên trong nhiều trường hợp, khi không gặp đúng
bài mình đã học, học sinh đó sẽ không có khả năng, không đủ kiến thức làm bài.
Từ đó, học sinh dễ nảy sinh các vấn đề khác như quay cóp, gian lận trong thi cử …
Học vẹt là một sự chống đối của học sinh, mang nhiều sự nguy hiểm khi mà bên
ngoài thì học sinh đó có vẻ là một người chăm chỉ nhưng bản chất bên trong thì
trống rỗng, dẫn tới kiến thức tiếp thu được chỉ là con số không. Từ đó, học sinh
không có khả năng vận dụng những gì mình được dạy đưa vào thực tế.
Một trong những nguyên nhân có thể kể đến chính là do chương trình học của bộ
giáo dục đề ra nặng về kiến thức, khô khan, cứng nhắc khiến một bộ phận học sinh
chán học, học chống đối. Bản thân các bậc phụ huynh lại tạo sức ép, gây áp lực
học tập lên con cái trong khi chưa hề có một định hướng cụ thể. Tuy nhiên, cũng
không thể phủ nhận nguyên nhân một phần cũng một phần xuất phát từ chính bản
thân mỗi học sinh. Chưa có ý thức tự giác trong học tập, học sinh nảy sinh việc học
chống đối, thụ động. Nhiều học sinh ngay từ đầu đã không có mục đích, động cơ
học tập rõ ràng dẫn đến lười học, học chưa đúng phương pháp. Game online,
Facebook, … chiếm khoảng thời gian lớn trong ngày khiếm học sinh không đủ giờ
để ôn tập và hệ thống kiến thức được học cũng là lí do dẫn đến việc học đối phó.
Gia đình, nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ để giảm thiểu, bài trừ những
phương pháp học tiêu cực này. Phụ huynh cần có những định hướng cụ thể trong
việc học tập của con em, dành thời gian bên con em và cho phép con mình tham
gia các hoạt động ngoài trời lành mạnh, bổ ích. Nhà trường cần có những phương
pháp nhằm giảm thiểu áp lực cho học sinh trong từng bộ môn. Bản thân mói học
sinh cũng cần xây dựng cho mình ý thức tự giác. Bên cạnh đó, học sinh cũng cần
có sự sắp xếp thời gian hợp lí giữa việc học và các hoặt động giải trí khác.
Học tủ, học vẹt là cách học rất nguy hại, cần phải bài trừ và loại bỏ. Nếu không
thay đổi phương phát học tập thì sẽ không chỉ ảnh hưởng tới tương lai của học sinh
khi bước vào đời, mà còn tác động đến tương lai của cả đất nước. Học sinh chúng
ta cần phải thay đổi cách học tập để lấp đầy tri thức, để hoàn thiện bản thân.
Tham khảo 2
I. Mở bài:
Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là mùa xuân của xã hội. Chúng ta – thế hệ trẻ
cần phải xác định cho mình một con đường học tập đúng đắn. Đó là học để biết,
học để làm, học để hội nhập và khẳng định bản thân. Vậy mà, trong một bộ phận
học sinh chúng ta hiện nay vẫn tồn tại tình trạng học tủ, học vẹt.

II. Thân bài:


Khái quát:
Cách “học tủ”, “học vẹt” trong một bộ phận học sinh hiện nay đã và đang là một
vấn đề băn khoăn, khó khắc phục trong ngành giáo dục. Đó là những cách học đối
phó rất phổ biến trong giới học sinh và chúng mang lại những hậu quả không nhỏ.
Vậy chúng ta hiểu thế nào là “học tủ”, “học vẹt”?

8
Giải thích:
“Học tủ” là cách học chọn lọc những kiến thức quan trọng, cần thiết để làm bài
kiểm tra, làm bài thi. Cách học này mang tính may rủi rất cao và có thể gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, nhất là khi các bạn học sinh đoán sai đề thi. “Học
vẹt” là cách nói ẩn dụ, ví cách học của học sinh với con vẹt – bắt chước, nói nhại
lại, nhưng không hiểu gì. Khi học thuộc bài, đọc rất trôi chảy nhưng không nắm
chắc nội dung, học một cách máy móc và thụ động.

Nguyên nhân:
Tuy khái niệm về hai phương pháp học trên là khác nhau nhưng nó đều có cùng
một nguyên nhân. Trước hết phải kể đến những nguyên nhân khác quan từ xã hội.
Do mặt trái trong tiến trình phát triển của xã hội, định hướng giáo dục của nước ta
còn chưa thực sự phù hợp. Ba mẹ nào cũng muốn con mình học hành giỏi giang,
nên gây áp lực, khiến con em mình luôn phải “oằn” mình gánh lấy ước mơ lớn lao
của cha mẹ.Mặt khác, do chương trình học của bộ giáo dục đề ra nặng về kiến
thức, khô khan, cứng nhắc khiến một bộ phận học sinh chán học, học chống đối
bằng cách duy nhất là “học tủ” và “học vẹt”.Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận
nguyên nhân một phần cũng một phần xuất phát từ chính bản thân mỗi học sinh.
Nhiều học sinh ngay từ đầu đã không có mục đích, động cơ học tập rõ ràng dẫn
đến lười học, học chưa đúng phương pháp. Đồng thời cũng do một phần là chưa có
ý thức tự giác trong học tập, học chống đối, thụ động.

Tác hại:
Hai cách học trên là cách học mang tính chất đối phó, không thực sự coi trọng việc
tiếp thu kiến thức để tích lũy và nâng cao hiểu biết. Vì là học vẹt, học mà không tư
duy cho nên không hiểu, không nắm chắc kiến thức dẫn đến không biết vận dụng
vào thực tế, vào thực hành. Việc học như thế dẫn đến tốn thời gian, vô bổ. Vì là
học tủ, cho nên không nắm bắt kiến thức một cách đầy đủ, toàn diện, phụ thuộc
vào sự may mắn, nếu lệch tủ sẽ không đạt được kết quả như mong muốn, phụ công
ơn thầy cô, tốn tiền bạc của bố mẹ. Đồng thời, cũng tạo ra một thói quen xấu, làm
mất đi ý nghĩa tốt đẹp của việc học, và trở thành những con người không trung
thực. Việc “học tủ”, “học vẹt” không chỉ nguy hại cho bản thân mỗi học sinh mà
còn ảnh hưởng đến xã hội. Thử hỏi xem, một đất nước toàn bộ học sinh chỉ biết
gian dối, học chống đối, không có kiến thức thực chất, thì phát triển ra sao? Xã hội
sẽ mất niềm tin vào ngành giáo dục của đất nước, chất lượng giảm sút, ảnh hưởng
đến tiến trình phát triển và hội nhập của đất nước.

Ý kiến đánh giá, bình luận:


“Học tủ, học vẹt” là cách học rất nguy hại, cần phải bài trừ và loại bỏ. Nếu không
thay đổi phương phát học tập thì dù có đỗ đạt, có bằng cấp thì đầu óc vẫn rỗng
tuếch, dẫn đến công việc không hiệu quả. Học sinh chúng ta cần phải thay đổi cách
học tập để lấp đầy tri thức, để hoàn thiện phẩm chất con người chứ không phải vì
tấm bằng. Hãy học một cách tự giác, học đi đôi với hành, học đến đâu chắc đến đó.
Chỉ có như vậy chúng ta mới tránh được cách học tủ, học vẹt.

9
III. Kết bài:
Nếu ai cũng có ý thức, có định hướng cho riêng mình, biết suy nghĩ về hành vi,
việc làm của mình thì tin chắc rằng sẽ không còn ai nhắc đến căn bệnh “học vẹt”,
“học tủ” nữa. Lúc đó mỗi học sinh sẽ có những kiến thức cần thiết để chuẩn bị
hành trang bước vào đời góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.

CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI

+ Hội thoại được hiểu theo nghĩa rộng là giao tiếp bằng ngôn ngữ có người nói,
người nghe, có nội dung giao tiếp và hướng tới một mục đích giao tiếp cụ thể.
+ Phương châm hội thoại là những quy định, nguyên tắc mà người tham gia hội
thoại phải tuân thủ để cuộc giao tiếp thành công.
1. Phương châm về lượng
1.1. Phân tích ngữ liệu 1
Câu trả lời của Kiên không làm cho Nam thỏa mãn vì nó mơ hồ về ý nghĩa. Nam
hỏi để biết Kiên học bơi ở đâu chứ không phải Nam muốn biết Kiên học bơi trong môi
trường nào?
- Cần trả lời về địa điểm học bơi cụ thể
- Bài học giao tiếp, chú ý vào trọng tâm câu hỏi: Cái gì, như thế nào, ở đâu
1.2. Phân tích ngữ liệu 2
- Thành ngữ “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này”; “ cưới”.
- Yêu cầu giao tiếp: Hỏi đáp chuẩn mực, không hỏi thừa, cũng không hỏi thiếu.
1.3. Khái niệm
Phương châm về lượng là phương châm về nội dung giao tiếp: Nói đúng, nói đủ,
đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc giao tiếp không thiếu, không thừa.
2. Phương châm về chất
2.1. Phân tích ngữ liệu
- Truyện cười phê phán thói xấu khoác loác khi con người nói những điều mà
chính mình cũng không tin là thật.
- Từ sự phê phán nhân vật trong truyện cười trên ta có thể rút ra bài học: Không
nên nói những điều mình tin là không đúng hoặc không có bằng chứng xác thực.
2.2. Khái niệm
- Phương châm về chất là phương chân thuộc về nội dung giao tiếp khi giao tiếp
phải nói đúng sự thực và có bằng chứng cụ thể không nên nói những điều mình không tin
hoặc không có bằng chứng xác thực.
- Luyện tập:
Bài 1: Các từ ngữ sau đây vi phạm liên quan đến phương châm về lượng hay về chất, sửa lại
cho đúng:
PHƯƠNG
STT TỪ NGỮ SỬA LẠI
CHÂM

10
1 Cá là động vật sống dưới nước Lượng Cá là động vật có xương sống
Sấm là tiếng nổ to, hiện tượng
2 Sấm là hiện tượng tự nhiên Lượng
phóng điện giữa 2 đám mây
3 Sinh viên là người đi học Lượng Sinh viên là người học đại học
Xe đạp là phương tiện dùng để đi
4 Xe đạp là xe dùng để đạp Lượng
lại
Nhà anh ấy có con gián to bằng
5 Chất Nhà anh ấy có con gián to
con chim bồ câu

3. Phương châm quan hệ


- Thành ngữ: “Ông nói gà, bà nói vịt” chỉ tình huống hội thoại mà người tham gia
giao tiếp, mỗi người quan tâm nói về một đề tài khác nhau, lạc đề.
- Hậu quả của tình huống hội thoại trên là người nói và người nghe không hiểu
nhau.
- Bài học: Trong giao tiếp phải nói đúng vào đề tài đang hội thoại.
- Khái niệm: Phương châm quan hệ là phương châm về lĩnh vực nội dung trong
hội thoại; yêu cầu khi giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
4. Phương châm cách thức
- Thành ngữ: “Dây cà ra dây muống”, “Lúng búng như ngậm hột thị” nghĩa là phê
phấn cách nói năng dài dòng, rườm rà, nói ấp úng không thoát ý, không rành mạch.
- Hậu quả: Của những cách nói trên khiến người nghe không hiểu hoặc hiểu sai ý
người nói,người tham gia hội thoại… không có thiện cảm với người nói.
- Bài học: Khi giao tiếp phải nói ngắn gọn, rành mạch, phải chú ý giữ được mối
quan hệ tốt đẹp với người cùng tham gia hội thoại.
- Có thể hiểu câu: “Tôi đồng ý với những nhận định về truyện ngắn của ông ấy”
theo 2 cách:
+ Cách 1: (Cụm từ của ông ấy) bổ ngữ cho “nhận định” có đồng ý với những nhận
định của ông ấy.
+ Cách 2: (Khi cụm từ của ông ấy) bổ nghĩa cho “truyện ngắn" tôi đồng ý với
những nhận định về truyện ngắn của ông ấy.
- Khái niệm: Phương châm cách thức đề cập tới yêu cầu giao tiếp cần chú ý nói
ngắn gọn, rành mạch, tránh nói mơ hồ tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau.
5. Phương châm lịch sử
- Trong mẩu truyện người ăn xin, cả cậu bé và ông lão đều cảm thấy như mình đã
nhận được từ người kia một cái gì đó vì cả hai đều cảm nhận được sự chân thành trong
tình cảm trân trọng đồng cảm và sự sẻ chia với nhau.
- Khi giao tiếp cần trân trọng người đối thoại, không phân biệt sang, hèn; giàu
nghèo.
- Khái niệm: Khi giao tiếp cần tế nhị và trân trọng người khác đó là phương châm
lịch sự.
6. Quan hệ giữa phương châm hội thoại với tình huống giao tiếp

11
- Phân tích ngữ liệu: Nhân vật “chàng rể” đã tuân thủ đúng phương châm lịch sự
để thể hiện sự quan tâm đến người khác.
- Câu hỏi và sự quan tâm của anh chàng lại không được sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ vì người được quan tâm đã vất vả với công việc lại phải vất vả trèo xuống để trả lời.
Bài học trong hội thoại: Khi giao tiếp không những phải tuân thủ các phương
châm hội thoại mà còn phải nắm được các đặc điểm của tình huống giao tiếp như nói với
ai, nói khi nào, nói ở đâu, nói nhằm mục đích gì
7. Những trường hợp không tuân thủ phương châm hội thoại
- Trong các ví dụ đã được phân tích khi học về các phương châm hội thoại chỉ có
VD về phương châm lịch sự là tuân thủ phương châm hội thoại. Các tình huống còn lại
không tuân thủ.
- Câu trả lời của Ba không đáp ứng được nhu cầu của An. Phương châm về lượng
không được tuân thủ vì Ba không biết chiếc máy bay đầu tiên được chế tọa năm nào. Nếu
không có bằng chứng xác thực người nói đành trả lời chung chung.
- Khi bác sĩ nói với người mắc bệnh nan y về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân
thường nói tránh để bệnh nhân yên tâm. Khi đó phương chân về chất không được tuân
thủ nhưng có thể chấp nhận được vì nó có lợi cho bệnh nhân giúp bệnh nhân lạc quan
trong cuộc sống.
- Khi nói tiền bạc chỉ là tiền bạc người nói không tuân thủ phương châm về lượng
(xét về mặt câu chữ) nhưng xét về nghĩa hàm ẩn thì cách nói này vẫn tuân thủ phương
châm về lượng bởi vì tiền bạc chỉ là phương tiện sống chứ không phải là mục đích cuối
cùng của con người. Ngoài tiền bạc vẫn có những điều khác thuộc về đời sống tinh thần
thiêng liêng.
=========================================================
Tham khảo 1
CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI

1. Phương châm về lượng:


    1. Phương châm về lượng: Khi giao tiếp, cần nói có nội dung; nội dung của
lời nói phải đúng với yêu cầu của giao tiếp. không thừa, không thiếu.
Ví dụ: An: Học bơi ở đâu? Câu trả lời không đủ nội dung, vừa thừa lại vừa thiếu 
Ba: ở dưới nước không đúng với yêu cầu giao tiếp, vì ngay trong từ bơi đã 
     2. Phương châm về chất:
     Trong giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin à đúng hay không
có bằng chứng xá thực.
Trong truyện dân gian anh chàng khoe cái nồi để chế nhạo anh khoe quả bí khoác
lác
a. Các thành ngữ phê phán về việc giao tiếp không tuân thủ phương châm về chất.
-“ Ăn đơm, nói đặt”: Vu khống, đặt điều, bịa chuyện.
- “ Ăn ốc nói mò”: Nói không có căn cứ
- “ Ăn không nói có”: Vu khống, bịa đặt
- “ Cãi chày cãi cối” Tran cãi không có lý lẽ.
- “ Khua môi múa mép”: Ba hoa, khoác lác

12
- “ Nói dơi nói chuột”: Nói lăng nhăng, không xác thực.
- “ Hứa hươu hứa vượn”: Hứa để được lòng ngưiơì khác mà không thực hiện.

3.Phương châm quan hệ:


Trong giao tiếp cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
“ Ông nói gà bà nói vịt” (nói không đúng đề tài giao tiếp, mỗi người nói một nẻo)
( Nếu muốn nói sang đề tài khác, người nói thường hay nói “ Nhân tiện đây xin
hỏi”
4. Phương châm về cách thức:
Khi giao tiếp cần nói ngắn gọn, rành mạch; tránh cách nói mơ hồ.
Ví dụ: Ăn nên đọi nói nên lời (Khuyên- nói năng rành mạch, rõ ràng).
- Dây cà ra dây muống: Nói năng dài dòng, rườm rà.
- Lúng búng như ngậm hạt thị: Nói ấp úng không thành lời.
- “Tôi đồng ý với những nhận định về truyện ngắn của ông ấy” 
Cách hiểu1: Tôi đồng ý với những nhận định của ông ấy về một truyện ngắn nào
đó.(ông ấy bổ nghĩa cho “ nhận định”
Cách hiểu2: Tôi đồng ý với những nhận định của ai đó về truyện ngắn của ông ấy.
(ông ấy bổ nghĩa cho truyện ngắn).
- Đêm hôm qua cầu gãy (Cách hiểu1:đêm hôm qua đi qua một chiếc cầu gãy. 
Cách hiểu2: Đêm hôm qua có 1 chiếc cầu gãy).
5.Phương châm lịch sự: Khi giao tiếp cần chú ý đến sự tế nhị, khiêm tốn và tôn
trọng người khác.
Ví dụ: Hỏi tên răng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê răng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
( Vi phạm phương châm: Lịch sự.
Một số câu ca dao, tục ngữ VN khuyên người ta dùng lời lẽ lịch sự, nhã nhặn....
-Tiếng chào cao hơn mâm cỗ - Kim vàng ai nở uốn câu
- Lời nói chẳng mất tiền mua Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lờ
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
- Trong giao tiếp, người nói phải đụng chạm đến thể diện của người đối thoại, để
giảm nhẹ sự đụng chạm và để tuân thủ phương châm lịch sự người nói thường
dùng cách diễn đạt như: Xin lỗi, có thể anh không hài lòng, nhưng tôi cũng phải
thành thực mà nói; tôi nói điều này có gì không phải mong anh bỏ qua cho...
-Nếu người đối thoại không tuân thủ phương châm hội thoại, người kia thường yêu
cầu người đối thoại chấm dứt cách nói đó bằng cách nói như: đừng nói leo; đừng
ngắt lời như thế...
6.Tình huống vi phạm pcht
(1) Khách: Nóng quá! 
- Chủ nhà: - Mất điện rồi.
(2) - Cô gái: Anh ơi! Quả khế chín rồi kìa
Chàng trai: Cành cây cao quá.
- Xét về mặt câu chữ (nghĩa tường minh) thì nó vi phạm phương châm quan hệ.
Nhưng trên thực tế đó là cách giao tiếp bình thường được thể hiện ró qua câu trả
lời. Nên tình huống này được xem là vẫn tuân thủ phương châm quan hệ.
CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP.
Trong câu có thành phần trực tiếp diễn đạt nghĩa sự việc của câu, nằm trong cấu

13
trúc cú pháp của câu như: Chủ nghữ, vị ngữ, bổ ngữ trực tiếp, trạng ngữ
Thành phần biệt lập: Là những bộ phận không trực tiếp diễn đạt nghĩa sự việc của
câu, không nằm trong cú pháp của câu, chúng được gọi là thành phần biệt lập.
Ví dụ: Trời ơi, chỉ còn năm phút nữa!
1.Thành phần biệt lập tỡnh thỏi là thành phần không nằm trong cấu trúc cú pháp
của câu mà được dùng để diễn đạt thái độ của ngưoừi nói, cách đánh giá của người
nói đối với sự việc được nói đến trong câu hoặc đối với người nghe.
* Những yếu tố tình thái gắn với độ tin cậy sự việc được nói đến như:
+ Chắc chắn,chắc hẳn, chắc là…chỉ độ tin cậy cao ( chắc chắn chỉ độ tin cậy cao
nhất)
+ Hình như, hầu như, giường như, có vẻ như, có lẽ, nghe nói…chỉ độ tin cậy thấp.
*Yếu tố tình thái gắn với y kiến của người nói: Theo y tôi, theo anh, theo y ông
ấy…
*Yếu tố tình thái chỉ thái độ của người nói đối với người nghe: à, hả, nhé, nhỉ, đấy,
đây…
2.Thành phần cảm thán (dùng để bộc lộ tâm lý người nói như: vui, buồn, mừng,
giận…)
Ví dụ: Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng
tác…(Lặng lẽ Sapa)

Tham khảo 2
CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Phương châm về lượng
a) Đọc và nhận xét về đoạn hội thoại sau:
An: - Này, cậu có biết bơi không?
Ba: - Biết chứ, thậm chí còn bơi giỏi nữa.
An: - Thế cậu học bơi ở đâu vậy?
Ba: - Chẳng lẽ cậu không biết à? Dĩ nhiên là ở dưới nước chứ còn đâu.
Gợi ý: Chú ý tới nội dung trao đáp giữa các lượt lời.
b) Câu trả lời của Ba (Dĩ nhiên là ở dưới nước chứ còn đâu) có thoả mãn
được câu hỏi của An (Thế cậu học bơi ở đâu vậy?) không? Vì sao?
Gợi ý:
- An cần biết điều gì? Ba đã cho An biết điều gì?
- Nếu câu trả lời của Ba chưa có nội dung mà An cần biết thì nội dung đó là gì?
Bản thân từ “bơi” đã cho người ta biết: ở dưới nước. Điều mà An cần biết là
một địa điểm học bơi cụ thể (Bể bơi nào? Sông, hồ,… nào?). Câu trả lời của Ba chỉ
có nội dung mặc nhiên đã được biết, không có lượng thông tin cần thiết đáp ứng
nhu cầu của người đối thoại.
c) Như vậy, khi giao tiếp ta cần chú ý điều gì?
Gợi ý: Lời nói thiếu nội dung sẽ không đảm bảo tiêu chuẩn giao tiếp.
d) Đọc truyện sau và cho biết yếu tố gây cười ở đây là gì?
LỢN CƯỚI, ÁO MỚI

14
Có anh tính hay khoe của. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc,
rồi đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Đứng mãi từ sáng đến chiều
chả thấy ai hỏi cả, anh ta tức lắm.
Đang tức tối, chợt thấy một anh, tính cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to:
- Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra, bảo:
- Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!
(Truyện cười dân gian Việt Nam)
Gợi ý: Chú ý nội dung lời thoại của hai nhân vật. Nếu cần biết “con lợn ở đâu”
thì chỉ cần hỏi thế nào? Nếu muốn biểu đạt nội dung “không thấy” thì chỉ cần trả
lời thế nào? Đưa thêm chi tiết (lợn) cưới và áo mới vào có thừa không?
Vì muốn khoe khoang nên cả hai anh chàng trong truyện trên đều đưa vào lời
nói những nội dung không cần thiết. Đây cũng chính là yếu tố gây cười của truyện.
e) Như vậy, trong giao tiếp, bên cạnh việc phải đảm bảo đủ (không thiếu)
thông tin, người ta còn phải chú ý đến điều gì để thực hiện phương châm về
lượng?
Gợi ý:
- Lời nói phải có thông tin; thông tin ấy phải phù hợp với mục đích giao tiếp;
- Nội dung của lời nói phải đủ (không thiếu, không thừa).
 2. Phương châm về chất
a) Tại sao nói truyện dưới đây có tính phê phán?
Hai anh chàng đi qua một khu vườn trồng bí. Một anh thấy quả bí to, kêu lên:
- Chà, quả bí kia to thật!
Anh bạn có tính hay nói khoác, cười mà bảo rằng:
- Thế thì đã lấy làm gì mà to. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều. Có
một lần, tôi tận mắt trông thấy một quả bí to bằng cả cái nhà đằng kia kìa.
Anh kia nói ngay:
- Thế thì đã lấy gì làm lạ. Tôi còn nhớ, một bân tôi trông thấy một cái nồi đồng
to bằng cả cái đình làng ta.
Anh nói khoác ngạc nhiên hỏi:
- Cái nồi ấy dùng để làm gì mà to đến như vậy?
Anh kia giải thích:
- à, thế anh không biết à? Cái nồi ấy dùng để luộc quả bí anh vừa nói ấy mà.
Anh nói khoác biết bạn chế nhạo mình, mới nói lảng ra chuyện khác.
(Truyện cười dân gian Việt Nam)
Gợi ý: Tiếng cười trong truyện cười có tác dụng lên án, phê phán những cái
xấu. Ở mẩu chuyện trên, tình tiết gây cười nằm ở lời đối đáp giữa hai nhân vật, đặc
biệt là ở lời thoại cuối. Cái xấu bị phê phán ở đây là tính nói khoác, nói không
đúng sự thật.
b) Câu chuyện trên nhắc nhở chúng ta điều gì?
Gợi ý: Khi nói, nội dung lời nói phải đúng sự thật. Không nói những gì mà
mình không tin là đúng, không có căn cứ chính xác. Đây cũng chính là phương
châm về lượng mà người giao tiếp phải tuân thủ.
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Các câu sau vi phạm phương châm về lượng như thế nào?
a) Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà.

15
b) Én là một loài chim có hai cánh.
Gợi ý: Cần nắm chắc phương châm về lượng là gì để xác định lỗi và cách khắc
phục lỗi trong hai câu này.
- Câu (a): Nếu nói thành “Trâu là một loài gia súc.” thì có ảnh hưởng gì đến
nội dung của câu không? Tại sao khi bớt đi một số từ ngữ mà nội dung của câu vẫn
không thay đổi?
- Câu (b): Nếu nói thành “Én là một loài chim.” thì người nghe có hiểu được
là én có hai cánh không? Câu này diễn đạt thừa như thế nào?
2. Hãy chọn các từ ngữ cho bên dưới để điền vào chỗ trống - (…) - trong
các câu sau cho thích hợp:
a) Nói có căn cứ chắc chắn là (…)
b) Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là (…)
c) Nói một cách hú hoạ, không có căn cứ là (…)
d) Nói nhảm nhí, vu vơ là (…)
e) Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác
lác cho vui là (…)
(1- nói trạng; 2 - nói nhăng nói cuội; 3 - nói có sách, mách có chứng; 4 - nói
dối; 5 -nói mò)
Gợi ý: (a) - 3; (b) - 4; (c) - 5; (d) - 2; (e) - 1.
3. Trong các câu ở bài tập trên (2), câu nào chỉ phương châm về chất, câu
nào chỉ hiện tượng vi phạm phương châm này?
Gợi ý: Trả lời câu hỏi: Phương châm về chất là gì? Như thế nào thì bị xem là vi
phạm phương châm về chất? Từ đó phân biệt nội dung giữa các câu trên.
4. Trong truyện sau, phương châm hội thoại nào đã bị vi phạm? Tại sao?
CÓ NUÔI ĐƯỢC KHÔNG
Một anh, vợ có thai mới hơn bảy tháng mà đã sinh con. Anh ta sợ không nuôi
được, gặp ai cũng hỏi:
Một người bạn an ủi:
- Không can gì mà sợ. Bà tôi sinh ra bố tôi cũng đẻ non trước hai tháng đấy!
Anh kia giật mình hỏi lại:
- Thế à? Rồi có nuôi được không?
(Truyện cười dân gian Việt Nam)
Gợi ý:
- Nội dung của hai lời thoại có mâu thuẫn nhau không?
- Tại sao có thể nói câu hỏi ở cuối truyện của anh chàng có vợ đẻ non là thừa?
Tình huống gây cười của truyện trên dựa trên hiện tượng vi phạm phương
châm về lượng trong hội thoại.
5. Khi hội thoại, người ta thường dùng các từ ngữ sau:
a) như tôi được biết; tôi tin rằng; nếu tôi không lầm thì; tôi nghe nói; theo tôi
nghĩ;hình như là,…
b) như tôi đã trình bày; như chúng ta đã biết,…
- Hãy cho biết các từ ngữ trên có tác dụng gì trong diễn đạt?
- Hai nhóm từ ngữ trên thuộc những phương châm hội thoại nào?
Gợi ý:

16
- Để đảm bảo phương châm về chất, người tham gia hội thoại phải lưu ý điều
gì? Các từ ngữ trong nhóm (a) có tác dụng như thế nào trong việc đảm bảo phương
châm này?
- Để đảm bảo phương châm về lượng, người tham gia hội thoại phải lưu ý điều
gì? Các từ ngữ trong nhóm (b) có tác dụng ra sao trong việc bảo đảm phương châm
này?
6. Đọc các thành ngữ sau và thực hiện yêu cầu bên dưới: ăn đơm nói đặt; ăn
ốc nói mò; ăn không nói có; cãi chày cãi cối; khua môi múa mép; nói dơi nói
chuột; hứa hươu hứa vượn.
- Giải thích nghĩa của các thành ngữ.
- Các thành ngữ trên có liên quan đến những phương châm hội thoại nào?
Gợi ý:
- Tra từ điển thành ngữ để nắm được nghĩa của các thành ngữ;
- Các thành ngữ trên đều chỉ những trường hợp vi phạm phương châm về chất.
Phải tránh những cách nói, nội dung nói được chỉ ra trong các thành ngữ trên.

TÁC PHẨM VĂN HỌC


ÁNH TRĂNG

I. Giới thiệu chung


1. Tác giả
Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ tại làng Quảng Xá phường Đông
Vệ thành phố Hạ Long. Năm 1966 Nguyễn Duy nhập ngũ trở thành lính thông tin có mặt
ở nhiều chiến trường sau đó ông giải ngũ hoạt động văn nghệ làm đại diện thường trực
của Báo Văn nghệ.
- Nguyễn Duy bắt đầu làm thơ từ thời học sinh và các sáng tác của ông thực sự
được nhiều người biết đến khi ông vào chiến trường. Đến năm 1973 đạt giải Nhất của
cuộc thi thơ báo Văn nghệ.
- Thơ Nguyễn Duy thường viết về nhiều điều bình dị về nhân dân, quê hương đất
nước với một thái độ trân trọng biết ơn và gắn bó
- Thơ Nguyễn Duy trẻ trung, dân dã nhưng cũng giầu tính triết lý.
- Nguyễn Duy đặc biệt có đóng góp to lớn trong việc làm mới thể thơ. Đồng thời
Ông cũng có công đưa thơ Việt Nam tiếp cận với độc giả quốc tế.
- Nhận xét về thơ Nguyễn Duy, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hình dung hình hài
Nguyễn Duy giống như đám đất hoang còn thơ Nguyễn Duy thứ cây quý mọc trên đám
đất hoang ấy.
2. Tác phẩm "Ánh Trăng"
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ bài thơ
- Ánh Trăng là thi phẩm xuất sắc được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 tại TP
HCM, đây là giai đoạn đất nước vừa thống nhất đang xây dựng cuộc sống mới với những
vấn đề mới mà con người và xã hội đối diện.
- Bài thơ được in trong tập thơ: "Ánh Trăng" xuất bản năm 1984

17
- Bài thơ đã xây dựng hình tượng "Ánh Trăng" trong nhngx khoảng không và thời
gian khác nhau. Trong những tình huống quan hệ giữa người và trăng, từ đó đặt ra những
vấn đề về lẽ sống, về nghĩa tình thủy chung, từ đó vươn tới bàn luận về vấn đề nhân cách
của con người sau hậu chiến.
- Bài thơ được viết theo thể ngữ ngôn rất phù hợp với giọng kể chuyện, giọng nhắc
nhở điềm tĩnh mà lắng sâu, giầu tính biểu cảm, biểu tượng. Hai sự kết hợp tự sự và trữ
tình mang lại thành công đặc sắc cho bài thơ.
- Bài thơ như một câu chuyện riêng, một tâm sự riêng nhưng lại costacs dụng cảnh
tỉnh chung đối với mọi người đặc biệt là những ai dễ dàng lãng quên quá khứ, bài thơ
nhắc nhở về những năm tháng gian nan đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên
nhiên với nhân dân, đất nước, bài thơ cũng nhắn nhủ ta phải biết nhìn lại chính mình để
sống đẹp, sống tốt hơn.
b) Bố cục
- Có thể tách bài thơ thành 3 phần
* Phần 1: Hai khổ thơ đầu: Kỷ niệm của người lính về quá khứ gắn với vầng trăng.
* Phần 2: Hai khổ giữa: Hiện tại của người lính và vầng trăng
* Phần 3: Hai khổ thơ cuối: Người lính đối diện với vầng trăng để suy ngẫm và thức tỉnh.
II. Phân tích
1 - Khổ 1 và 2
- Bài thơ mở ra bằng giọng tâm sự đầy hoài niệm gắn với một thời gian, một
không gian cụ thể.
+ Thời gian "Hồi nhỏ" gắn với tuổi ấu thơ hồn nhiên, trong trẻo, gắn với không
gian đồng ruộng và bể.
+ Hình ảnh "Đồng - Sông - Bể" được xuất hiện sau điệp từ "với" như mở rộng ra
một không gian thoáng đạt, theo bước chân của nhân vật trữ tình gợi khung cảnh làng quê
thanh bình, nên thơ, thân thuộc gợi sự gắn bó khăng khít, hòa đồng giữa con người và
thiên nhiên nó nói lên rằng trong tuổi ấu thơ con người đã sống hòa mình cùng thiên
nhiên cùng quê hương trong một quá khứ yên bình
+ "Hồi chiến tranh" là cụm từ chỉ sự thay đổi về thời gian, từ hòa bình với chiến
tranh khốc liệt gắn với thời gian cùng chiến tranh là sự tiến triển về không gian, từ làng
quê thanh bình đến núi rừng.
+ Con người từ giã tuổi ấu thơ trở thành người lính cách mạng trong cuộc sống có
những đổi thay này, có một điều vẫn không thay đổi đó là sự gắn bó giữa con người và
thiên nhiên, người lính sống hồn nhiên trong sáng trong bối cảnh khốc liệt của chiến
tranh. Cách nói trần trụi và tự nhiên.
+ "Vầng trăng thân" từ thuở ấu thơ không chỉ là tự nhiên mà còn trở thành tri kỷ,
thành người bạn gắn bó với con người, thành vầng trăng tình nghĩa cùng sẻ chia ngọt bùi.
+ Vầng trăng ở đây vượt lên trên ý nghĩa tả thực về thiên nhiên trở thành biểu
tượng cho nhân dân, cho đất nước, cho nghĩa tình của người lính nói riêng của con người
nói chung, về cuộc sống của nhân dân, về quê hương, đất nước, vầng trăng giữ một vị trí
vô cùng quan trọng trong đời sống tình cảm của người lính trong nghĩa tình gắn bó trong
tình cảm trong sáng hồn nhiên của người lính.
18
" Ngỡ không bao giờ quên.
Cái vầng trăng tình nghĩa"
+ Từ "ngỡ" là tình thái từ như một tín hiệu buồn về sự đổi thay trong mối quan hệ
giữa người và trăng, sự gắn bó giữa người lính và vầng trăng từ thuở ấu thơ tới lúc trưởng
thành về cuộc đời người lính cũng chính là gắn bó sâu nặng với người lính, nhân dân đất
nước, ngỡ không bao giờ đổi thay, ngỡ sẽ mãi mãi bền chặt và đó chính là sự hé mở biến
chuyển của mạch thơ

2 - Khổ 3 và 4:
- Khổ thơ tiếp nối bằng cụm từ chỉ thời gian: "Từ hồi về thành phố" dẫn đến sự
thay đổi về không gian đó là cái cột mốc đáng nhớ trong cuộc đời của người lính bởi nó
chứa đựng những thay đổi lớn lao từ những năm tháng chiến tranh sang những ngày hòa
bình từ núi rừng đến thành phố kéo theo đó là sự thay đổi của điều kiện sống từ khó khăn
gian khổ đến hiện tại cơ sở vật chất tiện nghi.
- Ngỡ đây là sự đổi thay đáng mừng, là kết quả mà người lính được hưởng sau
những hi sinh mất mát, đó là những yêu thương, phần thưởng xứng đáng cho những con
người từng trải qua chiến tranh, thế nhưng nhịp sống hiện đại ấy lại khiến những người
lính tham gia chiến tranh quen với sự đầy đủ sung túc "quen với ánh điện", "cửa gương"
và lặng quên đi vầng trăng.
"Vầng trăng đi qua ngõ
Như ngủ"
- Một nghịch cảnh trớ trêu xót xa diễn ra, vầng trăng không biến mất vẫn hiện hữu
trong cuộc đời người lính "vẫn đi qua ngõ" ngày ngày bên người lính vậy mà người lính
như không hề hay biết.
+ Hai chữ "người dưng" vang lên thật xót xa khi ta đối sánh với những chữ "tri kỷ,
tình nghĩa" ở khổ thơ trên, nó tố cáo người lính đã hoàn toàn dửng dưng, không hề hay
biết đến sự tồn tại của vầng trăng, đó là sự lãng quên đáng trách, đáng buồn là sự bội bạc.
+ Vầng trăng vốn là biểu tượng cho nhân dân, cho đất nước, cho đồng đội, cho quá
khứ đời lính bởi thế lãng quên vầng trăng, bội bạc với vầng trăng, chính là lãng quên, bội
bạc với quá khứ, với đồng đội, với nhân dân, với đất nước và khi đánh mất quá khứ, đánh
mất những điều thiêng liêng trên là người lính đã đánh mất chính mình.
- Nhà thơ Nguyễn Duy đã mượn hình ảnh vầng trăng để đề cập tới thái độ của con
người đối với quá khứ, với nhân dân và với đất nước, đó là vấn đề đạo đức nhức nhối của
thời hậu chiến ta cũng từng gặp nỗi trăn trở này trong ý thơ của Tố Hữu:
" Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ thôn làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng"
- Khổ thơ thứ 4 mở ra một tình huống rất hợp lý bởi nó có thể diễn ra trong cuộc
sống đời thường mất điện, đèn vụt tăt, phòng ốc hiện đại tối tăm, nhịp sống hiện đại
chững lại trong giây phút,

19
+ Ba chữ "vội bật tung" là những động từ mạnh, thể hiện sự vội vã, gấp gáp, bức
bách cho thấy anh lính cảm thấy bức bối, ngột ngạt, khao khát một luồng ánh sáng mới,
khao khát được giao hòa với thiên nhiên, phía bên ngoài cửa sổ.
+ Hai chữ "đột ngột" trong thư pháp nghệ thuật đảo ngữ đã nhấn mạnh sự xuất
hiện bất ngờ của vầng trăng, người lính càng tỏ ra ngạc nhiên, càng chứng tỏ anh ta đã
lãng quên vầng trăng điều đó vô cùng đáng trách chứng tỏ người lính bội bạc với quá khứ
trong khi đó vầng trăng vầng trăng vẫn "tròn" nghĩa là quá khứ vẫn vẹn nguyên mặc mọi
sự đổi thay.
3 - Khổ 5 và 6:
- Với ý thơ "ngửa mặt lên nhìn mặt" Nguyễn Duy đã trao cho vầng trăng một linh
hồn, một gương mặt để vầng trăng mang gương mặt con người trở thành yếu tố lay tỉnh,
đánh thức một thời kỷ niệm trong con người và quá khứ của đồng ruộng, bể và rừng.
Quá khứ lần lượt hiện ra thức dậy thuở ấu thơ hồn nhiên, trong sáng, thức dậy
những năm tháng chiến tranh gian khổ mà nghĩa tử khiến người lính nghẹn ngào "rưng
rưng" từ láy nàu biểu thị sự xúc động tha thiết khi kỷ niệm ùa về vỗ sóng vào lòng người
lính. Điệp khúc "như là" kết hợp với thanh bằng ở hai câu thơ cuối tạo nên âm hưởng thơ
rưng rưng, tha thiết rất phù hợp với tâm trạng hành động " ngửa mặt" thể hiện thái độ đối
diện để sám hối đi tự thú trước lương tâm, để tìm lại chính mình đó là phút giây đặc biệt
là tâm trạng nghẹn ngào, thiêng liêng.
- Khổ thơ cuối cùng kết hợp cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ
- Những dòng thơ thẫm đẫm triết lý sâu sắc
+ Cụm từ "Tròn vành vạnh" là tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối khẳng định sự tròn
đầy, thủy chung, bất biến, vĩnh hằng của vầng trăng của thiên nhiên đất nước, của nhân
dân quá khứ đối với con người.
+ Phó từ "cứ" chỉ sự tiếp diễn tương tự hàm ý khẳng định mạnh mẽ trước thế giờ
vẫn thế và sau này mãi như thế, thủy chung., bất biến vĩnh hằng.
+ Hình ảnh ánh trăng "im phăng phắc" chỉ sự im lặng tuyệt đối nghiêm khắc mà
bao dung độ lượng, tạo cơ hội để con người sửa mình
+ Cái giật mình của người lính ở cuối bài thơ là sự giật mình người lính khi phát
hiện vẻ đẹp bất biến, vĩnh hằng của quê hương, đất nước, nhận ra mình sai lầm để tự nhắc
bản thân không được lãng quên quá khứ bởi quan trọng là nhịp cầu đưa con người tới
tương lai, cái giật mình muộn màng đáng quý chắc chắn rằng sau cái giật mình ý nghĩa ấy
con người sẽ lớn khôn, sẽ có được những bài học có ích về cuộc sống
- Đại từ "trẻ" trong câu thơ kết của bài thơ là lời tâm tình, nhắc không chỉ của một
người hay một thế hệ đã bước qua thời chiến tranh, mà là lời nhắc nhở cho mọi người về
lối sống chung thủy, ân tình, quá khứ về nhân dân, về quê hương, đất nước, bài thơ vì thế
có sức khái quá lớn hơn, trạm đến tính truyền thống quý báu, thiêng liêng, dân tộc đó là
truyền thống.
=========================================================
LẶNG LẼ SA PA

I. Tác giả
20
- Nguyễn Thành Long sinh năm 1925, mất năm 1991 quê ở Quảng Nam. Nhà văn
Nguyễn Thành Long sớm tham gia cách mạng, sống và chiến đấu cùng nhân dân miền
Bắc.
- Nguyễn Thành Long bắt đầu sáng tác từ cuối kháng chiến chống Pháp là cây bút
chuyên viết về truyện ngắn và thể loại ký
- Tác phẩm của Nguyễn Thành Long thường hướng về cuộc sống lao động của
người dân lao động bình thường.
- Nguyễn Thành Long không phải là tác giả lớn của nền văn học VN hiện đại
nhưng thực sự là một nhà văn tài năng giầu tâm huyết với đời với nghề.
- Những trang viết của Nguyễn Thành Long thường nhẹ nhàng tinh tế, giầu chất
thơ song cũng thấm đẫm chất triết lí với con người và cuộc đời.
- Tác phẩm của Nguyễn Thành Long gồm có " Chuyện nhà chuyện xưởng", "Giữa
trong xanh".
II. Tác phẩm
* Xuất xứ: Trong tập truyện Giữa trong xanh.
* Thể loại: Truyện ngắn kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình
* Đề tài: Viết về con người mới, cuộc sống mới trong những năm tháng xây dựng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước.
- Truyện ngắn xoay quanh tình huống gặp gỡ, tình cờ, giữa họa sĩ, cô kĩ sư và anh
thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý, địa cầu cuộc gặp gỡ diễn ra trong một
không gian đầy chất thơ của trời đất Sa Pa.
III. Phân tích
1. Nhân vật anh thanh niên
a) Hoàn cảnh sống và công việc
- Anh thanh niên sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt
tháng sống một mình lặng lẽ, giữa mênh mông cỏ cây, mây núi Sa Pa, anh là người cô
độc nhất thế gian.
- Công việc của anh thanh niên hằng ngày vào những giờ cố định đo lượng gió,
lượng mưa, theo dõi những biến chuyển của thời tiết để góp phần vào việc dự báo thời
tiết, phục vụ cuộc sống chiến đấu, sinh hoạt của nhân dân. Đó là công việc đòi hỏi tính
cẩn thận, sự chính xác, tinh thần trách nhiệm cao bởi vì ngày nào cũng lặp lại từng ấy
thao tác vào ở giờ cố định 1 giờ , 4 giờ, 11 giờ và 19 giờ, không được chậm trễ, không
được sai lệnh, không được bỏ phiên.
- Công việc đòi hỏi anh thanh niên phải chịu chiến thắng chính mình, chiến thắng
sự cô độc, hoàn cảnh sống và công việc của anh lặng thầm, không có gì đáng nghiên cứu
nhưng đã góp một phần lớn lao vào việc lao động chiến đấu xây dựng đất nước, đó là
công việc bình thường nhưng vô cùng ý nghĩa.
b) Những nét đẹp, phẩm chất
- Anh thanh niên là con người cởi mở, chân thành biết quý trọng tình cảm của mọi
người và biết quan tâm đến mọi người.
+ Anh thanh niên chân thành tiếp đón những người khách dù chỉ gặp trong khoảnh
khắc hoặc chỉ gặp một lần trong đời
21
+ Anh thanh niên sẵn sàng giãi bày lòng mình một cách thành thực, trân trọng,
lắng nghe lời tâm sự của người khác, anh nhanh chóng xóa nhòa hoàn cảnh giữa anh chủ
và khách khiến họ trở thành những người bạn đồng điệu về tâm hồn.
+ Anh thanh niên hiểu rõ hoàn cảnh của bác lái xe, trân thành biếu tam thất để vợ
bác bồi bổ sức khỏe sau trận ốm.
- Anh thanh niên biết tổ chức sắp xếp cuộc sống ngăn nắp khoa học, thú vị.
+ Ở một mình nhưng ngôi nhà của anh thanh niên rất ngăn nắp, sạch sẽ.
+ Anh thanh niên tự lập cho mình một thời gian biểu hợp lý ý nghĩa, anh biết tự
làm giầu đời sống vật chất và tinh thần của mình bằng cách nuôi gà, trồng hoa, đọc sách,
anh mừng rỡ cầm cuốn sách từ tay bác lái xe. Anh trân trọng cuốn sách như người bạn,
xem đó là món ăn tinh thần không thể thiếu, làm tâm hồn anh giầu có, phong phú hơn.
+ Anh biết thu xếp để cuộc sống trở lên thú vị dù cuộc sống, hoàn cảnh của anh rất
dễ cô đơn và buồn chán.
- Anh thanh niên có ý thức trách nhiệm, có tình yêu đối với công việc, có nhận
thức đúng đắn về công việc đo khí tượng dự báo thời tiết rất cần sự tỉ mỉ, cẩn thận, chính
xác lại phải đối diện với nỗi cô đơn, với sự khắc nhiệt của hoàn cảnh sống nhưng anh
thanh niên không thấy nhàm chán anh tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự trong công việc
để chiến thắng nỗi cô đơn.
+ Anh thanh niên nhận thức: Khi ta làm việc ta với công việc là một đôi, nghĩa là
con người và công việc không thể tách rời, phải luôn song hành, có như vậy cs của con
người mới có ý nghĩa, con người mới khẳng định được giá trị của bản than, công việc
đem lại niềm vui và niềm hạnh phúc cho con người.
+ Anh thanh niên nhận thức công việc của mình có ích cho mọi người, cho đất
nước, anh yêu công việc và luôn làm chủ trong công việc.
- Anh thanh niên luôn trăn trở, suy nghĩ về lẽ sống và có lí tưởng sống cao đẹp.
+ Anh thanh niên luôn tự hỏi mình sinh ra làm gì? ở đâu? Vì ai mà làm việc?
những câu hỏi ấy giúp anh xác định mục đích sống là cống hiến cho mọi người, cho đất
nước.
+ Khi anh thanh niên thốt lên: “Cháu sống thật hạnh phúc” bởi anh đã đóng góp
cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Đó là niềm hạnh phúc bình dị mà cao đẹp, chỉ
có ở những người có lí tưởng sống cao cả - mình vì mọi người.
- Anh thanh niên là người khiêm tốn và trung thực: Khi ông họa sĩ quyết định kí
họa chân dung anh thanh niên, anh đã từ chối và khiêm tốn cho rằng những người khác
đáng vẽ hơn, xứng đáng hơn mình. Anh nghĩ rằng đóng góp của mình còn bình thường
nhỏ bé, đơn cử như với ông bố của mình, anh vẫn thua vì chưa trực tiếp ra chiến trường
đánh giặc.
- Với những nét đẹp, những phẩm chất đáng quý, anh thanh niên hiện lên vừa bình
dị gần gũi, vừa lớn lao cao cả.
- Tác giả đã dùng giọng kể chân tình, gần gũi với những chi tiết tả thực để nhân
vật hiện lên sinh động, chân thực mà vẫn ấn tượng.
- Tác giả không đặt tên riêng cho nhân vật có tính biểu tượng lớn lao, đại diện tất
cả những con người đang âm thầm cống hiến cho tổ quốc, ta có thể gặp đâu đó trong
22
cuộc sống đời thường, nhân vật vì thế khơi dậy trong ta ý thức cống hiến cho nhân dân,
cho tổ quốc.
2. Các nhân vật khác trong tác phẩm
a. Nhân vật bác lái xe
- Bác lái xe là cây cầu nối giữa mọi người với anh thanh niên, là người định hướng
trọng tâm về những nét đẹp của nhân vật anh thanh niên; góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của
nhân vật chính và tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Bác lái xe là người giới thiệu về anh thanh niên, con người cô độc nhất thế gian
và nỗi thèm người khiến cho mọi người tò mò, háo hức mong muốn được tiếp xúc với
nhân vật chính.
- Bác lái xe là người biết quan tâm đến người khác thể hiện ở việc bác mua sách
anh thanh niên, bác quan tâm đến những suy tư, trăn trở và rất trân trọng anh thanh niên.
- Bác lái xe là người lao động bình thường với một công việc đời thường - lái xe
nhưng vô cùng cần thiết với công việc của mình, bác đưa mọi người đến mọi miền đất
của tổ quốc; bác giới thiệu mọi người phát hiện để rồi trân trọng vẻ đẹp của con người,
của quê hương, đất nước.
- Trong tác phẩm những dòng văn dành cho nhân vật bác lái xe không nhiều, bác
không có tên riêng như dụng ý tái hiện những con người bình thường trong cuộc sống đời
thường mà ta có thể gặp đâu đó.
- Bác lái xe là con người đáng quý ở công việc bình dị đóng góp cho cuộc đời ở lẽ
sống và lối sống giản dị, cao đẹp cũng chính là hiện thân của con người VN trong những
năm tháng xây dựng xã hội chủ nghĩa.
b. Ông họa sĩ:
- Ông họa sĩ đóng vai trò người kể chuyện trong tác phẩm, góp phần làm nổi bật
vẻ đẹp của nhân vật chính, góp phần tô đậm tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Ông họa sĩ đã từng trải qua một quá tình lao động nghệ thuật nghiêm túc, thậm
chí khổ hạnh vậy mà đến lúc về hưu, ông vẫn quyết định từ chối một buổi liên hoan dành
cho mình để tham gia một chuyến đi thực tế lấy tư liệu sáng tác.
- Ông họa sĩ có vẻ ngoài trầm lắng, điềm tĩnh của con người từng trải nhưng vô
cùng ngạc nhiên trước vẻ đẹp, tâm hồn, lối sống và cuộc sống của anh thanh niên, của Sa
Pa thơ mộng. Sự xúc động khiến ông họa sĩ ngạc nhiên bối rối, thấy trái tim mình như trẻ
lại, thấy khát khao sáng tác.
- Ông họa sĩ là người say mê cái đẹp:
+ Ông say đắm cái đẹp của thiên nhiên Sa Pa, phát hiện và thể hiện vẻ đẹp của Sa
Pa lộng lẫy, thơ mộng đó là những rặng đào tươi thắm, những đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ
trong thung lũng, mây bị gió xua cuộn trong lại thành cục lớn lăn cả vào trong lốp xe,
gầm xe, nắng mạ bạc những con đèo lèn tới, đốt cháy rừng cây và những cây thông rung
tít những ngón tay bằng bạc.
+ Ông họa sĩ say mê vẻ đẹp của con người, ông nhạc nhiên đến bối rối và cảm
động khi phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn, trong lối sống của anh thanh nhiên và ông
quyết định đưa hình mẫu đẹp đẽ về người lao động bình thường ấy vào trong sáng tác của
mình.
23
- Ông họa sĩ có những suy nghĩ nghiêm túc sâu sắc về nghệ thuật:
+ Ông họa sĩ thấy rõ một quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống, ông hiểu rõ người
nghệ sĩ phải dấn thân vào cuộc đời, phải rung cảm, mãnh liệt mới có thể có tác phẩm
nghệ thuật chân chính; lao động nghệ thuật đòi hỏi sự nghiêm túc, nỗ lực tìm tòi và sáng
tạo không ngừng.
- Ông họa sĩ vô danh chính là hình ảnh đại diện cho một lớp trí thức mới đang khát
khao sáng tạo đem tài năng phục vụ cho đất nước.
- Nhân vật ông họa sĩ có tâm tư khát vọng, có tình cảm của tác giả Nguyễn Thành
Long đối với lao động nghệ thuật, đối với cuộc sống mới và con người mới Việt Nam
trong những năm tháng xây dựng xã hội chủ nghĩa.
c. Cô kĩ sư:
- Cô kỹ sư tình cờ gặp gỡ những con người mà trước đây cô chưa từng biết tới cho
một chuyến đi đáng nhớ của đời mình.
- Tiếp xúc với anh thanh niên, lắng nghe những gì anh kể, cô gái chưa từng trải
trong cuộc đời này còn biết rằng có những cuộc đời ngoài trang sách, có những điều mà
trong cuộc sống yên bình cô đã trải qua không có được, có những hoàn cảnh sống khó
khăn, khắc nghiệt và có những con người dũng cảm tuyệt đẹp.
- Cô kỹ sư đã vững tin là đã nhận thức đúng và yên tâm về quyết định của mình
trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Khi trò chuyện với anh thanh niên cô đã thấy có một
thứ ánh sáng cao cả, lấp lánh, đẹp đẽ tỏa ra và cô đón nhận.
- Trào dâng trong cô là tình cảm hàm ơn không chỉ vì bó hoa thực mà anh thanh
niên đã tặng cô mà còn là sự biết ơn của cô đối với một bó hoa vô hình, bó hoa của
những háo hức, mộng mơ mà anh thanh niên đã trao tặng cho cô cái lí tưởng và tình yêu
cuộc sống, cái giá trị đích thực của cuộc đời con người.
- Nhân vật cô kỹ sư cũng không có tên riêng với dụng ý tái hiện biết bao con
người vô danh, bình dị trong cuộc đời này đang âm thầm tô điểm dựng xây đất nước.
- Cô là nét đẹp của đời sống con người góp phần tô đậm vẻ đẹp của nhân vật chính
đồng thời cũng khiến cho tác phẩm thêm thi vị, lãng mạn.
=========================================. = = =
với vóc dáng gọn gàng, nhanh nhẹn, thái độ cởi mở, chân tình đã để lại ấn tượng đẹp cho
mọi người.
Hơn thế, họ còn ngỡ ngàng trước vườn hoa đủ màu sắc, căn phòng gọn gàng, ngăn
nắp toàn sách và việc chăn nuôi để cải thiện bữa ăn của anh thanh niên.
Anh thanh niên có quan điểm về công việc, về cuộc sống vô cùng đáng quý, anh
cho rằng khi làm việc, con người không thể cô đơn, anh luôn tự hỏi mình sinh ra là gì? Ở
đâu? Vì ai mà làm việc.
Ông họa sĩ vô cùng xúc động và quyết định ký họa chân dung chàng thanh niên
nhưng anh từ chối vì cho rằng còn nhiều người khác đáng vẽ hơn anh.
.... anh thanh niên, cô kỹ sư tin tưởng hơn vào con đường mình đã lựa chọn, cuộc
gặp gỡ, những lúc chia tay. Mỗi người giữ lại một ấn tượng đẹp đẽ và thấy cuộc sống này
đáng yêu, đáng quý hơn rất nhiều.

24
=============================================================

TÁC PHẨM VĂN HỌC


CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

I. Giới thiệu tác giả tác phẩm


Đề 1: Viết 1 văn bản ngắn giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Dữ và truyện người
con gái Nam Xương.
1. Mở bài:
Thế kỉ XVI với tình hình lịch sử rối ren và những cuộc nội chiến diễn ra liên miên
được phản ánh khá chân thực và sâu sắc qua nhiều tác phẩn văn học trung đại. Trong đó
phải kể đến chuyện Người con gái Nam Xương của tác giả lớn Nguyễn Dữ.
2. Thân bài:
- Giới thiệu tác giả:
+ Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ 16 dưới thời Lê Mạc, quê ở Thanh Miện, Hải Dương.
Ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông từng đỗ cử nhân, làm quan một năm rồi
cáo quan về ở ẩn ở miền núi Thanh Hóa. Ông sống gần gữi với những người dân quê.
+ Nguyễn Dữ là cây bút lớn của nền văn hoc trung đại với vốn kiến thức sâu rộng,
tài văn chương thiên bẩm, tấm lòng nhân đạo cao cả hướng về những con người bình
thường.
- Giới thiệu truyện người con gái Nam Xương:
+ Nguồn gốc, xuất xứ đề tài: Là chuyện thứ 16 trong 20 chuyện của Truyền kì
mạn lục - ghi chép những chuyện li kì trong dân gian - “Thiên cổ kì bút”, niềm tự hào của
văn học Việt thời trung đại.
+ Dựa vào truyện cổ dân gian vợ chàng Trương kết hợp với sự sáng tạo thêm các
chi tiết hoang đường kì ảo của Nguyễn Dữ.
+ Truyện kể về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến - nàng Vũ Nương
hiếu hạnh, chung thủy nhưng bị chồng nghi oan, nàng lấy cái chết để bảo toàn danh dự.
Dù sau này được giải oan, nàng vẫn không thể trở về chốn dương gian để sống cuộc đời
hạnh phúc.
- Giá trị nội dung:
+ Tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc khi nó phơi bầy thực trạng xã hội
phong kiến bất công với chiến tranh phi nghĩa gây loạn ly và lễ giáo phong kiến hà khắc
gây bao bi kịch cho con người đặc biệt là người phụ nữ.
+ Nàng Vũ Nương phải vất vả nuôi con phụng dưỡng cha mẹ chồng khi chồng đi
chinh chiến nơi xa. Vậy mà lại được “trả ơn” vì sự cả ghen của chồng - chàng Trương
Sinh để rồi dẫu có được giải oan cũng không trở về chốn dương gian để sống cuộc đời
hạnh phúc.
+ Bên cạnh đó tác phẩm còn thấm đẫm tinh thần nhân đạo:
+ Trong tác phẩm Nguyễn Dữ đã bày tỏ thái độ đồng cảm với số phận đắng cay,
bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời trân trọng, ngợi ca họ.
25
+ Tác giả đứng về phía quyền sống của người phụ nữ, tố cáo xã hội phong kiến
với tư tưởng trọng nam khinh nữ, độc đoán đẩy con người vào chỗ chết.
+ Tác phẩm như một lời nhắc nhở nhẹ nhàng hãy biết giữ gìn tình yêu, vun đắp
hạnh phúc gia đình bằng sự cảm thông, tôn trọng, bình đẳng, hiểu biết và tin tưởng.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Cách kể chuyện đầy kịch tính, kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố tự sự và biểu cảm
trong một bố cục chặt chẽ, nghệ thuật dựng chuyện khéo léo.
+ Yếu tố hoang đường, kì ảo được sử dụng hợp lí làm tăng tính truyền kì cho câu
chuyện.
+ Chi tiết thắt nút - mở nút đầy bất ngờ kịch tính: Chỉ bằng cái bóng vu vơ, bằng
lời nói con trẻ.
3. Kết bài: Với tất cả những đóng góp trên “Chuyện người con gái Nam Xương” xứng
đáng là bút lạ của muôn đời. Giá trị của tác phầm đã khẳng định vị trí xuất sắc của
Nguyễn Dữ trong nền văn học trung đại Việt Nam.
=====================
Đề 2: Viết một đoạn văn ngắn trình bày những giá trị nổi bật của chuyện Người con
gái Nam Xương.
1. Mở đoạn:
Thế kỉ XVI với tình hình lịch sử rối ren và những cuộc nội chiến diễn ra liên miên
được phản ánh khá chân thực và sâu sắc qua nhiều tác phẩn văn học trung đại. Trong đó
phải kể đến chuyện Người con gái Nam Xương của tác giả lớn Nguyễn Dữ.
2. Thân đoạn:
Giới thiệu truyện người con gái Nam Xương:
+ Nguồn gốc, xuất xứ đề tài: Là chuyện thứ 16 trong 20 chuyện của Truyền kì
mạn lục - ghi chép những chuyện li kì trong dân gian - “Thiên cổ kì bút”, niềm tự hào của
văn học Việt thời trung đại.
+ Dựa vào truyện cổ dân gian vợ chàng Trương kết hợp với sự sáng tạo thêm các
chi tiết hoang đường kì ảo của Nguyễn Dữ.
+ Truyện kể về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến - nàng Vũ Nương
hiếu hạnh, chung thủy nhưng bị chồng nghi oan, nàng lấy cái chết để bảo toàn danh dự.
Dù sau này được giải oan, nàng vẫn không thể trở về chốn dương gian để sống cuộc đời
hạnh phúc.
3. Kết đoạn:
Người con gái Nam Xương là một tác phẩm hay, mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Nó hàm chứa một lời khuyên chân tình của người xưa: Tình cảm vợ chồng phải được xây
dựng trên nền tảng của lòng tin cậy, tồn trọng và thương yêu chân thành đối với nhau.
Đừng để những thói xấu như nghỉ ngờ, ghen tuông làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ra
bi kịch không cách nào cứu vãn được.
=======================================
b. Tình cảm của ông Sáu với bé Thu khi ông ở chiến khu

26
Ở chiến khu ông Sáu chiến đấu rất dũng cảm, những ngày tháng ngoài chiến
trường ông Sáu không nguôi nỗi nhớ con, nỗi nhớ trào lên niềm hạnh phúc khi được
hưởng tình cha con, nỗi nhớ trào lên, niềm ân hận vì đã đánh con.
Bên cạnh công tác kháng chiến, ông Sáu vẫn canh cánh bên lòng nguyện ước đơn
sơ của con gái "Ba về nhớ mua cho con cây lược ngà". Ông Sáu quyết tâm làm bằng
được cây lược để dành tặng con gái, công việc ấy với ông Sáu lúc này là bổn phận của
người cha, là thể hiện của tình phụ tử và ông đã làm cây lược với tất cả sự cố gắng của
tình phụ tử.
Kiếm được mảnh ngà ông Sáu vui sướng như đứa trẻ được quà, ông đã ngồi tỉ mỉ
dùng mảnh đạn làm thành chiếc cưa nhỏ đưa vào từng chiếc răng lược, mỗi khi rảnh rỗi,
Người kể chuyện là một người trong cuộc, người bạn chiến đấu của ông Sáu đó là
ông Ba ghi lại cái ấn tượng về quá trình ông Sáu làm chiếc lược ngà cho con gái. Ông tỉ
mỉ như một người thợ bạc khi cưa từng chiếc răng lược. Ông nắn lót khắc từng nét chữ
lên cây lược, khi nó đã hoàn thành dòng chữ "Yêu nhớ tặng Thu con của ba".
Những ngày tháng sống ở chiến khu, sau đó mỗi khi rảnh rỗi ông lại lấy chiếc lược
ngà ra ngắm rồi mài lên mái tóc mình cho bóng. Người cha ấy đã chẳng khác nào một
nghệ nhân tạo ra tác phẩm nghệ thuật giá trị nhất trong cuộc đời của mình.
Chiếc lược ngà không chỉ là sản phẩm lao động miệt mài, công phu của người thợ
bạc mà là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, giản dị, thiêng liêng của tình cảm con người.
Ông Sáu không kịp trao cây lược đến tay người con gái, bởi trong một trận càn
địch ông đã chiến đấu rất dũng cảm và trúng đạn. Giữa cái chết cận kề, người cha không
chút băn khoăn về tính mạng của mình, ông chỉ canh cánh bên lòng lời hứa và tình cảm
với con gái thân yêu, Trong phút cuối cùng của cuộc đời mình ông vẫn dành chọn tình
cảm cho con. Ông Sáu thu hết sức lực còn lại để rút cây lược trao lại cho ông Ba với cái
nhìn tha thiết, gửi trao, tin cậy, thay cho lời nói, lời chăng chối, ủy thác mong ông Ba
thực hiện nốt tình cha còn dang dở, có lẽ vì thế mà mặc dù người cha đã mất đi song tình
cha thì còn mãi, tình phụ tử vẫn bất diệt bởi cảnh khốc liệt của chiến tranh.
===================================================
TÁC PHẨM
CHIẾC LƯỢC NGÀ
(Nguyễn Quang Sáng)

I. Giới thiệu chung:


1. Tác giả
- Nguyễn Quang Sáng (1932-2014) quê ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang; là nhà
văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
- Ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở chiến trường Nam Bộ sau đó tập kết ra
bắc và bắt đầu viết văn những năm chống Mĩ ông trở về Nam bộ tham gia kháng chiến
cho đến ngày giải phóng.
- Sau năm 1975, Nguyễn Quang Sáng chuyên tâm vào sáng tác văn học.
- Vừa là nhà văn, vừa là chiến sĩ nên ông có điều kiện tích lũy kiến thức, vốn sống
và đặc biệt thành công khi viết về cuộc sống, chiến đấu của nhân dân Nam bộ.
27
- Các tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như: “Chiếc lược ngà”, “cánh đồng
hoang”, “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”…
- Tp của Nguyễn Quang Sáng có cốt truyện chặt chẽ, tình huống truyện độc đáo,
ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ, đặc biệt nhà văn có khả năng khai thác diễn biến tâm lí
của nhân vật phù hợp và thuyết phục
2. Tác phẩm
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
+ Tác phẩm được sáng tác năm 1966 khi Nguyễn Quang Sáng vừa cầm súng, vừa
cầm bút hoạt động ở chiến trường Nam Bộ
+ Tác phẩm được đưa vào tập truyện cùng tên: “Chiếc lược ngà” (1966)
+ Tác phẩm được kể ở ngôi thứ nhất, gắn với nhân vật ông Ba, người kể chuyện,
nhờ đó câu chuyện diễn ra tự nhiên, khách quan mà vẫn có điều kiện xen lẫn những đoạn
bình luận, đánh giá.
- Đoạn trích:
+ Đoạn trích ở giữa truyện chứa đựng giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
+ Đoạn trích có thể chia làm 2 phần:
Phần 1: Từ đầu đến "tuột xuống": Kể chuyện ông Sáu về thăm nhà cha con nhận nhau
thì lại phải chia tay, ông Sáu vào chiến trường.
Phần 2: Còn lại: Kể chuyện ông Sáu ở chiến khu làm chiếc lược ngà để tặng con gái và
tự mình …
3. Phân tích
- Tình huống truyện: Tình huống truyện được sáng tác trong tác phẩm “Chiếc lược
ngà” là tình huống đặc sắc thể hiện được thông điệp thiêng liêng của tác giả Nguyễn
Quang Sáng về tình mẫu tử.
a. Tình huống ông Sáu về thăm nhà với khao khát gặp con nhưng bé Thu không chịu
nhận cha:
+ Đây là tình huống éo le nhưng rất dễ diễn ra trong bối cảnh chiến tranh
+ 8 năm đi bộ đội là 8 năm ông Sáu sống xa con, sống trong tâm trạng mong nhớ
nên ông rất nóng lòng chờ đợi giây phút được gặp con để sống trong tình cha con.
+ Tình cảm dạt dào của người cha, éo le thay lại khiến đứa con hoảng sợ, bỏ chạy
ngay trong phút đầu gặp gỡ và sau đó người cha phải đối diện với sự lạnh lung, lảng
tránh, đầy ương ngạnh của con gái mình.
+ Ông Sáu khao khát được nghe tiếng con gái gọi “ba” nhưng bé Thu lại đáp lại
bằng cách trả lời cộc lốc khiến ông vô cùng buồn tủi.
+ Ông Sáu dồn tất cả tình yêu con vào cử chỉ chăm sóc nhưng nó 1 mực từ chối,
thậm chí ương ngạnh, phản kháng lại sự chăm sóc của ông khiến ông không kiềm chế
được. Ông Sáu đã đánh con để rồi càng đau đớn, ân hận.
+ Tình huống này dễ hiểu đối với bé Thu trong hành động, thái độ ương ngạnh,
cương quyết không nhận ông Sáu là cha.
+ Ông Sáu đi bộ đội từ khi bé Thu còn quá nhỏ, khi lớn lên nó chỉ biết đến người
cha qua tấm ảnh chụp chung với má.
+ Tất cả tình yêu thương, mong nhớ nó dồn cho người cha trong bức ảnh ấy.
28
+ Ông Sáu đột nhiên trở về với sự thay đổi lớn về dáng vẻ bên ngoài không giống
với tấm ảnh, bởi vậy nó cương quyết không nhận ông Sáu là cha. Điểu đó phù hợp với
nhận thức của một đứa trẻ lên tám.
- Hành động ương ngạnh, cách nói chuyện cộc lốc của bé Thu với ông Sáu chính
là biểu hiện tuyệt vời của con dành cho cha, một tình cảm vẹn nguyên sâu sắc, không thể
san sẻ.
Tình huống truyện này đẩy lên cao độ khi đến phút chia tay ông Sáu mới nhận
được niềm hạnh phúc của người cha, cũng chính trong phút giây ngắn ngủi ấy lần đầu
tiên và cũng là lần duy nhất trong đời bé Thu được hưởng niềm hạnh phúc trong vòng tay
cha. Tình huống tô đậm niềm hạnh phúc ngắn ngủi và lớn lao.
Có sự chuyển biến đột ngột làm nên niềm hạnh phúc ngắn ngủi và lớn lao này là
tự đỉnh điểm rạn nứt của tình cha con khi bé Thu ương ngạnh hắt chiếc trứng cá ra khỏi
bát, nghĩa là quyết liệt từ chối tình cảm của ông Sáu; giận dỗi bỏ sang bà ngoại để rồi
được giải thích, tháo gỡ khúc mắc và hiểu rõ ông Sáu và người cha trong bức ảnh là một.
Bé Thu trở về nhà đúng vào giờ phút chia tay, nó đứng một góc nhìn cha để rồi khi
ông Sáu tiến lại nói lời từ biệt. Tình cảm dành cho cha dồn nến bấy lâu trong bé Thu vỡ
òa trong tiếng thét gọi "Ba", trong cử chỉ ôm lấy cổ ba mà hôn, mà khóc, mà không cho
ba đi, hành động ấy chứng tỏ tình cảm nó dành cho cha mãnh liệt, xen lẫn tình yêu
thương là nỗi đau đớn ân hận..
- Trước sự bộc lộ tình cảm bất ngờ của con, ông Sáu xúc động dữ dội không cầm
nổi nước mắt sung sướng và xót xa. Ông không ngờ trong giờ phút đã hết hy vọng được
hưởng tình cha con bấy lâu khao khát đến lúc chia tay lại được hưởng tình cảm ấy trọn
vẹn và lớn lao đến thế.
Tình huống truyện thứ nhất của tác phẩm khép lại trong lới dặn thiết tha của bé
Thu "Ba mua cho con cây lược nghe ba” và đó cũng là đầu mối mở ra tình huống truyện
thứ 2 của tác phẩm.
b. Tình huống ở chiến khu ông Sáu làm chiếc lược ngà để tặng con gái
Ở chiến khu ông Sáu sống trong nỗi niềm mong nhớ con, tâm trạng ông có sự đan
xen giữa niền hạnh phúc lớn lao của tình phụ tử, vừa có nỗi ân hận bởi nóng giận mà trót
đánh con, ông chiến đấu rất dũng cảm và trong lòng không nguôi mong nhớ con.
Ông Sáu luôn canh cánh trong lòng ước nguyện đơn sơ cua đứa con gái thân yêu
về chiếc lược ngà, ông đã quyết tâm sẽ tìm và làm một chiếc lược để dành tặng con gái.
Trong lúc này, đó không chỉ là việc giữ lời hứa với con, là bổn phận của người cha mà
còn là biểu hiện thiêng liêng của tình phụ tử.
- Khi kiếm được mảnh ngà, ông Sáu đã tỉ mỉ như một người thợ. Ông dùng vỏ đạn
đập mỏng làm thành cây cưa nhỏ, những lúc rảnh rỗi hiếm hoi sau những trận đánh ông
lại thận trọng, tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược.
- Chiếc lược không chỉ là sự khéo léo của đôi bàn tay người lính mà còn là tất cả
tấm lòng yêu thương con của người cha.
- Dòng chữ: “yêu nhớ tặng Thu con của ba” ghi dấu bao tình cảm sâu nặng mà ông
muốn gửi, muốn trao cho con gái.

29
- Hàng ngày mong nhớ con, ông Sáu thường mang lược ra ngắm nghía rồi mài lên
mái tóc mình cho bóng, cây lược ấy vì thế kết tinh tình cha mộc mạc, giản dị mà sâu sắc
thiêng liêng.
- Ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược đến tay con gái thì đã bị thương và hy sinh
trong một trận càn.
- Trong giây phút cuối cùng người cha vẫn chỉ khắc khoải một điều về việc tặng
lược cho con, ông dùng tất cả tàn lực để gửi gắm ông Ba, người bạn thân thiết cùng chiến
đấu - người đã chứng kiến éo le, khắc khoải, hạnh phúc của tình cha con giữa ông Sáu và
bé Thu để ông Sáu trao lại cho con kỉ vật của tình cha.
c. Ý nghĩa của tình huống truyện:
- Tình huống truyện éo le, hấp dẫn mà phù hợp đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của con
người trong những năm tháng chiến tranh, tô đậm tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng cảo
cả, nó giống như một nền nhạc sâu lắng làm nổi lên những âm hưởng của bài ca bất tử,
của tình phụ tử nói riếng, tình người nói chung trong những năm tháng chiến tranh khốc
liệt.
- Tình huống truyện cũng góp phần chủ đề, tư tưởng của tp, về sức sống bất diệt
của con người Vn dù chiến tranh có tàn bạo đến đâu cũng không hủy diệt được sức sống,
vẻ đẹp của con người, của tình người.
- Tình huống truyện góp phần vào việc tổ chức cốt truyện với một sức hấp dẫn
riêng, độc đáo.
=====================================================
1. Nhân vật ông Sáu
- Ông Sáu là nhân vật chính của tác phẩm
- Nhân vật xuất hiện trong tình huống éo le và trở thành biểu tượng đẹp để cho
tình cha thiêng liêng của con người trong chiến tranh.
a. Tình cảm của ông Sáu với bé Thu trong những ngày về thăm nhà
- Ông Sáu đi bộ đội từ khi bé Thu chưa đầy đủ, 8 năm sống xa con là 8 năm người
cha mong nhớ, khao khát được sống trong tình cha con, ông Sáu háo hức đón chờ giây
phút được gặp đứa con bé bỏng thân yêu và giây phút gặp gỡ hiếm hoi đã tới.
- Xuồng vừa cập bến thấy một đứa bé gái đang chơi trước sân nhà, linh tính của
người cha mách bảo là con gái bé bỏng của mình, ông Sáu vội vã nhảy lên bờ, hai tay giơ
tới trước, miệng lắp bắp: “Thu con, ba đây con”. Do quá xúc động vết sẹo trên trên má
ông Sáu đỏ ửng chạy rần rật, trong giây phút ấy ông Sáu chờ đợi bé Thu sẽ lao tới ôm lấy
ông mà cất tiếng gọi Ba tràn đầy yêu thương.
- Thế nhưng mọi điều không như mong đợi của ông Sáu, khi con bé thấy người lạ
đã hoảng sợ, bỏ chạy gọi má. Đau đớn, hẫng hụt vì điều đó, hai tay ông Sáu buông thõng
xuống, mỏi mệt, đau đớn và thất vọng. Những ngày sau đó, trước sự lạnh lung của bé
Thu, ông Sáu ra sức vồ vập, chiều chuộng, âu yếm nhưng ông càng cố xích lại gần con
gái thì…
====================================================
Tóm tắt truyện ngắn: "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng

30
"Chiếc lược ngà" là truyện ngắn xuất sắc về tình phụ tử trong chiến tranh được
Nguyễn Quang sáng viết năm 1966.
- Truyện kể về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu trong bối cảnh kháng
chiến chông Mỹ.
- Ông Sáu nhập ngũ khi bé Thu chưa đầy tuổi, trước khi tập kết ra Bắc, ông được
về thăm nhà với niềm khao khát cháy bỏng được gặp con gái yêu sau 8 năm xa cách.
- Khi xuồng chưa cập bến, nhìn thấy đứa trẻ 8 tuổi đang chơi trước sân, linh cảm
mách ông Sau đó là con gái của mình, ông vội nhảy lên bờ, hai tay giơ tới lắp bắp gọi
con. Bé Thu quay lại hoảng sợ khóc thét gọi má.
- Những ngày ngắn ngủi ông Sáu về thăm nhà, bé Thu đối xử lạnh lùng, gạt phắt
mọi sự quan tâm của ông. Ông Sáu đã mắng và lỡ đánh con khiến bé Thu giạn dỗi chèo
xuồng bỏ sang ngoại.
- Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu hiểu người đàn ông đang cố gần gũi nó
chính là người cha trong bức ảnh mà nó vô cùng yêu quý, mà mong mỏi được gặp gỡ. Nó
trằn trọc không ngủ, thỉnh thoảng thở dài ân hận.
- Bé Thu trở về rất sớm khi ông Sáu đang chuẩn bị lên đường. Chia tay, ông Sáu
ngập ngừng tạm biệt con. Bé Thu đã lao tới hôn và cất tiếng gọi ba, không cho ba đi. Rồi
nó dặn ông Sáu mua nó cây lược.
- Vào chiến khu, ông Sáu rất mong nhớ con. Ông dồn tất cả tình yêu thương, mong
nhớ vào việc làm chiếc lược ngà để mỗi lúc nhìn ông lại mài lên tóc của mình cho nó
sáng bóng lên.
- Trong một trận càn, ông Sáu đã chiến đấu với giặc rất dũng cảm và bị trúng đạn,
trong phút giây hấp hối, ông đã trao chiếc lược ngà cho ông Ba - người bạn cùng chiến
đấu với ánh mắt chứa chan của tình cha mãnh liệt đối với con.
=================
Văn học: Khúc hát ru của những em bé lăn trên lưng mẹ

I. Giới thiệu chung


1) Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở thôn Ưu Điềm, Thừa Thiên
- Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình tristhwcs cách mạng có truyền
thống văn học nghệ thuật.
- Sau khi tốt nghiệp Đại học SP, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương, tham gia
chiến đấu và sáng tác văn chương cùng thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Sau đó ông giữ nhiều trọng trách lớn trong Đảng và lĩnh vực
văn học nghệ thuật. Ông từng là Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính
trị và Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa trung ương.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén thể hiện tâm tư của
người trí thức tham gia kháng chiến với giọng thơ trữ tình, chính luận. Ông dặc biệt có
đóng góp khi xây dựng hình tượng đất nước của nhân dân với cảm hứng tự hào, ngợi ca.
- Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm có thể kể đến tập thơ "Đất
ngoại ô", "Trường ca", "Mặt đường khát vọng"...
31
2) Tác phẩm
- Bài thơ được sáng tác năm 1971 khi Nguyễn Khoa Điềm đang công tác tại chiến
khu miền Tây Thừa Thiên. Đây là thời điểm chiến tranh ác liệt, cuộc sống của cán bộ,
của nhân dân nơi chiến khu đối diện với bao gian nan, thiếu thốn, họ vừa phải bám đất,
bám rẫy, vừa phải sẵn sàng chiến đấu. Chính vì thế hình ảnh người mẹ Tà - ôi, người mẹ
cách mạng vừa địu con vừa giã gạo, trỉa bắp đã gợi nguồn cảm xúc cho tác giả sáng tác
bài thơ.
- Tác phẩm có sự hòa điệu, cộng hưởng của hai lời, dó là lời ru của người mẹ Tà -
ôi và của tác giả dành cho A kay nhưng lại vươn tới tình cảm lớn lao đối với kháng chiến,
với nhân dân và với tương lai của đất nước.
- Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do với cách ngắt nhịp đều đặn, gợi âm hưởng
thiết tha trìu mến với lời hát ru con, vì thế tư tưởng của tác phẩm dễ dàng đến với người
đọc bằng con đường cảm xúc.
II. Phân tích tác phẩm
1) Đoạn 1
Đoạn thơ mở ra bằng hình ảnh người mẹ trong lời ru của tác giả, người mẹ đang
tham gia công việc kháng chiến bằng một việc làm bình dị, thường nhật mà đáng quý.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
- Như vậy, ngay từ những dòng đầu tiên ta nhận ra đây không chỉ là những vần thơ
đẹp về tình mẫu tử mà còn là những lời ngợi ca, nghĩa tình kháng chiến và vẻ đẹp của
con người thời đại cách mạng.
- Hình ảnh người mẹ gắn với công việc giã gạo vất vả được tác giả tái hiện cụ thể,
sinh động và gợi cảm.
+ Câu thơ: "Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng" với việc lặp lại từ "nghiêng"
mang lại ý nghĩ tạo hình về cái dang nghiêng ngiêng của người mẹ trong tư thế vung
chày giã gạo, về cái dáng nằm trong tư thế nghiêng nghiêng áp vào lưng mẹ say ngủ của
em Cu Tai, một cảnh tượng đời thường mà đẹp tuyệt vời; về tình mẫu tử thiên liêng cao
quý của con người.
+ Nỗi vất vả của người mẹ được tác giả tái hiện qua hình ảnh đôi vai gầy và những
giọt mồ hôi rơi theo nhịp chày nghiêng, tảo tần, chịu thương, chịu khó.
+ Công việc vất vả, bận rộn nhưng vai mẹ vẫn không quên chăm chút đến giấc ngủ
con thơ. Vai mẹ nhấp nhô theo nhịp chày giã gạo làm gối con nằm, lưng mẹ rung theo
nhịp chày như cần mẫn đưa nôi. Trái tim mẹ cất lời ru, mẹ say sưa làm việc nhưng có
cảm giác tất cả công việc đó là để phục vụ cho giấc ngủ của A kay.
+ Hai chữ "nhấp nhô" đặc tả đôi vai gầy guộc của mẹ bởi thiếu thốn, gian khổ của
đời sống kháng chiến, cũng là hình dáng của sự hy sinh chịu thương, chịu khó chát chiu
no ấm cho con.
+ Cụm từ "tim hát thành lời" giản dị mà có sức gợi cảm thật lớn lao vì nó diễn tả
một tình cảm nồng nàn, tha thiết, một tình thương con vô bờ bến của mẹ.
- Ở đoạn thơ thứ nhất sau nhưng lời tái hiện của tác giả là lời ru cất lên từ trái tim
người mẹ Tà Ôi, lời ru ấm áp nghĩa tình chứa đựng bao tình cảm mến thương, bao khát
vọng.
32
+ Câu thơ "Ngủ ngoan A kay ơi, ngủ ngoan A kay hỡi" mở ra nhịp điệu vĩnh hằng
của những lời hát ru từ thuở ca dao như dỗ dành con, ấp ủ con, bao bọc con trong tình
cảm vô bờ của mẹ. Nó cũng mở ra lời tâm sự của mẹ.
Điệp ngữ "Mẹ thương" ngắt câu thơ làm hai vế đều đặn "Mẹ thương A kay, mẹ
thương bộ đội". Ý thơ là sự kết hợp tuyệt vời giữa tình cảm riêng tư với con, với tình cảm
chung lớn lao với cách mạng. Câu thơ giản dị mà gói ghém tình mẫu tử thiêng liêng cùng
tình nghĩa cách mạng của con người kháng chiến.
+ Bốn chữ "Con mơ cho mẹ" chứa đựng khát khao của người mẹ gửi gắm vào đứa
con. Đó không chỉ là ước mơ giành cho con mà còn là ước mơ cho cách mạng. Tác giả
không nói chuyện trực tiếp là mẹ mơ mà dùng lối nói chuyện gián tiếp "con mơ cho mẹ".
Cách nói chuyện ấy không chỉ tạo nên giọng điệu thiết tha cho lời ru mà còn thể hiện
niềm tin tưởng của mẹ vào con "tương lai của đời mẹ" trên hết cách nói chuyện ấy thể
hiện tình yêu thắm thiết, nồng nàn của mẹ.
+ Hình ảnh hạt gạo trắng ngần trong ước mong của mẹ là khát vọng to lớn dành
cho con, dành cho đất nước mà con có thể mang lại.
 Đoạn thơ đã thể hiện hình ảnh người mẹ kháng chiến, thể hiện hài chân thực
tình yêu con, tình yêu đất nước của người mẹ Tà Ôi. Cùng một lúc, tình mẫu tử, tình cảm
kháng chiến được bộc lộ sâu đậm và đó là ý nghĩa riêng, là khúc hát riêng mà Nguyễn
Khoa Điềm gửi tới người đọc.
2) Đoạn 2
- Đoạn thơ đã mở ra bằng lời ru của tác giả, mở ra một không gian lớn mênh mông
trong chất giọng ngọt ngào, vỗ về, tha thiết gợi nên hình ảnh người mẹ đang đốt rẫy làm
nương, mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka Lưi.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã dùng nghệ thuật đối sánh trong ý thơ:
"Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ"
Để làm nổi bật vóc dáng nhỏ nhắn và sự vất vả của mẹ, hình ảnh núi Ka lưi gợi
không gian mênh mông, hun hút, gợi bao gian khó mẹ phải trải qua. Tấm lưng mẹ nhỏ
nhoi nhưng bền bỉ, kiêu hãnh, diệu kỳ từ tấm lưng ấy bao đứa con dũng sĩ đã lớn lên.
+ ý thơ "Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi/ Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng"
gợi nên sự liên tưởng thú vị ở đó. Từ "mặt trời" thứ nhất đọc đúng theo nghĩa gốc, mặt
trời của bắp cũng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên, mang ánh sáng và sự sống cho
muôn loài và cho cuộc đời. Còn từ "mặt trời" thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ về em Cu
Tai, nguồn sống, nguồn sức mạnh, ánh sáng giúp cho người mẹ Tà Ôi có nghị lực vượt
qua mọi gian khó (so sánh với hai câu thơ ở bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương):
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Mặt trời ấy là bác Hồ. Hình ảnh thơ vì thế to lớn và thiêng liêng so với hình ảnh
này thì hình ảnh mặt trời của mẹ em Cu Tai gần gũi hơn, mặt trời ấy cùng mẹ sống và
làm việc. Ý thơ vì thế không chỉ là sự sáng tạo độc đáo mà còn là những vần thơ xúc
động về tình mẫu tử thiêng liêng.
- Lời ru của người mẹ được cất lên với âm điệu êm ái quen thuộc, chứa đựng bao
yêu thương, bao ước mơ cháy bỏng "Ngủ ngoan A kay ơi, ngủ ngoan A kay hỡi".
33
+ Lời ru tiếp nối "Mẹ thương A kay! Mẹ thương làng đói" vừa khẳng định tình mẹ
yêu con, vừa khẳng định tình mẹ thương làng đói. Tình cảm riêng của mẹ thương con đã
hòa chung với tình mẹ thương người làng.
+ Ước mơ của mẹ cũng vô cùng giản dị "Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều", đó là
ước mơ được mùa, ước mơ để dân không còn đói khổ, để con của mẹ được hưởng ấm no.
Mẹ cũng ước ao khi con lớn lên có được sức khỏe của dũng sĩ phát mười ka lưi, làm ra
thật nhiều lúa gạo để cứu đói cho dân làng, để giữ cuộc đời no ấm.
 Đoạn thơ vẫn là hình ảnh người mẹ vừa lao động góp sức mình cho kháng
chiến, vừa chi chút tình yêu cho con. Tình thương của mẹ dành cho con là vô cùng, vô
tận, tình yêu của mẹ dành cho kháng chiến cũng vô cùng lớn lao bằng những hình ảnh cụ
thể, thiết thực.
3) Đoạn 3
- Đoạn thơ mở ra bằng lời ru của tác giả với hình ảnh người mẹ đi chuyển lán đạp
rừng, nghĩa là người mẹ trực tiếp tham gia kháng chiến, đối mặt với gian khổ, đối mặt với
hiểm nguy khi mà cuộc kháng chiến chông Mỹ đi vào giai đoạn khốc liệt nhất.
+ Người mẹ trực tiếp tham gia chiến trường là bởi thằng Mỹ đuổi ta phải xa rời
con suối, nghĩa là kẻ thù ngày càng tàn bạo và người dân sẵn sàng rời con suối, nghĩa là
sẵn sàng rời quê hương thên yêu để cầm súng ra trận.
+ Nhịp thơ nhanh, gấp diễn tả sự hối hả, khẩn trương của cuộc kháng chiến toàn
dân, cả buôn lang, cả dân tộc dồn sức vào trận cuối để dành độc lập, tự do.
+ Các động từ chuyển, đạp giành, diễn tả hành động mạnh mẽ là ý chí cách mạng
của người mẹ Tà Ôi, nếu như ở khúc hát ru thứ nhất và thứ hai, mẹ là hậu phương góp
sức mình cho tiền tuyến thì ở khúc hát ru này, mẹ đã trực tiếp đánh Mỹ.
+ Điều làm ta xúc động là khi tham gia cuộc kháng chiến sinh tử của dân tộc, mẹ
vẫn địu con trên lưng làm sáng lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam, không chịu khuất
phục, cúi đầu trước kẻ thù.
+ Lời ru thứ ba của người mẹ tiếp nối lời ru của tác giả, vẫn với nhịp điệu êm ả, ru
con nhưng tình cảm mở ra gắn với tình thương con là tình yêu đất nước.
+ 2 câu thơ cuối
Từ trên lưng mẹ, em tới chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Đã kết ý bằng lời ru của tác giả tới lời ru của người mẹ để khái quát con đường
đấu tranh tất yếu, con đường đến với cách mạng tất yếu của em cu Tai, của những người
con dân tộc. Đó là vươn từ đói khổ, đau thương đến nơi chiến trường ác liệt để viết nên
những trang sử hào hùng của đất nước.
+ Lời ru của người mẹ ở đoạn thơ này sâu lắng và tha thiết hơn, càng yêu thương
con bao nhiêu lại yêu đất nước bấy nhiêu, tình thương .....cùng tình yêu nước, tình cảm ấy
vô cùng có ý nghĩa khi cả đất nước trở thành chiến trường đánh Mỹ.
+ Điệp khúc "Con mơ cho mẹ" được lặp lại để diễn tả một khát vọng thiêng liêng
"được thấy Bác Hồ" nghĩa là được thấy độc lập, tự do, được làm người tự do, niềm mơ
ước ấy thât là cao cả bởi đó không chỉ là ước mơ cho con mà là ước mơ cho cả dân tộc, ý

34
thơ vì thế là biểu hiện cao nhất của tình yêu cao và tình yêu đất nước của người mẹ Việt
Nam anh hùng.
 Đoạn thơ là điểm hội tụ tỏa sáng để người mẹ Tà Ôi - người mẹ Việt Nam anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, người mẹ vô danh là biểu tượng về nhân dân, về
Tổ quốc trong những năm kháng chiến không thể nào quên.
III. Tổng kết
Bài thơ kết cấu bằng những khúc hát ru truyền thống ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha
của tình mẫu tử và ân tình cách mạng. Ca ngợi người mẹ Tà Ôi cũng chính là ca ngợi Tổ
quốc, tô đậm vẻ đẹp của con người thời đại Hồ Chí Minh.
==============================
KHỞI NGỮ

I. Khởi ngữ là gì?


- Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến
trong câu.
VD: a) Tiền / thì tôi / luôn có sẵn
KN CN VN
b) Tiền / là tài sản quý
CN VN
c) Hăng hái học tập, đó / là một thái độ tốt của học sinh
KN CN VN
II. Đặc điểm và công dụng của khởi ngữ trongg câu
VD 1:
a) Từ "anh" đứng trước chủ ngữ, nó không có quan hệ trực tiếp với vị ngữ theo kiểu quan
hệ ngữ pháp chủ ngữ - vị ngữ, đó là khởi ngữ.
b) Từ "giàu" đứng trước chủ ngữ "tôi" nó báo trước một thông tin có ở vị ngữ với mục
đích nhấn mạnh.
c) Cụm từ "các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ" đứng trước chủ ngữ "chúng ta", nó
thông báo một nội dung sẽ được nhắc đến trong vị ngữ của câu.
1. Đặc điểm
- Khởi ngữ luôn đứng trước chủ ngữ
- Trước khởi ngữ có thể thêm các quan hệ từ "về", "đối với", "với"...
- Khởi ngữ có thể thay bằng các đại từ
- Khởi ngữ có thể được lặp lại trong nòng cốt câu.
2. Công dụng của kha[ỉ ngữ
- Nhằm nhấn mạnh, gây sự chú ý với người đọc
- Thông báo một nội dung, thông tin sẽ được nói chuyện đến trong câu
- Giúp các câu trong đoạn liên kết với nhau một cách chặt chẽ
III. Luyện tập
Bài 1: Gạch chân dưới các khởi ngữ trong các câu sau
a) Ông cứ đứng vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này / ông khổ
tâm hết sức.
35
b) Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình / thì thế là sung sướng.
c) Và cái yên lặng của một câu thơ lắng sâu xuống tư tưởng. Một bài thơ hay, không bao
giờ được đọc qua một lần mà bỏ xuống.
d) Lương tháng mỗi người chỉ sống được một tuần, vậy ba tuần còn lại họ sống bằng gì?
e) Mực học trò viết, học trò phải mang từ nhà tới.
Bài 2: Hãy viết lại các câu sau đây bằng cách chuyển phần được gạch chân thành khởi
ngữ.
a) Con lau nhà, chị Lan giặt quần áo ạ
 Nhà thì con lau, quần áo thì chị Lan giặt ạ!
b)Bác Mai cho tớ cuốn sách này còn chú Dũng cho tớ kẹo với lại sữa đấy
 Cuốn sách này là của bác Mai cho tớ còn kẹo với lại sữa là của chú Dũng cho
tớ đấy.
Bài 3: Hãy tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để có khởi ngữ cho các câu sau
a) ........ thì tôi có cần gì. Tôi chỉ cần sao cho cuộc sống ... là được.
b) ...... À, có lẽ tuần sau mình mới đi mua được.
==========================
CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP
I. Khái niệm thành phần biệt lập
- Thành phần biệt lập là khái niệm dùng để chỉ những thành phần trong câu không
tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu.
- Các thành phần biệt lập gồm có:
+ Thành phần tình thái
+ Thành phần cảm thán
+ Thành phần gọi đáp
+ Thành phần phụ trú
II. Các thành phần biệt lập
1. Thành phần tình thái
a) Phân tích ngữ liệu
- Ở câu a, từ "chắc" thể hiện sự tin tưởng, chắc chắn trong nhận định của người nói
chuyện đối với sự việc được nêu trong câu.
- Ở câu b, từ có "có lẽ" thể hiện sự chưa tin tưởng hoàn toàn của người nói chuyện
với sự việc được nêu trong câu.
 Các từ in đậm ở hai câu trên thể hiện sự nhận định của người nói chuyện không mang
nội dung sự việc.
 Nếu bỏ các từ in đậm thì ý nghĩa của sự việc, nội dung câu không thay đổi nhưng sắc
thái, ý nghĩa của câu lại có sự thay đổi.
b) Khái niệm
- Thành phần tình thái để thể hiện cách nhìn của người nói chuyện đối với sự việc
được nói đến trong câu.
+ Thành phần tình thái chỉ mối quan hệ giữa người nói chuyện với người.
nghe.

36
+ Chỉ cách đánh giá chủ quan của người nói chuyện đối với sự việc được nêu
trong câu như: Chắc chắn, có lẽ, hình như.
+ Tình thái gắn với ý kiến người nói chuyện: Theo tôi.
2- Thành phần cảm thán
a) Phân tích ngữ liệu
- Ở câu q, từ "ồ" chỉ cảm xúc ngạc nhiên của người nói chuyện
- Từ "trời ơi" chỉ cảm xúc luyến tiếc của người nói chuyện
- Các từ in đậm ở hai câu không chỉ sự vật, chỉ bộc lộ cảm xúc.
- Nhờ những từ ngữ trong nòng cốt câu mà ta hiểu được, giải thích được vì sao
người nói chuyện có cảm xúc vui, ngạc nhiên hoặc tiếc nuối.
b) Khái niệm
- Thành phần cảm thán dùng để bộc lộ tâm lý của người nói chuyện lúc vui, buồn
hoặc giận.
- Ở thành phần này, người viết thường sử dụng các thán từ bộc lộ tình cảm, cảm
xúc như: Ôi, chao ôi, trời ơi...
- Khi từ ngữ cảm thán tách thành một câu độc lập trở thành câu cảm thán
- Phần cấu trúc, cú pháp của câu thường đứng sau thành phần cảm thán.
* Bài tập
1) Học thuộc lý thuyết về thành phần tình thái và thành phần cảm thán.
2) Làm bài tập 4 trang 19 SGK
3) Tìm các thành phần tình thái, thành phần cảm thán của các câu sau và chỉ ra tác dụng
của nó
a) Tôi không bằng lòng với ai cả. Hình như tôi cũng không bằng lòng cả tôi.
b) Tôi mong rằng nếu anh đến trong vài hôm tới
c) Chao ôi, thời oanh liệt nay còn đâu.
3. Thành phần gọi đáp
a) Phân tích ngữ liệu
- Thành phần gọi đáp là thành phần được dùng để tạo lập hoặc để duy trì quan hệ
gián tiếp.
b) Đặc điểm
- Thường đứng trước cú pháp, cấu trúc của câu
- Trước nó thường là dấu hiệu hội thoại (-)
4. Thành phần phụ trú
a) Phân tích ngữ liệu
- Nếu lược bỏ các từ ngữ in đậm thì nghĩa của câu không thay đổi bởi vì chúng
không tham gia vào biểu đạt nghĩa sự việc của câu.
b) Khái niệm
- Phụ trú là thành phần biệt lập được dùng để làm rõ nghĩa hơn cho bộ phận đứng
trước nó, dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của câu.
c) Đặc điểm
- Thành phần phụ trú thường đứng ở giữa hoặc cuối câu

37
- Thành phần phụ trú có thể đứng giữa hai dấu phẩy, hai dấu gạch ngang, đặt trong
hai dấu gạch ngang và một dấu phẩy, đặt sau một dấu chấm.
* Bài tập
1) Tìm thành phần gọi ddaps trong đoạn trích sau, cho biết từ nào dùng để gọi, từ nào
dùng để đáp, hãy chỉ ra mối quan hệ giữa người gọi và người đáp là quan hệ gì?
- Này, sao nhà kia có mấy bố con thui thủi thế nhỉ?
- À, thì tôi nghe đâu mẹ chúng nó đi làm ăn tận nước ngoài. Đầu tiên bảo có hai
năm nhưng nghe đâu sang bên ấy làm ăn thua lỗ nên chẳng dám về.
- Thế ư? Vậy thì bố con thui thủi thì phải.
2) Tìm thành phần phụ trú trong đoạn văn sau, cho biết chúng bổ sung điều gì, các thành
phần phụ trú trong mỗi câu liên quan đến từ ngữ nào trước đó?
"Các sông trên các cao nguyên Tây Bắc - hơn cả ở Đông Bắc - thật xứng đáng là
đại diện cho các sông chảy trong miền đá vôi - chúng thường chơi những trò ú tim kỳ lạ,
đang chảy rõ ràng trên bề mặt đất, chúng đột nhiên ầm ầm lao xuống một hố sâu thăm
thẳm. Sau đó chúng xuất hiện ở một nơi nào đó dưới chân một thung lũng kín hay một
cao nguyên gọi là cửa hiện".
=========================
Tham khảo về khởi ngữ

1. Xác định thành phần chủ ngữ trong các câu có từ ngữ in đậm dưới đây:
a) Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh,
anh không ghìm nổi xúc động.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
b) Giàu, tôi cũng giàu rồi.
(Nguyễn Công Hoan, Bước đường cùng)
c) Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ, chúng ta có thể tin ở tiếng ta,
không sợ nó thiếu giàu và đẹp […] (Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt)
Gợi ý:
Còn anh,  anh  không ghìm nổi xúc
động.
CN
Giàu,  tôi  cũng giàu rồi.
CN
Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ,  chúng ta  có thể tin ở
tiếng ta
CN

2. So sánh giữa chủ ngữ trong các câu trên với những từ ngữ in đậm đứng
trước nó.
Gợi ý:
- Về vị trí trong câu: các từ ngữ in đậm đứng trước chủ ngữ.
- Về quan hệ với vị ngữ: các từ ngữ in đậm không phải là chủ ngữ trong câu,
không có quan hệ với thành phần vị ngữ như là chủ ngữ.

38
3. Các từ ngữ in đậm trong các câu trên là thành phần khởi ngữ. Như vậy, khởi
ngữ đứng ở vị trí nào và có nhiệm vụ gì trong câu?
Gợi ý: Khởi ngữ đứng trước vị ngữ và có nhiệm vụ nêu lên đề tài được nói đến
trong câu.
4. Những từ nào thường đứng kèm trước khởi ngữ?
Gợi ý: Đứng kèm trước khởi ngữ thường là các quan hệ từ như về, đối với.
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tìm khởi ngữ trong các đoạn trích dưới đây:
a) Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều
này ông khổ tâm hết sức.
(Kim Lân, Làng)
b) – Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.
(Nam Cao, Lão Hạc)
c) Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn
mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
d) Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
e) Đối với cháu, thật là đột ngột […].
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Gợi ý:
- Chú ý vị trí của khởi ngữ để xác định, phân biệt với chủ ngữ: khởi ngữ đứng
trước chủ ngữ.
- Các khởi ngữ: (a) - Điều này; (b) - Đối với chúng mình; (c) – Một mình; (d)
– Làm khí tượng; (e) - Đối với cháu.
2. Các từ ngữ in đậm trong những câu dưới đây đóng vai trò gì trong câu?
a) Anh ấy làm bài cẩn thận lắm.
b) Tôi hiểu rồi nhưng tôi chưa giải được.
Gợi ý: Cụm từ làm bài trong câu (a), từ hiểu, giải trong câu (b) đóng vai trò
trung tâm vị ngữ của câu.
3. Hãy viết lại hai câu trong bài tập trên bằng cách chuyển phần in đậm thành
khởi ngữ (có thể thêm trợ từ thì).
Gợi ý:
- Làm bài, anh ấy cẩn thận lắm.
- Hiểu thì tôi hiểu rồi, nhưng giải thì tôi chưa giải được.

Văn bản: MÙA XUÂN NHO NHỎ


(Thanh Hải)
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả
- Tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn (1930 - 1980), quê ở Thừa Thiên Huế.
- Là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học cách mạng Miền Nam Việt
Nam.

39
- Thanh Hải từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, là một trong
những nhà lãnh đạo chủ chốt của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, là Ủy viên BCH hội Nhà
văn Việt Nam.
- Thanh Hải bắt đầu sáng tác từ cuối kháng chiến chống Pháp với sự tiếp thu ảnh
hưởng của dân ca xứ Huế, của văn thơ yêu nước và ông xem đó như một vũ khí trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, là phương tiện ngợi ca đất nước khi hòa bình.
- Thơ Thanh Hải bình dị, chân thành, đôn hậu, tràn đầy tâm huyết và tinh thần
trách nhiệm với cuộc đời sự nghiệp, với quê hương đất nước.
- Thơ Thanh Hải được tập hợp trong các tập thơ "Những đồng chí trung kiên",
"Huế mùa xuân", "Mùa xuân trên đất này"
2. Tác phẩm
a) Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được sáng tác vào tháng 11 năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường
bệnh và chẳng bao lâu ông qua đời.
- Bài thơ ra đời cũng chính vào khi đất nước dời khỏi chiến tranh chưa lâu, vết
thương chiến tranh chưa kịp hàn gắn, chúng ta vẫn phải ngoan cường chống trả sự chống
phá điên cuồng của các thế lực phản động trong và ngoài nước và hòa bình mới lặp lại
còn đối mặt với bao khó khăn gian khổ.
b) Bố cục: 4 phần
- Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
- Khổ 2: Mùa xuân đất nước
- Khổ 3: Tâm niệm của nhà thơ
- Khổ 4: Lời ngợi ca quê hương, đất nước
II. Phân tích
1. Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời
- Bức tranh xuân của thiên nhiên, đất trời được phác họa bằng các chi tiết, các hình
ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện, đó là những hình ảnh,
những âm thanh quen thuộc gợi cảnh sắc thân thương của xứ Huế.
+ Sắc xanh của dòng sông vào xuân thêm trong sáng, là nền cho màu tím của bông
hoa dịu mắt, tươi tắn, đàm thắm gợi vẻ đẹp thanh bình, yên ả, mộc mạc, hiền hòa mà đậm
nét riêng của Huế.
+ Tác giả đã đảo động từ "mọc" lên đầu câu thơ để tạo ấn tượng và sự xuất hiện
bất ngờ của bông hoa đồng nội trên dòng sông xanh, bút pháp này còn có sức mạnh gợi
sự vận động âm thầm mà mạnh mẽ từ từ nhô lên, từ từ nở xòe trên mặt nước sông xuận.
Cũng từ đó mà câu thơ góp phần diễn tả sức xuân đang vươn lên, đang trỗi dậy trên mặt
nước sông xuân.
+ Vút lên giữa cảnh xuân thanh bình là âm thanh trong trẻo mà náo nức của tiếng
chim.
+ Câu thơ "Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời" vừa như một tiếng reo
vui ngỡ ngàng, vừa là trìu mến, dịu ngọt rât Huế, diễn tả rất đạt, cảm xúc xốn xang, rạo
rực của con người trước mùa xuân của đất trời.

40
+ Hai dòng thơ cuối của khổ thơ sử dụng bộ phận tình thái chuyển đổi cảm giác từ
thính giác "tiếng hót chim chiền chiện chuyển thành thị giác "giọt long lanh" và cuối
cùng là xúc giác tay hứng), câu thơ đã biến tiếng chim vô hình thành giọt long lanh hữu
hình khiến tiếng chim là thanh âm bỗng trở nên có hình có khối, có sắc màu, Giọt âm
thanh tiếng chim chiền chiện như kết đọng khúc nhạc mùa xuân trong sáng tinh khôi,
tưng bừng, rộn ra.
+ Động từ "hứng " gói ghém thái độ nâng niu vẻ đẹp của mùa xuân đồng thời diễn
tả niềm khát khao giao cảm, giao hòa cùng thiên nhiên, đất trời và tất cả tấm lòng.
- Khi sáng tac vần thơ này, Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, đang biết rất rõ
đây là những ngày tháng cuối cùng của đời mình, đó là khi mùa xuân của đất nước còn
chưa tới. Với một tình yêu cuộc sống mãnh liệt, nhà thơ đã hướng tới một mùa xuân ấm
áp, đẹp, thơ mộng bằng tiếng lòng lạc quan.
2. Khổ 2: Mùa xuân đất nước
- Cảm xúc về mùa xuân đất nước được gợi ra qua hai hoạt động: Người cầm súng
và người ra động, họ đại diện cho hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước lúc bấy giờ. Đó là
chiến đấu để bảo vệ và lao động để dựng xây đất nước. Đó là nhiệm vụ vất vả, gian lao
mà vinh quang, chính những người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang đã mang lại mùa xuân,
sắc xuân cho đất nước.
+ Từ "lộc" gợi hình ảnh chồi non, lộc biếc cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho sự
sống của mùa xuân. Là thành quả có được từ máu và mồ hôi của người cầm súng, người
ra đồng lúc ấy họ trở thành người gieo mùa xuân cho đất nước.
+ Cách diễn tả "lộc rất đầy", "lộc trải dài" gợi sức sống mãnh liệt, căng tròn phơi
phới, tỏa lan trên mọi miền đất nước.
+ Điệp ngữ "mùa xuân" cùng với nghệ thuật điệp, cấu trúc ngữ pháp tạo nên một
nhịp điệu tưng bừng, rộn rã gợi một không khí khẩn trương của cuộc chiến đấu và lao
động trên đất nước, đồng thời gợi sức xuân đang bừng dậy trong mỗi con người góp phần
hồi sinh mùa xuân cho đất nước.
- Tác giả nhìn về lịch sử bốn nghìn năm trải qua bao vất vả và gian lao vừa phải nỗ
lực xây dựng đất nước, vừa phải đấu tranh chống lại các thế lực thù địch phản động, thế
nhưng vượt lên những thăng trầm, sóng gió đất nước vẫn vững vàng đi lên, một tư thế
hiên ngang đi lên phía trước bất khuất, kiên cường.
+ Hình ảnh thiên nhiên đang chuyển mình rất đẹp, rất mới mẻ và rất gợi cảm thể
hiện tương lai đầy triển vọng của đất nước, sự tỏa sáng và trường tồn của đất nước, đang
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách.
+ ...................................Câu thơ mang hàm ý khẳng định mạnh mẽ.................
 Hai câu thơ .................... một tình yêu, một niềm tự hào, một niềm tin sắt
son ..........................................đất nước, mặc dù lúc này đất nước ta vừa trải
qua .........................vừa phải đối diện với cuộc chiến tranh phá hoại .................. câu thơ
của tác giả cứ phơi phới một niền tin thật đẹp đẽ.
3. Khổ 3: Tâm niệm của nhà thơ
- Đại từ nhân xưng để chỉ hành động thời nay thay đổi từ "tôi" thành "ta" để thể
hiện một tư thế hòa nhập của con người cá nhân và cộng đồng để tâm niệm nhà thơ
41
không chỉ là tiếng lòng riêng mà còn là khát vọng chung trở thành lẽ sống cao đẹp của
mọi người, sự chuyển đổi đại từ nhân xưng đã khiến cho ý thơ vươn tới một sức khái quát
lớn lao hơn.
- Điệp ngữ "ta làm" thể hiện chắc chắn một lời quyết tâm, một nguyện ước.
- Hình ảnh con chim, cành hoa, nốt trầm sao xuyến kết hợp với số từ "một" làm
bật lên vẻ nhỏ bé, giản dị, khiêm nhường nhưng vô cùng ý nghĩa, vô cùng cần thiết bởi
con chim cất tiếng hót ngợi ca cuộc đời, dâng thanh âm rộn rã, ngợi ca cuộc sống tươi
đẹp. Bởi cành hoa tỏa sắc hương để làm đẹp cho cuộc đời. Còn nốt trầm tạo giai điệu
luyến láy thể hiện sự phong phú của cuộc sống khiêm nhường nhưng chân thành, cháy
bỏng nguyện ước quyết tâm. Chính vì thế, hình ảnh con chim, cành hoa và nốt trầm xao
xuyến từ ý nghĩa tả thực đã vươn tới ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ cho khát vọng hóa thân
thành những gì ý nghĩa nhất để dâng tặng cho đời, điểm tô cho đất nước.
- Chữ "nhập" tiếp tục cái giọng điệu tha thiết của điệp ngữ "ta làm" diễn tả ước
nguyện được hòa nhập vào cuộc đời chung, sự nghiệp chung. Hòa cái tôi vào cái ta để
cống hiến cho cuộc đời những cái gì ý nghĩa nhất.
+ Khát vọng cống hiến vì lẽ sống đẹp đẽ này ta từng gặp trong thơ Tố Hữu:
"Đã làm con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình".
- Câu thơ "một mùa xuân nho nhỏ". là đỉnh cao mạch cảm xúc của bài thơ, thâu
tóm nội dung tư tưởng của tác giả muốn gửi gắm.
+ Mùa xuân vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ thiên nhiên đất trời rộng lớn khôn
cùng lại được kết hợp với tính từ nho nhỏ. Đó cũng là từ láy có ý nghĩa giảm nhẹ, gợi cái
hữu tình, cái cụ thể nhỏ bé. Hai cụm từ không cùng trường từ vựng, được tác giả kết hợp
thành một cụm từ để mang lại một hình tượng thơ rất lạ, gợi cảm và giàu ý nghĩa, một
mùa xuân nho nhỏ chính là biểu tượng về mỗi con người, mỗi điều tốt đẹp mà con người
cống hiến cho đất nước, tô diểm cho cuộc đời.
+ Câu thơ là tâm niệm của nhà thơ về lẽ sống đẹp, sống có ý nghĩa trong từng
khoảnh khắc, từng phút giây để cống hiến cho đời, cho người.
- Suy ngẫm mới thấy tâm niệm của nhà thơ trong ý thơ thật sâu sắc và cao cả, đầy
sức thuyết phục bởi mỗi người là một mùa xuân nho nhỏ mới có thể góp phần làm nên
mùa xuân của đất nước. Từ tâm niệm của cá nhân, ý thơ đã vươn tới nhận thức đúng đắn,
đẹp đẽ bao nhiêu về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa một công dân đối với đất
nước.
- Ba câu thơ cuối của khổ thơ thứ 3 bộc lộ khát vọn cống hiến âm thầm, lặng lẽ, tự
nguyện và đầy say mê. Đó là biểu hiện của lẽ sống, của lối sống cao đẹp không chút ồn
ào, khoa trương..
+ Chữ "dâng" hiển hiện một thái độ cống hiến cho đất nước, một cách thành kính,
thiêng liêng.
+ Điệp từ "dù là" và điệp cấu trúc ngữ pháp ở hai câu thơ cuối kết hợp với hai cụm
từ chỉ thời gian trong cuộc đời con người "tuổi hai mươi", "khi tóc bạc" đã diễn tả rất đạt
42
ước nguyện cống hiến bền bỉ và vô tư vượt lên trên mọi thời gian, tuổi tác, sức lực và
thậm chí là cả cái chết.
4. Khổ 4: Ca ngợi mùa xuân của quê hương, đất nước
- Bài thơ kết lại bằng một khúc ca ngọt ngào, thân thuộc của xứ Huế, đó là điệu
hát nam ai nam bình xen lẫn giai điệu buồn thương và dịu dàng, trìu mến, dễ thương. Âm
điệu mênh mang, thiết tha sâu lắng, để bày tỏ tình yêu của tác giả với quê hương, đất
nước.
- Hình như ý thức được sự hữu hạn của mình trong giới hạn cuộc đời một con
người, tác giả đã tìm đến sự bất tử cùng quê hương, đất nước bằng cách góp mùa xuân
nho nhỏ của mình vào khúc hát quê hương. Bởi thế cùng với bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
Thanh Hải dẫu có đi về cõi vĩnh hằng vẫn đẹp đẽ một tấm lòng thiết tha với cuộc đời, vẫn
bất tử cùng non sông, đất nước.
- Khổ thơ lặp lại cấu trúc ở hai câu thơ "nước non ngàn dặm tình/Nước non ngàn
dặm mình" tạo âm hưởng, lời bài hát ngân nga không dứt cùng với "nhịp phách tiền đất
Huế" vừa làm tăng thêm sự rộn rã, náo nức tưng bừng của mùa xuân, vừa là khúc hát
ngợi ca mùa xuân, ngợi ca đất nước.
==============================

Văn bản: VIẾNG LĂNG BÁC


(Viễn Phương)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn (1928 - 2005) quê ở An Giang.
- Nhà thơ đã qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở chiến trường Nam bộ.
- Viễn Phương là một trong những cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng văn
nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước và trở thành gương mặt tiêu
biểu cho nền văn học cách mạng Việt Nam.
- Thơ Viễn Phương mang tiếng nói nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất cảm ngay cả
trong những hoàn cảnh chiến đấu ác liệt nhất.
- Tác phẩm tiêu biểu của Viễn Phương có thể kể tới như: "Mắt sáng học trò",
"Như mây mùa xuân".
2. Tác phẩm
*Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập thơ "Như mây mùa xuân".
*Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, nước
nhà độc lập, thống nhất, công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành trong

43
niềm vui náo nức của toàn dân. Viễn Phương cùng đoàn quân dân miền Nam ra viếng
lăng Bác. Bài thơ ra đời vào tháng 4/1976.
- Bài thơ được viết 8 chữ với giọng điệu tha thiết mà trang trọng, bài thơ thể hiện
cảm xúc vừa buồn thương, vừa thành kính và tự hào xen lẫn ngậm ngùi, tiếc nuối một
cách trân thành, trở thành tiếng lòng chung của mỗi công dân Việt Nam với vị lãnh tụ
kính yêu.
II. Phân tích
1. Khổ 1
- Bài thơ được mở ra bằng lối xưng hô đậm sắc thái Nam bộ "con - Bác". Cách
xưng hô này vừa gợi cảm giác thân thương, ruột thịt mà vẫn đủ kính trọng, trang nghiêm.
Cách xưng hô ấy khiến cho trongg tình cảm của công dân với lãnh tụ có tình cảm gia
đình ruột thịt, thân thương. Đó là sự thự về tình cảm của mỗi con người Việt Nam đối với
lãnh tụ kính yêu.
+ Hai chữ "miền Nam" trong câu thơ không đơn thuần là danh từ riêng chỉ một
miền đất mà đã trở thành ruột thịt thiêng liêng ngự trị trong trái tim Bác, trong tấm lòng
người dân đất Bắc. Đồng thời gợi cả nỗi ngậm ngùi bởi sự chia cắt bấy lâu.
+ Từ "thăm" được sử dụng đầy ý nghĩa, nó nói lên rằng, trong tâm tưởng người
con miền nam, Bác vẫn chưa mất, Người vẫn hiện hữu giữa cuocj đời này. Người đang
đón chờ những đứa con miền Nam thân yêu. ---- từ "thăm", tác giả mong làm giảm nhẹ
nỗi đau xót về thực tế mất mát quá lớn
Chỉ trong một khổ thơ ngắn mà tác giả đã gợi mở sâu sắc thứ tình cảm đặc biệt của
Bác dành cho miền Nam và của nhân dân miền Nam với Bác trong niềm khao khát bấy
lâu:
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"
- Câu thơ thứ nhất bởi thế là niềm xúc động sâu xa, đã gợi mở tâm thế - làm điểm
tựa cho cả bài thơ.
- Hình ảnh "hàng tre bát ngát" là hình ảnh thực tế về hàng tre bên lăng Bác, trải dài
trong không gian. Đó là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam chất chứa tâm hồn
người Việt bao đời nay.
- Đến lăng Bác gặp hình ảnh hàng tre thân thuộc, tác giả như gặp lại những điều từ
bao đời gắn bó, thiêng liêng khiến trong lòng trào dâng bao cảm xúc.
- Nhà thơ đã liên tưởng hàng tre với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam khiến
hình ảnh đó mang tính biểu tượng, ẩn dụ.
- "Bão táp, mưa sa" là một thành ngữ chỉ những biến động hian khó trong cuộc
sống, giữa ""bão táp, mưa sa hàng tre vẫn "đứng thẳng hàng" tượng trưng cho tư thế hiên
ngang, bất khuất trước mọi bão giông, thăng trầm thử thách của con người Việt Nam.
 Khổ thơ thứ nhất đã gợi nên không gian vừa thiêng liêng vừa thân thuộc không gian
Việt, tâm hồn Việt để tôn vinh con người Việt Nam đẹp đẽ và vĩ đại nhất - Hồ Chí Minh.
2. Khổ 2
- Hai câu thơ đầu của khổ thơ đã sáng tạo hình ảnh mặt trời sinh động, gợi cảm và
đầy ý nghĩa.
44
+ Hình ảnh "mặt trời" ở caauu thơ thứ nhất đượ dùng theo nghĩa gốc, chỉ mặt trời
của tự nhiên, nguồn sáng, sự ấm áp vĩnh cửu cho vũ trụ.
+ Hình ảnh "mặt trời trong lăng" ở câu thơ thứ hai lại được dùng theo nghĩa
chuyển là ẩn dụ về Bác Hồ, mặt trời chân lý của dân tộc Việt Nam, con người bất tử
trong lòng kính yêu vô hạn của nhân dân Việt Nam. Với nghệ thuật ẩn dụ, tác giả không
chỉ khẳng định công ơn trời biển của Bác đối với nền độc lập tự do của dân tộc mà còn
khẳng định, tôn vinh sự vĩ đại, trường tồn của Bác trong lòng dân.
+ Nghệ thuật nhân hóa với "mặt trời đi qua trên lăng" và "thấy một mặt trời trong
lăng rất đỏ" đã góp phần thể hiện sức tỏa sáng bất diệt của mặt trời Hồ Chí Minh, khiến
cho mặt trời của tự nhiên cũng phải thừa nhận, vì thế sự vĩ đại của Bác được nâng tầm
vóc vũ trụ.
- Câu thơ 3,4 đã sáng tạo được một hình ảnh ẩn dụ mới mẻ mang ý nghĩa sâu sắc.
+ Hình ảnh "tràng hoa" được kết thành từ mỗi người dân Việt Nam đến viếng lăng
Bác. Mỗi người là một nhánh hoa đẹp được tái sinh từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc
do Bác lãnh đạo để kết thành tràng hoa tươi thắm dâng lên người. Hình ảnh này đã góp
phần tạo nên một không gian, một không khí thanh tịnh, ngát hương phù hợp với con
người thanh tao như Bác.
+ 79 mùa xuân cũng là một ý thơ mang ý nghĩa ẩn dụ đẹp đẽ. Là 79 mùa xuân Bác
cống hiến hết mình cho dân tộc Việt Nam, nói về tuổi của Bác gọi đó là 79 mùa xuân.
Ngụ ý tôn vinh cuộc đời đẹp của Hồ Chí Minh, cuộc đời của con người hy sinh hạnh
phúc cá nhân vì độc lập, tự do, hạnh phúc cuả toàn dân tộc.
- Điệp ngữ "ngày ngày" kết hợp với hình ảnh ẩn dụ "tràng hoa" vừa vĩnh viễn hóa
vừa bất tử hóa hình tượng Bác Hồ. Để ca ngợi công lao trời biển của Bác, để thể hiện
lòng yêu kính vô hạn của nhân dân đối với Bác.
 Khổ thơ đan xen giữa hai cặp câu vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa
biểu tượng với cách sắp xếp hình ảnh thơ sóng đôi khiến cho lời thơ vừa giản dị, vừa tự
nhiên vừa mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật lớn lao, khái quát gợi cảm và sâu sắc.
3. Khổ thơ 3
- Câu thơ đầu sử dụng phép tu từ như giảm như tránh "Bác nằm trong giấc ngủ
bình yên". Nhằm giảm đi cảm giác đau buồn nghĩa là với nhà thơ, sự ra đi của Bác chỉ
như việc nghỉ ngơi sau 79 mùa xuân cống hiến không biết mệt mỏi cho nhân dân, cho đất
nước, sự ra đi của Bác vì thế nhẹ nhõm, thư thái, thanh thản. Bác vẫn nằm trong giấc ngủ
bình yên, thánh thiện mà gần gũi.
- Câu thơ thể hiện không khí thanh tĩnh, trong trẻo, dịu mát của không gian nơi có
Bác là hình ảnh của vầng trăng, gợi tâm hồn thanh cao, trong sáng của Hồ Chí Minh.
Vầng trăng đó có thể là hình ảnh ẩn dụ về lăng Bác, lại cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về
chính Bác. Bởi vì luôn có một thứ ánh sáng trong trẻo, thanh tao tỏa ra từ Bác, từ tâm hồn
cao đẹp của Người.
- Hai câu thơ … lại xuất hiện một hình ảnh ẩn dụ về Bác. Đó là trời xanh nhằm nói
lên sự bất tử, trường tồn trong lòng nhân dân Việt Nam. Bác vẫn mãi còn như bầu trời
xanh bát ngát, bất tử cùng dân tộc.

45
- Hai câu thơ có sự mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, lý trí tỉnh táo nhận ra rằng
Bác đã đi vào cõi bất tử cùng non sông, đất nước………sự nghiệp cách mạng mà Bác để
laij sẽ mãi đồng hành cùng dân tộc. Dẫu biết vậy nhưng cảm xúc lại không khỏi đau đớn,
xót xa trước thực tế …. Bác đã đi xa, đây là sự mâu thuẫn rất con người xuất phát từ sự
vô vàn kính yêu đối với Bác. Đó không còn chỉ là tình cảm của một công dân đối với
lãnh tụ mà là tình cảm thực sự của một đứa con với vị cha già kính yêu.
+ Hai câu thơ có sự đối lập về âm điệu, câu thơ trước rắn rỏi như tiếng … mạnh
mẽ về sự bất tử của Bác. Câu thơ sau lại lại mang âm điệu trầm lắng nghe như tiếng nấc
nghẹn ngào.
- Câu thơ thứ 4 sử dụng từ "nhói" rất đạt: Đó là nỗi đau cắt cứa, hẫng hụt, tiếc
nuối, dấu chấm than kết lại câu thơ như dáng hình, giọt nước mắt lăn trên má. Đau xót
nhưng không bi lụy, không làm cho người ta gục ngã bởi nó xuất phát từ tình cảm thiết
tha dành cho Bác.
4. Khổ 4
- Khổ thơ cuối là đỉnh điểm cảm xúc chứa đựng nỗi niềm của người con miền
Nam khi nghĩ tới phút chia xa, đó là khi cảm xúc dâng trào không thể kìm nén nổi.
+ Hai chữ "thương trào" là đỉnh cao của mạch nguồn cảm xúc
yêu thương, là tình thương không thể kìm nén trong giờ phút chia xa đã bật thành nước
mắt.
+ Câu thơ thứ nhất của khổ thơ gói ghém biết bao xót xa, tiếc nuối, yeu thương
trong niểm xúc động. Không thể kìm nén bật cả lời thơ đầy cảm xúc trào dâng thành
dòng nước mắt nơi khóe mắt.
- Ba câu thơ cuối kết lại bài thơ ngân vọng một niềm khát vọng (trích ba câu thơ)
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
+ Nhà thơ - người con miền Nam muốn hóa thân vào những gì nhỏ bé, bình dị để
mãi được quấn quýt bên người. Cụ thể là "làm con chim" để hát ca rộn ràng quanh lăng,
ngợi ca công ơn đời đời của Hồ Chủ Tịch, "làm đóa hoa" để tô điểm sắc hương nơi Bác
yên nghỉ, "làm cây tre" canh giấc ngủ cho người.
+ Những hình ảnh nhỏ bé, khiêm nhường mà thật ý nghĩa khiến ta liên tưởng đén
những câu thơ của Thanh Hải trong bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
"Ta làm con chim hót
Ta là một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến"
+ Điệp ngữ "muốn làm" được lặp lại ba lần không chỉ diễn đạt niềm khát khao
cháy bỏng mà còn thể hiện một tâm nguyện chân thành, tha thiết của bao con người Việt
Nam. Với tâm nguyện ấy thì dẫu có chia xa tấm lòng của những người con Việt Nam vẫn
gửi trọn lại nơi Bác và như vậy cũng có nghĩa là không hề có cuộc chia ly.
- Bài thơ mở ra và kết lại ddeuf bằng hình ảnh cây tre, chỉ thay đổi chút, thay thế
từ "đứng thẳng hàng" trong bão táp mưa xa đến phẩm chất "trung hiếu" tượng trưng cho
46
vẻ đẹp của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Nó là lời hứa của tác giả, cũng
như bao người dân Việt Nam. Tiếp tục thực hiện lý tưởng của Hồ Chí Minh đi tiếp con
đường mà Người đã lựa chọn. Bài thơ vì thế dẫu kết lại mà vẫn mở ra bao cảm xúc và
suy tưởng.
III. Tổng kết
=================================

Văn bản: CON CÒ


(Chế Lan Viên)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Quảng Trị,
lớn lên ở Bình Định, sau đó dạy học và làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung.
- Chế Lan Viên sáng tác văn chương từ trước Cách mạng Tháng 8 và là cây bút
nổi tiếng trong phong trào thơ mới; tập thơ ""Điêu tàn của Chế Lan Viên mang một niềm
cô đơn, bế tắc của một cái tôi trí thức tiểu tư sản. Trong bối cảnh đất nước nô lệ.
- Sau Cách mạng Tháng 8, Chế Lan Viên hăm hở tham gia sự nghiệp đấu tranh
giải phóng thống nhất đất nước bằng hoạt động văn nghệ, trở thành một nhà thơ cách
mạng. Tập thơ "Ánh sáng và phù sa" thể hiện niềm vui của một hồn thơ hồi sinh khi nhận
được ánh sáng và phù sa của cuộc đời để được từ thung lũng đau thương đến cánh đồng
vui.
- Phong cách thơ Chế Lan Viên đầy tính trí tuệ mà đằm thắm tữ tình với những
hình ảnh độc đáo mới lạ.
-Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của thế kỷ XX và với hơn 50 năm sáng tác có nhiều
tìm tòi sáng tạo. Ông đã được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật năm 1996.
2. Tác phẩm
- Xuất xứ: Từ tập thơ "Hoa ngày thường - Chim bão bão" xuất bản năm 1967
- Bài thơ được sáng tác thể thơ tự do và được kết cấu theo mạch cảm xúc tâm
trạng.
- Bài thơ mang hình thức lời hát ru với hình tượng con cò, biểu tượng cho người
mẹ vì thế trở thành bài ca về tình mẫu tử thiêng liêng, máu thịt; ngợi ca tình mẹ và khẳng
định ý nghĩa lời ru đối với mỗi người.

47
- Bài thơ mang âm hưởng ngọt ngào, tha thiết của lời ru với sự vận dụng sáng tạo
và có sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình và triết lý, dễ gợi tính chất thiêng liêng máu
thịt của con người.
II. Phân tích
* Bố cục: 3 phần
- Phần 1: Đoạn 1 - Hình ảnh con cò gắn kết với tuổi ấu thơ.
- Phần 2: Đoạn 2 - Con cò và lời ru của mẹ trên những chặng đường đời con
người.
- Phần 3: Đoàn 3 - Suy nghĩa về ý nghĩa lời ru và triết lý về tình mẹ.
1. Hình ảnh con cò gắn kết với tuổi ấu thơ.
- Bài thơ mở ra bằng âm hưởng nhẹ nhàng, êm ái như lời ru của mẹ.
"Con còn bế trên tay … Có cánh cò đang bay"
Giới thiệu hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ một cách tự nhiên và cánh cò trong
lời ru của mẹ đi vào thế giới tâm hồn bé thơ, con có thể chưa hiểu về ý nghĩa của lời ru,
chưa biết gì về hình ảnh con cò, thế nhưng tuổi thơ của con không thể thiếu lời ru ngọt
ngào và cánh cò thân thương đưa con vào giấc ngủ say nồng.
- Trong lời ru của mẹ thấp thoáng hiện lên hình ảnh cánh cò khi là cánh cò bay lả
bay la, khi là cánh cò ăn đêm đậu phải cành mềm. Cũng là hình ảnh con cò vốn thân
thuộc từ ca dao nhưng sức gợi và hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu tượng không giống
nhau.
+ Cánh cò bay lả bay la xuất phát từ câu ca dao:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng
Gợi không gian khung cảnh quen thuộc làng quê Việt với những nhịp sống ngàn
đời thân thuộc.
+ "Con cò ăn đêm, con cò xa tổ" là hình ảnh quen thuộc từ bài ca dao xưa:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Gợi số phận cực khổ, nhọc nhằn của người mẹ, của người lao động Việt Nam, một
đời vất vả để kiếm sống. Cò phải thay đổi thói quen kiếm ăn đem để rồi lâm nạn, lộn cổ
xuống ao. Cò không xin tha mạng bởi "chết trong còn hơn sống đục" chỉ lo nỗi đau "lòng
cò con". Từ đó mà ta nhận thấy trong ý nghĩa lời ru gắn với cánh cò, ngời sáng, đạo lý
làm người của người dân lao động Việt.
- Người mẹ vất vả nuôi con nhưng hạnh phúc khi thấy con được chơi, được ngủ,
được sống trong tình yêu thương.
Có một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ
+ Câu thơ "Ngủ yên, ngủ yên cò ơi chớ sợ" với điệp ngữ "ngủ yên" giống như
động tác người mẹ vỗ về cho con, che chở cho con. Có lẽ người mẹ dự cảm về những
điều bất trắc có thể xảy ra trong cuộc đời dù trong hoàn cảnh nào, mẹ vẫn "sẵn tay nâng"
chở che, đùm bọc.

48
+ Câu thơ "Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân" hai chữ "hơi xuân" có lẽ không
phải chỉ không khí mùa xuân mà chính là tình cảm dịu dàng, tha thiết trong lời ru "mẹ
dành cho con".
Lời ru của mẹ ở đoạn thơ thứ nhất thấm đẫm tâm hồn Việt, đưa con thơ vào dòng cảm
xúc ngọt ngào, trong trẻo của hồn thơ bằng lời ru của mẹ, con được hưởng trọn tình mẹ
dạt dào và tình thương tha thiết.
 Hình ảnh con cò cũng như ý nghĩa lời ru đến với tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức. Dù
vậy, chắc chắn bé thơ vẫn có thể cảm nhận được âm điệu dịu dàng, ngọt ngào của lời ru
và của tình mẹ.
2. Hình ảnh con cò và lời ru của mẹ trên những chặng đường đời
- Đoạn thơ tiếp tục mạch thơ với lời vỗ về trong âm hưởng quen thuộc của lời hát
ru:
"Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên"
Điệp ngữ "ngủ yên" mang âm hưởng lời hát ru chở nặng những nỗi niềm vỗ về
con trong giấc ngủ say nồng, cánh cò thân thuộc ngay từ thuở con cò vẫn nằm nôi.
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi.
Cách diễn đạt "cò cũng ngủ", "hai đứa đắp chung đôi" khiến cò trở thành người
bạn gần gũi, thân thiết đối với con con. Cánh cò ấy cũng chính là lòng mẹ ủ ấp, che chở
cho con, âu yếm và dịu dàng.
- Thuở con tới trường "con theo cò đi học", một chân trời mới được mở ra "cánh
cò bay theo gót đôi chân". Câu thơ gợi sự quấn quýt, gắn bó giữa cánh cò và trẻ thơ, gợi
sự hồn nhiên, trong sáng của con người khi đượccắp sách tới trường, được sống trong
tình thân bè bạn.
+ "Cánh cò bay theo gót chân con" hay lòng mẹ vẫn chăm chút, dìu dắt, nâng đỡ
con, bay vào cuộc đời dài, rộng nghĩa là khi đến với chân trời, tri thức đến với thế giới
diệu kỳ cò vẫn đồng hành cùng con và hơn cả một người bạn, cò chính là tình mẹ chở
che, dìu dắt con.
- Khi con lớn lên, tương lai trước mắt con mở ra, lòng mẹ xiết bao lo lắng, trăn trở
xen lẫn hy vong:
Lớn lên, lớn lên, lớn lên
Còn làm gì?
Con làm thi sĩ
Ý thơ như sự minh chứng cho tình yêu của mẹ dành cho con, mẹ hình dung lớn lên
con làm thi sĩ, là người sáng tạo ra cái đẹp trong thế giới rộng mở của con và cả ngay khi
con trưởng thành tình mẹ vẫn theo con.
"Cánh cò trắng lại bay không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn"

49
+ Cánh cò với con - thi sĩ vẫn thân thuộc và được con cảm nhận rất đẹp, nên thơ,
cánh cò của cuộc đời, của làng quê Việt, của tình yêu thiên nhiên, đất nước. Tình mẹ
thiêng liêng lại trở thành nguồn cảm hứng cho con làm thơ và như thế cánh cò hay chính
là lòng mẹ theo con suốt cả đời.
 Nhờ cách nói chuyện mới mẻ, sáng tạo, nhiều ý nghĩa mà hình ảnh cánh cò dù lặp lại
nhiều lần vẫn không đơn điệu, nhàm chán mà phong phú biến hóa đầy hấp dẫn.
 Đoạn thơ đã khái quát cuộc đời con người từ thuở nằm nôi tới lúc trưởng thành, suốt
chặng đường đời ấy cò luôn đồng hành cùng. Cò trở thành biểu tượng về lòng mẹ, về sự
chăm chút, dìu dắt, nâng đỡ con bền bỉ của mẹ, cánh cò gắn với tình mẹ vì thế mang lại
một tầm vóc trong thơ Chế Lan Viên.
3. Những suy ngẫm, triết lý về ý nghĩa của lời ru, của tình mẹ đối với cuộc đời mỗi con
người.
- Đoạn thơ mở ra bằng những giả thiết:
"Dù ở gần con
Dù ở xa con"
Gợi nên khoảng cách xa xôi, cách trở, gợi cả những vất vả gian nan
+ Ý thơ "lên rừng xuống bể" gợi thành ngữ "lên thác xuống ghềnh" tô đậm những
gian truân, có cả hiểm nguy.
+ Cấu trúc "dù…" như sự khẳng định từ giả thiết về tình mẹ luôn gắn bó đối với
con.
+ Hai câu thơ "cò sẽ tìm con, cò mãi yêu con" với cách dùng từ "sẽ, mãi" và lối
nói mang tính khẳng định góp phần tô đậm tình cảm sâu sắc, mãnh liệt, bền bỉ mẹ dành
cho con thơ và cánh cò chính là biểu tượng hiện hữu cụ thể của tấm lòng của mẹ.
- Từ hình ảnh cụ thể, từ những giai thoại cụ thể theo mạch lập luận của đoạn thơ,
Chế Lan Viên khái quát triết lý trong hai câu thơ mang ý nghĩa sâu sắc:
"Con dù lớn vẫn là con mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con"
+ Câu thơ giản dị trong từ ngữ, trong cách diễn đạt nhưng đã đạt tới mọi ý nghĩa
khái quát mà vẫn giản dị như mọi chân lý hiển nhiên. Tưởng chừng ai cũng có thể nhận
ra bởi vì đó là một sự thực đã được kiểm chứng từ ngàn đời nay, qua thế hệ nối tiếp nhau.
Dù còn bé thơ hay đã trưởng thành với mẹ con vẫn là đứa con bé bỏng cần được nâng
niu, che chở.
+ Vì thế dẫu đi hết cả cuộc đời dài, rằng con vẫn là con của mẹ, dẫu vượt qua bao
thăng trầm, dông bão của cuộc đời, tình mẹ vẫn bền bỉ dõi theo con.
+ Từ "dù" kết hợp với điệp từ "vẫn" trong hai câu thơ đã khẳng định lòng mẹ yêu
con bất biến, vĩnh hằng, tình mẹ thiêng liêng mà bền vững. Ý thơ kết tinh vẻ đẹp lấp lánh
của trí tuệ, Chế Lan Viên khiến hai câu thơ trở thành lời khẳng định, thấm thía, vươn tới
ý nghĩa tuyên ngôn của tình mẹ và được xem như những câu thơ hay nhất về tình mẹ.
- Đoạn thơ cuối không chỉ là cảm nhận sâu sắc về hình tượng cánh cò, về lời
ru mà còn là những cảm nhận sâu sắc về tình đời bao la.
+ Ý thơ: "Một con cò thôi
Con cò mẹ hát"
50
Gợi cái gì nhỏ bé, ít ỏi mà thân thuộc như bao công lao bỏ ra chăm chút con suốt
đời mẹ khó nhọc chẳng kể công.
+ Cánh cò mang ý nghĩa khái quát cho cuộc đời rộng lớn, phong phú, đầy biến
động và bão dông; có bao ngọt ngào, hạnh phúc, có cả những đau đớn, đắng cay. Con
sống giữa cuộc đời thăng trầm và từ đó con lớn lên.
+ Những câu thơ kết bài:
"Ngủ đi! Ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi"
Đólà nhịp điệu vĩnh hằng của lời ru gợi khung cảnh bình lặng, ngàn đời dân tộc.
Có bao số phận, bao tấm lòng, gợi bao đạo lý làm người từ những ngày xửa ngày xưa, lời
ru gắn với cánh cò là lòng mẹ, tình mẹ, là dân tộc, là cả sắc trời quanh nôi bé thơ, mang
lại bình yên, hạnh phúc cho con thơ.
Nghĩ về mẹ, nhà thơ Nguyễn Duy cũng đi từ những lời hát ru để nhận ra chân lý
giản dị, thiêng liêng:
"Ta đi trọn kiếp người
Vẫn không đi hết những lời mẹ ru"
Thêm một ý thơ thấm thía giúp ta nhận ra một điều giản dị mà thiêng liêng, về
niềm hạnh phúc được lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình mẹ, tấm lòng mẹ được
gửi gắm qua những lời hát ru. Chính vì thế, thánh địa bình yên, bến đỗ, điểm tựa vững
bền của một đời con người.
 Đoạn thơ nói riêng và cả bài thơ nói chung giúp ta trân trọng hơn tình mẹ bao la, rộng
hơn thế là tình dân tộc đối với cuộc đời của mỗi con người, từ đó giúp ta ý thức, phấn đấu
để xứng đáng với những gì cao cả thiêng liêng.
===============================

51
Văn bản: SÁNG THU
(Hữu Thỉnh)
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả
- Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc, là một gương mặt tiêu biểu của nền
thơ Việt Nam sau năm 1975.
- Trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gay go, ác liệt của đất nước.
Hữu Thỉnh đã sớm có ý thức tham gia cách mạng, ông nhập ngũ năm 1963 và chiến đấu
ở chiến trường miền Nam.
- Hữu Thỉnh tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam qua nhiều khóa và
từng làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.
- Hữu Thỉnh sáng tác vào trước 1975 với đề tài chiến tranh, với nguồn cảm hứng
anh hùng cách mạng. Sau năm 1975, ngòi bút Hữu Thỉnh hướng vào cuộc sống và con
người thời bình với những cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng. Tác phẩm tiêu biểu của
Hữu Thỉnh có thể kể tới "Âm vang chiến hào", "Sang thu".
- Thơ Hữu Thỉnh giàu hình ảnh nhưng cũng mang những triết lý sâu sắc và thấm
thía về cuộc đời và con người.
2. Tác phẩm
- "Sang thu" được in trong tập "Từ chiến hào đến tac phẩm".
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết năm 1977 trong thời điểm đất nước trong
thời đổi mới hàn gắn vết thương chiến tranh; hoàn cảnh ra đời ấy đã tác động không nhỏ
đến những suy tư của tác giả trong bài thơ.
- Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn.
- Đề tài: Bài thơ viết về mùa thu trong khoảnh khắc giao mùa hạ sang thu. Bài thơ
là những cảm nhận tinh tế và sự biến đổi xôn xao của đất trời trong phút giao mùa lặng
lẽ. Ẩn đằng sau đó là cảm nhận tinh tế của thi nhân, là những triết lý nhẹ nhàng mà thân
thuộc.
II. Phân tích
1. Khổ 1
- Khổ thở mở ra thời điểm giao mùa bằng tín hiệu quen thuộc: Hương ổi, gió se và
làn hương.
+ Hương ổi là mùi vị dân giã, quen thuộc của làng quê Việt bởi theo như cách mở
đầu bài thơ về mùa thu đã có nét thật khác với thơ cổ khi thơ cổ viết về mùa thu thường
gắn với thi liệu quen thuộc là sắc vàng hoa cúc.
+ Động từ "phả" khiến cho hương ổi trở nên đậm đặc như là quánh lại để rồi có
một bàn tay vô hình nắm lấy phả vào không gian khiến cho cả không gian như được ướp
hương nhẹ nhàng mà thanh thoát và hương ổi như theo gió lan vào không gian làm nên
hương vị của mùa thu dịu ngọt mà quyến rũ.
52
+ Từ "bỗng" thể hiện sự đột ngột, bất ngờ khi chợt nhận ra dấu hiệu chuyển mùa
từ thiên nhiên qua hương ổi.
+ Câu thơ thứ nhất đã mở ra khoảnh khắc sang thu, mở ra một không gian của một
miền xum xuê cây trái, thân thuộc, yên bình mà ấm cúng biết bao.
Từ hương ổi mà nhận ra gió se, làn gió nhè nhẹ se lạnh mang đặc trưng của thiên
nhiên miền Bắc khi chuyển mùa từ hạ sang thu, làn gió làm cho đất trời như dịu lại sau
cái nóng oi nồng của mùa hạ.
- Câu thơ thứ hai sử dụng tín hiệu quen thuộc trong thơ ca khi viết về mùa thu, đó
là bằng sương thu, thi liệu này góp vào bức tranh thu cái không khí …. huyền ảo, cái
không khí….. đặc trưng của mùa thu khiến cho lòng người như lắng lại trong phút giao
mùa.
+ Hai chữ ""chùng chình" gợi nên sự chuyển động nhẹ, khẽ, êm, chầm chậm của
làn sương thu. Hơn thế, với việc sử dụng từ láy "chùng chình" thi nhân đã khiến cho hình
ảnh làn sương trở nên có hồn, có tình như lưu luyến, bịn rịn không nỡ chia tay mùa hạ để
sang thu.
+ Hình ảnh "con ngõ" vốn quen thuộc khi nó là cái ngõ thực dẫn vào mỗi ngôi nhà
ở làng quê Việt Nam. Thế nhưng khi đặt trong không gian của bài thơ thì nét nghĩa thực
mờ đi, ngõ ở đây trở thành cửa ngõ thời gian giữa hạ và thu để hương ổi, gió se và làn
sương khi đi qua con ngõ ấy bỗng biết bao lưu luyến, bịn rni, dùng dằng.
 Từ những tín hiệu của đất trời, thiên nhiên được cảm nhận bằng nhiều giác quan tinh
tế và tâm hồn nhạy cảm tha thiết gắn bó với thiên nhiên, với làng quê Việt đã giúp ta cảm
nhận những bước đi của thời gian trong những tín hiệu thân thương nhất.
- Câu thơ cuối sử dụng thành phần tình thái "hình như" mang ý nghĩa phỏng đoán
như chưa chắc chắn rằng thu đã về. Thế nhưng cụm từ "thu đã về" lại không nén nổi niềm
vui, tình thái từ hình như rất phù hợp với tâm trạng của thi nhân trong phút giao mùa
chưa rõ rệt. Nó là niềm vui nhưng là niềm vui được bộc lộ một cách điềm tĩnh, lắng dâu
có sự ngỡ ngàng và đầy bâng khuâng.
- Cảm xúc đón chào mùa thu trong ý thơ Hữu Thỉnh cộng với tiếng reo vui đầy
hân hoan, náo nức của thi sĩ Xuân Diệu:
"Đây mùa thu bởi mùa thu tới"
 Khổ thơ ghi lại những biến chuyển của thiên nhiên qua những tín hiệu thân thuộc gợi
khung cảnh làng quê yên bình và thân thuộc. Ẩn sau bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
ấy là sự biến chuyển nhẹ nhàng, tinh tế của lòng người. Khi cảnh vật sang thu, đất trời
cũng sang thu đầy bịn rịn, lưu luyến và bâng khuâng.
2. Khổ 2
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sáng thu
- Bức tranh thiên nhieenn lúc giao mùa được mở rộng với những chi tiết tạo vật
mới.

53
+ Dòng sông như đợi lúc thu về để "dềnh dàng" chảy, cái dáng uốn lượn, thong thả
của dòng chảy khi vào thu trong cảm nhận của Lưu Trọng Lư chính là bởi lưu luyến
không muốn chia tay mùa hạ để sang thu. Hai chữ "được lúc" khiến cho dòng sông như
có linhh hồn đợi phút thu sang để lắng mình vào trong dòng chảy êm ả.
+ Cánh chim được nhân hóa khi "vội vã bay", sự vội vã của cánh chim đối lập với
trạng thái dềnh dàng của của dòng sông không chỉ thể hiện đúng trạng thái của sự vật lúc
giao mùa mà còn góp phần mở rộng không gian của bầu trời và mặt đất để hoàn chỉnh
một bức tranh thu mênh mang và lắng đọng.
- Hai câu thơ cuối của khổ thơ ghi laijmootj hình ảnh ấn tượng thu cả một cuộc
chuyển mùa từ hạ sang thu.
+ Hình ảnh "đám mây" như một thứ ranhh giới chia bầu trời thành hai nửa; một
nửa là trời hạ còn một nửa là trời thu và đám mây giống một tấm khăn voan mỏng, một
dải lụa mềm, một nhịp cầu nối trời hạ và thu.
+ Cụm từ "vắt nửa mình" khiến cho đám mây như lưu luyến bịn rịn cái giã từ mùa
hạ để sang thu, trạng thái vắt nửa mình của đám mây như kết đọng cả vẻ chùng chình của
sương trong khổ thơ thứ nhất và vẻ dềnh dàng của dòng sông ở khổ thơ thứ hai góp phần
cụ thể hóa, hữu hình hóa phút giao mùa lặng lẽ của đất trời.
- Ẩn sau những chuyển biến của tạo vật lúc giao mùa là tâm hồn con người cũng
sang thu ddaayd bịn rịn, lưu luyến, bình tĩnh và lắng sâu trong mỗi hình ảnh thơ hiên hữu
cái nhìn tinh tế cùng sự tài hoa của ngòi bút Hữu Thỉnh.
3. Khổ 3
Vẫn còn bao nhiêu năng
Đã bớt dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bỡ ngỡ
Trên hàng cây đứng tuổi
- Khổ thơ vẫn tái hiện bức tranh thiên nhiên lúc sang thu nhưng ẩn đằng sau đó,
kết đọng nơi đó đã là trạng thái sang thu của hồn người, của đời người, hình ảnh thơ vì
thế mangg tính ẩn dụ, rõ nét.
+ "Vẫn còn bao nhiêu năng" nghĩa là vẫn còn hiện hữu dấu hiệu của mùa hạ, là
phút giao mùa của đất trời, nhưng chắc chắn đó là cái nắng đã phai dần, dịu nhẹ, khác với
cái nắng chói chang, gay gắt lúc đang là mùa hạ.
+ Theo đó mưa cũng vơi dần, … nhỏ hơn không dữ dội như những trận mưa giữa
mùa hạ và sấm bớt bỡ ngỡ bởi thưa vắng những cơn giông.
+ Nắng, mưa, sấm trong trạng thái giao mùa là hình ảnh thiên nhiên mùa hạ mang
hồn thu dịu nhẹ và sâu lắng, ẩn trong những chi tiết tạo vật này là những đổi thay, những
tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời, những biến động v

à gian khó thử thách trong cuộc đời mỗi người.


- Con người cảm nhận giây phút sang thu của đất trời để từ đó những rung động,
cảm xúc lắng vào suy tư. Những câu thơ cuối vì thế thấm được màu sắc triết lý.
+ Nếu nắng, mưa, sấm là biểu hiện của những biến động trong cuộc đời thì hình
ảnh "hàng cây đứng tuổi" lại là ẩn dụ cho con người đã qua những trải nghiệm cuộc sống.
54
Khi đứng tuổi, con người ta không còn bồng bột mà từng trải hơn, điềm tĩnh và vững
vàng hơn trước những tác động của ngoại cảnh để biết chấp nhận, biết vượt qua.
 Khổ thơ cuối với những hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa mang tính biểu
tượng có sức ẩn dụ lớn đã không chỉ khái quát sự sang thu của đất trời, của thiên nhiên
mà còn ngụ ý thể hiện một cách sâu sắc sự sang thu của hồn người, đời người.
 Sự sang thu của hồn người, của đời người diễn ra qua những cảm nhận tinh tế của đất
trời, đó là giá trị nhân bản của khổ thơ nói riêng, của bài thơ nói chung. Vì thế nó được
………… cho người yêu thơ, tha thiết hơn với thiên nhiên, với quê hương, đất nước và
với con người, với cuộc đời.
=========================
Văn học: NÓI VỚI CON
(Y Phương)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Y Phương là nhà thơ tiêu biểu cho ăn học các dân tộc ở miền núi. Một tiếng thơ
mang điệu hồn người dân tộc Tày chân thực, tha thiết mà tài hoa.
- Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948 là người dân tộc Tày thuộc
tỉnh Cao Bằng.
- Sau năm 1975, ông công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng với cương vị
Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng.
- Y Phương sáng tác từ khi còn ở trong quân đội, ngòi bút của nhăn văn thường
hướng về cuộc sống lao động, sinh hoạt, về đời sống tâm hồn của đồng bào miền núi,
những con người vất vả nghèo đói nhưng mạnh mẽ, yêu tự do, luôn tự hào về quê hương,
gia đình và đất nước.
- Thơ Y Phương mangg đặc trưng của thơ người dân tộc miền núi, có lối tư duy
giàu hình ảnh. Những câu thơ vừa cụ thể, hiện thực vừa giàu chất thơ. Ngôn ngữ thơ bình
dị như lời nói chuyện hằng ngày mà đầy biểu cảm.
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác sau năm 1975 và được hợp tuyển trong tập thơ
Việt Nam (1945 - 1985).
* Thể thơ: Tự do với những câu dài ngắn đan xen, theo mạch cảm xúc và tâm
trạng.
* Mượn cha tâm tình, dặn dò con bằng những hình ảnh thơ quen thuộc và cách nói
chuyện giàu hình ảnh, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà có sức khái quát cao. Cha đã nói
chuyện với con về quê hương mình, về người đồng mình, về lẽ đời, tình đời.
* Bố cục: Hai phần tiếp nối liền mạch.
+ Phần 1: Từ đầu đến trên đời: Tái hiện tình cảm gia đình và quê hương trong
những kỷ niệm thân thương.
+ Phần 2: Còn lại: Tâm sự với con về ý chí vươn lên, phát huy truyền thống tự hào
về một đồng mình, về quê hương mình.

55
+ Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mở rộng đến tình cảm quê hương, từ những kỷ
niệm gần gũi thân thương nâng lên thành lẽ sông, bài thơ vì thế có sức lay động và sự
thấm thía lớn lao.
II. Phân tích
1. Phần 1: Cha nói chuyện với con về cội nguồn sinh dưỡng của mọi người
- Bài thơ mở ra bằng một hình ảnh bình dị, thân thuộc, ta có thể bắt gặp đâu đó
trong cuộc sống đời thường, đó là hình ảnh đứa con lẫm chẫm tập đi; bi bô tập nói
chuyện trong tình yêu thương của cha mẹ trong tổ ấm, nôi êm gia đình.
+ Tác giả sử dụng kết cấu câu song hành:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Đó là những hoạt động diễn ra trong nhịp sống thân thuộc của một gia đình.
+ Cách diễn đạt "bước tới, chạm" gợi nên sự hữu hình của hạnh phúc, bình dị mà
cao quý, thiêng liêng.
+ Tiếng nói chuyện, tiếng cười gợi thanh âm rộn ra, thân thuộc của không khí gia
đình yên vui, hạnh phúc.
+ Cha và mẹ hiện lên trong ký ức và đang chờ đón, nâng đỡ từng bước đi đầu đời,
từng tiếng nói đầu tiên của con với ánh mắt yêu thương, vòng tay trìu mến.
+ Bốn câu thơ đầu đã thúc đẩy trong mọi người nhận thức về gia đình, cha muốn
nói với con rằng: Gia đình là tổ ấm, nôi êm để con người khôn lớn vững bước vào đời.
Cha muốn con khắc tả hạnh phúc, gia đình này để có ý thức nâng niu trân trọng và cố
gắng xứng đáng với những gì mà mình được hưởng thụ.
- Đoạn thơ tiếp nối bằng lời cha nói với con về việc con trưởng thành trong cái nôi
lớn hơn đó là quê hương.
+ Cách nói "người đồng mình" mộc mạc, giản dị theo lối cụ thể mang sắc thái
riêng của người dân tộc thiểu số, đó chính là cách nói khác đi về người quê mình. Người
đồng mình thân thương đặt trong ý thơ "người đồng mình yêu lắm con ơi" nghe ngọt
ngào tình cảm. Bởi đó là tiếng nói được cất lên từ trái tim người cha và chính con đường
của trái tim, tình yêu ấy sẽ đến với con; để bằng trái tim mình con đón nhận, nâng niu và
biết sống sao cho xứng đáng.
+ Từ "yêu" kết hợp với phụ từ "lắm" khắc sâu tình cảm thắm thiết gắn bó như đã
thành máu thịt giữa con và quê hương.
+ Với tư duy cụ thể, hình ảnh cụ thể, lời thơ mộc mạc sau đây lại cho ta thấy cuộc
sống lao động của quê hương thật nên thơ. Con người đất quê hương chịu khó, khéo léo
và tài hoa.
"Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát"
+ Người đồng mình trong cuộc sống lao động vừa tạo ra vật chất để xây dựng quê
hương, vừa sáng tạo nên đời sống tinh thần đẹp đẽ, góp phần làm giàu có tâm hồn con
người của quê hương.
56
+ Động từ "cài, ken" vừa tả thực công việc lao động vừa gợi sự gắn bó quấn quýt,
ấm áp, tình thân trong cuộc sống trữ tình, thi vị.
- Hai câu thơ: "Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng"
Đã sử dụng điệp từ "cho" để gợi các ân tình tha thiết của thiên nhiên đối với con
người. Ở đó, thiên nhiên vừa là bạn, là ân nhân chở che, nuôi dưỡng con người, vừa
mang lại cái đẹp bao bọc con người, làm phong phú hơn tâm hồn con người.
+ Hoa và tấm lòng, là cái đẹp của không gian sống, là giá trị của đạo đức và lối
sống mà con người đã hưởng thụ từ quê hương.
+ Hai câu thơ cuối lưu lại ấn tượng đẹp về hồi ức đẹp, về ngày cưới của cha và
mẹ; nhắc lại ký ức về ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời có lẽ cha muốn lưu lại một dấu ấn
đẹp đẽ trong con rằng: Cội nguồn của con là hạnh phúc để con biết trân trọng và biết
sống sao cho xứng đáng với gia đình và quê hương.
2. Phần 2: Cha nói với con về truyền thống quê hương với mong muốn con trân trọng và
kế tục xứng đáng.
- Phần thơ thứ hai được mở ra bằng một câu thơ gần như lặp lại ý thơ ở đoạn thứ
nhất: "Người đồng mình thương lắm con ơi". Sự lặp lại ấy hẳn không phải là vô nghĩa bởi
khi nói tới người đồng mình, cha muốn gợi nơi con tình cảm gắn bó, ý thức gắn kết và kế
tiếp. Cha cũng muốn khơi dậy trong con tình thương với người đồng mình, muốn gắn con
với cộng đồng, giàu phẩm chất và truyền thống.
- Những phẩm chất của người đồng mình cùng những truyền thống quý báu của
quê hương được cha nhắc tới trong lời tâm tình, bình dị mà thấm thía:
"Con đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói"
Người đồng mình trong cuộc đời trải qua bao nỗi buồn đau, đắng cay vẫn mạnh
mẽ sống, vẫn nuôi chí bền, vẫn đầy bản lĩnh và vẫn một lòng gắn bó với quê hương.
+ Tác giả đã sử dụng kiểu câu thơ ngắn trong lối kết cấu đăng đối với nhịp thơ
gọn, chắc như đúc kết lại bản lĩnh, ý chí của người đồng mình. Ý chí và bản lĩnh ấy được
đo bằng chiều cao của không gian cao xa, được tính bằng thử thách của thác, của ghềnh
rất cụ thể, rất thấm thía để dẫu người vô tình nhất cũng có thể hình dung, cảm nhận được.
+ Tác giả đã sử dụng điệp từ "sống", điệp ngữ "không chê" và hình ảnh so sánh
"sống như sông như suối" để nhấn mạnh một lối sống, một tư thế sống đầy bản lĩnh của
người đất quê. Họ hiểu được những khó khăn của quê nghèo, họ nỗ lực vươn lên bằng
tấm lòng không quản gian lao, cực nhọc.
+ Ý thơ "người đồng mình thô sơ da thịt" được lặp lại hai lần trong đoạn thơ đã
diễn đạt rất chân thực bản chất của của người đồng mình, mộc mạc, chân chất và thật thà,
giản dị như đất quê, đó là bản chất của người đồng mình mà cha muốn khắc ghi cho con
nhớ.
+ Y Phương đã dùng cách nói đối lập người đồng mình thô sơ da thịt, chẳng mấy
ai nhỏ bé đâu con để thể hiện sự tương phản giữa dáng vẻ bên ngoài với phẩm chất bên

57
trong. Từ đó vươn tới sự khẳng định người đồng mình thô sơ da thịt, chất phác, thật thà
nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn.
+ Câu thơ "người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương" vừa thực vừa mang ý
nghĩa ẩn dụ vươn tới sức khái quát sâu xa. Đó là lối nói quen thuộc theo tư duy của người
dân miền núi. Nói một cách cụ thể hữu hình nhưng cũng đầy triết lý rằng: Người đồng
mình bằng chính sức lực và tài năng của mình đã cần cù tạo nên vóc dáng quê hương,
làm nên vẻ đẹp của quê hương, xây dựng và phát triển quê hương, bởi thế trong tầm vóc
của quê hương có dáng hình của người quê. Người đồng mình bởi thế thật lớn lao, cao
đẹp, thật đáng trân trọng và tự hào.
- Bốn dòng thơ cuối của bài thơ gói ghém ước nguyện của cha trong lời dặn dò co:
"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con".
+ Lời thơ ngắn như lời nói hằng ngày vừa thiết tha, trìu mền vừa nghiêm nghị có
cả sắc thái mệnh lệnh, thúc giục.
+ Ý thơ giản dị mà sâu sắc, vững vàng một niềm tin, một niềm mong mỏi. Qua
những lời chân tình ấy, cha dặn con tự tin vững bước trên đường đời. Với sức mạnh từ sự
tiếp nối, từ niềm tự hào về truyền thống quê hương.
+ Cha dặn con cũng là thiết tha mong con sống có nghĩa có tình, chung thủy với
quê hương, biết chấp nhận gian lao, thử thách.
+ Lơi cha dặn con cũng chính là niềm tự hào lớn lao, như tình yêu mà cha dành
cho quê hương, xứ sở. Với những lời gan ruột ấy, cha mong con thấm thía và phát huy.
=================================
LUYỆN TẬP VỀ PHÉP LIÊN KẾT
I. Yêu cầu với dạng đề gì về phép liên kết
1. Xây dựng phép liên kết
2. Chỉ ra ph]ơng tiện liên kết
3. Phân tích tác dụng của phép liên kết được sử dụng
II. Chuẩn bị kiến thức để làm dạng đề
1. Xác định phép liên kết gắn với khái niệm về phép liên kết
- Phép Lặp
- Phép thế
- Phép nối
- Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng
2. Xác định các phương tiện liên kết phải dựa vào phép liên kết được sử dụng
- Phương tiện liên kết: Từ và câu văn.
III. Cách làm bài
1. Ngắn gọn, rõ, đủ ý
2. Các bước làm bài
- Đọc kỹ doạn văn
- Xác định nội dung chính bằng chủ đề của đoạn văn
58
- Tên các dấu hiệu liên kết
+ Từ nối
+ Từ, cụm từ có khả năng thay thế
+ Từ, cụm từ đồng nghĩa, trái nghĩa gợi liên tưởng
+ Gọi tên phép liên kết, chỉ rõ từ ngữ được sử dụng để liên kết
- Nêu tác dụng:
+ Về nội dung: Phép liên kết góp phần gắn kết các câu trongg đoạn văn làm
nổi bật nội dung (chủ đề) của đoạn văn (là gì?).
Về hình thức: Phép liên kết giúp cho các câu trong đoạn văn liên kết chặt
chẽ với nhau, làm hoàn chỉnh, trọn vẹn hình thức đoạn văn góp phần nêu bật nội dung.
IV. Trình bày
1. Đoạn văn: Sử dụng phép liên kết
2. Các phương tiện liên kết được sử dụng trong đoạn văn là (chỉ rõ và chính xác từ ngữ)
có tác dụng liên kết.
3. Với việc sử dụng phép liên kết… người viết đã đạt được hiệu quả:
- Về nôi dung
- Về hình thức
================================

CHỮA BÀI KIỂM TRA TIẾT 2


(Phần Tiếng Việt)
1)
a) Hôm sau, vua ra cửa đông chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương Đông lại,
nổi trên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là xứ Thanh Giang thông tỏ việc trên đất,
âm dương quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: "Điều đó chính cụ già báo cho ta biết trước" bèn
dùng xe bằng vàng rước vào trong thành.
- Các câu trongg đoạn văn liên kết với nhau bằng phép liên kết hình thức: Phép
thê.
- Phương tiện liên kết là cụm từ "điều đó" dùng thay thế cho một con rùa vàng ….
quý thần".
- Việc sử dụng phép thế để liên kết đoạn văn mang lại tác dụng liên kết chặt chẽ
giữa các câu trong đoạn làm nổi bật nội dung vua An Dương Vương được thần giúp xây
thành, chế nỏ, sử dụng phép thế đoạn văn tránh được sự trùng lặp, tránh được cảm giác
nhàm chán, đồng thời giúp cho việc diễn đạt ý rành mạch, sáng rõ.
b) Trong suốt thời kỳ đấu tranh chống ách thống trị của đế quốc phong kiến xâm lược,
nhân dân ta đã nhiều phen lật đổ chính quyền của bọn đô hộ. Song chỉ là chiến thắng
Bạch Đằng của Ngô Quyền thì mới chấm dứt được ách thống trị của bọn phong kiến
phương Bắc và mở đầu thời kỳ quốc gia độc lập.
c) Thật ra, thời gian không phải là một mà là hai. Đó vừa là một định luật tự nhiên khách
quan bao năm thời gian, vừa là một khái niệm chủ quan của con người đơn độc. Bởi vì
chỉ có con người mới ý thức về thời gian. Con người biết rằng mình sẽ chết và biết rằng
thời gian là liên tục.
59
d) Văn học dân gian là một kho tàng chẳng những quý báu về chất mà còn phong phú về
lượng. Sự phát triển mạnh mẽ của nó ở nước ta có cơ sở từ những điều kiện lịch sử nhất
định.
================================
LUYỆN TẬP VỀ CÁCH LÀM BÀI TẬP NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
1. Nắm vững mô hình bài làm, các bước triển khai ý của kiểu bài nghị luận xã hội
2. Cách làm bài
a) Cách làm một bài nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống
- Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống
- Thân bài: + Nêu thực trạng hiện tượng
+ Phân tích hiện tượng (đúng, sai/lợi, hại)
+ Nguyên nhân - hậu quả
+ Giải pháp
- Kết bài: Khẳng định hoặc phủ định vấn đề, đưa ra lời khuyên
b) Cách làm bài nghĩ luận xã hội về tư tưởng, đạo lý
- Mở bài: Giới thiệu tư tửơng, đạo lý
- Thân bài: + Giải thích về tư tưởng, đạo lý
+ Chứng minh từ thực tế và sách vở
+ Bình luận về ý nghĩa, giá trị tư tưởng và phê phán những ý nghĩa
hành động trái tư tưởng, đạo lý.
* Lưu ý: Khi làm kiểu bài nghị luận xã hội
- Xác định rõ đề bài yêu cầu, viết đoạn văn hay bài văn
- Phải bám sát vào vấn đề, không viết tùy tiện, kiểu kể lể về hiện tượng.
=======================
Tham khảo
Đối với học sinh trong nhà trường phổ thông, do tâm lý, lứa tuổi, tầm nhận
thức nên những vấn đề đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức
tạp, lớn lao mà chỉ là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm gắn liền với
cuộc sống hàng ngày như tình cảm quê hương, gia đình, bạn bè, ý thức trách
nhiệm, tinh thần học tập, phương pháp nhận thức… Những vấn đê này có thể đặt
ra một cách trực tiếp, nhưng thường là được gợi mở qua một câu danh ngôn (tục
ngữ, ca dao, câu nói của các bậc hiền triết, các lãnh tụ, các nhà văn hóa, khoa
học, nhà văn nôi tiêng…).

Đối với dạng để nghị luận về một tư tưởng đạo lí, để giải quyết vấn đề, ta cần lưu ý
cách xem xét nó từ nhiều góc độ. Cách đơn giản nhất là thử đặt ra và trả lời
những câu hỏi. Sau đây là một số dạng câu hỏi chính:

 Nó là gì?
 Nó như thê nào?
 Vì sao lại như thế?
 Như thế thì có ý nghĩa gì với cuộc sống với con người, với bản thân?
Từ việc đặt ra và trả lời các câu hỏi, có thể hình dung một bài văn nghị luận vê
một tư tưởng đạo lí cần được triển khai theo ba bước cơ bản sau:
60
 Bước 1: Giải thích, cắt nghĩa
 Bước 2: Lý giải
 Bước 3: Đánh giá
Cụ thể như sau:

Bước 1: Giải thích, cắt nghĩa

Tuỳ theo từng yêu cầu cụ thể mà mức độ và cách giải thích có thể sẽ khác nhau.
Chẳng hạn, với câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “Hỏi thời ta phải nói ra,/Vì chưng
hay ghét cũng là hay thương”, Điều cần giải thích trước hết là khái niệm “ghét” và
“thương’ rồi trên cơ sở đó giải thích, cắt nghĩa nội dung  thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Với lời dạy của Phật “Giọt nước chỉ hòa vào giữa biển cả mới không cạn mà thôi“,
trước hết cần xác định nghĩa đen của những từ giọt nước”, “biển cả”, “không cạn”
rồi suy luận ra nghĩa bóng. Với quan niệm của Trịnh Công Sơn “Sông vẫn chảy đời
sông, Suối vẫn trôi đời suối, sống trên đời cần có một tấm lòng, dù chỉ là để gió
cuốn đi”, cần lần lượt giải thích các mệnh đề, các hình ảnh “sông vẫn chảy đời
sông, suối vẫn trôi đời suối”, ‘tấm lòng”, “cần có tấm lòng’ “tấm lòng để gió cuốn
đi” để trên cơ sở đó xác định chính xác nội dung thông điệp được gửi gắm trong
câu nói.

Có những để bài, khâu giải thích có thể làm rất gọn gàng, đơn giản, nhất là khi
trong yêu cầu, nhận định không có những khái niệm phức tạp, khó hiểu hay những
hình ảnh có khả năng khơi gợi những tư tưởng sâu xa. Thế nhưng lại có những
đề bài, khâu giải thích cần làm rất công phu. Chẳng hạn với quan niệm của
Viên Mai “Làm người không thể không phân biệt giữa nhu mì và nhu nhược, giữa
cứng cỏi và cường bạo, giữa tiết kiệm và keo kiệt, giữa trung hậu và khờ khạo,
giữa sáng suốt và cay nghiệt, giữa tự trọng và tự đại, giữa khiêm tốn và hèn hạ.
Mấy cái đó hình như giống nhau mà thực khác nhau“, có rất nhiều các mệnh đề
cần giải thích như “làm người” phân biệt “cường bạo và cứng cỏi”, “nhu mì và nhu
nhược”, “keo kiệt và tiết kiệm”,“tự trọng và tự đại”, “trung hậu và khờ khạo”
“khiêm tốn và hèn hạ”, “sáng suốt và cay nghiệt”… Bởi vì nếu không giải thích tận
tường tận những mệnh đề ấy sẽ không xác định nổi ý nghĩa, phạm vi nghĩa trong
quan điểm của Viên Mai.

Bước 2: Lí giải
Bản chất của thao tác này là giảng giải cái nghĩa lý của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ
bản chất vấn để cùng với các khía cạnh, các mối quan hệ của nó.
Để làm được việc này, chúng ta cần tách vấn đê thành các khía cạnh nhỏ để xem xét
nghiên cứu. Cách đơn giản nhất là đặt ra các câu hỏi để khảo sát, tìm hiểu. Muốn đặt ra
được những câu hỏi thật sự cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu đề, cần làm thật tốt khâu
giải thích để xác định chính xác vấn để mà đề bài đặt ra cùng với các khía cạnh, phương
diện của nó. Chỉ khi ấy mới có thể xác định được những gì cần lí giải cho vấn đề trở nên
sáng tỏ rõ ràng.
Chẳng hạn với vấn đề nhận thức đặt ra trong quan niệm của J. Houston “Chúng ta sẽ nắm
được 10% những gì đọc được, 15% những gi nghe thấy và 80% những gì tự trải nghiệm”

61
thì sau khi giải thích dể xác định rằng chúng ta chỉ nắm được phần nhỏ những gì mình
đọc được, nghe thấy và sẽ nắm được phần lớn những gì tự trải nghiệm, chúng ta có thể
đặt ra những câu hỏi sau:
• Vì sao chúng ta chỉ tiếp thu đựơc 1 phần nhỏ những gì đọc được, nghe thấy?
• Vì sao chúng ta sẽ nắm dược phần lớn những gì tự trải nghiệm?
Việc suy nghĩ tìm câu trả lời sẽ giúp ta tháo gỡ dần để tiếp cận và nắm vững bản chất vấn
đề. Với câu hỏi thứ nhất, chúng ta cần thấy rõ những khía cạnh sau:
• Vì mỗi chúng ta đều chỉ có một giới hạn về năng lực, một giới hạn về chuyên môn
và một giới hạn về phạm vi hiểu biết nên không phải những gì ta đọc được, nghe thấy đểu
có thể hiểu hết được.
• Vì trong trường hợp đó, sự tiếp thu của chúng ta chỉ là tiếp thu một cách gián tiếp
qua hiểu biết, nhận thức, cách nhìn và cách lí giải của người khác.
• Vì những gì đọc được, nghe thấy mà chưa có sự kiểm nghiệm trong thực tế thì
nghĩa, giá trị của nó chưa thể bộc lộ rõ ràng trọn vẹn.
Với câu hỏi thứ hai, chúng ta cần thấy được những khía cạnh sau:
• Khi trải nghiệm, chúng ta sẻ nắm bắt trực tiếp vấn đề trong ý nghĩa thực tế của nó.
• Khi trải nghiệm, dù thành công hay thất bại ta cũng có được những kinh nghiệm
thực tê để giải quyết vấn đề.
• Khi tự trải nghiệm, ta sẽ phải vận dụng toàn bộ năng lực, hiểu biết trong quá trình
tích luỹ trước đó để ứng phó, xử lý với tình huống cụ thể, đó chính ià điểu kiện để ta nắm
bắt nó một cách trọn vẹn hơn.
Bước 3: Đánh giá
Đây là phần việc để học sinh bộc lộ nhận thức về vấn đề ở mức độ cao nhất, cũng là phần
việc gây khó khăn cho học sinh nhiều nhất.
Vì vậy, trưốc hết chúng ta cần đánh giá vấn đề ở các bình diện, khía cạnh khác nhau: ý
nghĩa tư tưởng, ý nghĩa thực tế, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế…
Từ sự đánh giá trên các bình diện, ta cần nhìn nhận giá trị của vấn đề như rút bài học kinh
nghiệm trong cuộc sông cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tình
cảm, tư tưởng để tự mình bồi đắp, nâng cao kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử trong
đòi sống.
Ngoài ra, tùy theo yêu cầu và tính chất cụ thể của từng để bài mà học sinh có thể bổ sung
thêm phần liên hệ – mở rộng. Phần này nên có trong những đề bài đề cập đến những vấn
để gắn liền hoặc gần gũi với đời sống của lứa tuổi học sinh. Ví dụ: phương pháp học tập,
tích lũy kiến thức, quan hệ bạn bè, cách sống và cách ứng xử…ở những đề bài như thế,
việc liên hệ – mở rộng cũng chứng tỏ mức độ hiểu và khả năng cảm nhận vấn đê của học
sinh.

62
Văn bản: BẾN QUÊ
(Nguyễn Minh Châu)
I. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Xuất thân trong
một gia đình nông dân.
- Năm 1950, Nguyễn Minh Châu gia nhập quân đội và được cử đi học trừng sĩ
quan rồi trở thành cán bộ quân đội.
- Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết văn từ năm 1960 và trở thành cây bút tiêu biểu
của văn học kháng chiến chống Mỹ và tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài chiến tranh mang
đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn như "Cửa sóng", "Dấu chaann người lính"…
- Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu trở thành mootjj trong những nhà văn điển
hình của công cuộc đổi mới văn học, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đậm chất triết lý
về con người và cuộcđời trong thời đại mới. Nguyễn Minh Châu được xem là "Người
mở đường tài hoa và tinh anh của nền văn học mới. Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh
Châu ở giai đoạn này có thể kể đến "Bến quê", "Cỏ lau".
- Nguyễn Minh Châu được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật vào năm 2000.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ
- Bến quê là truyện ngắn tiêu biểu được rút ra từ tập truyện cùng tên của Nguyễn
Minh Châu xuất bản năm 1985.
2. Giá trị của tác phẩm
- Bến quê là truyện ngắn mang ý nghĩa triết lý về cuộc đời và con người. Thông
qua tác phẩm nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi chúng ta thông điệp mà con người
phải biết trân trọng, những giá trị của cuộc sống gia đình và những vẻ đẹp bình dị của quê
hương.
- Tác phẩm thể hiện nghệ thuật mô tả tâm lý tinh tế với nhiều hình ảnh giàu tính
biểu tượng, cách xây dựng tình huống trần thuật theo dòng tâm lý của nhân vật. Đây là
tác phẩm tiêu biểu cho sự đổi mới về tư tưởng cũng như về nghệ thuật sáng tác của nhà
văn Nguyễn Minh Châu.
III. Phân tích tác phẩm
1. Tình huống truyện
a) Tái hiện
Nhân vật Nhĩ - nhân vật trung tâm của tác phẩm vốn đi cuối đất cùng trời nhưng
lại mắc căn bệnh hiểm nghèo hầu như bị liệt. Mọi sinh hoạt đều phải nhờ vào sự giúp đỡ
63
của người khác, đặc biệt là Liên - vợ Nhĩ lúc đó Nhĩ mới nhận ra bãi bồi bên kia sông
mình thật đẹp thế nhưng lại không đủ sức để đến được bãi bồi bên sông. Nhĩ đành nhờ
con trai thay mình đến bãi bồi đất quê. Thế nhưng Tuấn ham chơi xa vào đám cờ thế và
lỡ mất chuyến đò cuối cùng trong ngày. Nhĩ bất lực giơ tay thúc giục con rồi buông thõng
xuống.
b) Ý nghĩa của tình huống truyện
- Tình huống truyện mang đầy nghịch lý với nhân vật Nhĩ bởi Nhĩ từng đi khắp
nơi, từng đặt chân nhiều vùng đất xa xôi vậy mà không thể đặt chân tới được nơi gần nhất
của chốn quê mình. Nhĩ phải nằm một chỗ trên giường bệnh, oái ăm thay lúc ấy anh mới
nhận ra vẻ đẹp của quê hương mình. Điều đó khiến Nhĩ vô cùng đau đớn nhưng không
thể làm gì khác. Cùng lúc đó Nhĩ cũng nhận ra sự tần tảo, đức hy sinh nơi tâm hồn đẹp đẽ
của người vợ, nhưng đâu còn thời gian để anh kịp bù đắp.
- Dồn tất cả khát vọng mong mỏi, Nhĩ nhờ con trai sang bãi bồi bên kia sông,
mượn đôi chân của con để thực hiện khao khát đời mình nhưng Tuấn lại sa vào đám cờ
thế và Nhĩ không thực hiện được khát vọng dù rất nhỏ nhoi. Thông quan bi kịch của nhân
vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến ta thông điệp cuộc đời.
+ Con người cần phải sớm nhận thức về những giá trị trong cuộc đời. Ẩn trong
những điều bình dị nhất đó là tình cảm gia đình, sự gắn bó giữa những người thân trong
gia đình, đó còn là tình quê hương, tình làng nghĩa xóm. Chỉ khi đó con người mới tận
hưởng được giá trị đích thực của cuộc sống. Cũng từ đó tác giả nhắn nhủ ta hãy trở về với
bến quê của chính mình. Cái bến quê bình dị, đời thường ấy chính là nơi neo đậu bình
yên, bền vững cho tâm hồn con người sau những biến cố, thăng trầm của cuộc đời.
+ Cuộc sống và số phận con ngư\ời chứa đầy những điều bất thường, những
nghịch lý ngẫu nhiên diễn ra vượt ra ngoài những dự liệu và ước muốn. Vượt ra ngoài
những hiểu biết và toan tính của con người. Bi kịch cuối đời bị cột chặt vào giường của
Nhĩ đã nói lên điều đó.
+ Con người trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng
chình làm lãng phí thời gian và công sức. Vì thế hãy biết tỉnh táo để dứt ra khỏi cám dỗ
tầm thường, những điều vòng vèo, chùng chình, hãy sống khẩn trương, tích cực để hướng
tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Để đến cuối đời ta không phải ân hận vì những
năm tháng sống hoài, sống phí.
2. Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ
a) Cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ khi phát hiện ra vẻ đẹp của quê hương.
- Trong những ngày bị cột chặt vào giường bệnh, tình cảnh của Nhĩ thật éo le lại
cũng chính là khi Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của quê hương qua cảnh vật nơi bến quê.
+ Dòng sông Hồng đỏ nhạt như rộng thêm ra với những dải đất phù sa màu vàng
thau xen lẫn màu xanh non.
+ Những bông hoa bằng lăng cuối mùa, tím thẫm.
+ Bầu trời như xa hơn, rộng hơn, cao hơn.
- Cảnh vật bến quê trong Nhĩ lúc bấy giờ vừa quen vừa lạ, đẹp một cách lạ lùng,
những chi tiết bình dị, thân thuộc của quê hương bao đời nay vẫn thế vậy mà lần đầu tiên
Nhĩ mới nhận ra.
64
- Từ phát hiện vẻ đẹp thân thuộc của quê hương, tác giả muốn nói với ta về vẻ đẹp
đích thực của cuộc sống không phải từ một chân trời xa lắc nào mà là chính ngay trong
vẻ đẹp của quê hương, xứ sở.
- Nhĩ nghe thấy tiếng đất lở và hỏi vợ về những bông hoa bằng lăng về thời gian.
Nghĩa là Nhĩ đã linh cảm rằng thời gian còn lại của mình chẳng còn bao lâu nữa. Xót xa
là ở chỗ cùng lúc với nhận thức về sự sống của bản thân, cùng lúc phát hiện ra giá trị đích
thực của cuộc sống thì đã quá muộn màng, vì thế trong lòng Nhĩ mới tiếc nuối và xót xa.
- Phát hiện về vẻ đẹp của quê hương còn gắn với phát hiện về tình người, tình đời
ấm áp, nồng hậu trong cuộc sống hằng ngày.
+ Đó chính là hình ảnh của những đứa trẻ vô tư, hồn nhiên, sẵn sàng giúp đỡ,
chăm sóc, chơi với Nhĩ để anh khuây khỏa nỗi cô đơn, buồn chán.
+ Đó là sự quan tâm và cách cư xử đầy nghĩa tình của ông giáo Khuyên.
+ Đó là vẻ đẹp của tình làng nghĩa xóm mà giờ đây Nhĩ mới nhận ra.
b) Cảm xúc và suy nghĩ khi phát hiện ra giá trị của cuộc sống gia đình
- Phát hiện về vẻ đẹp của cuộc sống gia đình gắn với việc nhận thức về vẻ đẹp của
tâm hồn người vợ.
+ Trên giường bệnh những ngày cuối đời, lần đầu tiên Nhĩ để ý tới đôi bàn tay vợ
gầy guộc bởi swjj vất vả tảo tần, đôi bàn tay ấy đã nuôi nấng con cái, chăm chút gia đình
vậy mà Nhĩ vô tâm không biết tới.
+ Trên giường bệnh cũng là lần đầu tiên Liên mặc chiếc áo vá bao màu, chiếc áo
cánh nâu Liên đã mặc bao năm tháng tảo tần.
+ Nhĩ cảm động trước bước chân rón rén và lời Liên ôn tồn dặn dò các con đừng
để ảnh hưởng đến sự yên tĩnh cho Nhĩ nghỉ ngơi.
- Tát cả những điều nhĩ cảm nhận được từ Liên khiến cho Nhĩ vô cùng xúc động
và cũng nhận ra sự vô tâm, đáng trách của mình trước người vợ tảo tần, chịu thương, chịu
khó, giaufddwcs tính hy sinh. Trong lòng Nhĩ dâng lên một niềm biết ơn và nỗi ân hận
nhưng không còn cơ hội để bù đắp.
- Phát hiện vẻ đẹp nơi tâm hồn người vợ cũng là khi Nhĩ nhận ra giá trị cuộc sống
chính là ở sức mạnh tinh thần của con người, là ở tổ ấm gia đình thân thương.
c) Niềm khao khát của Nhĩ cùng những suy nghĩ
- Nhận ra vẻ đẹp của bến quê, của người quê, của gia đình chính là nhận thức về
vẻ đẹp cuộc đời, bình dị mà bấy lâu con người vô tình quên lãng.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên đất bến quê, niềm khao khát xenn lẫn aann hận
xót xa, bàn chân Nhĩ đã ……. lên nhiều vùng đất lạ vậy mà không thể đặt tới giải đất phù
sa nơi bến sông quê mình, Nhĩ nhận thấy có lỗi với quê hương.
- Nhĩ đã nhờ con trai thay mình thực hiện ước nguyện, nhưng Tuấn con trai anh lại
không hiểu ý cha, nó sa vào đám chơi cờ thế để rồi bỏ lỡ mất chuến đò cuối cùng sang
sông cuối ngày. Nhĩ không trách con, chỉ buồn bởi thời trai trẻ anh cũng như Tuấn, cũng
sa vào những điều vòng vèo, chùng chình, con trai anh chưa đủ lớn để hiểu hết các điều
mà phải trải qua cả cuộc đời, bằng sự trải nghiệm cả một đời anh mới nhận ra.
- Từ bi kịch của Nhĩ, ta cũng nhận ra rằng có một thực tế đáng buồn là giữa các
thế hệ người trẻ và người già vẫn tồn tại một khoảng cách, ngay cả giữa những người ruột
65
thịt yêu thương nhau nhưng vẫn không thể hiểu hết được nhau. Tác phẩm vì thế thấm một
dư vị xót xa.
III. Tổng kết
======================================

Văn bản: NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


(Lê Minh Khuê)

I. Tìm hiểu chung


1. Tác giả
- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở Tĩnh Gia - Thanh Hóa. Là nhà văn tự
trưởng thành trong kháng chiến chống mỹ cứu nước, từng trải qua cuộc sống của người
lính thanh niên xung phong nên rất hiểu và viết nhiều, viết hay về đề tài người lính và
chiến tranh.
- Lê Minh Khuê bắt đầu viết văn từ những năm 70 rồi làm phóng viên báo Tiền
Phong, phóng viên Đài Phát thanh giải phóng và từ năm 1978 đến nay là biên tập viên
của Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam.
- Trong những năm tháng chiến tranh, Lê Minh Khuê là thanh niên xung phong,
sống và chiến đấu trên huyết mạch Trường Sơn. Nhà văn viết về tuổi trẻ, vẻ đẹp Trường
Sơn huyền thoại. Mỗi tác phẩm cảu nhà văn như một bài ca ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng.
- Sau năm 1975, Lê Minh Khuê lại hăng hái tham gia vào công cuộc đổi mới văn
hóa để theo kịp những chuyển biến của đời sống, xã hội và con người.
- Nét nổi bật trong nghệ thuật viết truyện của Lê Minh Khuê là nghệ thuật mt tâm
lý nhân vật, tinh tế mà sâu sắc,l à lối viết văn tự nhiên, câu chữ giản dị mà chứa đựng đầy
tình yêu thương, trân trọng con người.
- Lê Minh Khuê quan niệm người cầm bút giống như con ong chăm chỉ, ngày
ngày cần mẫn hút nhụy ở hoa thơm để mang hương thơm đến cho đời. Nhà văn nói riêng
và nghệ sĩ nói chung giống như người thợ xây trên cánh đồng chữ nghĩa.
2. Tác phẩm
- Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn
- Với ngôi kể thứ nhất, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Phương
Định, vì thế mà diễn tả được tự nhiên, sinh động, ý nghĩa cảm xúc của các nhân vật góp
phần làm hiện lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của những cô gái thanh niên xung phong.
- Tác phẩm được viết năm 1971 khi kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang ở
giai đoạn vô cùng ác liệt và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cũng tỏa sáng hơn bao giờ
hết.
- Bố cục: 3 phần
+ Phần 1: Từ đầu đến ngôi sao trên mũ - nhân vật Phương Định kể về công việc,
cuộc sống của mình và đồng đội trong tổ trinh sát mặt đường.
+ Phần 2: Tiếp theo đến chị Thao bảo - kể về một lần phá bom nguy hiểm, Nho bị
thương, Phương Định và chị Thao tận tình chăm sóc và sự dũng cảm của Nho.
66
+ Phần 3: Còn lại - Niềm vui của ba cô gái trẻ khi vượt qua khó khăn và niềm tin
mãnh liệt của họ vào tương lai Tổ quốc.
II. Phân tích
1. Hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường Trường
Sơn
a) Hoàn cảnh sống và chiến đấu của những cô gái thanh niên xung phong
- Ba cô gái thanh niên xung phong, sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa
vùng trọng điểm của cao nguyên Trường Sơn.
- Công việc trọng điểm của ba cô là đo khối lượng đất đá mà bom Mỹ đào xới.
Công việc của họ còn là phá bom nổ chậm sau mọi trận oanh tạc của giặc để giữ cho con
đường Trường Sơn được khai thoáng, giúp cho đoàn xe băng băng chở lương thực, chở
đạn, chở quân ra tiền tuyến.
- Đó là công việc vô cùng nguy hiểm và căng thăng. Khi thực hiện nhiệm vụ, họ
phải đối diện, phải cận kề là cái chết.
- Công việc đòi hỏi sự bình tĩnh, tinh thần trách nhiệm, lòng dũng cảm, sự kiên
nhẫn, khéo léo và sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
- Chính lòng yêu Tổ quốc đã giúp những cô gái thanh niên xung phong vượt qua
hoàn cảnh khó khăn để hoàn thành công việc và chính khó khăn ấy lại góp phần làm sáng
lên vẻ đẹp, những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam thời chống Mỹ.
b) Nét đẹp chung ở ba cô gái thanh niên xung phong.
- Dù còn rất trẻ nhưng ba cô gái thanh niên xung phong là những con người gan
dạ, dũng cảm đầy nghị lực và quyết tâm.
- Họ có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, xuất phát từ tình yêu lý tưởng.
- Ở ba cô gái sáng lên tình đồng đội, gắn bó keo sơn.
- Ba cô gái ở độ tuổi trẻ nên rất dễ xúc động, giàu cảm xúc, ước mơ, lạc quan, yêu
đời. Họ hồn nhiên, dễ vui, dễ trầm tư, thích làm đẹp cho mình và cho cuộc đời.
 Ba cô gái thanh niên xung phong mang những phẩm chất vừa cao đẹp, vừa bình
thường, vừa nữ tính, đó là vẻ đẹp của những ngôi sao xa xôi mà không xa lạ.
c) Vẻ đẹp riêng
* Nhân vật Thao, là cô gái lớn tuổi nhất, có vẻ từng trải hơn cả có những dự tính thực tế
về tương lai. Cô là điểm tựa, là chỗ dựa vững chắc cho hai người đồng đội trẻ.
+ Chị Thao đã dũng cảm, bình tĩnh trước khó khăn, táo bạo và cương quyết trong
công việc, nhưng lại rất sợ máu, sợ vắt và cũng lúng túng khi đồng đội bị thương.
+ Chị Thao thích làm duyên bằng những chiếc áo thêu chỉ màu, bằng đôi lông mày
tỉa nhỏ như sợi tăm.
* Nhân vật Nho: Là cô gái nhỏ tuổi nhất, hồn nhiên, trong sáng, đáng yêu chẳng khác gì
một que kem mát lạnh.
+ Nho cũng mạnh mẽ, dũng cảm và bình tĩnh trong những thời khắc quan rọng, dù
bị thương nhưng cô cương quyết không cho đồng đội báo về đơn vị, cô cứng cỏi, tỏ ra
không hề đau đớn, cô mỉm cười để động viên đồng đội.
* Nhân vật Phương Định: Là cô gái Hà Nội có đời sống nội tâm sâu sắc và phong phú.

67
+ Phương Định nhạy cảm, thích mơ mộng nhưng khi đối mặt với hiểm nguy, cô
lại rất bình tĩnh, dũng cảm.
 Ba cô gái thanh niên xung phong vừa mang những phẩm chất tiêu biểu cho thế hệ
thanh niên xung phong những năm chống Mỹ ở mọi miền, lại có những nét đẹp riêng. Ba
cô gái thanh niên xung phong bởi vậy như ba ngôi sao tỏa sáng, lung linh trên bầu trời
cách mạng gắn với huyền thoại Trường Sơn.
2. Nhân vật Phương Định
a) Giới thiệu khái quát
- Phương Định là nhân vật chính trong tác phẩm.
- Nhân vật được xây dựng mang ý nghĩa đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ
trẻ Việt Nam những năm đnhs Mỹ, góp phần thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lý tưởng hóa, đẹp về ngoại hình đến
phẩm chất tâm hồn.
b) Vẻ đẹp ngoại hình
- Phương Định là cô gái xinh xắn với bím tóc dày và mềm, cái cổ cao, kiêu hãnh
như đài hoa loa kèn. Ấn tượng nhất là đôi mắt dài nâu, với ánh nhìn xa xăm dễ gợi tới
ngôi sao xa xôi, lung linh. Đôi mắt ấy đã khiến bao chàng lính trẻ khắc khoải, bồn chồn.
Đôi mắt hé mở một chiều sâu tâm hồn phong phú, mộng mơ và giàu nữ tính.
- Giữa khung cảnh chiến trường bị bom Mỹ cày nát và trong khói lửa chiến tranh
khốc liệt, vẻ đẹp của Phương Định thách thức mọi gian khổ, bất chấp cái chết, làm dịu đi
không khí căng thẳng, áp lực của chiến tranh.
c) Vẻ đẹp của tâm hồn, tính cách
- Phương Định là cô gái thanh niên xung phong, anh hùng, dũng cảm, một phẩm
chất đẹp đẽ, không thể thiếu của con người thời chiến.
+ Vừa rời ghế nhà trường, Phương Định xung phong vào Trường Sơn, sự lựa chọn
đi vào chiến trường gian khổ, ác liệt đã chứng tỏ lòng dũng cảm của Phương Định.
+ Cuộc sống chiến đấu hằng ngày, hằng giờ trên cao điểm phải đối mặt với bom
đạn, phải kề cận với cái chết. Có những khi vết thương chưa lành miệng, Phương Định
không nghị đến việc chữa trị mà vẫn lên bám đường, không rời vị trí, cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ.
- Tác giả đã kể tỉ mỉ một lần phá bom của Phương Định vẻ đẹp dũng cảm của nhân
vật
+ Khi đối mặt với quả bom nổ chậm giữa khung cảnh hoang tàn của chiến trường,
Phương Định cũng có cảm giác sợ, lo lắng, hồi hộp, cô có nghĩ đến cái chết, nhưng đó
chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Còn ý nghĩ thường trực, đau đáu trong lòng là liệu bom có nổ
không, liệu mình có hoàn thành nhiệm vụ không? Nghĩa là Phương Định đã đặt nhiệm vụ
lên trên hết, cao hơn cả sự sống của bản thân, đó là biểu hiện đẹp để của phẩm chất anh
hùng và tình yêu Tổ quốc.
+ Những thao tác phá bom của Phương Định rất khéo léo, chính xác và thành thạo
từ việc đặt bộc phá, lấp đất, châm ngòi, chạy về nơi ẩn nấp. Có những lúc mảnh bom cứ
xé không khí bay vun vút bên cạnh Phương Định vẫn tự tin, bình tĩnh để hoàn thành
nhiệm vụ.
68
+ Công việc của Phương Định hiểm nguy nhưng vô cùng cần thiết. Phương Định
phải trải qua nguy hiểm hàng ngày, cô vẫn kiên cường, thầm lặng, hoàn thành công việc.
Điều đó không chỉ khiến người đọc thấm thía về những đóng góp âm thầm, to lớn của
những nữ anh hùng thanh niên xung phong mà còn còn gợi lên tình cảm khâm phục và
biết ơn.
- Ở Phương Định có vẻ đẹp đáng quý của tình đồng đội:
+ Phương Định sốt ruột, lo lắng, thậm chí cảm thấy cuộc sống còn gì lý thú khi
đồng đội đi làm nhiệm vụ chưa về.
+ Phương Định yêu quý đồng đội trong tổ trinh sát mặt đường với một tình cảm
ruột thịt. Cô hiểu tường tận sở thích của từng người: Chị Thao thích làm đỏm bằng những
chiếc áo thêu chỉ màu, lông mày tỉa nhỏ như que tăm. Nho thì thích ăn kẹo và mát mẻ
như một que kem trắng.
+ Tình đồng đội còn thể hiện trong hành động, cử chỉ, tận tình chăm sóc Nho khi
Nho bị thương.
Tình đồng chí, đồng đội tạo nguồn sức mạnh lúc Phương Định vượt lên trên gian khổ
hiểm nguy để thực hiện lý tưởng vì thế mọi lần phá bom căng thẳng Phương Định như
được tiếp thêm sức mạnh, có ánh mắt của các anh chiến sĩ rõi theo.
- Vẻ đẹp tâm hồn nhạy cảm lãng mạn, mộng mơ, lạc quan, yêu đời.
+ Phương Định thích hát những làn điệu dân ca ngọt ngào tha thiết, giữa bối cảnh
chiến tranh ác liệt, con người luôn phải đối diện với hiểm nguy và cái chết thì tiếng hát
của Phương Định trở thành biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn, của sức mạnh tinh thần, của
niềm lạc quan yêu đời không gì có thể dập tắt.
+ Phương Định biết mình đẹp, thích ngắm mình trong gương, đầy nữ tính của
nhân vật.
+ Phương Định vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đã bất chợt đến giữa
rừng Trường Sơn. Đó chính là biểu hiện của một niềm vui hồn nhiên, thơ trẻ mà bom đạn
kẻ thù không thể che lấp, không thể làm chai sạm đi.
+ Phương Định thường hồi tưởng về cuộc sống thanh bình của thủ đô Hà Nội ở
những khoảng lặng giữa chiến trường ầm ĩ đạn bom. Phương Định nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ
quê, những kỷ niệm dịu êm. Nỗi nhớ ấy cũng sẽ là động lực, là sức mạnh để cô thanh
niên xung phong thanh thản bước vào cuộc chiến, dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước.
 Với vẻ đẹp tâm hồn phong phú, trẻ tung. Phương Định đã bước vào cuộc chiến,
Phương Định phải đối mặt với hình ảnh khốc liệt, vẻ đẹp của tâm hồn ấy đã khẳng định
sức sống mãnh liệt, bất chấp sự hủy diệt của chiến tranh tàn khốc, khẳng định vẻ đẹp
đáng yêu, đáng quý của những cô gái thanh niên xung phong.
d) Đánh giá về nhân vật
- Nhân vật Phương Định cũng như bao cô gái thanh niên xung phong khác văn học
thời kháng chiến chống Mỹ được viết nên bằng chính những trải nghiệm của tác giả đã
trải qua chiến tranh vì thế mà vừa bình dị, gần gũi vừa đẹp đẽ cao quý.
- Nhân vật Phương Định đẹp từ ngoại hình đến phẩm chất tâm hồn, được xây dựng
bằng ngòi bút lý tưởng hóa của Lê Minh Khuê. Bên cạnh đó nhân vật còn được thể hiện

69
bằng bút pháp hiện thực, gắn với những hành động, những diễn biến tâm lý chân thực,
gần gũi, sống động.
- Với phẩm chất anh dũng, với tinh thần yêu nước, với tình đồng đội gắn bó keo
sơn và tâm hồn lãng mạn, trẻ trung, lạc quan, yêu đời Phương Định trở thành ngôi sao
sáng nhất trong những ngôi sao xa xôi lấp lánh cho những trang văn của Lê Minh Khuê,
hình tượng nhaann vật Phương Định tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng những
năm chống Mỹ, tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng và con người Việt
Nam nói chung trong kháng chiến.
================================

Tiếng Việt: NGHĨA TƯỜNG MINH VÀ HÀM Ý

I. Hệ thống kiến thức


1. Nghĩa tường minh
a) Khái niệm
- Là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp rõ ràng bằng từ ngữ trong câu.
- Nghĩa tường minh bao giờ cũng rõ ràng nên được người đọc, người nghe tiếp
nhận tương đối giống nhau.
b) Ví dụ
- Cô gái cũng đứng lên thong thả đi đến
- Ồ! Cô còn quên chiếc mùi soa đây này.
2. Hàm ý
a) Khái niệm
- Là phần thông báo không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có
thể suy ra từ những từ ngữ ấy.
- Nhờ sử dụng hàm ý mà người nói truyền tải được ý nghĩ, nguyện vọng của mình
cho người khác một cách kín đáo, tế nhị, khéo léo.
- Hàm ý góp phần đem lại sự phong phú, đa dạng cho cách diễn đạt.
- Điều kiện sử dụng hàm ý là người nói (người viết) phải có ý thức đưa hàm ý vào
câu nói và người nghe (người đọc) phải có khả năng suy đoán hàm ý.
II. Bài tập
70
1) Hãy giải đoán hàm ý trong đoạn thơ sau đây:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa".
2) Tìm câu chứa hàm ý và giải đoán hàm ý trong các mẩu hội thoại sau:
a) Vua dầu mỏ nói với Bill Gate:
- Giá dầu leo thang thế này chắc tôi sẽ mua được cả thế giới.
Bill Gate mỉn cười gật đầu:
- Anhh thì có thể, nhưng tôi thì chưa, chưa có ý định bán nó.
b) Một nhà báo ban biên tập
- Xin lỗi, các anh sẽ đăng bài của tôi chứ?
Ban biên tập:
- Xin lỗi, nhưng bài đã kín các mặt báo mất rồi.
Hết kiên nhẫn, anh nhà báo nổi khùng:
- Nếu thế thì hãy ký vào đơn xin thôi việc của tôi.
Ban biên tập:
- Chúng tôi biết, thiếu anh sẽ rất khó khăn, nhưng có lẽ tôi e tôi sẽ cố gắng khắc
phục khó khăn từ chiều nay.
3) Hãy đặt các câu có chứa hàm ý cho các tình huống dưới đây:
a) Bạn em có một chiếc xe đạp mới rất đẹp. Em muốn bố mẹ mua cho một cái như thế
nhưng không muốn nói trực tiếp.
b) Bạn em mặc một chiếc áo không hợp, em sẽ góp ý một cách tế nhị như thế nào?
c) Bạn em giới thiệu một cuốn sách mà bạn cho là hấp dẫn, Em đã đọc từ lâu và thấy
không hay lắm, em nói thế nào để bạn không thất vọng?
THAM KHẢO 1
Nghĩa tường minh, nghĩa hàm ý là gì ?
1. Khái niệm:
– Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu.
( Nghĩa tường minh còn gọi là hiển ngôn ).
Nghĩa tường minh dễ nhận ra bởi nó thể hiện qua nguyên văn câu nói, người nghe không
phải suy diễn, ai cũng hiểu như vậy.
– Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu
nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ ấy. ( Nghĩa hàm ý còn gọi là hàm ngôn hoặc hàm ẩn
)
Hàm ý được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: mời mọc, rủ rê, từ chối, đề nghị kín
đáo, hoặc có khi là lời thiếu thiện chí.
Hay nói cách khác thì:
Nghĩa tường minh hay còn gọi là nghĩa đen: Là nghĩa hiện hiện trên câu văn, toát lên từ
câu chữ, nhìn vào là thấy ngay, hiểu ngay.
Nghĩa hàm ý ( hay hàm ẩn) còn gọi là nghĩa bóng: Là nghĩa ta không nhìn thấy ngay
được mà phải suy ngẫm, khám phá.
71
Nếu một câu có nghĩa hàm ý thì nghĩa hàm ý mới là ý nghĩa quan trọng nhất của câu.

2. Ví dụ
Vd1: “cháy nhà ra mặt chuột” / “cháy nhà lòi mặt chuột”
Nghĩa tường minh ( nghĩa đen): cháy nhà, chuột sợ phải chạy ra nên “lòi mặt chuột” .
Nghĩa hàm ẩn ( nghĩa bóng): Khi có hoạn nạn thì mới biết bản chất thật của con người.
Vd2: “dã tràng xe cát”
Nghĩa tường minh: hình ảnh con dã tràng xe cát
Nghĩa hàm ẩn: nhọc công mưu cầu việc gì mà cuối cùng nhọc công vô ích.
vd3: 1 cây làm chẳng nên non, 3 cây chụm lại nên hòn núi cao.
Nghĩa ẩn tức là đoàn kết tạo nên sức mạnh…

Văn bản: BẮC SƠN


(Nguyễn Huy Tưởng)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả có vị trí quan trọng trong nền văn học nước
nhà, đặc biệt tác giả có nhiều đóng góp ở thể loại kịch.
- Nguyễn Huy Tưởng sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà nho trước cách mạng
Tháng 8, ông là trí thức tiểu tư sản được giác ngộ tham gia Hội văn hóa cứu quốc và trở
thành trí thức cách mạng tham gia kháng chiến chống Pháp.
- Nguyễn Huy Tưởng thường viết về đề tài lịch sử để khơi dậy tinh thần dân tộc và
lòng yêu nước. Tác phẩm của ông vì thế mang đậm cảm hứng anh hùng ca và khuynh
hướng sử thi.
- Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng "Lá cờ thêu sáu chữ vàng", "Vũ Như
Tô" và "Bắc Sơn".
2. Tác phẩm
- Thể loại kịch
- Bố cục: Gồm 5 hồi và nhiều cảnh khác nhau
- Hoàn cảnh sáng tác: Vào năm 1946 khi cuộc kháng chiến chông Pháp ở giai
đoạn gian nan và hào hùng.
- Giá trị tác phẩm:
+ Nội dung: Vở kịch đề cập về tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng
nhân dân trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn vì thế có ý nghĩa thôi thúc ý chí hành động phục
vụ cách mạng của nhân dân.
+ Nghệ thuật: Tác phẩm đã dựng được tình huống kịch gay gắt, thúc đẩy hành
động kịch góp phần thể hiện nội tâm và tình cảm nhân vật, ngôn ngữ kịch linh hoạt, sắc
sảo, cuốn hút.
3. Đoạn kết
72
- Thuộc hồi 4 của vở kịch
- Đoạn trích gồm có ba lớp kịch
+ Lớp 1: Cuộc đối thoại của Thơm và Ngọc khi Thơm nhận ra sự thật về Ngọc
trong nỗi đau xót và ân hận. Đó là mâu thuẫn giữa Thơm và Ngọc.
+ Lớp 2: Tái hiện cảnh Thái và Cửu chạy trốn sự truy bắt của lính Pháp và việt
gian chạy vào nhà Thơm, Ngọc. Thơm quyết định cứu họ và cho hai người trốn vào
buồng ngủ của mình.
+ Lớp 3: Tái hiện cảnh Ngọc đột ngột trở về, Thơm hoảng hốt sau vẫn kiên quyết
che dấu cho cán bộ cách mạng. Ngọc không ngờ trước sự thayy đổi của Thơm nên không
nghi ngờ gì và chạy đuổi bắt cán bộ cách mạng.
- Mâu thuẫn trong đoạn trích được lồng giữa hai vợ chồng Thơm và Ngọc. Đó là
mâu thuận giữa quần chúng cách mạng (Thơm) và cán bộ cách mạng (Thái, Cửu) với việt
gian là Ngọc và lính Pháp. Đó là mẫu thuẫn giữa ta và địch.
- Tình huống trong đoạn kịch là tình huống lính Pháp và việt gian đang lùng bắt
cán bộ cách mạng. Trong tình huống này, sự dũng cảm của cán bộ cách mạng được điển
hình, sự xấu xa của việt gian bị bóc trần và quần chúng cách mạng đã giác ngộ và giúp đỡ
cán bộ cách mạng.
- Nội dung tư tưởng của đoạn kichj là lời ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần cách
mạng của quần chúng nhân dân, ngọn lửa của lòng yêu nước sẽ thức tỉnh mọi người đi
theo tiếng gọi của chính nghĩa để bảo vệ đất nước.
II. Đọc hiểu đoạn trích
1. Hình tượng nhân vật Thơm
a) Giới thiệu chung
- Thơm là nhân vật chính trong đoạn trích, cũng là nhân vật quan trọng trong vở
kịch Bắc Sơn.
- Thơm được xuất hiện trong đoạn trích ở một tình huống gay cấn, vừa nhận ra
bản chất việt gian bán nước của chồng mình thì lại đặt vào tình huống phải che dấu cán
bộ cách mạng là Thái và Cửu thoát khỏi sự truy sát của lính Pháp cùng sự chỉ điểm của
Ngọc hoặc là không cứu giúp để Ngọc và lính Pháp bắt 2 cán bộ cách mạng. Tình huống
ấy buộc Thơm phải lựa chọn bỏ mặc hay cứu giúp, thờ ơ hay hành động trung thành với
chồng hay làm theo tiếng nói giác ngộ cách mạng. Thơm đã hành động theo tiếng nói
giác ngộ cách mạng, che dấu cho cán bộ cách mạng, hành động ấy được tác giả khẳng
định và ngợi ca.
b) Phẩm chất của nhân vật
* Trong mối quan hệ với Thái và Cửu
- Đây là mối quan hệ giữa quần chúng cách mạng và cán bộ cách mạng. Lựa chọn
mối quan hệ này Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện và khẳng định quá trình khả năng thức
tỉnh giác ngộ cách mạng của quần chúng những năm đầu kháng chiến.
- Đoạn trích mở ra khi thấy Thơm bất ngờ thấy Thái và Cửu xuất hiện, cô lại ngỡ
rằng Thái và Cửu đến đại diện cho bác Ngọc vì hành động sai trái, xấu xa phản quốc,
nhưng thực chất Thái và Cửu đang bị giặc Pháp và taysai truy đuổi, trong đó có sự đóng
góp, ráo riết hăng hái của Ngọc.
73
- Khi biết Thái và Cửu đanng bị lùng bắt, Thơm lo lắng, lúng túng sợ hãi bởi chứa
chấp, che giấu cho cộng sản là một tội lớn.
+ Khi Cửu định bắn Thơm, Thái đã ngăn lại bảo rằng Thơm sẽ chẳng làm gì hại
họ. Thơm đã gật đầu và thừa nhận "Tôi chết thì chết chứ không báo hai ông đâu". Chứng
tỏ cô không quay lưng với cách mạng, cô có tình cảm với cách mạng, cô sẽ không bán rẻ
cán bộ cách mạng và cô khinh rẻ những kẻ bán nước theo Tây.
+ Khi Thái định ra ngoài xem tình hình, Thơm đã ngăn lại vì biết như vậy là nguy
hiểm, hành động ấy thể hiện ý thức cách mạng của Thơm.
+ Thấy Ngọc và bọn Pháp đang khám xét các nhà bên cạnh, Thơm hoảng hốt
không biết nên xử trí như thế nào, sau đó cương quyết mau lẹ, đẩy Thái và Cửu vào trong
buồng, Hành động ấy chứng tỏ Thơm đã thực sự giác ngộ, đã làm nhiệm vụ của quần
chúng cách mạng, đã đóng góp sức mình cho quần chúng cách mạng.
 Trong mối quan hệ với Thái và Cửu, Thơm đã bộc lộ ý thức cách mạng, hành động
cách mạng đúng đắn, làm những điều có ích cho cách mạng và phẩm chất cách mạng của
Thơm đã được tấc giả khẳng định, ngợi ca.
* Trong mối quan hệ với Ngọc
- Đây là mối quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, thông thường vợ chồng thống
nhất, cô thuận theo ý của chồng nhưng trong tình huống kịch, Thơm đã dối Ngọc, đã
không hành động giống như chồng bởi vì Thơm đã nhận ra hành động chỉ điểm của Ngọc
và đã giác ngộ đó là hành động sai trái.
- Mối quan hệ giữa Thơm và Ngọc trở thành quan hệ đố lập giữa quần chúng cách
mạng và việt gian bán nước, giữa ta và địch.
- Khi Ngọc xuất hiện Thơn đã phải che giấu cho cán bộ, trong tình huống đó, đại
diện cho quần chúng cách mạng đã giác ngộ đứng về phía ta, Thơm buộc phải đóng kịch
để chồng không nghi ngờ.
+ Thơm tỏ ra khôn khéo, dịu dàng và thân thiện để tránh sự nghi ngờ của Ngọc.
+ Thấy bọn lính phía sau nhà Thơm cũng sợ hãi nhưng lại ngỏ ý trách Ngọc không
mời họ lên chơi, đó cũng là cách đánh lạc hướng để Thái và Cửu có điều kiện trốn thoát.
 Vì cách mạng mà Thơm phải dối chồng nhưng việc làm đó là việc làm đúng, việc làm
có ý nghĩa bảo vệ cách mạng, bảo vệ chính nghĩa. Lúc này rõ ràng Thơm đã đặt lợi ích
cách mạng lên trên tất cả.
- Trong cuộc trò chuyện giữa Ngọc và Thơm, ta không chỉ hiểu thêm về Ngọc mà
còn có điều kiện hiểu hơn thái độ của quần chúng cách mạng đối với những kẻ việt gian
bán nước.
+ Thấy vợ buồn rầu, day dứt trước cái chết của cha và em mà Ngọc có phần can
dự, Ngọc vẫn tỏ ra thương xót, cảm thông, thậm chỉ còn giả nhân, giả nghĩa khuyên và an
ủi vợ. Trước thái độ đó của Ngọc, Thơm càng nhìn rõ bản chất xấu xa của chồng mình.
+ Khi Ngọc hân hoan dự tính bắt được Thái và Cửu sẽ có tiền tậu thêm ruộng để
sống sung sướng hơn. Thơm không vui mừng mà càng thêm nhục nhã về việc làm chó
săn của chồng.

74
+ Cùng với việc thức tỉnh ý thức cách mạng, Thơm hiểu rõ bản chất của kẻ thù và
đã hành động với tinh thần yêu nước, đó chính là phẩm chất cách mạng đẹp đẽ ở nhân vật
Thơm.
 Qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Thơm, tác giả đã ca ngợi tâm hồn trong sáng,
thẳng thắn, lương tiện vốn là phẩm chất đẹp đẽ của nhân dân lao động. Bên cạnh đó tác
giả khẳng định ý thức cách mạng, khả năng làm cách mạng của quần chúng nhân dân,
cách mạng luôn sẵn có trong lòng quần chúng nhân dân.
=================================
Văn bản: TÔI VÀ CHÚNG TA
(Lưu Quang Vũ)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Lưu Quang Vũ là nhà thơ, nhà viết kịch nổi tiếng, cây bút tiêu biểu của nền văn
học Việt Nam hiện đại cuối thế kỷ XX.
- Lưu Quang Vũ sáng tác từ trước năm 1975 với danh nghĩa là nhà viết kịch tài
năng, kịch của ông đề cập đến những vấn đề có tính thời sự, nóng hổi những năm đầu thế
kỷ XX. Từ đó đưa ra nhiều thông điệp, nhiều nguyên lý sâu sắc về cuộc đời và con
người.
- Những vở kịch tiêu biểu của Lưu Quang Vũ như "Hồn Trương Ba da hàng thịt",
"Hai ngàn ngày oan trái", "Tôi và chúng ta". Với những đóng góp lớn lao cho nền nghệ
thuật nước nhà, năm 2000 Lưu Quang Vũ được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Vở kịch được sáng tác những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là
thời điểm đất nước đang trên đường đổi mới có nhiều vấn đề được đặt ra, đặc biệt là mối
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, vấn đề lợi ích chung.
- Giá trị nội dung: Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung: Kể về quá trình đấu
tranh để đổi mới ở xí nghiệp Thắng Lợi. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa những con
người mạnh dạn đổi mới, tiêu biểu là Hoàng Việt với những kẻ bảo thủ, lạc hậu, không
chịu thay đổi theo sự chuyển mình manhj mẽ của xã hội tiêu biểu như Nguyến Chính.
Thế nhưng, cuối cùng cái mới, cái tiến bộ đã chiến thắng.
II. Đọc hiểu tác phẩm
1. Nhan đề "Tôi và chúng ta"
- Tôi là cá nhân, chúng ta là tập thể, từ và là quan hệ từ chỉ sự gắn bó giữa tôi và
chúng ta, giữa cá nhân và tập thể.
- Không có chủ nghĩa tập thể chung chung, chỉ có tập thể được tạo ra từ những cái
tôi cá nhân cụ thể. Vì thế khi quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân được đảm bảo, thống
nhất với quyền lợi và nghĩa vụ của tập thể mới tạo ra được sức mạnh vững chắc.
+ Mỗi người phải thấy được cái tôi trong tập thể, thống nhất trong cái chung
nhưng cũng đòi hỏi chính đáng được tôn trọng, được đảm bảo lợi ích và nghĩa vụ cụ thể,
thiết thực của cái tôi riêng.

75
+ Nhan đề Tôi và chúng ta là một nhan đề có ý nghĩa khái quát nội dung tư tưởng
của tác giả thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa tôi và chúng ta, cá nhân và tập thể, đây
là vấn đề có ý nghĩa thời sự nóng bỏng trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất
nước.
2. Hình tượng nhân vật Hoàng Việt
a) Giới thiệu nhân vật
- Hoàng Việt là nhân vật chính trong vở kịch, nhân vật mang tư tưởng của tác giả
Lưu Quang Vũ , nhân vật đại diện cho cái mới, cái tiến bộ.
- Hoàng Việt xuất hiện trong tình thế khó khăn: Đó là khi nhân vật được cử làm
giám đốc xí nghiệp Thắng Lợi vào thời điểm xí nghiệp làm ăn thua lỗ, trì trệ và lạc hậu
nhất.
- Nhân vật buộc phải lựa chọn theo nếp cũ hay đổi mới và hành động quyết định
công bố bản đề cương, đổi mới xí nghiệp của Hoàng Việt chính là hành động quyết tâm
đổi mới toàn diện.
b) Tính cách, phẩm chất của Hoàng Việt
- Hoàng Việt là người có tac phong làm việc khẩn trương, dân chủ không ưa hình
thức.
+ Khi công bố bản đề cương kế hoạch đổi mới xí nghiệp, Hoàng Việt không cần
phòng họp riêng, cũng không cần hội trường riêng, không tổ chức nghi lễ trang trọng,
rườm rà.
+ Hoàng Việt trình bày đề cương kế hoạch đổi mới xí nghiệp ngay trong phòng
giám đốc với đầy đủ các thành phần trong bộ máy điều hành xí nghiệp, anh đứng cạnh
bàn tổ chức điều hành cuộc họp.
- Hoàng Việt là người có tinh thần đổi mới, tư tưởng tiến bộ và khoa học.
+ Bản kế hoạch mà Hoàng Việt đưa ra trên tinh thần đổi mới nhằm mở rộng quy
mô sản xuất và tổ chức lại cách làm ăn, đó là điều trong hiện tại đangg rất trì trệ ở xí
nghiệp Thắng Lợi.
+ Bản kế hoạch đổi mới được Hoàng Việt tính toán hết sức khoa học và mang tính
khả thi có thể tăng mức sản xuất lên mức năm lần và tạo công việc làm ăn cho nhiều
người.
- Hoàng Việt là người có bản lĩnh vững vàng, dám đương đầu với những thế lực
cản trở quá trình đổi mới và dám chịu trách nhiệm về những việc mình làm.
+ Trước thái độ phân vân, sợ hãi của Lê Sơn người cùng tư tưởng đổi mới với
Hoàng Việt nhưng vẫn còn do dự ngại ngần. Hoàng Việt đã khéo léo, động viên để Sơn
mạnh dạn trình bày ý tưởng và sẵn sàng bắt tay vào đổi mới xí nghiệp.
+ Trước sự phản ứng, chống đối của những kẻ bảo thủ, lạc hậu Hoàng Việt có
cách ứng xử cương quyết, cụ thể là khi viên trưởng phòng phản ứng không nên tuyển
thêm nhân viên và tăng lương gấp bốn lần, Hoàng Việt đã nghiêm khắc tuyên bố ""Lệnh
của tôi đã được thi hành, tôi chịu trách nhiệm". Đối với phản ứng của quản đốc Trương,
Hoàng Việt đã cứng rắn dập tắt thái độ cứng nhắc, hách dịch đối với công nhân của ông
ta. Đặc biệt là với phó giám độc Chính - con người lọc lõi, khôn ngoan, xảo quyệt dựa
vào cấp trên để phản đối kế hoạch đổi mới không được, hắn đã dựa vào nghị quyết của
76
Đảng ủy, nhân danh đạo đức và quyền lợi, thành tíc của xí nghiệp để đe dọa Hoàng Việt.
Hoàng Việt đã thẳng thắn nói "Đồng chí là phó giám đốc tức là chức vụ giúp việc cho
giám đốc, nếu không đồng ý với chức vụ ấy, đồng chí có thể xin từ chức".
a) Đánh giá về nhân vật
- Hoàng Việt mang những phẩm chất đẹp đẽ của con người mới xã hội chủ nghĩa,
thông minh, bản lĩnh dám nghĩ, dám làm đó là hình mẫu lý tưởng.
- Tính cách nhân vật được thể hiện sinh động qua các mối quann hệ xung đột, qua
ngôn ngữ đối thoại với các nhân vật khác.
- Xây dựng nhân vật Hoàng Việt, tác giả đã làm rõ cuộc đấu tranh giữa cũ và mới;
tiến bộ và lạc hậu một cách gay gắt. Trong cuộc đấu tranh ấy cái mới, cái tiến bộ dành
được chiến thắng tất yếu, đây là vấn đề có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống. Đặc biệt là
trong công cuộc đổi mới đất nước, những năm đầu còn nhiều khó khăn phải vượt qua.
=========================
Luyện đề: NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI

ĐỀ 1: Nêu ý nghĩa nhan đề tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi"


I. Yêu cầu làm dạng đề nêu ý nghĩa nhan đề tác phẩm
1. Yêu cầu về hình thức và kỹ năng
- Đảm bảo bố cục bài văn hoặc đoạn văn theo yêu cầu của đề.
- Biết cách triển khai ý theo kỹ năng làm kiểu bài tái hiện kiến thức (2 điểm)
2. Yêu cầu nội dung - kiến thức
- Hiểu được ý nghĩa vị trí của nhan đề đối với một tác phẩm nghệ thuật văn học.
- Trình bày được các ý nghĩa của nhan đề tác phẩm mà đề bài yêu cầu
II. Cấu trúc bài làm - hướng triển khai ý
1. Bước 1: Mở bài (mở đoạn):
- Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ. Nhan đề tác phẩm
không chỉ là tên gọi của đứa con tinh thần ấy mà còn là sự gửi gắm, tư tưởng của nhà văn
sẽ được thể hiện qua tac phẩm
- Những ngôi sao xa xôi là sự lựa chọn của nhà văn Lê Minh Khuê, một truyện
ngắn viết về thế hệ trẻ Trường Sơn ra đời năm 1971, đây là một nhan đề giàu ý nghĩa.
2. Bước 2: Thân bài - phân tích đoạn
- "Những ngôi sao xa xôi" được gợi lên từ ánh mắt xa xăm của Phương Định, đôi
mắt đẹp, dài, màu nâu hay nheo lại như chói nắng. Từ những ngôi sao trên mũ, các anh
bộ đội, từ những ngôi sao trên bầu trời thành phố, những ngọn đèn lung linh trong dòng
hồi tưởng dịu êm của Phương Định về Hà Nội. Cơ bản hơn cả nhan đề tác phẩm gợi lên
từ chính vẻ đẹp tâm hồn của những cô thanh niên xung phung trong tổ trinh sát mặtđường
nơi cao điểm Trường Sơn: Nho, Thao, Phương Định.
- Những ngôi sao xa xôi là ẩn dụ nghệ thuật chỉ những con người đã dâng hiến
cuộc đời, dâng hiến tuổi thanh xuân cho sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự do của Tổ
quốc. Phương Định, Thao, Nho là ba trong muôn vàn ngôi xao xa xôi lung linh, ngời
sáng giữa hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

77
- Những ngôi sao xa xôi mà vô cùng gần gũi, thân thuộc như ba cô gái tổ trinh sát
mặt đường: Nho, Thao, Phương Định như những Đặng Thùy Trâm, như những cô gái ngã
ba Đồng Lộc; họ đã từ cuộc đời đi vào trang văn để mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồm bao
thế hệ. Nhan đề tác phẩm bởi thế là lời ca ngợi, tôn vinh những con người đã góp phần
làm nên lịch sử trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, những năm chống Mỹ.
3. Bước 3: (Kết bài - kết đoạn)
- Khẳng định, khái quát, đánh giá về nhan đề:
+ Nhan đề "Những ngôi sao xa xôi" có mối liên hệ mật thiết với thế giới nghệ
thuật trong tác phẩm.
+ Nhan đề đã góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm và năng lực sáng tạo của nhà
văn.
+ Đó là một nhan đề giàu ý nghĩa và đầy chất thơ.
=================================
ĐỀ 2: Phân tích nhân vật "Phương Định" trong tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của Lê
Minh Khuê.
I. Cấu trúc kiểu bài phân tích nhân vật trong một tác phẩm văn học
1. Mở bài
- Dẫn dắt (Bằng nhận định, bằng lời văn của mình)
- "Có ý kiến cho rằng: "Nhân vật nhiều khi thật hơn người thật ở ngoài đời". Với
quan điểm này, người viết đã khẳng định sức sống, khả năng thể hiện con người ttrong
hiện thực cuộc sống của nhân vật.
- Giới thiệu nhân vật: Phương Định nhân vật trong tác phẩm "Những nôi sao xa
xôi" của Lê Minh Khuê cho chúng ta cảm giác rất thực về những cô thanh niên xung
phong nơi tuyến lửa Trường Sơn khốc liệt. Nhân vật được xây dựng từ những trải nghiệm
cuộc đời thanh niên xung phong cùng với tài năng nghệ thuật của nhà văn Lê Minh Khuê.
2. Thân bài
a) Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật
- Lê Minh Khuê là gương mặt tiêu biểu trong nền văn học kháng chiến. Lê Minh
Khuê là nhà văn cũng chính là một chiến sĩ thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Nhà văn nữ này viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi
trẻ Trường Sơn vừa chân thực, vừa như những huyền thoại để ngợi ca vẻ đẹp của con
người Việt Nam, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam những năm đánh Mỹ.
- Những ngôi sao xa xôi được viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc đang ở một giai đoạn vô cùng ác liệt.
- Phương Định là một cô gái thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường
chiến đấu ở một cao điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi máy bay Mỹ thường xuyên
bắn phá.
- Công việc của Phương Định hết sức nguy hiểm, đó là mọi khi máy bay Mỹ ném
bom, Phương Định cùng đồng đội phải vượt lên trên cao điểm, phơi mình dưới nắng
nóng, dưới cặp mắt của bọn giặc lái, giữa những mảnh bom xé rách không gian xung
quanh để đo khối lượng đất đá cần san lấp, đếm và phá bom nổ chậm. Cuộc sống hết sức

78
nguy hiểm, phải đố diện với cái chết, đòi hỏi sự tập trung cao độ và tinh thần trách
nhiệm. Đó là thứ lửa thử vàng để từ đó phẩm chất đẹp đẽ của nhân vật được khẳng định.
b) Phân tích nhân vật
* Vẻ đẹp ngoại hình
- Tái hiện:
+ Phương Định là một cô gái khá, một cô gái Hà Nội xinh xắn với bím tóc dày và
mềm, cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Đôi mắt dài, màu nâu với cái nhìn xa
xăm khiến bao chàng lính trẻ khắc khoải bồn chồn.
+ Lê Minh Khuê đã khắc đậm ấn tượng về đôi mắt Phương Định để hé mở với
người đọc về tâm hồn mộng mơ, giàu nữ tính.
- Đanh giá
+ Vẻ đẹp ngoại hình của Phương Định đối lập và nổi bật giữa bối cảnh chiến
trường khốc liệt, gian khổ.
+ Đó là cái đẹp bất chấp sự hủy diệt của chiến tranh làm dịu đi không khí căng
thẳng, khốc liệt của cuộc chiến.
* Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách
- Tái hiện: Vẻ đẹp dũng cảm của cô gái thanh niên xung phong những năm đánh
Mỹ.
+ Chứng minh: Quyết định xung phong vào Trường Sơn
+ Đánh giá: Cuộc sống, công việc nguy hiểm và tinh thần trách nhiệm, sự dũng
cảm của nhân vật (một lần phá bom).
+ Đánh giá: Đó là vẻ đẹp của tình đồng đội, cao quý, gắn bó.
+ Đó là ngưỡng mộ, khâm phục các anh bộ đội.
+ Lo lắng, quan tâm và hiểu về đồng đội.
+ Đánh giá tình đồng đội là nguồn sức mạnh, là vẻ đẹp phẩm chất mới mẻ gắn với
con người thời chiến.
- Vẻ đẹp tâm hồn nhạy cảm, lạc quan yêu đời
+ Thích hát
+ Thích ngắm mình trong gương
+ Thích thú trước cơn mưa đã
+ Hồi tưởng về kỷ niệm
+ Đánh giá: Đó là vẻ đẹp nữ tính, trẻ trung là sức sống mãnh liệt của con người
trong chiến tranh.
c) Đánh giá
- Nhân vật Phương Định được tái hiện bằng những trải nghiệm và lòng yêu mến
của Lê Minh Khuê nên vừa bình dị vừa đẹp đẽ cao quý.
- Nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lý tưởng hóa với diễn biến tâm lý sinh
động, chân thực với những hành động cao đẹp.
- Phương Định là nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống
Mỹ cho con người Việt Nam trong chiến tranh.
3. Kết bài

79
- Nhân vật chính là nơi chuyên chở nội dung phản ánh, tư tưởng của tác phẩm, là
nơi ký thác quan niệm về con người, về cuộc đời của nhà văn.
- Phương Định được tái hiện trong tác phẩm vừa có cá tính đậm nét, vừa mang
những phẩm chất chung đẹp đẽ của thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ.
- Bằng bút pháp lý tưởng hóa kết hợp hài hòa giữa cảm xúc lãng mạn, ngợi ca. Lê
Minh Khuê đã xây dựng thành công nhân vật Phương Định. Bởi thế đã đọc Những ngôi
sao xa xôi thì không thể không nhớ, không yêu, không ngưỡng mộ về ngôi sao sáng nhất
này.
==================================
ĐỀ 3: Vẻ đẹp ba cô gái thanh niên xung phong trong tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi"
của Lê Minh Khuê.
- Dẫn dắt (Bằng nhận định, bằng lời văn của mình)
- "Có ý kiến cho rằng: "Nhân vật nhiều khi thật hơn người thật ở ngoài đời". Với
quan điểm này, người viết đã khẳng định sức sống, khả năng thể hiện con người ttrong
hiện thực cuộc sống của nhân vật.
- Giới thiệu nhân vật: Phương Định nhân vật trong tác phẩm "Những nôi sao xa
xôi" của Lê Minh Khuê cho chúng ta cảm giác rất thực về những cô thanh niên xung
phong nơi tuyến lửa Trường Sơn khốc liệt. Nhân vật được xây dựng từ những trải nghiệm
cuộc đời thanh niên xung phong cùng với tài năng nghệ thuật của nhà văn Lê Minh Khuê.
2. Thân bài
a) Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật
- Lê Minh Khuê là gương mặt tiêu biểu trong nền văn học kháng chiến. Lê Minh
Khuê là nhà văn cũng chính là một chiến sĩ thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Nhà văn nữ này viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi
trẻ Trường Sơn vừa chân thực, vừa như những huyền thoại để ngợi ca vẻ đẹp của con
người Việt Nam, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam những năm đánh Mỹ.
- Những ngôi sao xa xôi được viết năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc đang ở một giai đoạn vô cùng ác liệt.
- Ba cô gái thanh niên xung phong: Thao, Nho, Phương Định xuất hiện trong tá
phẩm ở vào bối cảnh khốc liệt nhất của những năm tháng chiến tranh. Họ là những ngôi
sao xa xôi sáng lunh linh trên bầu trời cách mạnh Việt Nam những năm chống Mỹ.
- Ba cô gái sống trong một hang đá dưới chân cao điểm nơi có con đường bị đánh
lở loét chẳng còn sắc xanh, chỉ có những thân cây lở loét, thô cháy nằm lăn lóc, nơi tiếng
máy bay, tiếng bom đạn gầm rú đinh tai, nhức óc.
- Công việc của ba cô gái hết sức nguy hiểm, họ phải đối diện với bom đạn, với
cái chết. Những khi máy bay ném bom, họ phải vượt lên cao điểm, phơi mình dưới nắng
nóng, dưới cặp mắt của bọn giặc lái, giữa những mảnh bom xé rách không gian xung
quanh để đo khối lượng đất đá cần san lấp, đếm và phá bom nổ chậm. Cuộc sống hết sức
nguy hiểm, phải đố diện với cái chết, đòi hỏi sự tập trung cao độ và tinh thần trách nhiệm
lớn để hoàn thành công việc.
- Hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt và trách nhiệm gian khó lớn là thứ lửa thử vàng
để khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong trong hoàn cảnh
80
khốc liệt, vẻ đẹp của những phẩm chất cao quý nơi Thao, Nho và Phương Định trở thành
những huyền thoại được tôn vinh như những "Ngôi sao xa xôi" đẹp đẽ, đáng quý.
* Phân tích vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong
- Vẻ đẹp chung
+ Dũng cảm
+ Có tinh thần đồng đội
+ Trẻ trung, lãng mạn, có lý tưởng sống đẹp
 Đánh giá: Vẻ đẹp chung của ba cô gái thanh niên xung phong: Thao, Nho, Phương
Định chính là những nét đẹp tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam những năm kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
- Nét đẹp cá tính riêng:
+ Thao: Chín chắn, từng trải, dũng cảm, táo bạo, thích làm đẹp.
+ Nho: Nhỏ tuổi, trong trẻo
+ Phương Định: nổi bật nhất
3. Kết bài
- Ba cô gái thanh niên xung phong được tái hiện trong tác phẩm với sự kết hợp
giữa phẩm chất của người anh hùng và con người đời thường, giữa cái cao cả và cái bình
dị vì thế mà vừa gần gũi, thân thuộc, vừa cao cả, đẹp đẽ.
- Tái hiện vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê dùng nét
bút tả thực kết hợp với lãng mạn và lý tưởng hóa khiến cho nhân vật hiện lên như những
bức tượng đài đẹp đẽ, thiêng liêng.
- Ba cô gái thanh niên xung phong mỗi người một nét đẹp, một cá tính, mỗi người
như một ngôi sao tỏa sáng làm thành chùm sao lung linh trên bầu trời cách mạng những
năm chống Mỹ, góp phần khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
=================================
ĐỀ 4: Tóm tắt tác phẩm "Những nôi sao xa xôi" và nêu chủ đề tác phẩm
- Những ngôi sao xa xôi là truyện ngắn xuất sắc của Lê Minh Khuê được sáng tác
năm 1971 ở Trường Sơn.
- Truyện ngắn kể về ba cô gái thanh niên xung phong: Thao, Nho và Phương Định
trong tổ trinh sát mặt đường nơi huyết mạch Trường Sơn.
- Họ sống trong một hang đá dưới chân cao điểm, nơi máy bay thường xuyên bắn
phá. Công việc của họ là khi máy bay ném bom, họ phải vượt lên cao điểm, để đo khối
lượng đất đá cần san lấp, đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc
hét sức nguy hiểm và vất vả. Họ phải phơi mình dưới nắng nóng, dưới cặp mắt của bọn
giặc lái, với cái chết rình rập, nơi những quả bom chưa nổ. Ba cô gái đã dũng cảm, khéo
léo hoàn thành công việc lưu thông huyết mạch Trường Sơn. Họ gắn bó với nhau bằng
tình yêu thương đồng đội dù mỗi người một thói quen, một sở thích khác nhau. Một lần
phá bom, Nho bị thương, Thao và Phương Định lo lắng và tận tình chăm sóc. Một trận
mưa đá rơi trên cao điểm khiến những cô gái vui thích và Phương Định suy tư bâng
khuâng nhớ về Hà Nội, nơi có căn nhà thân yêu và người mẹ yêu thương.
- Tác phẩm ngợi ca tâm hồn trong sáng, mộng mơ, tinh thần dũng cảm của những
cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong cuộc chiến đấu đầy
81
gian khổ, hy sinh. Đó cũng là lời ngợi ca vẻ đẹp thế hệ trẻ Việt Nam: Sứ mạnh của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng những năm chống Mỹ cứu nước.
===================================
Luyện đề: CHIẾC LƯỢC NGÀ
(Nguyễn Quang Sáng)
ĐỀ 1: Nêu ý nghĩa nhan đề tác phẩm "Chiếc lược ngà"
1. Mở bài: (Giống đề 1 "Những ngôi sao xa xôi")
2. Thân bài
- Chiếc lược ngà là một hình ảnh thực trong tác phẩm gắn với niềm mong ước đơn
sơ của bé Thu trong giây phút từ biệt cha: "Ba về, ba mua cho con cây lược, nghe ba".
Cây lược được ông Sáu làm nơi chiến khu trong nỗi nhớ con cùng với niềm ân hận, xót
xa. Cây lược được làm bằng tất cả sự cố gắng khổ công, khéo léo của một người cha như
người thợ bạc thực sự.
- Chiếc lược ngà là di vật còn lại của ông Sáu trước khi hy sinh. Nó đã vượt lên
trên ý nghĩa thực để mang ý nghĩa biểu tượng về tình cha. Người cha ấy đã ra đi nhưng
tình cha thì không thể mất. Chiếc lược ngà là món quà vô giá mà bé Thu nhận được trong
cuộc đời, sự quý giá ấy chẳng phải bằng chất liệu ngà voi của chiếc lược mà ở bằng tình
cha gửi gắm vào chiếc lược ngà là hiện thân của tình cha thiêng liêng, cao quý và bất tử.
- Chiếc lược ngà trở thành chi tiết quan trọng trong tác phẩm để từ đó tá phẩm
không chỉ là bài ca về con người Việt Nam trong những năm chống Mỹ. Không chỉ là bài
ca về tình phụ tử muôn đời mà còn là bài ca về tình người thiêng liêng. Tình cảm ấy
không có kẻ thù nào, bom đạn nào có thể hủy diệt nổi, trái lại đặt trong hoàn cảnh chiến
tranh tình cha con, tình người càng lung linh, sáng đẹp hơn.
=======================================
ĐỀ 2: Phân tích tình huống trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
I. Cách làm bài về tình huống truyện
1. Mở bài
- Dẫn dắt: Nguyễn Minh Châu từng nói: "Chọn được một tình thế xảy ra trong câu
chuyện coi như đã thành công được một nửa". Điều đó cho thấy rằng tình huống truyện
giữ một vai trò rất quan trọng trong thành công của truyện ngắn.
- Nêu vấn đề: Với tác phẩm "Chiếc lược ngà", nhà văn Nguyễn Minh Châu đã làm
được điều này.
2. Thân bài: Lần lượt triển khai ý theo trình tự sau:
* Ý 1: Giới thiệu về tình huống truyện trong tác phẩm
- Quan niệm về tình huống truyện: Tình huống truyện là những sự kiện, những sự
việc diễn ra trong cuộc sống mang tính nghịch lý, bất thường éo le. Tình huống được xem
như một lát cắt, một khoảnh khắc của đời sống mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất. Tình
huống truyện là nội dung nhân vật được đặt vào đó để bộc lộ tính cách và số phận.
- Tái hiện tình huống truyện trong tác phẩm được phân tích.
* Ý 2: Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm
* Ý 3: Đánh giá ý nghĩa của tình huống truyện
3. Kêt bài:
82
- Có thể nói nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng được một tình huống truyện
độc đáo, đặc sắc và đầy ý nghĩa. Tình huống truyện này đã góp phần tạo nên vẻ đẹp, giá
trị và sức hấp dẫn riêng cho tá phẩm; đồng thời yếu tố nghệ thuật này đã được khẳng định
bút lực, tài năng của cây bút truyện ngắn vững vàng.
II. Thực hành
* Mở bài: Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: "Chọn được một tình thế xảy ra trong
câu chuyện coi như đã thành công được một nửa". Điều đó cho thấy rằng tình huống
truyện giữ một vai trò rất quan trọng trong thành công của một truyện ngắn. Và Nguyễn
Quang Sáng với tác phẩm "Chiếc lược ngà" đã thành công với việc xây dựng tình huống
truyện độc đáo.
* Thân bài:
1. Giới thiệu tác phẩm và tình huống truyện
- Chiếc lược ngà là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng được viết
năm 1966, đây là một bài ca về tình phụ tử thiêng liêng trong những năm tháng gian nan
mà hào hùng.
- Tình huống truyện là những sự việc, sự kiện diễn ra trong cuộc sống mang tính
nghịch lý, bất thường và éo le. Tình huống được xem như là một lát cắt, một khoảnh khắc
của đời sống mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất. Tình huống truyện chính là nơi nhân vật
được đặt vào đó, được bộc lộ tính cách và số phận.
- Tình huống truyện trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" chính là tình huống ông Sáu
về thăm nhà với niềm khao khát được gặp con. Nhưng bé Thu lại không nhận cha. Nó
ương ngạnh không chấp nhận sự quan tâm của ống Sáu để rồi không kìm được nóng giận,
ông Sáu đã đánh con. Tình huống truyện trong tác phẩm này còn là khi ở chiến khu, ông
Sáu làm chiếc lược ngà để tặng con và hy sinh.
2. Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm
a) Tình huống ông Sáu về thăm nhà với niềm khao khát nhưng bé Thu ương ngạnh không
nhận cha
- Đây là tình huống vô cùng éo le nhưng cũng rất dễ diễn ra trong bối cảnh chiến
tranh.
- Tình huống truyện này đã tac động rất lớn và góp phần giúp ta nhìn thấy rõ vẻ
đẹp của ông Sáu về tình cha.
+ Tám năm đi bộ đội là tám năm ông Sáu sống xa con với tâm trạng mong nhớ,
với khát khao giây phút được gặp con.
+ Tình cảm dạt dào của người cha khiến đứa con hoảng sợ, bỏ chạy trong phút đầu
gặp lại và sau đó người cha phải đau đớn đối diện với sự lạnh lùng, lảng tránh đầy ương
ngạnh của con gái nhỏ.
+ Ông Sáu khao khát nghe con gọi tiếng "ba" nhưng bé Thu chỉ đáp lại bằng
những câu nói cộc lốc, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương bằng những cử chỉ chăm sóc
nhưng nó một mực từ chối khiến ông Sau vô cùng buồn tủi.
+ Đỉnh điểm của tình huống này là việc bé Thu ương ngạnh hất chiếc trứng cá ra
khỏi bát cơm khiến ông Sáu nóng giận và tổn thương đã lỡ đánh con để rồi sau đó vô
cùng ân hận.
83
- Tình huống truyện éo le nhưng hợp lý đối với cả ông Sáu và bé Thu. Bởi ông
Sáu đi chiến trường từ khi Thu còn quá nhỏ, khi lớn lên nó chỉ biết đến người cha qua
bức ảnh chụp chung với má nó. Nó đã dồn tất cả tình yêu thương mong nhớ cho người
cha, còn ông Sáu - người xưng với nó là ba với chiếc sẹo dài không giống với ba của nó
trong ảnh, bởi vậy nó cương quyết tự tuyệt. Sự ương ngạnh trong lời nói và hành động
của bé Thu chính là biểu hiện tuyệt vời của con dành cho cha. Một thứ tình cảm nguyên
vẹn sâu sắc, không thể san sẻ.
- Tình huống truyện thứ nhất này khép lại trong phút chia tay khi ông Sáu được
sống trong niềm hạnh phúc của người cha, khi bé Thu lần đầu tiên cũng là lần duy nhất
được hưởng chọn tình cha, niềm hạnh phúc ngắn ngủi và lớn lao khiến ông Sáu xúc động
dữ dội không cầm được nước mắt vì sung sướng và xót xa. Bé Thu ôm lấy cổ ba mà hôn
mà khóc không cho ba đi trong phút giây đó nó vừa đau đớn, vừa ân hận vì đã làm tổn
thương ba, vì phải chia tay ba, đó là nỗi niềm chân thực, phù hợp với nhận thức và tình
cảm của một đứa trẻ. Lời dặn nghẹn ngào mà đơn sơ "Ba về, ba nhớ mua cho con cây
lược, nghe ba". Đã khép lại tình huống thứ nhất, mở ra tình huống truyện đặc sắc thứ hai
trong tác phẩm.
b) Tình huống ở chiến khu ông Sáu làm chiếc lược ngà dành tặng con gái và hy sinh
- Ở chiến khu ông Sáu chiến đấu rất dũng cảm và trong lòng không nguôi nhớ con.
+ Ông Sáu luôn sống với niềm hạnh phúc lớn lao của tình phụ tử mà ông đã hưởng
trong giây phút ngắn ngủi lúc chia tay, khi ông được nghe tiếng con gái gọi ba giản dị và
thiêng liêng.
+ Mong nhớ con, ông Sáu cũng luôn trăn trở về niềm nguyện ước đơn sơ của con
về một chiếc lược. Ông hiểu con gái ông đã chịu bao thiếu thốn, thiệt thòi khi thiếu sự
săn sóc của cha.
- Tình huống truyện diễn biến hợp lý khi ông Sáu cố công để làm chiếc lược ngà.
+ Tác giả đã thật tinh tế khi mô tả từng cử chỉ, tỉ mỉ, thận trọng "như một người
thợ bạc" của ông Sáu để làm chiếc lược. Từ việc ông cưa mảnh ngà, thận trọng rũa từng
răng lược, nắn nót khắc chữ trên lược đến việc mài chiếc lược trên tóc cho bóng loáng.
+ Chiếc lược được làm không chỉ bằng sự khéo léo của đôi bàn tay mà tất cả tấm
lòng của người cha dành cho con.
+ Dòng chữ "Yêu nhớ tặng Thu của ba" ghi dấu, lưu giữ bao nỗi nhớ nghẹn ngào,
bao tình cảm sâu nặng mà người cha không thể trực tiếp gửi đến cho con, bởi chiến tranh
là chia ly, là xa cách.
- Tình huống truyện thứ hai này được đẩy lên đỉnh điểm khi ông Sáu chưa kịp đưa
chiếc lược cho con thì bị thương và hy sinh trong một trận càn. Giây phút cuối cùng
người cha vẫn khắc khoải về chiếc lược cho con. Ông dùng tất cả tàn lực để gửi gắm ông
Ba - người bạn chiến đấu trao lại kỷ vật của người cha cho con gái mình.
3. Đánh giá về ý nghĩa của tình huống truyện
- Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" đã tạo được tình huống truyện đặc sắc phù hợp
với bối cảnh chiến tranh, góp phần tô đậm vẻ đẹp của con người thời chiến và thể hiện
một cách ấn tượng chủ đề của tac phẩm.

84
- Hai tình huống cài vào nhau tạo nên sự phát triển hợp lý của cốt truyện, góp phần
ngợi ca tình cảm cha con giản dị mà thiêng liêng.
- Tình huống truyện Chiếc lược ngà diễn ra trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt
càng khẳng định sự bất tử của tình cha con, của sức sống con người Việt Nam. Dù bom
đạn ác liệt đến đâu, kẻ thù có tàn bạo đến đâu cũng không thể nào hủy diệt được sức sống
và tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ của con người Việt Nam.
- Tình huống truyện bởi thế là cái nền nhạc sâu lắng cho những giai điệu ngợi ca
về sự bất tử của tình phụ tử, của tình người trong chiến tranh.
* Kết bài: Có thể nói nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã tạo dựng được một tình huống
truyện độc đáo, đặc sắc và đầy ý nghĩa. Tình huống truyện trong tác phẩm đã góp phần
không nhỏ vào việc thể hiện vẻ đẹp giá trị làm nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm. Đồng
thời yếu tố nghệ thuật này đã góp phần khẳng định bút lực cùng tài năng của cây bút
truyện ngắn vững vàng Nguyễn Quang Sáng.
=======================
ĐỀ 4: Phân tích nhân vật ông Sáu trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang
Sáng.
I. Mở bài:
- Nền văn học Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ không chỉ là
những bản anh hùng ca ngợi ca Tổ quốc kiên cường, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù mà
còn là khúc nhạc thiết tha, sâu lắng, ngợi ca những tình cảm bình dị mà bất diệt của con
người trong chiến tranh.
- Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác
phẩm giá trị viết về đời sống, tình cảm của con người thời chiến. Trong đó nhân vật ông
Sáu đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung về nhân vật
- Ông Sáu Là nhân vật chính trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" một truyệ ngắn
của Nguyễn Quang Sáng ra đời năm 1966.
- Nhân vật ông Sáu xuất hiện và bộc lộ tình cảm với cương vị của một người cha
trong một tình huống truyện rất cụ thể. Đó là tình huống ông Sáu đi bộ đội từ khi bé Thu
con gái ông chưa đầy tuổi. Sau tám năm xa cách, ông được đơn vị cho về thăm nhà để
chuẩn bị tập kết ra Bắc. Niềm khát khao cháy bỏng của người cha là được gặp con, được
nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cảm cha con đầm ấm. Nhưng mọi chuyện đã
diễn ra rất éo le trong cách cư xử lạnh lùng của bé Thu.
- Đặt trong tình huống truyện như thế, ông Sáu đã trở thành biểu tượng đẹp đẽ về
tình cha trong chiến tranh.
2. Phân tích nhân vật
a) Tình cảm của ông Sáu với bé Thu trong những ngày ông về thăm nhà
- Ông Sáu đã đi bộ đội từ khi bé Thu chưa đầy tuổi, tám năm sống xa con là tám
năm người cha mong nhớ. Ông Sáu khao khát đón chờ giây phút được gặp đứa con bé
bỏng thân yêu và giây phút gặp gỡ hiếm hoi đã tới.

85
- Xuồng chưa cập bến, thấy một đứa bé gái đang chơi trước sân, linh tính của
người cha mách bảo đó là con gái bé bỏng. Ông Sáu vội nhảy lên bờ, hai tay giơ tới
trước, miệng lắp bắp "Thu con, ba đây con". Do quá xúc động, vết sẹo trên má của ông
Sáu đỏ ửng, chạy rần rật. Trong giây phút ấy ông Sáu chờ đợi bé Thu sẽ lao tới, ôm lấy
ông mà cất tiếng gọi ba tràn đầy tình yêu thương, thế nhưng mọi điều không như mong
đợi của ông Sáu khi thấy người lạ, con bé đã hoảng sợ bỏ chạy gọi má. Đau đớn và hẫng
hụt vì điều đó, ống Sáu buông thõng hai tay xuống, lòng đầy nỗi chán chường, thất vọng,
đau đớn.
- Hai ngày sau đó, trước sự lạnh lùng của con bé, ông Sáu ra sức vồ vập, chiều
chuộng nhưng ông càng xích lại con gái ông càng lùi ra xa. Ông Sáu khao khát được
nghe tiếng con gọi ba nhưng nó một mực cự tuyệt, nghe con gái ăn nói trỏng lỏn với
mình, ông Sáu tủi thân dù vẫn cố cười nhưng rất buồn.
+ Nỗi đau của tình cha bị đẩy lên tới đỉnh điểm khi ông trìu mến gắp cho con
miếng trứng cá thì nó ương bướng ngang ngạnh hất ra khỏi bát, ngọn lửa nồng nàn của
tình ch rơi vào hẫng hụt để rồi không kìm chế được, ông lỡ tay đánh con để rồi đây sẽ là
nỗi ân hận, xót xa khi ông Sáu đi vào chiến trường.
- Tình cha được biểu hiện xúc động và thiêng liêng hơn cả ở ông Sáu lúc chia tay.
+ Đúng lúc ông Sáu chuẩn bị lên đường, thấy con gái trở về ông rất mừng muốn
chạy lại ôm hôn con để từ biệt nhưng lại sợ nó chống cự nên ông chỉ dám nhìn con trìu
mến xen lẫn sự buồn rầu, đau khổ.
+ TRước lúc thực sự phải chia tay, ông Sáu được sống trong niềm vui vô bờ của
người cha khi tiếng gọi ba vỡ òa trong tiếng khóc của bé Thu. Ông hạnh phúc vô ngần
khi con gái ôm lấy cổ hôn vào má, vào cả vết sẹo và khóc không cho ba đi, người cha
không thể kìm nổi dòng nước mắt vì bất ngờ, sung sướng bởi hạnh phúc. Ông hiểu ra
rằng bé Thu rất yêu thương ông, tình yêu nó dành cho ông vô cùng lớn lao.
+ Thế nhưng hạnh phúc của tình cha lại đặt trong sự éo le của tình cảnh trong
chiến tranh, niềm hạnh phúc dẫu ngắn ngủi nhưng cũng sẽ là động lực tiếp thêm sức
mạnh cho ông Sáu.
b) Tình cảm của ông Sáu với con khi ở chiến khu
- Ở chiến khu ông Sáu chiến đấu rất dũng cảm. Trong lòng ông không nguôi nỗi
nhớ con xen lẫn niềm ân hận vì đã trót đánh con. Ông vẫn canh cánh bên lòng lời nguyện
ước đơn sơ của con gái lúc chia tay: "Ba về, ba nhớ mua cho con cây lược nghe ba".
- Ông Sáu quyết tâm làm bằng được cây lược cho con gái, khi kiếm được mảnh
ngà, ông Sáu vui sướng như đứa trẻ được quà. Ông ngồi cưa từng chiếc răng lược thận
trọng, tỉ mỉ như một người thợ bạc rồi ông nắn nót khắc từng nét chữ: "Yêu nhớ tặng Thu
con của ba". Như vậy chiếc lược ngà được ông Sáu làm nên không chỉ là bổn phận của
một người cha mà bằng tất cả sức mạnh, sự cố gắng của tình mẫu tử.
- Mỗi khi nhớ con, ông Sáu lại mang cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc khiến
cho nó bóng lên. Người cha, người chiến sĩ lúc ấy chẳng khác nào nghệ nhân tạo nên tác
phẩm nghệ thuật giá trị nhất trong đời. Chiếc lược ngà bởi vì vậy kết tinh tình cha mộc
mạc, giản dị mà sâu sắc thiêng liêng, nó là biểu tượng của tình cha, của tình người trong
chiến tranh.
86
- Ông Sáu không kịp trao cây lược đến tay con gái. Trong một trận càn ông đã
chiến đấu anh dũng và trúng đạn của giặc. Trong lúc cái chết kề cận, ông Sáu vẫn đau
đáu về con. Ông thu hết tàn lực để giao cây lược cho người bạn chiến đấu - với cái nhìn
gửi trao, tin cậy. Cái nhìn ấy sẽ thay lời trăng trối, ủy thác mong mỏi người bạn của mình
sẽ thực hiện tình cha con dang dở. Ngay trong giây phút giã từ cuộc đời, người cha vẫn
hướng về con, bởi vậy người cha dù mất đi nhưng tình cha thì còn mãi, đẹp đẽ, bất diệt.
3. Đánh giá
- Ngôi kể thứ nhất của một người trong cuộc với giọng kể chân thành, với chi tiết
chọn lọc sinh động, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã dựng nên chân thực hình tượng nhân
vật ông Sáu với tình cảm thiêng liêng, xúc động của người cha, của tình cha.
- Khi được đặt vào trong tình huống truyện mang sự éo le của con người thời
chiến, nhân vật ông Sáu đã thể hiện của tình cha thiết tha, sâu nặng, thể hiện tình người
đẹp đẽ.
- Xây dựng nhân vật ông Sáu, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã để lại ấn tượng đậm
nét cho người đọc về tình cha và gửi tới người đọc một thông điệp về sự cao quý và bất
diệt của tình phụ tử, của tình người mà chiến tranh, đạn bom không thể nào hủy diệt nổi.
===============================

87
ĐỀ 4: Cảm nhận của bé Thu
I. Mở bài
- Nền văn học Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ không chỉ là những
bản anh hùng ca ngợi ca Tổ quốc kiên cường, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù mà còn là
khúc nhạc thiết tha, sâu lắng, ngợi ca những tình cảm bình dị mà bất diệt của con người
trong chiến tranh.
- Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác
phẩm giá trị viết về đời sống, tình cảm của con người thời chiến. Trong đó nhân vật ông
Sáu đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.
II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật
- Bé Thu là nhân vật chính trong truyện. Nhân vật được đặt trong tình huống éo le
khi cha đi bộ đội Thu chưa tròn một tuổi. Lúc Thu lên tám cha mới trở về, cha em lúc ấy
- ông Sáu lại rất khác với người cha trong bức ảnh chụp chung với má. Không giống với
người cha mà em hình dung, bởi thế bé Thu cư xử lạnh lùng với ba.
- Xây dựng nhân vật bé Thu, tác giả đã thể hiện tình cảm sâu nặng, thiêng liêng
của con đối với cha từ đó để ca ngợi tình cảm đẹp đẽ của con người trong chiến tranh.
2. Phân tích nhân vật
a) Thái độ của bé Thu đối với cha khi ông Sáu về Thăm nhà
- Sau tám năm, ông Sáu về thăm nhà, lúc đó Thu đang chơi ở trước sân, Thu bất
ngờ nghe tiếng gọi "Thu con, ba đây con". Nó háo hức quay lại để rồi giật mình sợ hãi
khi đối diện với một người đàn ông xa lạ có một vết sẹo dài trên mặt, đỏ ửng, chạy rần
rật. Nó khóc thét và hoảng hốt gọi má. Trong đầu óc non nớt của nó, đó không phải là
người cha mà nó hằng mong đợi.
- Hai ngày sau đó, khi được bà ngoại giải thích.
b) Tình cảm của bé Thu đối với ba trong ngày ông Sáu lên đường ra Bắc
- Bé Thu trở về nhà rất muốn lao đến ba nhưng lại rụt rè đứng ở góc nhà nhìn ba
trìu mến.
- Khi ông Sáu buồn rầu nói: "Thu, ba đi nghe con", bé Thu không kìm nén nổi xúc
động.
- Những cử chỉ "tiếng khóc"
- Lời dặn "Ba về, ba nhớ mua con cây lược, nghe ba" không chỉ là biểu hiện nũng
nịu của đứa con gái với ba mà còn là niềm khao khát cháy bỏng được yêu thương, săn
sóc; được sống trong tình cha. Những điều bình thường ấy lại bị hoàn cảnh chiến tranh
cướp đoạt giúp ta hiểu thêm những thiệt thòi của con người trong chiến tranh.
c) Đánh giá
- Hình tượng nhân vật bé Thu được tái hiện bằng ngòi bút trần thuật, chân thực,
sinh động, đầy cảm xúc từ cái nhìn của chính tác giả nhập thân trong nhân vật ông Ba.
- Bé Thu được tái hiện trong tình huống truyện éo le dễ xảy ra trong hoàn cảnh
chiến tranh và với sự am hiểu tâm lý sâu sắc, Nguyễn Quang Sáng đã khai thác và thể

88
hiện những uẩn khúc, những khúc ngặt tâm trạng, những biểu hiện tình cảm, phù hợp với
lứa tuổi để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc về tình con mãnh liệt dành cho cha.
- Xây dựng nhân vật bé Thu, tác giả giúp người đọc mai sau hiểu được những thiệt
thòi, mất mát của những đứa trẻ thời chiến phải sống trong sự thiếu thốn tình cha, cũng từ
đó tác giả khẳng định tình cảm dành cho cha luôn dạt dào, mãnh liệt, tình phụ tử manh
hơn sự tàn phá của chiến tranhh và bom đạn; tình người sáng mãi, thiêng liêng, bền chặt,
bất tử.
=========================
ĐỀ 5: Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện cảm
động về tình cha con sâu nặng, hãy phân tích truyện ngắn "Chiếc lược ngà" để làm sáng
tỏ ý trên.
I. Mở bài
- Nền văn học Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ không chỉ là
những bản anh hùng ca ngợi ca Tổ quốc kiên cường, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù mà
còn là khúc nhạc thiết tha, sâu lắng, ngợi ca những tình cảm bình dị mà bất diệt của con
người trong chiến tranh.
- Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác
phẩm giá trị viết về đời sống, tình cảm của con người thời chiến. Trong đó nhân vật ông
Sáu đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.
- Nền văn học …… thời chiến
- Nêu vấn đề: Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã ghi lại
một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng một trong những nét đẹp giản dị mà
thiêng liêng của con người trong chiến tranh.
II. Thân bài
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và bối cảnh của câu chuyện về tình cha con
- Nguyễn Quang Sáng là cây bút tiêu biểu của nền văn nghệ giải phóng miền Nam
Việt Nam, nhà văn chủ yếu viết về cuộc sống và con người Nam bộ và hai cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc.
- Tác phẩm "Chiếc lược ngà" được viết năm 1966 in trong tập truyện cùng tên, là
tác phẩm xuất sắc về đề tài chiến tranh.
- Với việc tạo tình huống bất ngờ, tự nhiên mà hợp lý, nhà văn đã thể hiện cảm
động tình cha con trong bối cảnh éo le của chiến tranh.
+ Chiến tranh là bối cảnh khốc liệt đầy thử thách với con người, đó cũng là thước
đo những giá trị của con người và cuộc sống. Chiến tranh là thứ lửa thử vàng, là ngời
sáng vẻ đẹp của con người Việt Nam.
+ Trong bối cảnh chiến tranh, Nguyễn Quang Sáng đã tạo ra một tình huống thử
thách éo le để khẳng định và ngợi ca tình cảm cha con gắn bó bền chặt.

2. Phân tích tình cha con sâu nặng của ông Sáu và bé Thu
- Tình cha con bộc lộ cảm động qua giây phút gặp gỡ đầu tiên.

89
+ Niềm khát khao gặp con của ông Sáu là biểu hiện chân thực mà mãnh liệt của
tình cha. Thuyền chưa cập bến ông Sáu đã nhảy lên bờ chạy lại phía con gái cất giọng run
run "Thu con, ba đây con".
+ Bé Thu sợ hãi mặt tái đi, khóc thét gọi má khiến ông Sáu hẫng hụt.
- Tình cha con được bộc lộ trong hai ngày ông Sáu ở nhà
+ Nôn nóng được gặp con, khao khát được nghe tiếng con goi, ông Sáu dồn tất cả
tình cảm vào những cử chỉ chăm sóc, trìu mến.
+ Bé Thu lại tìm mọi cách để chối từ sự quan tâm của ông Sáu, dù bị đặt vào tình
thế bắt buộc khi nồi cơm sôi…. sự giúp đỡ của người lớn, nó vẫn gọi trống không rồi tự
tìm cách chắt nước cho nồi cơm, không chịu gọi tiếng ba.
+ Ông Sáu vẫn dồn tất cả tình yêu thương, săn sóc con. Thế nhưng ông cũng ý
thức được thời gian được ở nhà, được gần con là rất ngắn ngủi, ông chưa được sống cái
giây phút hạnh phúc trong tình con, bởi thế khi bé Thu phản ứng quyết liệt, hất miếng
trứng cá ra khỏi bát, ông Sáu đã không kịp suy nghĩ vung tay đánh vào mông con và hét
lớn "Sao mày cứng đầu quá vậy, hả", đó là biểu hiện của tình cha mãnh liệt bị tổn thương
sâu sắc.
+ Tất cả mọi cử chỉ ương ngạnh, sự chối từ của bé Thu với ông Sáu hóa ra là bởi
vết sẹo trên má ông Sáu đã khiến Thu không nhận ra đó là người cha mà nó đã biết trước
qua bức ảnh chụp chung với má, hiểu được cái lý do rất con trẻ ấy mới thấy thấm thía,
cảm động về tình con của bé Thu dành cho cha, đó là tình cảm vẹn nguyên không thể san
sẻ, nó cũng mãnh liệt không kém gì tinh cảm của ông Sáu dành cho bé Thu.
- Tình cha con cảm động trong thời khắc chia ly
+ Nỗi khát khao của người cha mong nhận được tình cảm của con, không được
đáp lại, đến lúc phải trở về đơn vị người cha vô cùng đau khổ, thấy con trở về ông rất
mừng nhưng chỉ dám đứng nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu. Lời từ biệt của
người cha ngậm ngùi mà xót xa: "Thôi! Ba đi nghe con". Khi ấy ông Sáu chưa biết được
đã có một sự biến đổi lớn lao trong lòng bé Thu.
+ Bé thu đã hiểu được người có chiếc sẹo dài trên má mà nó chối từ chính là người
cha mà nó được biết trước qua bức ảnh, nó muốn lại gần cha nhưng lại e sợ để rồi khi cha
nói lời từ biệt, bé Thu không thể nén nổi tình cảm, nó thét gọi ba, tiếng gọi đã ấp ủ trong
lòng từ tám năm xa cách. Tiếng gọi đứt ruột, đau đớn, nghẹn ngào, tay nó xiết chặt lấy cổ
ba, nó hôn lên tóc, lên cổ, lên vai và lên cái sẹo dài. Cử chỉ ấy, tiếng gọi ấy là sự hiện
hữu, cảm động của tình yêu thương, niềm kính trọng của nỗi ân hận vì đã chối từ ba. Đó
là biểu hiện tuyệt vời của tình con dành cho ba.
- Tình cha con bộc lộ qua nỗi nhớ thương con khôn nguôi, nỗi day dứt và aann hận
trong những ngày ông Sáu trở về đơn vị (Phân tích chi tiết ông Sáu làm cây lược và khi
ông Sáu hy sinh).
3. Đánh giá khái quát về tình cha con
- Tình cha con của ông Sáu và bé Thu thật gắn bó, thắm thiết, đẹp đẽ và cảm động.
- Tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu được đặt trong bối cảnh éo le của chiến
tranh khiến ta hiểu thêm để mà chia sẻ với những đau thương, mất mát, éo le mà con
người phải gánh chịu vì chiến tranh.
90
- Tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu khiến cho câu chuyện thêm hấp dẫn và
chiếc lược ngà trở thành bài ca về tình phụ tử thiêng liêng, bài ca về tình người bất diệt
trong chiến tranh.
- Bằng lối viết chân thực, sinh động với những chi tiết chọn lọc từ trái tim người
nghệ sĩ nhạy cảm và am hiểu tâm lý, Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện cảm động tình phụ
tử sâu nặng và đó là một trong những yếu tố làm nên sức sống và sự hấp dẫn của truyện
ngắn "Chiếc lược ngà".
===============================
LÀNG
(Kim Lân)
ĐỀ 1: Nêu ý nghĩa nhan đề truyện ngắn "Làng" của Kim Lân.
I. Mở bài
- Dẫn dắt
- Làng là sự lựa chọn của nhà văn Kim Lân, nhan đề cho một truyện ngắn viết về
người nông dân yêu làng, yêu nước được sáng tác năm 1948, đó là nhan đề đầy ý nghĩa.
II. Thân bài
- Làng - một từ chỉ đơn vị hành chính nhỏ nhất ở nông thôn và đây là không gian
nghệ thuật của truyện ngắn "Làng".
- Nhan đề "Làng" gợi bối cảnh làng quên thời tổng khởi nghĩa và khi kháng chiến
chống Pháp.
- Nhan đề "làng" không chỉ gợi không gian sinh tồn
Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Làng của Kim Lân
Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn đề tác giả đề
cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể.
- Đặt tên là “Làng” vì truyện đã khai thac một tình cảm bao trùm, phổ biến trong con
người thời kì kháng chiến chống Pháp: tình cảm với quê hương ,với đất nước.
- Làng ở đây cũng chính là cái Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt của mình, nơi ấy
với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến là quê hương đất nước thu nhỏ.
=> Tình cảm yêu làng yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình
cảm chung của những người dân Việt Nam thời kì ấy.
- Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân - làng nơi gần gũi,
gắn bó với người nông dân, người ta không thể yêu nước nếu không yêu làng.
- Nhan đề Làng gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là mảng sáng tác thành
công nhất của Kim Lân.
Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hay và giàu ý nghĩa.
==================================================
Đề 3: Bằng một đoạn văn ngắn hãy tóm tắt truyện người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ.
- Đảm bảo bố cục của đoạn văn ngắn có đủ các tình tiết sau:
+ “Chuyện Người con gái Nam Xương” là một trong 20 chuyện đặc sắc trong
Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Dữ viết vào thế kỉ XVI.

91
+ Chuyện kể về nàng Vũ Thị Thiết, người huyện Nam Xương xinh đẹp, đức hạnh
được gả làm vợ chàng Trương giàu sang, quyền thế nhưng tính tình lại độc đoán, đa nghi.
+ Khi Trương Sinh đi lính, nàng Vũ Nương một mình toan lo việc nhà, phụng
dưỡng rồi làm tang ma mẹ chồng, nuôi dạy con thơ, một lòng chung thủy chờ chồng.
+ Gần 3 năm chàng Trương trở về, chỉ vì một câu nói vô tình thơ ngây của bé Đản
về một người đàn ông đêm nào cũng đến theo sát mẹ nó. Trương sinh ghen tuông, nghi
ngờ, không cho vợ một cơ hội giãi bày, thanh minh mà ruồng rẫy, đánh đuổi vợ; đau đớn,
nhục nhã nàng Vũ Nương giao mình xuống bến Hoàng Giang.
- Sau khi vợ chết Trương Sinh tình cờ nghe lời con trẻ về chiếc bóng của mình
trên vách biết đã nghi oan cho vợ nhưng đã quá muộn.
- Lại nói về Vũ Nương khi tự vẫn được Linh Phi cứu sống đưa về thủy cung gặp
Phân Lang - một người bị chết đuối cùng làng cũng được Linh Phi cứu, được biết về sự
ăn năn của chồng, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng nhắc chồng giải oan cho mình.
- Nhưng khi chàng Trương lập đàn giải oan ở bờ song thì Vũ Nương chỉ ngồi trên
kiệu hoa giữa dòng nước nói vọng vào bờ tiễn biệt rồi biến mất.
==========================================
Đề 4: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện Người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ

1. Cách triển khai ý cho dạng đề phân tích 1 nhân vật trong tác phẩm
1.1.Mở bài
- Dẫn dắt bằng cách giới thiệu khái quát về tác phẩm (đề tài, nét đặc sắc)
- Giới thiệu nhân vật
1.2. Thân bài
Ý 1: Khái quát tác giả, tác phẩm và nhân vật (ngắn gọn):
- Tác giả (nét phong cách, vị trí)
- Tác phẩm (nội dung khái quát) Một đoạn ngắn
- Nhân vật (giới thiệu về vị trí của nhân vật)
Ý 2: Phân tích các phẩm chất, đặc điểm của nhân vật (trọng tâm)
- Mỗi đặc điểm của nhân vật được viết bằng một đoạn văn diễn dịch câu chủ đề
nêu khái quát đặc điểm sau đó dùng dẫn chứng để phân tích làm sáng tỏ.
Ý 3: Đánh giá về nhân vật:
- Khái quát các đặc điểm của nhân vật
- Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật
1.3. Kết bài
Nêu cảm nhận cá nhân về nhân vật, khẳng định vị trí của nhân vật phụ.
2. Hướng dẫn làm bài
2.1. Mở bài
- Nữ, số phận người phụ nữ đã làm xúc động nhiều ngòi bút tác giả.
- Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã để lại trong người đọc
một ấn tượng sâu sắc về phụ nữ gắn với nhân vật Vũ Nương.
2.2. Thân bài
92
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, nhân vật:
+ Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ 16 là tác giả tiêu biểu của nền văn học trung
đại Việt Nam.
+ Chuyện Người con gái Nam Xương là 1 trong 20 chuyện thuộc “thiên cổ kì bút -
truyền kì mạn lục”.
+ Nhân vật Vũ Nương - Vũ Thị Thiết người huyện Nam Xương là nhân vật chính
của tác phẩm.
- Phân tích nhân vật: Vũ Nương - người phụ nữ đẹp người, đẹp nết:
+ Hình dáng, dung nhan xinh đẹp, tính tình thùy mị, nết na, đức hạnh
+ Lời kể, giới thiệu của Nguyễn Dữ ngắn gọn nhưng đầy trân trọng. Vũ Nương là
vợ chàng Trương, nhà giàu nhưng tính lại đa nghi. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép không
từng để lúc nào vợ chồng phải bất hòa.
+ Buổi tiễn đưa chồng đi lính, Vũ Nương có lời dặn đậm đà tình nghĩa, nàng
không mong vinh hiển, chỉ mong chồng được bình an trở về. Câu văn nhịp nhàng theo lối
văn biền ngẫu, hình ảnh ước lệ thể hiện tình cảm chứa chan, niềm cảm thông với những
gian nan, nguy hiểm mà chồng sẽ phải chịu đựng vừa tha thiết, khắc khoải, nhớ nhung.
+ Ba năm Trương Sinh đi lính, nàng Vũ Nương đằng đẵng chờ chồng trong nỗi
nhớ, nỗi lo; vẫn hiền thục lo toan ân cần chăm sóc mẹ chồng; mẹ mất chu đáo lo việc ma
chay, một mình nuôi con không ai đỡ đần. Lời ghi nhận của mẹ chồng nàng trước khi qua
đời đã khẳng định điều đó.
+ Vũ Nương là người phụ nữ mẫu mực, đúng chuẩn mực của người phụ nữ theo
quan niệm phong kiến.
- Số phận người phụ nữ bất hạnh đầy, bi kịch đau đớn của Vũ Nương:
+ 3 năm chờ chồng, Vũ Nương cháy bỏng khát khao, bình yên, hạnh phúc nhưng
đến ngày chồng về, bão tố diễn ra, hạnh phúc tan vỡ.
+ Một đời giữ gìn tiết hạnh chung thủy chờ chồng, cuối cùng lại bị nghi ngờ là
thất tiết, nhân cách, phẩm giá bị xúc phạm một cách ghê gớm.
+ Vũ Nương khóc bày tỏ thanh minh, tự khẳng định nhân cách của mình nhưng
vẫn bị chồng một mực buộc tội.
+ Đau đớn tuyệt vọng, bất lực, Vũ Nương tìm đến cái chết, hành động này là đỉnh
cao của bi kịch Vũ Nương cũng là hành động phù hợp với tính cách của nhân vật trong
hoàn cảnh của Vũ Nương có lẽ không thể có sự lựa chọn nào khác.
- Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:
+ Trực tiếp: Con trẻ vô tình, ngây thơ, chưa nhận thức được sự khác nhau giữa
người và bóng, giữa hư và thực. Chàng Trương Sinh đa nghi, ít học, tính tình lại độc
đoán, không chịu suy xét, không cho vợ có dịp bày tỏ, thanh minh.
+ Gián tiếp: Do cuộc hôn nhân bất bình đẳng, xã hội phong kiến với tư tưởng
trọng nam khinh nữ, định kiến hàm hồ, quan niệm hà khắc với người phụ nữ.
2.3. Kết bài
Nêu cảm nhận cá nhân về nhân vật, khẳng định vị trí của nhân vật phụ.

93
Đề 6: Phân tích ý nghĩa của chi tiết “cái bóng” trong tác phẩm Chuyện người con gái
Nam Xương của Nhuyễn Dữ.

 Mở bài: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Điều đó đã được chứng thực qua nhiều
tác giả lớn trong văn học. Nguyễn Dữ là một trong những tác giả lớn trong nền văn học
trung đại Việt Nam. Trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” việc sáng tạo
chi tiết cái bóng. Nguyễn Dữ đã khẳng định được vị trí của một nhà văn lớn.

 Thân bài:
1, Tái hiện chi tiết cái bóng.
- Trương Sinh đi lính, Vũ Nương sống trong cảnh lẻ loi chờ đợi, vì thương nhớ. Đêm
đến, khi thấy bóng mình in trên vách, Vũ Nương chỉ cho con đó là cha của nó.
- Chiếc bóng lại trở lại tác phẩm khi Vũ Nương đã chết tức tưởi nhưng đó là bóng của
Trương Sinh
2, Ý nghĩa của chi tiết “cái bóng”.
- Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt, tạo nên cái thắt nút
mở nút bất ngờ nhằm tạo nên kịch tính cho câu chuyện.
+ Chiếc bóng làm nên nút thắt của câu chuyện bởi nó gây ra sự nghi ngờ làm trỗi dậy cơn
ghên của Trương Sinh và gây ra bi kịch đau đớn cho Vũ Nương.
+ Chiếc bóng mở nút câu chuyện bởi nó hóa gải mối nghi ngờ của Trương Sinh và chứng
thực cho sự trong sáng, tiết hạnh, vô tội của Vũ Nương.
- Chi tiết cái bóng có ý nghĩa sinh động, cụ thể đối với từng nhân vật trong truyện.
+ Với bé Đản chiếc bóng là người đàn ông bí ẩn của mẹ nó bảo cho nó rằng đó là cha,
người cha nó chưa từng biết mặt, chiếc bóng nói lên sự ngây thơ của đứa trẻ lên ba chưa
phân biệt được sự khác nhau giữa người và bóng, chưa hiểu biết được những phức tạp
trong cuộc đời.
+ Với chàng Trương Sinh chiếc bong là bằng chứng về sự hư hỏng của người vợ để nảy
sinh mối nghi ngờ ghen tuông, chiếc bóng vốn mong manh, tố cáo sự hồ đồ của Trương
Sinh. Chính cái bóng lại làm “ mờ mắt” cho Trương Sinh về sự thật đau lòng trong nỗi
oan khuất của vợ có tội của mình.
+ Với Vũ Nương chiếc bóng gợi nỗi cô đơn mòn mòi, vò võ đời chồng và khao khát
được sum họp, Đó còn là tình thương dành cho con muốn sự bù đắp sự thiếu vắng cha
của con trẻ.
- Chiếc bóng nhỏ nhoi, vô cảm và gây án oan thảm khốc để rồi chính nó lại giải oan cho
con người.
+ Người đọc thấm thía hơn về số phận cay đắng của người phụ nữ trong xã hội xưa, giá
trị của họ thậm chí không bằng một cí bóng vu vơ.
+ Cái bóng còn góp phần tô đậm bi kịch của Vũ Nương, từ đó mà tố cáo xã hội phong
kiến bất công mà gợi niềm cảm thông đối với thân phân người phụ nữ.
 Kết bài: Chiếc bóng là một chi tiết nghệ thuật không thể thiếu trong tác phẩm “
Chuyện Người con gái Nam Xương”. Nhờ có chi tiết nghệ thuật này mà gợi tả nội dung
của tác giả thêm sâu sắc và hình thức nghệ thuật hấp dẫn.
94
Đề 7: Chi tiết kết thúc “Chuyện Người con gái Nam Xương” là một chi tiết kì ảo.
a, Hãy kể lại ngắn gọn chi tiết này.
b, Nhân xét về chi tiết này có ý kiến cho rằng: “ Tính bi kịch của truyện vẫn niềm ẩn
ngay trong cái lung linh kì ảo.” Nhận xét đó có đúng không? Vì sao?
 Mở bài: đề 6
 Thân bài:
a, Kể lại chi tiết kì ảo cuối truyện.
- Khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương đã hiện về trên một
chiếc kiệu hoa theo sau là 50 chiếc thuyền với cờ hoa rợp một khúc sông.
- Vũ Nương đứng giữa dòng sông nói lên lời từ tạ Trương Sinh rồi bóng nàng mờ dần
biến mất.
b, Nhận xét về chi tiết.
- Bi kịch của người phụ nữ qua nhân vạt Vũ Nương tiềm ẩn ngay trong cái lung link biến
mất.
+ Dù cho chi tiết góp phần kết thúc truyện một cách có hậu khi Vũ Nương được sống lại
trong một cuộc sống giàu sang được yêu thương tôn trọng song đó vẫn chí là ảo ảnh
không phải là đời thực.
+ Dù cho cảnh Vũ Nương trở về hết sức trang trọng trong cái rực rỡ huyền ảo song Vũ
Nương vẫn không thể trở về cuộc đời.
- Chi tiết kết thúc tác phẩm vì thế khắc sâu bi kịch của người phụ nữ và tố cáo xã hội bất
công và không có chỗ dung than cho người phụ nữ và tố cáo xã hôi bất công và không có
chỗ dung thân cho người lương thiện.
+ Chi tiết cũng góp phần thức tỉnh người đọc với mọi sự tan vỡ đều khó có thể hàn gắn.
Vậy phải biết chân trọng giữ gìn hạnh phúc gia đình và những gì đang có.
 Kết bài: Với chi tiết kì ảo ở chỗ cuối truyện, một lần nữa, tác giả Nguyễn Dữ
khẳng định niềm cảm thương đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.

Đề 8: Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo trong truyện “Chuyện Người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ.
 Mở bài: “Chuyện Người con gái Nam Xương” là một tác phẩm tiêu biểu trong
Thiên cổ tùy bút kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Tác phẩm có một giá trị nhân đạo sâu sắc
làm nên điều đó có sự đóng góp không nhỏ của sắc chi tiết kì ảo.
 Thân bài:
1, Tái hiện các chi tiết kì ảo trong tác phẩm.
- Cuộc sống nơi Thủy cung bản thân nó chứa đựng nhiều điều kì lạ.
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa ra sau đó gặp nạn được Linh Phủ cửu giúp rồi gặp Vũ
Nương dưới Thủy cung.
+ Phan Lang được sứ giả của Linh phủ rẽ nước đưa về trần thế.
- Màn giải oan với hình ảnh Vũ Nương hiện về lung ling, huyền ảo rồi biến mất cũng là
yếu tố kì ảo.
- Những chi tiết kì ảo trên là sáng tạo của Nguyễn Dữ.
95
2, Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo.
- Các chi tiết kì ảo góp phần phát triển cốt truyện hợp lí hấp dẫn.
- Các chi tiết kì ảo góp phần thể hiện đậm nét tính chất “truyền kì” của tác phẩm.
- Góp phần hoàn chỉnh tính cách cũng như vẻ đẹp, giá trị của nhân vật.
+ Lòng vị tha; chung thủy, tình cảm sâu nặng với gia đình, với cuộc đời trần thế.
+ Ý thức trọng danh dự, phẩm giá, khao khát, khẳng định gia trị của bản thân.
à Đó là vẻ đẹp bất biến truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
- Các chi tiết kì ảo góp phần tạo cho tác phẩm một cái kết có hậu mang đậm gia trị nhân
văn nhưng vẫn không che khuất được giá trị hiện thực.
+ Vũ Nương khát khao được minh oan, được bảo vệ phẩm tiết đó cũng chính là khát
vongjk công lí, là ước mơ ở hiền gặp lành của nhân dân các yêu tố kì ảo đã góp phần tạo
ra một thế giới ân tình để người phụ nữ như Vũ Nương được trân trọng.
+ Tuy nhiên các yếu tố kì ảo vẫn không che lấp được bi kịch khi Vũ Nương trở về cuộc
đời trần thế, dẫu lộng lẫy nhưng cũng chỉ thấp thoáng ẩn hiện nói lên lời từ biệt rồi biến
mất điều đó nói lên rằng xã hội phong kiến không có chỗ tồn tại cho những điều tốt đẹp.
Tiếng nói tố cáo xã hội vì thế thêm sâu sắc.
 Kết bài: Các yêu tố kì ảo trong truyện “ Chuyện Người con gái Nam Xương” đã
làm góp phần làm tăng giá trị và sức hấp dẫn của tác phẩm ở phương diện nội dung và
hình thức nghệ thuật. Các chi tiết là kì ảo cũng góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn
Dữ.

Văn bản: Truyện Kiều của Nguyễn Du


96
I, Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Đề 1: Viết một văn bản ngắn giới thiệu về tác giả Nguyễn Du.
 Mở bài: “Nhà văn lớn là người có tiểu sử lớn”. Nguyễn Du là đại thi hào của dân
tộc Việt Nam, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn ở thế kỉ XVIII, danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Du đã để lại một tiểu sử lớn và một sự nghiệp văn học đồ sộ.
 Thân bài:
1, Tiểu sử Nguyễn Du:
- Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên.
- Ông sinh ra ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tỉnh.
- Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có nhiều đời làm quan cơ truyền
thống về văn chương. Ảnh hưởng trực tiếp từ người cha Nguyễn Nghiễm, một sử gia,
một nhà thơ cũng là tể tướng đầu triều Lê. Người mẹ nhan sắc giỏi dang Trần Thị Tần
cũng để lại một ảnh hưởng khong nhỏ gia đình ấy chính là cái nôi nuôi dưỡng tấm lòng
và tài năng của thiên tài Nguyễn Du sau này.
- Nguyễn Du sống trong thời đại bão táp cuối thời Lê đầu Nguyễn, thời kì xã hội phong
kiến khủng hoảng, trầm trọng. Nguyễn Du phải sống long đong, lưu lạc nhiều nơi. Mặc
dù con đường làm quan thăng tiến rất nhanh, thường như được cử làm chánh sứ sang
Trung Quốc nhưng vẫn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, chật vật, sống gần gũi với
nhân dân, mắt thấy tai nghe, lòng nhiều day dứt về “những điều trông thấy mà đau đớn
lòng” làm nên trong thơ Nguyễn Du một tiếng nói nhân đạo sâu sắc, một kho tàng ngôn
ngữ phong phú, phục vụ cho sáng tác.
2. Sự nghiệp sáng tác.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du khá đồ sộ với những kiệt tác có sưc sống lâu bền
trong đời sống văn học dân tọc cũng như trong lòng nhân dân Việt Nam.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du bao gồm thơ văn chữ Hán và thơ văn chữ Nôm. Tác
phẩm chữ Hán có thể kể đến: Thanh Hiên thi tập: Nam trung tập ngâm; Bắc hành tạp lục.
Tác phẩm bằng chữ Nôm có đỉnh cao là Truyện Kiều – kiệt tác của một thời đại; văn tế
thập loại chúng sinh.
- Tác phẩm của Nguyễn Du mang một giá trị hiện thực rộng lớn trong các tác phẩm của
mình. Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh xã hội phong kiến thối nát dày đọa những phận
người bi thương.
- Bên cạnh đó các tác phẩm của Nguyễn Du còn mang một tấm lòng nhân ái bao la bênh
vực, ước mơ, khát vọng, quyền sống, giá trị của những người bất hạnh.
- Tác phẩm của Nguyễn Du còn chứng tỏ một tài năng nghệ thuật bậc thầy. Từ nghệ thuật
xây dụng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sáng tạo ngôn ngữ trong nền văn học dân
tộc.
* Kết bài: Với tiểu sử lớn và sự nghiệp lớn, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã khẳng định
được một nhân cách lớn, một vị trí lớn trong nền văn học dân tộc.

Đề 2: Viết một văn bản giới thiệu khái quát về “Truyện Kiều”.
97
 Mở bài: Nguyễn Du là đại thi Hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn
Du đã để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ trong đó tiêu biểu hởn cả là truyện Kiều, đỉnh
cao của nền văn học dân tộc, kiệt tác của mọi thời đại.
 Thân bài:
1, Hoàn cảnh sáng tác và nguồn gốc.
- Truyện Kiều được sáng tác khi Nguyễn Du đang làm quan dưới triều Nguyễn khi nhà
thơ đã trải qua 15 năm gió bụi với bay cay đắngtrong cuộc đời. Tác phẩm có nguồn gốc
“Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài nhân một tác phẩm không mấy thành công
của văn học Trung Quốc. Nguyễn Du chỉ mượn cốt truyện rồi lấy cảm hứng từ cuộc sống
từ số phận đau thương của phụ nữ đương thời để sáng tác nên: “Truyện Kiều”.
2, Thể loại và bố cục.
- Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát, là một truyện thơ nôm về đề tài người phụ
nữ hồng nhan bạc phận tài tình mà đau khổ.
- Tác phẩm gồm 2354 câu được chia làm 3 phần gặp gỡ và mơ ước; gia biến và lữu lạc;
đoàn tụ.
3, Giá trị nội dung.
- Truyện Kiều có một giá trị nội dung lớn, bao quát, đó là giá trị hiện thực và giá trị nhân
đạo.
- Giá trị hiện thực của tác phẩm thể hiện qua bức tranh xã hội phong kiến sinh đọng cuối
thế kỉ XVIII khủng hoảng và thối nát, bị chi đảo điên bởi sức mạnh ghê gớm của đồng
tiền. Số phận con người hoàn cảnh ấy vô cùng đau khổ bởi vì chà đạp.
- Bên cạnh đó, truyện Kiều còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc hiện qua tiếng nói tố
cáo những thế lực bạo tàn chà đạp lên quyền sống của con người. Truyện Kiều ca ngợi
phẩm chất cao đẹp của con người, là tiếng nói của ước mơ, tự do, công lí và chính nghĩa.
4, Giá trị nghệ thuật.
- Truyện Kiều đặc sắc trước hết ở nghệ thuật xây dựng nhân vật với ca nhân vật chính
được xây dụng theo lối lí tưởng hóa bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng. Nguyễn Du là
bậc thầy miêu tả diễn tả tâm lí của nhân vật. Truyện Kiều thể hiện tả cảnh ngụ tình đặc
sắc.
- Ngôn ngữ trong truyện Kiều có sự kết hợp giữa ngôn ngữ của nhân dân và ngôn ngữ
bác học có đóng góp lớn lao cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.
* Kết bài: Với những giá trị đặc sắc trên, truyện Kiều trở thành kiệt tác của nền văn học
Việt Nam. Đã bao thế kỉ qua đi, truyện Kiều vẫn nguyên vẹn sức sống, sức hấp dẫn, niềm
đam mê trong lòng bạn đọc trong mọi thế hệ.

Chị em Thúy Kiều

I, Giới thiệu chung:


1, Vị trí đoạn trích.
- Đoạn trích thuộc phần I của tác phẩm truyện Kiều: gặp gỡ và đính ước.
- Đoạn trích gồm 24 câu từ câu 15 à câu 38.
2, Giá trị đoạn trích.
98
- Truyện Kiều có nhiều bức chân dung, nhân vật đặc sắc mà chân dung chị em Thúy Kiều
là tiêu biểu.
- Các tài của Nguyễn Du khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân là làm hiện lên
tính cách và dự đoán được số phận của nhân vật.
3, Bố cục: 4 phần.
- Phần 1: Bốn câu đầu: Giới thiệu chung về 2 nàng Kiều.
- Phần 2: Bốn câu tiếp: Tả chân dung Thúy Vân.
- Phần 3: Mười hai câu kế tiếp: Vẻ đẹp chân dung của Thúy Kiều.
- Phần 4: Bốn câu cuối: Cuộc sống nhân cách của 2 chị em qua lời nhận xét của tác giả.
II, Phân tích.
1, Bốn câu đầu: Giới thiêu về chị em Thúy Kiều.
- Đoạn thơ mở đầu bằng lời giới thiệu mang tính chất ẩn dụ: “Đầu lòng hai ả tố nga”. Lời
giới thiệu này đã tô đậm vẻ đẹp cao quý tựa như trăng, như tiên của hai nàng Kiều.
- Câu thơ thứ 2: Giới thiệu thứ bậc của Kiều và Vân một cách khách quan, trang trọng.
- Hai câu thơ 3,4: Khái quát về vẻ đẹp của Thúy Kiều, Thúy Vân bằng nghệ thuật ước lệ,
tượng trưng trong lối nói khẳng định.
+ Nguyễn Du mượn hình ảnh cây mai, mượn sắc trăng của tuyết, không chỉ gợi dáng
người thanh mảnh, vẻ đẹp trong trắng của hai nàng Kiều ở chân dung ngoại hình mà còn
ngụ ý ẩn dụ về vẻ đẹp trong trắng, trong tâm hồn của hai nàng Kiều. Cách tả này theo lồi
ước lệ nghiêng về cái hồn, cái thần của vẻ đẹp chứ không đi sâu miêu tả tỉ mỉ.
+ Cụm từ: “Mười phần vẹn mười” khẳng định Kiều và Vân mỗi người có một nét đẹp
riêng nhưng cả hai vẻ đẹp ây đều đạt tới mức độ hoàn vẹn hoàn mĩ.
è Cách giới thiệu đặc sắc, không chỉ làm lên chân dung nhân vật mà còn tô đậm, ấn
tượng sâu sắc về vẻ đẹp, về giá trị của nhân vật.
2, Bốn câu tiếp: Chân dung của Thúy Vân.
- Câu 1: Giới thiệu ấn tượng bao chùm về nhan sắc vè phẩm chất của Thúy Vân trước khi
đi vào miêu tả cụ thể ngoại hình và tính cách của Thúy Vân. Nguyễn Du khái quát bằng
cụm từ “trang trọng khác vời” đó là vẻ đẹp cao sang, khác thường mà ít người có được.
- 3 câu tiếp miêu tả những ấn tượng cụ thể về chân dung nhân vật qua thủ pháp liệt kê,
qua bút pháp ước lệ, tượng trưng.
+ “Khuôn trăng” là cách noi ngầm ví khuôn mặt đẹp, tựa như vầng trăng, kết hợp với hai
chữ đầy đặn, gợi một vẻ đẹp trong trịa, phúc hậu và ngầm nói tới cả sự mĩ mãn trong
cuộc đời của nhân vật.
+ “Nét ngài nở nang” chỉ lông mày đậm đà, tô điểm cho khuôn mặt đầy đặn. Chi tiết này
gắn với quan niệm thẩm mĩ thời trung đại khi lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp
của con người.
+ Làn tóc Thúy Vân dài mượt, nước da trắng trẻo khiến mây thua, tuyết phải nhường.
+ Những nét ngoại hình Thúy Vân đẹp rạng rỡ, mang vẻ đẹp đoan trang và quý phái
- Vẻ đẹp của Thúy Vân còn toát lên vẻ đẹp qua hành động và lời nói
+ “Hoa cười” là cách nói ẩn dụ chỉ nụ cười tươi trên gương mặt rạng rỡ của người đẹp.
à Tác giả dùng hoa, dùng ngọc, những hình ảnh đẹp đẽ và quý giá để so sánh với hành
động, với lời nói của Thúy Vân nhằm tô đậm phẩm chất của nàng.
99
- Nguyễn Du sử dụng từ ngữ từ ngữ để xây dựng chân dung Thúy Vân.
+ Những từ “thua, nhường” có sức ẩn chứa một dự đoán về tương lai Thúy Vân với con
người này, cuộc đời phía trước đang bình lặng, sẽ luôn gặp may mắn, hạnh phúc.
+ Quả thực đi suốt cả trang Kiều với bức chân dung này, Thúy Vân được hưởng cuộc
đời, bình yên, hạnh phúc, vinh hoa phú quý.
3, Vẻ đẹp chân dung Thúy Kiều.
- Hai câu đầu nêu ấn tương khái quát về Thúy Kiều trong sự so sánh với vẻ đẹp của Thúy
Vân.
+ Kiều đẹp “sắc sảo mặn mà” đó là vẻ đẹp không chỉ của hình dáng bên ngoài mà còn ẩn
chứa vẻ đẹp của trí tuệ, của tâm hồn.
+ Nguyễn Du tả Thúy Vân bước rồi mới tả Thúy Kiều với dụng ý so sánh “so bề tài sắc
lại là phần hơn” ngụ ý nhấn mạnh vẻ đẹp của Thúy Kiều hơn hẳn Thúy Vân. Hơn không
chỉ bởi Thúy Kiều cơ nhan sắc mà còn có tài hơn thế nữa cả tài và sắc đều vẹn toàn.
- Ngoại hình của Kiều được Nguyễn Du được gợi tả bằng bút ước lệ, bằng nghệ thuật ẩn
dụ: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người.
+ Nguyễn Du dùng hình ảnh làn nước mùa thu trong xanh, dáng núi mùa xuân, hoa và
liễu để thể hiện vẻ đẹp của Kiều làm người lên một dung nhan rực rỡ, lộng lẫy khiến hoa
phải ghen, liễu phải hờn.
+ Các từ “ghen”, “hờn” diễn tả đố kị của thiên nhiên với vẻ đẹp của Kiều như dự báo
cuộc đời Kiều phía thước đầy sóng gió bão giông.
+ Miêu tả chân dung Kiều, Nguyễn Du đặc tả đôi mắt để nói lên vẻ đẹp tinh anh của tâm
hồn, của trí tuệ Kiều.
- Vẻ đẹp tài hoa của Thúy Kiều được Nguyễn Du lưu tâm, tái hiện hơn cả.
+ Sắc đẹp của Kiều “nghiêng nước nghiêng thành” đó là cách nói tô đậm vẻ đẹp tuyệt vời
của người phụ nữ có thể khiến người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
+ Sắc của Kiều không ai có thể sánh kịp, nó gắn với cái tài cũng khó có thứ 2 sánh kịp.
+ Tài năng của Kiều được thể hiện qua cầm, kì, thi, họa tất cả đều đạt tới mức hoàn hảo,
vượt trội, điều đó được Nguyễn Du khẳng định như một cái tài xuất chúng qua một lớp từ
ngữ có giá trị tuyệt đối: “Pha”; “đủ mùi”; nghề riêng ăn đứt.
+ Cái tài của Kiều gắn với 1 trí tuệ thông minh “vốn sẵn tính trời”.
- Tài của Thúy Kiều còn thể hiện 1 tâm hồn nhạy cảm, tinh tế.
+ Tâm hồn của Thúy Kiều còn thể hiện qua cung đàn bạc mệnh và chính điều đó cũng hé
mở số phận long đong, bạc mệnh của Kiều.
à Chân dung Thúy Kiều được thể hiện ở cả 3 yếu tố: sắc, tài, tình. Tất cả đều vượt trội
khiến cho vạn vật phải đố kị và chính điều đó cũng trở thành tai họa đối với Kiều.
à Nếu bức chân dung Thúy Vân dự đoán một cuộc đời bình yên, một tương lai hạnh
phúc thì bức chân dung Thúy Kiều lại dự báo cuộc đời sóng gió, một số phận bất hạnh.
4, Bốn câu cuối: Nếp sống sinh hoạt của chị em Thúy Kiều.
- Tương xứng với sắc tài của Kiều và Vân là nếp sống phong lưu quý phái.
- Chị em Thúy Kiều sống êm đềm, hạnh phúc, đoan chính trong nền gia phong kín đáo
nền nã.

100
+ Hai chữ “mặc ai” được ở cuối câu thơ đã nhấn mạnh nếp sống kỉ phép, gia giáo của hai
chị em Thúy Kiều.
à Hiểu được nếp sống của chị em Thúy Kiều không chỉ để ta yêu quý chân trọng hơn
nhân vật mà còn để ta có ấn tượng, có nỗi xót xa thực cảm khi người con gái tài sắc vẹn
toàn khi bị đẩy vào số phận bất hạnh bởi cuộc đời bất công.
III, Tổng kết.
1, Nội dung.
- Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp tài năng, tâm hồn của chị em thúy Kiều theo quan niệm thẩm
mĩ phong kiến về người phụ nữ. Qua đó nhà thơ bộc lộ những dự cảm về kiếp người tài
hoa, bạc mệnh và chính là cảm hứng nhân văn, sâu sắc của truyện Kiều.
2, Nghệ thuật.
- Đoạn trích sử dụng nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên đẻ gợi tả vẻ đẹp của
con người đó là một nét đặc sắc trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.

Cảnh ngày xuân


I, Giới thiệu chung .
1, Vị trí đoạn trích.
- Đoạn trích kế tiếp đoạn tả chị em Thúy Kiều chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ của Thúy Kiều
và Kim Trọng.
2, Giá trị của đoạn trích.
- Đoạn trích tả cảnh ngày xuân trong lễ hội xuân khi chị em Thúy Kiều đi du xuân.
- Đoan tríc thể hiện tài năng tả cảnh thiên nhiên và sử dụng ngôn ngữ bậc thầy cả Nguyễn
Du.
3, Bố cục đoạn trích: 3 phần.
- Phần 1: Bốn câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân.
- Phần 2: Tám câu giữa: Khung cảnh lễ hội xuân.
- Phần 3: Sáu câu cuối: Cảnh chị em Thúy Kiều ra về.
II, Phân tích.
1, Bốn câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên ngày xuân.
- Hai câu thơ đầu giới thiệu về thời điểm cuối xuân theo lối nói ẩn dụ ước lệ của thơ cổ.
+ Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa “con én đưa thoi” để chỉ mùa xuân với
cảm giác tiếc nuối vì xuân đang đi rất nhanh theo thời gian khách quan.
+ Én là hình ảnh đặc trưng của ngày xuân, đặt trong vế nhân hóa “đưa thoi” ý chí chim én
bay đi bay lại rất nhanh trên bầu trời xuân như chiếc thoi chạy đi chạy lại trên khung cửi.
+ “Thiều quang” là ánh sáng đẹp, ánh sáng của ngày xuan tinh khôi, trong trẻo gắn với ý
thơ “chín chục đã ngoài sáu mươi” ý chỉ qua tháng riêng, tháng hai đã bước sang tháng
ba trong tiết thanh minh, ý thơ ẩn dấu một nỗi niềm luyến tiếc của mùa xuân.
+ Hai câu thơ tiếp theo tái hiện 1 bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong ngày xuân.
+ Hai câu thơ chịu ảnh hưởng của thơ cổ trung hoa song cũng đầy sáng tạo
“Phương thảo liên thiên bích
Lê chi số điểm hoa”

101
- Nguyễn Du đã tạo nên bức họa tuyệt tác về cảnh ngày xuân với nền của bức tranh là
màu xanh bát ngát tới tận chân trời của đồng của bao la trên cái nền xanh dịu mát đó
điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng.
+ Bức tranh phối màu trắng xanh với đường nét rõ ràng, thanh tú gợi nên một sắc xuân
đặc trưng trong sáng, tươi tắn, thanh khiết và đầy sức sống.
- Bức tranh cảnh ngay xuân được dựng nên bằng nghệ thuật đặc sắc quen thuộc của thơ
ca trung đại đó là gợi nhiều hơn tả là lấy điểm tả chỉ qua một vài đường nét sắc màu mà
khung cảnh ngày xuân đã hiện lên sinh động.
- Các từ ngữ “thảo”, “điểm” và hình ảnh cỏ non hoa lê trắng đầy sức sáng tạo hình và
biểu cảm khiến cho bức tranh xuân sống động hơn.
è Ẩn sau bức tranh xuân tươi tắn, trong trẻo là vẻ đẹp tâm hồn con người trẻ trung,
thanh cao tràn đầy niềm vui đang mở rộng cõi lòng để đón vẻ đẹp xuân.
2, Tám câu tiếp: Cảnh lễ hội xuân.
- Hai câu đầu giới thiệu thời gian là tiết tháng ba gắn với lễ tảo mộ và hội “đạp thành”
trong Tết thanh minh.
+ Lễ trang trọng tảo mộ thăm viếng sửa sang tảo mộ để tỏ lòng thành kính thương nhớ
người đã khuất. Đây là một truyền thống văn hóa đẹp của dân tộc.
+ Hội “đạp thanh” nghĩa là dẫm lên cỏ xanh là lễ hội du xuân một cái thứ thanh cao và
bình dân ở chốn đồng quê nơi đây nam thanh nữ tú gặp gỡ hẹn hò.
- Sáu câu thơ tiếp cụ thể hóa cảnh lễ hội xuân trong Tết thanh minh.
+ Không khí lễ hội đông vui, rộn ràng, náo nức đucợ thể hiện qua các từ ngữ “gần xa”;
“nô nức”; “rập rìu”; “sắp sửa”; “ngổn ngang”.
+ Người đi lễ tảo mộ đi chơi hội xuân là những tài tử giai nhân trai thanh gái lịch dáng
điệu khoan thai, ung dung, thanh thản.
+ Hình ảnh thơ “thoi vàng vớ rắc tro tiền giấy bay” tái hiện một truyền thông văn hóa tâm
linh của dân tộc ta với hình ảnh người đi chơi hội, đi tảo mộ vừa sắt vàng giấy, đốt tiền
giấy cúng những linh hồn đã khuất, những hành động ấy làm cho cảnh ngày xuân, làm
cho lễ hội xuân thêm ý nghĩa.
è Tám câu thơ ngắn nhưng đã tái hiện sinh động không khí lễ và hội hòa hợp với nhau,
vừa trang nghiêm, thành kính, vừa rộn ràng, náo nức, đó chính là hình ảnh của cuộc sống
thanh bình, của nếp quê dân tộc.
3, Sáu câu cuối: Cảnh chị em Thúy kiều ra về.
- Không khí mua xuân không còn rỗn ràng náo nức như lúc hội diễn ra đã được thể hiện ở
những câu thơ trên có lẽ vì thế mà Nguyễn Du sử dụng rất nhiều từ láy để lầm chậm, làm
dịu lại cái không khí tưng bừng khi lễ hội diễn ra.
+ Hai chữ “tà tà”, thể hiện bước chuyển của thời gian rất chậm, hàm chứa cả nỗi niềm lưu
luyến của những người đi du xuân.
+ Từ láy “thơ thẩn” thể hiện rạng điệu chậm rãi không chút rộn rã của mọi người lúc ra
về như muốn dùng dằng nán lại vài ngày vui.
+ Một bức tranh phong cảnh được mở ra trong cảnh chiều tan khi tan hội khép lại một
ngày tươi đẹp với một vẻ đẹp dịu dang, thanh thoát, nhuốm đầy tâm trạng.

102
+ Hình ảnh dòng nước nao nao uốn lượn với chiếc cầu nhỏ nhỏ bắc ngang đẹp một cách
tinh tế thơ mộng để khép lại khung cảnh đẹp đẽ của ngày xuân cùng những ấn tượng đẹp
của những người đi du xuân.
+ Bức tranh lúc chị em Thúy Kiều ra về sẽ là khúc dạo đầu cho mối tình đẹp đẽ say mê
của Thúy Kiều và Kim Trọng.

Kiều ở lầu ngưng Bích


I, Giới thiệu chung.
1, Vị trí đoạn trích:
- Đoạn trích thuộc 2 phần: gia biến và lữu lạc.
- Đoạn trích gồm 22 câu. Từ câu 1033 đến câu 1054.
2, Hoàn cảnh dẫn đến tâm trạng của Thúy Kiều.
- Biết mình bị lừa vào cảnh nhuốc nhơ. Kiều đau đớn khang cự bằng cách tự vẫn. Tứ Bà
sợ mất vốn liêng nên xoa dịu Kiều bằng cách đưa nàng đến lầu Ngưng Bích hứa là sẽ tìm
người tử tế để gả cho Kiều nhưng thực tế là lập kế hiểm buộc Kiều phải tiếp khách.
- Lầu Ngưng Bích nằm ở bên bờ biển Lâm Tri, vị trí chơ vơ, vắng vẻ chỉ có nước, trời
mênh mông khiến cho con người cảm thấy cô đơn, chống trải.
3, Bố cục.
- Phần 1: Sáu câu đầu: Toàn cảnh ở lầu Ngưng Bích qua cái nhìn và tâm trạng của Thúy
Kiều.
- Phần 2: Tám câu tiếp: Nỗi nhớ của Kim Trọng và cha mẹ đối với Thúy Kiều.
- Phần 3: Còn lại: Nỗi nhớ của Thúy Kiều thông qua cảnh vật.
è Đoạn trích vừa tả cảnh, vừa tả tình, là đoạn xuất sacwsnhaats trong bút pháp tả cảnh
ngụ tình của Nguyễn Du. Ở đây, đây được nhìn qua con mắt, qua tâm trạng của người
con gái đang cô đơn, bơ vơ, triễu nặng nỗi niềm bởi những trớ trêu cho cuộc đời, số phận
của Kiều.
II, Tìm hiểu chi tiết.
1, Sáu câu đầu:
- Lầu Ngưng Bích nằm bên bờ biển giữa trời và nước chơ vơ, cô độc đây là một ngôi lầu
đẹp, đẹp ngay từ cái tên nên nó cũng gợi được khung cảnh đẹp.
à Cảnh bao la khiến con người thêm nhỏ bé, cô đơn, sầu não vì thế cang tăng cảnh đẹp
lại thật trớ trêu với tình cảnh của con người.
- Hai chữ “khóa xuân” được dùng theo nghĩa chuyển ý nói Kiều bảo vệ, khóa kín tuổi
xuân mà thực chất là bị giam lỏng.
- Trong con mắt nhìn của Kiều cảnh lầu “Ngưng Bích có một nét đẹp tiêng, bát ngát,
mênh mông nhưng cũng thật lạnh lùng, hoang vắng.
+ “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung” dáng núi và vầng trăng đã tụ họp dưới một vòm
trời làm nên cái đẹp của cảnh chiều, núi thì xa mà trăng thì thật gần bởi cảm giác về một
trăng sáng khiến trăng trở nên gần gũi còn núi dẫu gần hơn trăng nhưng mờ nhạt hơn nên
tạo cảm giác xa cắng hơn.

103
+ Qua cái nhìn mang đầy tâm trạng của Kiều: “Bốn bề vốn đã rộng càng trở nên mênh
mông, bát ngát” hai chữ “bát ngát” kết hợp với xa trông khiến cảnh thêm rộng lớn và con
người thêm bé nhỏ và cô đơn.
+ Bức tranh thiên nhiên hoang vắng hơn, dẫu vẫn đẹp với từng cồn cát nối tiếp nhau.
- Tâm trạng của Kiều được bộc lộ, được hé lộ ở câu thơ 5,6.
+ Cách diễn đạt “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” thể hiện cái dùng dằng, xót xa
tâm sự của Kiều nửa như gửi vào cảnh vật, nửa như giữ lại trong lòng, nửa ở nơi lầu
Ngưng Bích, nửa bay về chốn quê – nơi có gia đình và có người thân.
+ Hai chữ “bẽ bàng” gói trọn nỗi niềm của Thúy Kiều đã hòa trong cảnh nhà chán ngán,
vừa buồn tủi, vừa thương mình, vừa nhớ người thân, nỗi niềm ấy cũng hòa vào trong
cảnh bát ngát, hoang tàn càng bể bàng, càng thấm thía hơn.
2, Tam câu thơ tiếp theo.
- Ở câu thơ này, cảnh mờ được để nỗi nhớ trỗi dậy cồn cào trong lòng Thúy Kiều. Tâm
trạng Kiều lúc này được bộc lộ trực tiếp thành nỗi nhớ ngậm ngùi, khắc khoải trong mỏi
mòn mong chờ.
- Bốn câu đầu là nỗi nhớ, nỗi băn khoăn về Kim Trọng.
+ Sở dĩ nỗi nhớ người yêu được đặt trước nỗi nhớ gia đình bởi lúc này Kiều đã tạm tròn
chữ hiếu nghiệm lại dở dang chữ tình. Nàng luôn mặc cảm có lối, mình mắc nợ chàng
Kim Trọng.
+ Nhớ về Kim trọng là nhớ về đêm trăng thề nguyền với chén rượu thề và lời đỉnh ước
chung thủy.
+ Kiều tưởng tượng cảnh người yêu trở về trốn cũ không gặp nàng biết tin giữ trong đau
khổ, thất vọng và ngày đêm hướng về mình chờ trông mà uổng công vô ích.
+ Càng thấm thía phận mình bơ vơ, côi cút, nơi góc bể chân trời, Kiều càng đau đớn
thương cho chàng Kim nhớ về chàng Kim trong day dứt.
- Bốn câu sau là nỗi nhớ của Kiều về cha mẹ.
+ Nhớ về cha mẹ, tuổi già sức yếu mà mình thì không có Thúy Kiều để tự tay chăm sóc.
+ Kiều lo xót xa cho cha mẹ, tuổi già sức yếu ngày càng héo mà bởi khắc khoải ngóng
trông con mà chẳng có cách gì để an ủi.
- Cùng là nỗi nhỡ nhưng cách thể hiện trong tâm trạng Thúy Kiều có điểm khác nhau.
+ Nỗi nhớ Kim Trọng gắn với nỗi đau luyến tiếc vì tình yêu tan vỡ còn nỗi nhớ cha mẹ
gắn với niềm yêu thương xót day dứt về bổn phận “Làm con trước phải đền ơn sinh
thành”.
+ Khi thể hiện nỗi nhớ của Kiều về chàng Kim, tưởng dùng hình ảnh đêm trăng thề
nguyện đẹp đẽ, thiêng liêng khi nói về nỗi nhớ của nàng về gia đình, tưởng là khéo léo sử
dụng các điển tích “sân lai”, “gốc tử”.
+ Tám câu thơ tái hiện nỗi nhớ sâu sắc làm sác lên tâm hồn Kiều – một người luôn sống
và nghĩ về người khác, một lòng chung thủy, hiếu thảo, một lòng chung thủy, hiếu thảo,
một bạn tình vị tha, nhân hậu, giàu đức hy sinh.
3, Tám câu cuối.
- Đoạn thơ cuối trở về với những câu thơ tả cảnh nhưng là để ngụ tình bức tranh thiên
nhiên vì thế cũng là bức tranh tâm trạng.
104
- Tám câu thơ có 4 lần lặp lại điệp ngữ “buồn trông” đặt ở đầu bốn câu lục.
+ Trong ca dao cũng đã đùng hình thức này để thể hiện nỗi nhớ khắc khoải trong tình yêu
đôi lứa.
“Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mất ai.”
+ Học hình thức thể hiện này của ca dao, Nguyễn Du biểu đạt tậm tô đậm Thúy
Kiều sâu sắc và tinh tế hơn, phức tạp hơn.
+ Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với cấu trúc câu lặp lại góp phần tô đậm, nhấn
mạnh nỗi buồn mỗi lúc dâng trào trong lòng Kiều hoa cùng cảnh vật.
+ Sau mỗi điệp ngữ buồn trông là một đợt sóng tâm trạng nối tiếp nhau hướng
về một đối tượng khác nhau, một vấn đề khác.
 Buồn trông cửa biển chiều hôm gắn với cánh buồm thấp thoáng xa xa biểu
biểu tượng cho số phận trôi nổi, bơ vơ bé nhỏ của Kiều.
 “Buồn trông ngọn nước mới xa” gắn với cánh hoa trôi như thân phận Kiều trôi dạt
như thân phận Kiều trôi vô định. Hai chữ “man mác” khắc họa nỗi niềm của con người
như buồn đau cho số phận không thể được tự chủ mặc cho sóng biển đưa đẩy, dập vùi.
 “Buồn trông nội cỏ sầu sầu” mở ra không gian rộng đến vô cùng khiến cho nỗi
niềm con người thêm ngậm ngùi bởi cuộc sống của mình ngày như càng thêm nhật nhẽo
vô vị.
 “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh” gắn với âm thanh của sóng ầm ầm mở ra một
không gian giữ dội với những đợt sóng khiến ta liên tưởng như từng đợt sóng như cuốn
bốc vào tận nơi Kiều ngồi, như đe dọa con người.
à Thiên nhiên thay đổi như đe dọa con người sâu sa hơn đó chính là lời dự báo về những
tai ương bất trắc trong tương lai không xa của Kiều.
à Tám câu thơ cuối nói riêng và toàn đoạn trích nói chung đã thể hiện nội tâm sâu sắc
của Thúy Kiều qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, qua ngôn ngữ độc thoại qua việc sử dụng
các biện pháp nghệ thuật như điệp, đối xứng, ẩn dụ.
à Đoạn trích đã diễn tả thành công tâm trạng lẻ loi, cô đơn, nỗi đau đớn, bế tắc, nỗi nhớ
sâu sắc và tâm trạng ngổn ngang của Thúy Kiều.

Mã Giám Sinh mua Kiều

I, Giới thiệu chung.


1, Vị trí đoạn trích.
- Đoạn trích thuộc phần 2: gia biến và lưu lạc.
- Đây là là sự kiện mở đầu cho kiếp đoạn trường 15 năm của đời Kiều.
2, Nội dung đoạn trích.
- Đoạn trích kể về việc Mã Giám Sinh mua Kiều nhưng lại không được ngụy trang bằng
hình thức lễ vấn danh.

105
- Trong đoạn trích chân dung Mã Giám Sinh hiện lên sinh động, sắc nét và bi kịch của
Kiều cũng bị đẩy tên đến đỉnh điểm khi nàng bị biến thành một món hàng, bị ngã giá cò
kè thêm bát.
II, Phân tích.
1, Nhân vật Mã Giám Sinh.
- Mã Giám Sinh xuất hiện trong đoạn trích gắn với những sự việc, những mục đích rõ
ràng.
+ Mụ mối dẫn đến Mã Giám Sinh vào làm lễ vấn danh.
+ Mã Giám Sinh xem người và mặc cả giá.
+ Mã Giám Sinh ưng thuận giá.
- Mã Giám Sinh được tác giả thể hiện trong tác phẩm bằng bút pháp tả hiện thực với
giọng điệu có vẻ diễu cợt khinh bỉ dẫu là rất kín đáo, chân dung con người Mã Giám Sinh
vì thế hiện ra một cách rất chi tiết tỉ mỉ.
- Về ngoại hình:”mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”.
+ Các từ láy “nhẵn nhụi, bảnh bao” đặt trong nghệ thuật đối xứng của câu thơ không chỉ
gợi hình ảnh Mã Giám Sinh mà còn nhấn mạnh cái vẻ trải chuốt, đỏm dáng, lộ liễu quá
đáng, không phù hợp với lứa tuổi Mã Giám Sinh.
+ Với cách tả trên Mã Giám Sinh hiện lên với vẻ kệch cỡm, chơ chẽn, đồng thời các ý chí
cười của người kể chuyện cũng lộ ra.
- Về hành động, thái độ của nhân vật tỏ ra không chút lịch sự.
+ Trong buổi lễ vẫn danh cần sự nghiêm túc trang trọng thì Mã Giám Sinh xuất hiện
trong cái đám “lao xao”, “trước thầy sau tố”, ở đây Nguyễn Du tinh tế đặt từ chỉ vị trí lên
trên danh từ nhằm nhấn mạnh cái vẻ lộn xộn, láo nháo, thiếu đứng đắn, thiếu phép lịch sự
tối thiểu gợi hình ảnh Mã Giám Sinh cùng bầu đoàn của anh ta vừa đi vừa chỉ trỏ, vừa
tiếng to, tiếng nhỏ không ngớt chẳng để ý tôn trọng ai.
+ Hành động, cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng của Mã Giám Sinh đã bóc lột sự bất nhã,
sự thiếu văn hóa và tự nó tố cáo bản chất Mã Giám Sinh là con người hạ lưu, vô học, cậy
mình có tiền, chẳng thèn xem ai ra gì, từ hành động của Mã Giám Sinh đã bóc trần sự
thật về nguồn gốc mua bán thấp kém hẳn.
+ Hành động mua bán diễn ra khiến chân tướng của một tay bút lõi hiện hình từ việc xem
hàng thử tài, cân sắc, cân tài đến có lo giá rồi quyết định ưng thuận.
 Nguyễn Du đã khéo léo khi sử dụng các động từ “cân”, ép trong ý thơ “ép cung
cầm nguyệt, thử tài quạt thơ” để chỉ hành động đi tính của kể buôn lọc là Mã Giám Sinh.
 Các từ ngữ “cò”, “kè”, “bớt”, “thêm” đã lột tả thành công phẩm chất con buôn keo
kiệt mặc cả đầy manh lới của Mã Giám Sinh.
- Về ngôn ngữ, lời nói, Mã Giám Sinh trả lời cộc lốc, thiếu lễ phép, làm hiện vên bản chất
của một kẻ thô lỗ thiếu giáo dục, không chút lịch sự.
- Về bản chất, Mã Giám Sinh là một con buôn, nguồn gốc thấp kém bất lịch sự lưu manh,
lọc lừa, mọt họng, thô bỉ.
+ Mã Giám Sinh đã che đậy rất khéo léo bản chất, nguồn gốc một cách tinh tế bằng lễ
vấn danh, bằng những lời nói đưa đẩy, khách sai, văn hhoa là một chàng trai đi hỏi vợ.
“Rằng: Mua ngọc đến lam Kiều.
106
Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”
+ Thế nhưng bản chất con buôn mạt hạ vẫn lấn áp vai kịch của chàng trai đi hỏi vợ, sự
xảo quyệt dù che đậy một cách lọc lõi cùng vẫn lộ ra.
à Mã Giám Sinh là hiện thân của đồng tiền đã góp phần đẩy Kiều, dìm Kiều xuống tận
cùng của sự đau khổ đó là một trong những biểu hiện của bộ mặt xấu xa, sản phẩm của
chế độ phong kiến thối nát, xã hội bị ngự trị bởi đồng tiền mà Nguyễn Du kịch liệt phê
phán.

2, Nhân vật Mụ mối.


- Ngay từ đầu đoạn trích Nguyễn Du đã giới thiệu lai lịch công việc của mụ mối. Cách
giới thiệu hàm ý mỉa mai, coi thường bởi công việc của mối lái là đem lại hạnh phúc cho
người khác nhưng ở đây mụ mối lại cũng là một thế lực góp phần gieo nỗi bất hạnh cho
Kiều.
- Hành động của mụ mối “vén tóc”, “bắt tay”, “ép”, “thử” cùng với lời đưa đẩy:
“Mối rằng giá đáng nghìn vàng
Dớp nhà nhờ lượng người thương giám nài.”
à Chứng tỏ mụ mối cũng là kẻ lọc lõi, cũng là công cụ của đồng tiền.
à Mụ mối giẫu vô tình đã tiếp tay cho những kẻ buôn người và lại như Mã Giám Sinh.

3, Nỗi đau khổ của Thúy Kiều.


- Trong đoạn trích nàng Kiều bị biến thành một món hàng không hơn, không kém. Ở đó,
Kiều cũng chính là người bán hàng bởi nàng chủ động bán mình chuộc cha.
- Trong cuộc mua bán, từ khi xuất hiện cho đến khi bị ngã giá, Thúy kiều câm lặng, bị
động, rụt rè, xấu hổ.
+ Mỗi bước Kiều đi thấm những dòng lệ sót xa, đau đớn cho mình đau đớn cho cảnh nhà.
+ Thúy Kiều câm lặng ngại ngùng xấu hổ, những từ ngữ như “rợn gió”, “e sương”, “ngại
ngùng”, “thẹn” thể hiện rất đạt tình cảm thái độ của nàng Kiều.
+ Kiều rụt rè và như cái máy làm theo yêu cầu của mụ mối và Mã Giám Sinh để mặc cho
mụ mối vén tóc, bắt tay, miễn cưỡng làm thơ, chơi đàn.
- Tình cảnh của Kiều trái ngang, chớ trêu, nhục nhã mà uất ức vì Kiều, ý thức rất rõ về
nhân phẩm, nhưng chẳng thể nào cứu mình khỏi tình cảnh ấy được.
- Thúy kiều vốn tinh tế và nhạy cảm nên chắc chắn rằng nàng nhận rõ bộ mặt của Mã
Giám Sinh hoặc cũng có thể vì cái nhục, cái xấu hổ, cái uất ức vì nỗi mặc cảm bởi bị biến
thành một món hàng nên nàng chẳng để ý đến điều gì khác hơn nhưng thực chất nếu nhận
ra được thì Kiều đành nhắm mắt đưa chân mà thôi.
à Thúy Kiều thực sự là nạn nhân của xã hội phong kiến là nạn nhân của thế lực đồng
tiền đen tối.
à Ẩn sâu tâm trạng của nàng Kiều là thái độ cảm thông, chia sẻ, đau đớn, xót xa của
Nguyễn Du cũng từ đó Nguyễn Du căm phẫn cất tiếng phê phán xã hội phong kiến với
những thế lực bạc ác, chà đạp lên con người cũng từ đó Nguyễn Du chân trọng hơn phẩm
giá của nàng Kiều. Đó chính là giá trị nhân văn sâu sắc của truyện Kiều.

107
Nguyễn Đình Chiểu và Lục Văn Tiên

I, Nguyễn Đình Chiểu.


1, Về tiểu sử.
- Sinh năm 1822 - 1888 Trọng Phủ hiệu là hối trai.
- Là người con của đất Nam Bộ, niềm tự hào của nhân dân Nam Bộ, quê cha của Nguyễn
Đình Chiểu là Thừa Thiên Huế, quê mẹ là ở Gia Định. Ông sống chủ yếu ở Gia Định cho
tới khi Nam Kì rơi vào tay giặc, ông chuyển về sống ở Ba Tri, Bến Tre.
- Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, bản thân ông cũng thi đỗ tú tài.
- Cuộc đời ông gặp nhiều đau khổ bất hạnh, với những bi kịch cá nhân đau đớn.
+ Tuổi thơ lật đật sớm mồ côi cha.
+ Thi đỗ tú tài chuẩn bị tham gia kì thi Hương, nghe tin mẹ mất bỏ thi về chịu khóc
thương đến mù cả hai mắt.
+ Khi bị mù hai mắt ông lại tiếp tục chịu bất hạnh do bị bội hôn.
à Liên tiếp nhận những đòn giáng của số phận, phải sống trong tăm tối thế nhưng ông
không gục ngã vươn lên chiến thắng bi kịch cá nhân trở thành một thành giáo – một thầy
thuốc – một nhà thơ đánh giặc bằng ngòi bút. Ông cũng gánh chịu bi kịch chung của thời
đại đó là bi kịch mất nước khi thực dân Pháp xâm lược, lúc này cụ đồ Chiểu tham gia các
phong trào đấu tranh của nhân dân sáng tác thơ văn cổ vũ tinh thần chống Pháp và cương
quyết khước từ mọi sự dụ dỗ của giặc.

2, Con người.
- Ông là một nhà giáo mẫu mực, một thầy thuốc y đức, một nhà thơ luôn hướng về cái
đẹp cả trong cuộc đời và văn chương.
- Ông là một tấm gương lớn về nhân cách của một con người với ý chí nghị lực lớn lao,
với ý thức giữ vững khí tiết.

3, Sự nghiệp thơ văn.


- Tác phẩm của ông hướng về việc tuyên truyền đạo lý ở đoạn trước khi thực dân Pháp
xâm lược, tiêu biểu như tác phẩm Lục Vân Tiên, Dương tự - Hà Mậu.
- Sau khi thực dân Pháp xâm lược, ông sáng tác thơ văn yêu nước chống giặc ngoại xâm,
tiêu biểu như tác phẩm “Văn Tế, Nghĩa sĩ cần giuộc, chạy Tây”
- Quan điểm sáng tác của ông là sáng tác thơ văn tuyên truyền đạo lý chống lại cái xấu,
cái ác, và kẻ thù xâm lược.
- Nội dung văn thơ của ông đề cao tinh thần trọng đạo lí, thương dân yêu nước, ghét áp
bức bất công và ý chí đấu tranh chống xâm lược.
- Thơ văn ông là thơ văn trữ tình, đạo đức, ngôn từ giản dị dân giã, mang đậm sắc thái
Nam Bộ.

II, Tác phẩm.


1, Lục Vân Tiên được sáng tác năm 1954, trước khi thực dân Pháp xam lược nước ta là 1
tác phẩm xuất sắc của văn chương tuyên truyền pháp lí.
108
2, Thể loại: Truyện thơ Nôm, tác phẩm được người Nam Bộ xem truyện Kiều thứ hai của
mình tác phẩm dai 2092 câu.
3, Giá trị nội dung.
- Kết cấu của tác phẩm gồm 4 phần:
+ Phần 1: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi bọn cướp.
+ Phần 2: Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp.
+ Phần 3: Kiều Nguyệt Nga gặp nạn vẫn một long chung thủy với Lục Vân Tiên.
+ Phần 4: Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga tái hợp.
- Tác phẩm là bài ca ca ngợi đạo lí làm người đề cao tư tưởng nhân nghĩa thể hiện khát
vọng của nhân dân về công bằng đạo lí.
- Tác phẩm ca ngợi người lao đọng bình thường mà thủy chung, nhân nghĩa, trong sáng,
hào hiệp.
- Tác phẩm vừa góp tiếng nói đồng cảm, xót thương cho người bình dân vừa tố cáo
những kẻ bất nhân, vô nghĩa.
4, Giá trị nghệ thuật.
- Tác phẩm kết cấu theo kiểu chương Hồi.
- Tác phẩm có sự đan xen giữa yêu tố tự sự và trữ tình có những yếu tố kì ảo có kết thúc
có hậu.
- Ngôn ngữ của truyện thơ Lục Vân Tiên giản dị trong đậm chất bình dân và có sắc thái
Nam Bộ
à Lục Vân Tiên ít nhiều mang tích chất tự thuật về cuộc đời tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Tác phẩm vì thế mang ước mơ, khát vọng của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng, của nhân
dân ta nói chung về người anh hùng trung hiếu, tiết nghĩa giúp dân, giúp nước.

III, Giới thiệu về đoạn trích.


1, Vị trí.
- Thuộc phần 1 của tác phẩm.
2, Bố cục: 2 phần.
- Phần 1: Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.
- Phần 2: Cuộc trò chuyện giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
3, Nội dung.
- Qua câu chuyện Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga và qua cách ứng xử
của Kiều Nguyệt Nga, Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của người bình
dân, trai thì anh hùng, nghĩa hiệp, gái thì tiết hạnh nết na.

IV, Phân tích.


1, Nhân vật Lục Vân Tiên.
- Trong tác phẩm Lục Vân Tiên là nhân vật chính diện, nhân vật trung tâm mang tư tưởng
của tác giả. Lục Vân Tiên còn là hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu thời trẻ và Lục Vân Tiên
trong tác phẩm là một nhau sinh, một con người thấm nhuần tư tưởng của đạo nho về đạo
đức và lí tưởng sống, Lục Vân Tiên vì vậy là hình ảnh đại diện cho những bậc trai sống
trong thời phong kiến theo quan niệm đạo đức của nhân dân.
109
- Lục Vân Tiên này là học trò hay vốn giỏi võ ý thức xuống núi vào đời làm việc thiên về
việc nghĩa của truyện cổ tích.
- Việc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là việc thử sức chứng tỏ tài năng và khẳng
định tâm đức vốn có trong con người anh hùng có nhiều phẩm chất tốt đẹp Lục Vân Tiên.
+ Lục Vân Tiên “ghé lại bên đàng” bẻ cây làm gậy nhằm lặng xông vào và chứng tỏ
người anh hùng này khi thấy việc nghĩa cần làm là làm ngay mặc dù chỉ có một mình lại
không có vũ khí trong tay điều đó chứng tỏ Lục Vân Tiên chủ trọng làm việc nghĩa hơn
là việc suy tính lo cho tính mạng của mình sẵn sàng xông vào chốn hiến nguy, làm việc
nguy.
+ Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo gợi hình ảnh bọn cướp hung dữ, đông đúc, hiếu chiến
để làm tôn thêm tình thế nguy hiểm để khẳng định tôn vinh, tài năng và thái độ xả thân vì
nghãi của Lục Vân Tiên.
+ Nguyễn Đình Chiểu đã sẵn sàng sự dũng mãnh của Lục Vân Tiên khi: “tả đột hữu sông
giữa bọn cướp với hành động anh hùng cứu chúa của Triệu Tử Long trong lịch sử Trung
Quốc” để làm tô đậm ấn tượng về tài năng và phẩm chất anh hùng của Lục Vân Tiên.
+ Trận đánh của Lục Vân Tiên không được tác giả chú tâm tả nhiều, diễn biến rất nhanh
dù Lục Vân Tiên chỉ có một mình cũng đủ khiến cho giặc tan tát, tài năng, sự dũng cảm
vủa Lục Vân Tiên lại được khẳng định.
à Lục Vân Tiên chiến đấu kiên cường và chiến thắng nhờ tài chí của bậc anh hùng.
- Lục Vân Tiên trong đoạn trích còn là một nho sinh biết cư xử đúng mực theo những
phép tắc của lễ giáo phong kiến.
+ Câu nói “Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai.”
Thể hiện Lục vân Tiên rất giữ lệ, giữ gìn danh giá, người phụ nữ mang theo quan niệm
“Nam nữ thụ thụ bất thân.”
+ Lục Vân Tiên thể hiện thái độ trọng nghĩa với quan điểm rõ ràng, giản dị
“Làm ơn há rẽ trông người trả ơn.”
+ Trước hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên tác giả đã buông lời bình luận:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
- Thấy việc nghĩa không làm, không phải là bậc anh hùng bởi vậy việc Lục Vân Tiên
đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga là hành động thường trực ở người anh hùng mà thôi.
+ Lục Vân Tiên đã từ chối lời mời về thăm nhà để trả ơn sau đó từ chối cả chiếc trâm
vàng mà Kiều Nguyệt Nga tặng để tả lòng biết ơn chỉ sướng họa cùng nàng một bài thơ
rồi thanh thẩn không chút vướng bận tiếp tục lên đường đi thi.
à Lục Vân Tiên là hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu gửi gắn khát vọng làm việc nghĩa, khát
vọng về người anh hùng vì dân làm việc thiện mang lại hạnh phúc cho dân.
2, Nhân vật. Kiều Nguyệt Nga.
- Kiều Nguyệt Nga là một nhân vật nữ chính trong tác phẩm, nhân vật chính diện, nhân
vật nổi đẹp nhất trong các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu.
- Kiều Nguyệt Nga là một tiểu thư khêu cát, con của quan tri phủ Hà Khê, nàng đang trên
đường trở về lo việc hôn nhân theo quyết định của cha.
110
- Sau khi được Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga rất cảm kích, nàng băn khoăn muốn
tìm cách trả ơn, nàng sẵn sàng ra khỏi xe để cảm tạ Lục Vân Tiên, những cách cư xử của
nàng rất đúng mực theo khuôn phép danh vị tiểu thư khêu cát, nết na, có học thức, có
giáo dục cẩn thận sử xự có trước có sau.
- Cử chỉ, hành động cua Kiều Nguyệt Nga dịu dàng, đúng mực mà vẫn rất chân thành.
- Lời nói cách xưng hô cảu Kiều Nguyệt Nga rất khiêm nhường, nàng gọi Lục Vân Tiên
là quân tử và tự xưng là tiểu thiếp, chút tôi vừa văn vẻ, vùa dịu dàng, chuẩn mực xúc
động chân thành và cảm kích.
- Kiều Nguyệt Nga áy náy “Lấy chi cho phí tấm lòng cùng ngươi” nghĩa là biết ơn bap
nhiêu cũng chưa đủ công cứu mạng, cứu danh tiết của mình.
à Kiều Nguyệt Nga là gái thuyền thuyên có thể so sánh cùng trai anh hùng Lục Vân
Tiên, Kiều Nguyệt Nga là mẫu lí tưởng theo quan niệm phong kiến về người phụ nữ nên
cũng đáng quý, đáng trọng.

Lục Vân Tiên gặp nạn

I, Giới thiệu chung.


1, Vị trí đoạn trích: nằm ở phần II của truyện.
2, Hoàn cảnh: (SGK-120).
3, Nội dung: Đoạn trích bộ lộ quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về cái thiện, cái ác ở
đời.
II, Phân tích.
1, Trịnh Hâm – sự hoành hành của cái ác.
- Mối quan hệ giữ Trịnh Hâm và Lục Vân Tiên là hai người bạn quen biết nhau bởi đều
hướng tới chữ thánh hiền, hướng tới học. Đó là tình cảm cao đẹp không dễ có.
- Vậy mà khi bạn gặp nạn công danh lỡ dở, mất mẹ, bản thân mù lòa, đáng lẽ đây là một
cơ hội để giúp bạn nhưng Trịnh Hâm đã lấy đó là cơ hội để trả thù.
- Nguyên nhân trả thù Lục Vân Tiên xuất phát từ sự ghen ghét về tài năng của Lục Vân
Tiên. Trong khi Lục Vân Tiên đã không làm cản trở đối với Trịnh Hâm vì không còn cơ
hội để thể hiện tài năng của mình nữa, Trịnh Hâm cũng đã đỗ đạt nhưng vẫn ráp tâm hãm
hại bạn rất độc ác, sự nhỏ nhen, hèn hạ của Trinh Hâm vì thế bộc lộ đến cực điểm.
- Trịnh Hâm đã sắp xếp thời gian, địa điểm là đêm tối, lo liệu giữa dòng sông để việc
hãm hại độc ác diễn ra tự nhiên như một tai nạn.
- Sau khi đẩy Lục Vân Tiên xuống sông hắn lại vờ hô hoán người để tới cứu.
+ Trinh Hâm đã nhẫn tâm đẩy Lục Vân Tiên vào chỗ chết nên tính toán rất kĩ để bạn
không được ai cứu giúp, đó là tội ác đáng sợ của người bạn đã mất hết lương tâm.
+ Kế hoạch và việc làm của Trịnh Hâm được trả hình nhân nghĩa bốc trần bản chất, lòng
lang dạ sói của Trinh Hâm.
à Trịnh Hâm đại diện cho cái xâu, cái ác được che đậy bằng sự dối trá, xảo quyệt, gian
ngoan.
à Viết về Trịnh Hâm ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu bộc lộ thái độ ghe tởm và phê phán
trên lập trường của nhân dân.
111
2, Ông Ngư – đại diện cho cái thiện.
- Ông thuộc tuyến nhân vật những người bình dân, những nhân vật phụ trong tác phẩm
ông Tiều, ông quán.
- Nếu giao Long là lực lượng siêu nhiên góp phần cứu giúp phù trợ người thiện mang
đậm yếu tố hoang đường kì ảo theo quan điểm về cái thiện, cái ác của nhân dân thì ông
Ngư đại diện chàng bình dân xuất hiện đúng lúc phù trợ cứu giúp cho người thiện ở hiền
gặp lành, ác giả, ác báo, giản dị và sống phẳng của nhân dân.
- Nhân vật ông chài còn hành động trượng nghĩa cứu người bị nạn một cách vô tư, về
điểm nỳ ông lão giống như Lục Vân Tiên vậy.
- Từ hành động đến lời nói của ông chài rất chân thật, mộc mạc, vo tư, cảm động.
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hỏ mặt mày.”
- Câu thơ mộc mạc, chân chất mang đậm màu sắc Nam Bộ gợi cảnh cả gia đình ông chài
vội vã lo lắng cứu người bị nạn đó là biểu hiện của tình người vô, bản thân, đôn hậu, cảm
độn.
- Khi Lục Vân Tiên tỉnh lại, ông chài đã mời chàng ở lại cùng gia đình.
“ Ngư rằng: Người ở cùng ta
Hôm mai bẩm bút với già cho vui.”
Hai chữ “hẩm hút” mang chất giọng Nam Bộ ý chỉ cuộc sống nghèo nàn nhưng sẵn sàng
sẻ chía, cưu mang giúp đỡ người bị nạn.
+ Nhân vật ông Ngư đại diện cho người bình dân, cuộc sống ngheeof khổ làm lũ nhưng
lại mang phẩm chất thanh cao của những bậc ẩn sĩ, đó là người đã nhận rõ giá trị của cái
thiện, sẵn sàng làm việc thiện khi thấy được bản chất của cái ác, họ ung dung sống theo
cách riêng của mình, không màng công danh phú quý gắn bó với thiên nhiên và hết lòng
giúp đỡ cái thiện.
à Nhân vật ông chài mang những phẩm chất tốt đẹp của người Nam Bộ nói riêng của
nhân dân lao động nói chung qua cái nhìn yêu mến, tin tưởng, ngợi ca chân trong của tác
giả Nguyễn Đình Chiểu.

Đồng chí

I, Giới thiệu chung.


1, Tác giả.
a, Tiểu sử:
- Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc (1926 – 2007)
- Quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.
- Chính Hữu tham gia bộ đội từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chông Pháp, với
nhiệm vụ một chính trị viên kiêm công tác văn nghệ.
- Chính Hữu bắt đầu sáng tác thơ từ năm 1947 sau đó công tác tại hội nhà văn Việt Nam
trở thành nhà văn chiến sĩ.
b, Sự nghiệp, sáng tác.
112
- Là người lính tham gia hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ nên Chính Hữu
viết nhiều về đề tài người lính, về chiến tranh về tình yêu quê hương đất nước.
- Tác phẩm tiêu biểu của Chính Hữu là tập thơ “Đầu súng trăng treo”
- Phong cách thơ của Chính Hữu được thể hiện ở cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh
chọn lọc, hàm súc ý thơ chân thực, giản dị.
- Với tất cả những nỗ lực, đóng góp cho nền văn học cách mạng. Chính Hữu đã được
tặng giải thưởng cao quý – giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2, Tác phẩm:
a, Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ này được sáng tác đầu năm 1948 khi Chính Hữu vừa cùng đồng đội tham gia
chiến dịch Thu – Đông năm 1947, đánh bại âm mưu với niềm xúc động sâu xa về cuộc
sống gian khó mà thắm nghĩa, thắm tình giữa các đồng đội.
- Bài thơ là một trong những tác phẩm thành công sớm nhất về đề tài người lính trong
nền văn học Việt Nam những năm kháng chiến chống Pháp.
b, Thể thơ.
- Bài thơ được viết theo lối thơ tự do với những câu dài ngắn đan xen như những lời nói
thường ngày gắn với cảm xúc.
- Bài thơ là một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng tìm hiểu và thể hiện cất
thơ trong những nét đời thường bình dị của đời sống và con người kháng chiến.
3, Bố cục.
- Phần 1: Bảy câu thơ đầu: Cơ sở nơi tình đồng chí.
- Phần 2: Mười câu tiếp: Biểu hiện của tình đồng chí.
- Phần 3: Ba câu cuối: Biểu tượng về tình đồng chí.
II, Đọc – Hiểu văn bản.
1, Cơ sở của tình đồng chí.
- Bài thơ mở ra bằng lời tâm tình của những người lính cách mạng viows lối sống giản dị,
chân thực mà cảm động quen thuộc như những tiếng gọi quê hương thân thương trong
cuộc sống hằng ngày.
- Các cụm từ “Quê hương anh”, “làng tôi” được gợi nhắc hiện lên giản dị thân thuộc mà
thiêng liêng, gợi lên biết bao tình cảm yêu mến tự hào.
- Hình ảnh “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” được chắt lọc từ hiện thực đất
quê nghèo. Không chỉ gợi nhắc những vùng quê nghèo khó mà chỉ còn chỉ rõ hoàn cảnh
xuất hiện của những người lính cách mạng. Họ từ làng quê đi tam gia vào quân ngũ rời
tay cày, tay cuốc, họ chắp tay súng, tham gia vào sự ngiệp đấu tranh dành độc lập, họ trở
thành người nông dân mặc áo lính cách mạng.
- Người lính trong bài thơ trở thành hình tượng trung tâm của văn học cách mạng.
- Hai câu thơ 3 và 4 được cấu tạo theo kiểu tương phản, sóng dội, thẻ hiện sự chuyển biến
trong tình cảm những người lính từ xa lạ thành quen nhau. Đó là một chặng đường vượt
qua những khoảng cách để người lính xích lại gần nhau, để từ đó làm nên tính tri kỉ.
- Những từ “súng”, “đầu” đã tái hiện ý nghĩa người lính cùng chung nhiệm vụ, chung ý
chí, mục đích chiến đấu kết hợp với từ “sát”, “bên” tạo nên sự gắn bó, bền chặt.

113
- Cụm từ “đêm rét chung chăn” gợi những gian lao thiếu thốn và sẻ chia hóp phần làm
nên những đổi thay kì diệu, làm cơ sở bền cho tình đồng chí.
- Cụm từ “đôi tri kỉ” được sử dụng chính xác để gợi cảm gắn bó keo sơn giữa những
người lính cách mạng bởi đội thể hiện sự không thẻ rời riêng lẻ, không thể thiếu nhau.
“Tri kỉ” không chỉ là bạn mà còn là đỉnh cao gắn bó giữa con người với con người, có thể
cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, cùng tiếp thêm sức mạnh cho nhau.
- Hai tiếng “đồng chí” được tách riêng thành một dòng thơ mang lại bao la ý nghĩa.
+ Tạo nên cái thắt đáy cho bài thơ như một nét chạm chổ rất ấn tượng trong chỉnh thể
nghệ thuật của bài thơ.
+ Làm thành cái bản lề khép mở hai phần của bài thơ kết đọng thơ của đoạn trước và mở
ra ý tưởng của đoạn sau.
+ Tạo thành một nốt nhấn, một điều nhạc ngân rung để lại nhiều dư âm xao xuyến trong
lòng độc giả như một tiếng gọi thầm thì, trìu mến, được thốt lên từ đáy lòng người lính
cách mạng.
+ Đoạn thơ thứ nhất của bài thơ “Đồng chí” với ngôn ngữ bình dị câu thơ sóng đôi, cách
ngắt nhịp đầy sáng tạo đã lí giải một cách giản dị mà xúc động, cơ sở làm nên tình đồng
chí.
+ Tương đồng về cảnh ngộ xuất thân.
+ Cùng chia sẻ, gắn bó trong những gian lao.
+ Cùng chung nhiệm vụ, chung lí tưởng và tình yêu tổ quốc.
à Đoạn thơ đã thể hiện tình đồng chí, đẹp đẽ, thiêng liêng, ca hát, mới mẻ của thời đại
cách mạng.
2, Biểu hiện của tình đồng chí.
- Người lính hiểu bạn như hiểu mình, họ thấu hiểu những tâm tư, tình cảm những nỗi
niềm thầm kín của nhau.
+ Từ “gửi” gợi ghén biết bao yêu thương trân trọng, thể hiện sự tự nguyện, chủ động của
người lính, họ sẵn sàng vượt lên những lưu luyến quê hương để đi lên tiếng gọi của Tổ
quốc, từ “gửi còn khe” còn thể hiện thái độ tin cậy, yêu thương đối với người ở lại và
hàm chưa niềm tin vào ngày mai chiến đấu.
+ Hai chữ “mặc kệ” là biểu hiện của tình yêu đất nước, cháy bỏng, khiến người lính có
thể cương quyết, dứt khoát để lại sau lưng những gò thiêng liêng lưu luyến để lên đường
chiến đấu.
+ Hình ảnh “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước gốc đa”, là những hình ảnh quen
thuộc của làng quê kết hợp cùng từ “nhớ” ở câu thơ thứ ba đã nối liền nỗi nhớ hai chiều
giữa quê và người lính ra đi vì tổ quốc và nỗi nhớ của người lính về quê hương.
+ Nỗi nhớ của người lình từng được Nguyễn Đình Thi thể hiện thấm thía qua ý thơ:
“Người ra đầu không ngoảng lại
Sau lưng thầm lắng lá rơi đầy.”
Người lính từ biệt thủ đô với dang vẻ cương quyết nhưng không giấu nỗi niềm lưu luyến,
bịn rịn cũng giống như tình cảm của người lính với quê hương ở bài thơ “Đồng chí”.
Điều đó nói lên rằng những anh bộ đội cụ Hồ luôn biết hi sinh cái riêng vì cái chung.

114
à Tôi nói về anh những cũng là bộ lộ tâm tư của chính tôi vì vậy mà vô cùng thấm thía,
vì vậy mà tình đồng chí thêm bền chặt.
3, Biểu tượng của tình đồng chí.
- Câu một gợi không gian và thời gian cụ thể, đó chính là hoàn cảnh chiến đấu của người
lính.
+ Đêm nay là cụm từ chỉ “thời gian”, đêm khuya khi tất cả chìm vào giấc ngủ, người lính
và đồng đội đứng gác, canh giữ bầu trời tổ quốc.
+ Rừng hoang, sương muối gợi cái bí ẩn của rừng thiêng, nước độc, gợi khí hậu khắc
nghiệt. Đây là đêm gác đầy khó khăn vất vả của người lính trong chặng đường chiến đấu
gian khổ.
- Câu hai gợi tư thế chủ động và tinh thần sẵn sàng chiến đấu của nười lính, hai chữ “bên
nhau” khẳng định sự bền chặt của tình đồng chí trong thử thách ở hoàn cảnh thời điểm
thời tiết khắc nghiêt, ở danh giới giữa sự sống và cái chết nơi chiến hào, trong hoàn cảnh
đặc biệt ấy, người lính vẫn sát cánh bên nhau, tình đồng đội trong trận chiến sinh tử với
quân thù vì thế càng thêm tỏa sáng.
+ Cụm từ “Chờ giặc tới” thể hiện rất rõ tư thế anh hùng, phẩm chất hiên ngang, sẵn sàng
đón giặc.
- Câu ba gợi lên một hình ảnh thơp đẹp thi vị, trữ tình mà vẫn đậm chất hiện thực.
+ Ý nghĩa: Trong đêm khuya người lính đứng gác trăng chếch ngang đầu, nhìn lên theo
nòng súng, có cảm giác như mũi súng chạm vầng trăng. Từ đó mà gợi liên tưởng tới hình
ảnh “Đầu súng trăng treo”
+ Ý nghĩa biểu tượng vô cùng lớn lao.
 Súng là hình ảnh gợi chiến tranh, còn trăng là biểu tượng liên hồi của cái đẹp, hòa
bình, hai hình ảnh đối lập nhau lại sóng đôi cho một câu thơ nhằm thể hiện mục đích
chiến đấu của người lính vô cùng cao quý, họ đối diện với chiến tranh khốc liệt, sẵn sàng
hi sinh để bảo vệ cuộc sống hòa bình.
 Súng thì gần mà trăng thì xa, súng gợi nên cuộc đời người chiến sĩ trong chiến
tranh, lửa đạn với lí tưởng và trách nhiệm lớn lao còn trăng là cái bất diệt trong lửa đạn,
biểu hiện cho tâm hồn lãng mạn của người lính.
 Súng và trăng hòa quyện trong ý thơ trở thành biểu tượng đẹp đẽ về người lính và
tình đồng chí thiêng liêng cua họ, bởi thực sự nếu thiếu đi các chất lính dũng cảm cam
trường thì người lính khó có thể thả hồn thi sĩ bay lên trong trẻo để cảm nhận vẻ đẹp của
vầng trăng.
+ Hình ảnh đầu súng trăng treo trở thành điểm sáng thẩm mĩ, kết tinh và tỏa sáng tư
tưởng của thi phẩm đó là ngợi ca vẻ đẹp vủa người lính cùng vẻ đẹp của tình đồng chí.
III, Tổng kết.
1, Nội dung.
- Bài thơ Đồng chí tái hiện vẻ đẹp bình dị mà cao quý của người lính bộ đội cụ Hồ và tình
đồng chí thiêng liêng, sâu nặng. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về thử tình cảm mới mẻ và
thân thuộc tình đồng chí giữa những người lính chính sự chung nhau về cảnh ngộ, chung
lí tưởng, nhiệm vụ chúng cả những khó khăn gian khổ làm nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh
thần của người lính cách mạng.
115
2, Nghệ thuật.
- Bài thơ về tình đồng chí và vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ được thể hiện bằng lời thơ tự
do, hàm súc mà giàu sức biểu cảm, thư pháp nghệ thuật sóng đôi, đối xứng, nhân hóa, ẩn
dụ, làm tăng sức biểu đạt, sức cuốn hút của bài thơ về tình đồng chí, về anh bộ đội cụ Hồ.

IV, Các dạng đề.


Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu khái quát, hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung,
nghệ thuật của bài thơ đồng chí.
Đề 2: Nêu ý nghĩa, nhan đề của bài thơ “Đồng chí”.
Đề 3: Tại sao tác giả Chính Hữu lại tách hai từ đồng chí ra thành một dòng thơ riêng.
Đề 4: Cảm nhận của em về hình ảnh thơ “Đầu súng trăng treo”
Đề 5: Cảm nhận về vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ qua bài thơ “Đồng chí”

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I, Tác giả.
1, Cuộc đời và con người.
- Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào thơ trẻ thời chống
Mĩ. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ mà hào hùng
của dân tộc. Phạm Tiến Duật tốt nghiệp trường Đại học Sư Phạm Hà Nội sau đó tham gia
quân đội vừa chiến đấu, vừa sáng tác.ư
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường
Sơn giữa mặt trận khốc liệt, những năm chống Mĩ.
- Ông đã góp phần khơi dậy tinh thần nhiệt huyết đấu tranh của thế hệ trẻ.
2, Thơ văn.
- Thơ ông có chất giọng trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc, đó là tiếng
nói cất lên từ nhiệt huyết nước, từ vẻ đẹp tâm hồn yêu đời lãng mãn, từ ý chí nghị lực
những người anh hùng thời chống Mĩ.
- Thơ Phạm Tiến Duật ngồn ngộn hơi thở đời sống chiến tranh phần làm sống dậy và lưu
giữ hào khí của dân tộc, của người Việt Nam những năm chống Mĩ với chủ nghĩa anh
hùng ngời ngợi.
- Tác phẩm tiêu biểu của ông là: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Gửi em cô thanh
niên xung phong.

II, Giới thiệu tác phẩm.


1, Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ của bài thơ.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 đó là cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước bước vào giai đoạn cam go quyết liệt nhất cũng là khi thế hệ trẻ Việt
Nam khẳng định được tầm vóc của những người anh hùng thời đại.
- Bài thơ được in trong tập: “Vầng trăng cuồng lửa” xuất bản năm 1970.
2, Thể loại.

116
- Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, nhịp điệu linh hoạt, ít vần thơ gần với câu văn
xuôi, gần với lời nói thương hằng ngày.
3, Bố cục.
- Có thể tách bài thơ thep ý.
+ Hình ảnh những chiếc xe không kính.
+ Hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
- Có thể tách bài thơ thành các đoạn nhỏ.
+ Hai khổ đầu: Giới thiệu về tiểu đội xe không kính.
+ Bốn khổ tiếp: Tái hiện những gian khó và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe.
+ Khổ thơ cuối: Khẳng định ý chí quyết tâm, nhiệt tình cứu nước của những người lính
lái xe.

III, Phân tích.


1, Hai khổ đầu.
- Hai câu thoe đầu không chỉ giới thiệu mà còn giải thích lí do chiếc xe không kính.
+ Cụm từ “không có kính “ chứa đựng từ phủ định không nhằm phủ định sự hiện diện
của kính cũng từ đó hiện lên hình ảnh thơ chân thực lần đầu tiên xuất hiện trong thơ ca;
những chiếc xe không kính sản phẩm của những năm chiến tranh khắc liệt.
+ Cấu trúc câu khẳng định để khẳng định “không có kính không phải vì xe không có
kính” thể hiện giọng điệu lí sự có vẻ tinh nghịch ngang tàn, có vẻ đầy nghị lực, dũng
cảm. Cách nơi ấy từ chất lính của người lính của người lính Trường Sơn.
+ Bom giật, bom rung khiến kính vỡ đi rồi sự việc tái hiện bằng giọng kể thản nhiên mà
không vì thế mà che khuất cảnh chiến trường bom đạn, khốc liệt.
+ Hai động từ “giật, rung” tái hiện sức ép, sức rung của bom đạn khiến kính vỡ, ác liệt
vậy mà trong cách nói của người lính cứ nhẹ như không.
- Sáu câu thơ tiếp theo hiện lên hình ảnh chỉ nhận của những chiếc xe không kính.
+ Hai chữ “ung dung” góp phần thể hiện tư thế đĩnh đạc, đàng hoàng của người lính lái
xe với thư thế ấy người lính có đủ dũng khí để đón nhận tất cả nguy hiểm một cách hiên
ngang bình tĩnh, tự tin một cách thanh thản.
+ Điệp từ “nhìn” kết hợp với từ “thấy” mở ra rất thực cái cảm giác của người lính lái xe
trong những chiếc xe không kính đang chạy rất nhanh gió thổi vào mặt, đắng cả mắt, con
đường chạy thẳng phía trước như chạy thẳng vào tim, sao trời và cánh chim như xa như
ùa vào buồng lái.
+ Cái nhìn thẳng về phía trước: nhìn đất; nhìn trời bao quát cả không gian gợi nên tâm
thế sẵn sàng đón nhận hiểm nguy của những anh lính lái xe, có cái khoan khoái khi cho
xe phóng nhanh, cảm giác kì lạ, đột ngột khi thiên nhiên trực tiếp và vào buồng lái.
+ Điều đáng nói ở đây là sự vật không phải chỉ được quan sát bằng mắt mà cảm nhận
được qua tâm nhìn – tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời của người
lính lái xe.
è Hai khổ thơ đầu đã mở ra hình ảnh xuyên suốt bài thơ đó là hình ảnh những chiếc xe
không kính và chủ nhân – những người lính lái xe, bằng giọng điệu rất lính.
2, Bốn khổ thơ giữa.
117
- Điệp ngữ “ừ thì, chưa cần” cùng với vế khẳng định không có kính đã thể hiện thái độ
bình thản, chấp nhận một cách thoải mái những thiếu thốn, khó khăn, gian khổ chứng tỏ
người lính lái xe bất chấp mọi gian khó.
- Điều đáng nói ở đây là cách tưởng sử dụng các từ ngữ gần với lời nói hằng ngày, đó là
ngôn ngữ văn xuôi, đời thương nhờ đó bài thơ mang chất giọng mới mẻ, trẻ trung, tinh
nghịch, ngang tàn của những người lính lái xe. Ẩn sau đó là phẩm chất dũng cảm, là tinh
thần lạc quan.
- Hình ảnh “bụi phun tóc trắng như người già”, “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” là
hình ảnh rất thực về gian khó ấy đucợ nhìn qua cái nhìn coi thường gian khó nên khó mà
thấy nhẹ như không.
- Sự trẻ trung, tinh nghịch và lạc quan của người người lính lái xe được thể hiện ấn tượng
qua cử chỉ, thái độ phì phèo châm điếu thuốc và nhìn nhau mặt lấm cười ha ha cử chỉ
ngang tàng, cái cười cũng ngang tàng chỉ có ở những con người trẻ trung, sôi nổi, hồn
nhiên, tiếng cười cũng ngang tàng của rừng già, vang vọng trên những cung đường ác
liệt, làm ngời lên những gương mặt còn lấm bụi Trường Sơn, là hình ảnh rất đời thường
mà rất đáng quý khiến ta khâm phục, mến yêu.
- Cử chỉ “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi vội vàng bởi trên đường ra trận, hối hả, khẩn trương
thế những cung nói lên rất nhiều vì tình đồng chí, đồng đội ấm áp thiêng liêng cử chỉ bình
dị mà cảm động ấy làm ta nhớ tới cái cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” trong bài
thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, điều ấy nói lên rằng, anh bộ đội cụ Hồ ở thời nào cũng
đẹp trong tình đồng đội thiêng liêng.
- Hình ảnh “bếp hoàng cầm dựng giữa trời, võng mắc chông chênh trên đường xe chạy và
chung bát đũa nói lên cái thực tế cuộc sống của người lính lái xe trong những năm bom
đạn, mọi điều kiện sinh hoạt đều tạm thời rất khó khăn, mục đích chính là vận chuyển
quân lượng hai chiều tiền tuyến hậu phương trên cùng đường Trường Sơn áo liệt.
- Ý thơ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” gợi cái khoảng khắc bình yên, hiếm có
trong đời lính, lúc đấy những anh hùng Trường Sơn trở về với bản chất hồn nhiên, tươi
trẻ trong gia đình lính, trong phút giây sum họp, hiếm hoi, vội vã, ý thơ này có nét tương
đồng với ý thơ người lính trong nước non ngàn dặm của Tố Hữu.
“Những chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm xôi.”
- Câu thơ cuối với điệp ngữ “lại đi” khiến câu thơ một hành khúc lên đường , đằng
sau đó là hình ảnh trời xanh thêm diễn tả tâm trạng nhẹ nhõm, thanh thản, phơi lạc quan
đầy tin tưởng khi bước vào hành trình mới, đối mặt với nguy hiểm, điều đó khẳng định
tình yêu lí tưởng và tinh thần anh dũng kiên cường của người lính lái xe.
3, Khổ thơ cuối.
- Điệp từ “không” kết hợp với nghệ thuật liệt kê “không có kính”, không có đèn, không
có mui xe, thùng xe có xước đã gợi tả hình ảnh chiếc xe biến dạng như một cách để tô
đậm sự ác liệt của chiến cùng những gian khó mà người lính lái xe phải trải qua.
- Tưởng đã có dụng ý khi viết hai câu khổ thơ dưới dạng phủ định hai câu cuối ở dạng
khẳng định:

118
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
- Sự đối hiện ra rất rõ giữa chiếc xe biến dạng với tư thế hiên ngang băng băng ra trận,
sâu hơn nữa là sự bên ngoài, chiếc xe bị tàn phá bởi chiến tranh và cái bên trong vẻ đẹp
tâm hồn và trái tim người lính lái xe.
- Câu thơ cuối mang một vẻ đẹp nghệ thuật phong phú sâu sắc, đó không chỉ là sự khẳng
định ý chí quyết tâm mà đó còn là hình ảnh hoán dụ về người lính lái xe Trường Sơn.
Hình ảnh hoán dụ trái tim bằng người lính lái xe đồng thời cũng là ẩn dụ cao đẹp về tình
yêu lí tưởng và nhiệt huyết tình cảm cứu nước của người lính.
- Câu thơ cuối còn là sự lí giải ngắn gọn, giản dị mà đầy đủ, sâu sắc về gốc rễ, phẩm chất
anh hùng của người lính bộ đội cụ Hồ hóa ra cội nguồn sức mạnh làm nên sự diệu kì để
những chiếc xe không kính bon bon trên đường Trường Sơn ra trận chính là ở trái tim
quyết tâm, ở niềm khát khao chiến thắng giặc mĩ của người lính lái xe.
III, Tổng kết.
- Bài thơ về “Tiểu đội xe không kính” với hình ảnh những chiếc xe không kính chủ nhân
– người lính lái xe, kiên cường, trẻ trung, tinh nguyện, lạc quan và tràn đầy tình yêu lí
tưởng đã đóng góp thêm hình ảnh để vẽ lên thế hệ Việt Nam trong những năm kháng
chiến chống Mĩ.
- Bài thơ về “Tiểu đội xe không kính” cũng chính là bài ca đẹp của con người Việt Nam
trong những năm chiến tranh ác liệt mà hào hứng của dân tộc.
IV, Các dạng đề.
Đề 1: Nêu ý nghĩa nhan đề: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Đề 2: Phân tích hình ảnh về những chiếc xe không kính trong bài thơ “Tiểu đội xe không
kính”.
Đề 3: Phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ về Tiểu đội xe không kính.
Đề 4: Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Tiểu đội xe không kính.
Đề 5: Hãy viết lại chính xác tám câu thơ đầu và phân tích.
Đề 6: Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ qua hai thi phẩm: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài
thơ về Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Đoàn thuyền đánh cá

I, Giới thiệu chung về tác giả.


1, Cuộc đời và con người.
- Bùi Huy Cận (1919 – 2005) , quê ở làng Ân Phủ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Huy Cận sinh trưởng trong một gia đình trung nông, trước khi trở thành nhà thơ Huy
Cận, từng là sinh viên canh nông.
- Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận đã bắt đầu sáng tác thơ năm 1942, ông bắt đầu
tham gia cách mạng từ đó giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính quyền nhà nước.
2, Sự nghiệp văn chương.
- Huy Cận là nhà thơ mới trong các nhà thơ mới. Hồn thơ Huy Cận trong một mối sầu ảo,
khắc khoải về cuộc đời.
119
- Sáng tác tiêu biểu của Huy Cận ở giai đoạn này là: “Trời mỗi ngày lại sáng, đất nở
hoa.”
- Nhà thơ Huy Cận giàu sức suy tưởng với nhiều hình ảnh sáng tạo, có những chất lí
thấm thía về cuộc đời và con người.
- Huy Cận được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
II, Giới thiệu về tác phẩm.
1, Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ được sáng tác năm 1958, khi ấy, trung ương đảng và chính phủ đang vận động
nhân dân ở miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới ở vùng núi và các vùng xa xôi của
Tổ quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi này nhiều văn nghệ sĩ đã tham gia đi thực tế để tích lũy
vốn sống.
- Đoàn thuyền đánh cá là kết quả của chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh của nhà
thơ Huy Cận. Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” – tập thơ đánh dấu sự
trở lại và tỏa sáng của hồn thơ Huy Cận.
2, Bố cục: 3 phần.
- Phần 1: Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá.
- Phần 2: Bốn khổ thơ giữa: Cảnh đánh cá trên biển.
- Phần 3: Còn lại: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
3, Chủ đề:
- Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” tái hiện cảnh lao động gắn với thiên nhiên vũ trụ nên
vừa hiện thực, vừa bay bổng, giản dị mà lớn lao, bài thơ vì thế trở thành một thi phẩm
xuất sắc ngợi ca cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
III, Phân tích.
1, Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
- Bài thơ mở ra 1 hình ảnh lạ với cách diễn đạt mới mẻ “mặt trời xuống biển” nó chứng tỏ
điểm nhìn, quan sát, cảm nhận của tác giả là từ trên đoàn thuyền ở ngoài khơi xa, khi đó
khi nhận có thể hướng tầm mắt, nhìn bao la khung cảnh thiên nhiên, vũ trụ.
+ Hình ảnh thơ gợi nhắc khoảng thời gian ngày tàn đêm xuống, lúc hoàng hồn là khoảng
thời gian dễ buồn, gợi nỗi cơ đơn những hình ảnh trong câu thơ lại đem lại một cảm giác
ấm áp, tươi vui.
+ Hình ảnh so sánh “như hòn lửa” vừa chính xác, vừa gợi cảm ở đó vừa gợi lên màu sắc
của mặt trời cùng hình dáng mặt trời giống như quả cầu lửa khổng lồ phản chiếu qua mặt
nước biển Đông tạo nên một khung cảnh kì vĩ, chói sáng, tráng lệ, vũ trụ đi vào đêm mà
vẫn sáng đẹp, ấm áp.
- Câu hai vẫn diễn đạt dòng thời gian và cảnh vật chuyển từ ngày sang đêm: “sóng đã cài
then, đêm sập cửa”.
+ Nghệ thuật nhân hóa trong sự liên tưởng, độc đáo của tác giả đã biến vũ trụ thành một
ngôi nhà khổng lồ có màn đêm là cánh cửa, sóng trên mặt biển là then cài, con người
giữa thiên nhiên bao la, giữa trời và biển cùng những vẫn có cảm giác ấm áp và tin cậy
như chính trong ngôi nhà thân thương của mình khi ấy thiên nhiên trở thành người bạn
trở thành người chở che, thành sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
120
- Câu 3, 4 chuyển cảm nhận từ thiên nhiên tới đối tượng là đoàn thuyền đánh cá, là những
ngư dân.
+ Câu 3 như 1 câu kể tự nhiên, một sự xác nhận giản dị ở đó từ “lại” tái hiện đây chỉ là
trong muôn vàn chuyến ra khơi của ngư dân đó chính là nhịp sống quen thuộc của người
dân vùng biển và họ bước vào cuộc hành trình lao động, đầy tự nguyện, ham hở.
+ So với câu hai, ba và bốn chứa ý thơ thương phản, đó là khi thiên nhiên bắt đầu ngơi
nghỉ thì nhịp sống con người mới bắt đầu, sâu hơn nữa là trạng thái tĩnh lặng của thiên
nhiên với cuộc sống lao động sôi nổi của con người.
+ Hình ảnh “Đoàn thuyền đánh cá” lại ra khơi là hình ảnh chân thực và sinh động của
công cuộc chính phúc tự nhiên để đem lại tài nguyên, xây dựng đất nước trong không khí
lạc quan, tin tưởng.
+ Câu thơ cuối khổ thơ gợi hình ảnh “cách buồm cung câu hát và gió khơi” trong tay thơ
và lạ, nó nói lên rằng thuyền ra khơi đánh cá không chỉ với cánh buồm nô gió mà còn bởi
niềm tin yêu lạc quan của con người đối với cuộc sống mới đó là sức mạnh tinh thần lớn
lao.
+ Khổ thơ thứ hai là cụ thể hóa nội dung của câu hát:
+ Nghệ thuật liệt kê cho thấy sự phong phú của bao loại cá ngon sự giàu đẹp của biển cả,
của nguồn tài nguyên vô cùng, vô tận trong lòng biển và đó chính là nội khắc phục những
vết thương chiến tranh xao dừng và đổi mới đất nước.
+ Nghệ thuật so sánh “cá thu biển đông như đoàn thoi” mang lại vẻ đẹp của biển khơi
trong đêm giống như là một bức tranh sơn mài, đêm đẹp và biển cả là nền, những bầy cá
lung linh là những thảm trải.
- Câu thơ “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi” là câu hát thiết tha thể hiện tấm lòng trìu mến,
niềm lạc quan và khát vọng khai thác nguồn tài nguyên biển để làm giàu cho Tổ quốc.
à Hai khổ thơ đầu là khúc dạo đầu vui tươi, khỏe khoắn,trong trắng ca về lao động thời
cũng là tín hiệu dự báo kết quả bội thu của chuyến ra khơi.
2, Bốn khổ giữa: Cảnh đánh cá trên biển khơi.
- Bốn khổ thơ giữa tái hiện cảnh đánh cá trên biển đêm khơi bao la và trù phú thăm thẳm,
con thuyền ấy có gió làm bánh lái, trăng làm buồm, ánh sáng trăng chiều xuống mặt nước
biển khiến cho thuyền lướt trên sóng nước lướt giữa mây trời, hình ảnh thơ vừa hiện thực,
vừa lãng mạn đã thể hiện sự hài hòa, gắn bó giữa con người và thiên nhiên con người vì
thế
- Hai câu ba và bốn tái hiện hình ảnh của đoàn thuyền với những thao tác quen thuộc của
ngư dân, họ ra khơi dò tìm luồng cá, rồi dàn thế trận tung lưới vây bắt cá, hiện thực công
việc đánh bắt cá của ngư dân trong cái nhìn của nhà thơ Huy Cận, trong cách thể hiện của
ý thơ đã biến ngư tường thành chiến trường, biến những người dân thành chiến sĩ, người
lao động bước vào hành trình lao động giống như bước vào trận chiến. Hai câu thơ làm
sáng lên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc sống lao động hằng ngày của người
dân lao động.
- Khổ thơ thứ bốn sử dụng nghệ thuật liệt kê gọi tên và gợi tả những đặc điểm hình dáng
và hoạt động cụ thể của các loại cá ở biển Đông phản ứng không sao kể hết nơi biển khơi
đã nói lên rằng: biển rất đẹp, sự giàu đẹp ấy vẫy gọi con người khai thác.
121
+ Ý thơ “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, đẹp một cách thú vị bởi lẽ người lao động
trong phút giây lao động say sưa đã biển khơi như người bạn, đã gọi nó thân thiết và tình
tứ “rồi hình ảnh thơ vì thế lóe lên đẹp một cách lung linh lấp lánh biển đêm vì thế thêm
lung linh, huyền ảo.
+ Câu thơ “đem thở sao hùa nước Hạ Long” có cách diễn đạt độc đáo từ nghệ thuật nhân
hóa khiến cho biển đêm cũng phối hợp sự sống, hoạt động đánh cá của con người đã làm
sao động đêm, trăng sao lấp lánh trên mặt nước. Vũ trụ vào đêm không tính đêm mà xôn
xao khi hòa cùng nhịp điệu lao động của con người.
- Khổ thơ thứ năm tái hiện tiếng hát của ngư dân trên hành trình bắt cá, tiếng hát khỏe
khoắn, say mê, gọi cá vào và gõ thuyền như nhịp cho tiếng hát ấy.
+ Điều thú vị là ở cách ẩn dụ cá vào lưới, dụ vào tiếng hát ru say mê.
+ Câu thơ gõ thuyền có nhịp trăng cao đo hình thành từ nhìn hiện thực trong hoạt động
đánh cá, mạn thuyền sóng gió va vào mặt nước biển, mặt biển lại được chiếu sáng bởi
ánh trăng có cảm giác trăng gõ vào một mái thuyền, đó là sự thú vị.
+ Thực tế công việc đánh thuyền trên biển có bao vất vả nhọc nhằn ngư dân phải đối diện
với sóng gió to với những tai họa khôn lường trên biển
3, Khổ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
- Khổ thơ cuối kết lại bằng hình ảnh, ý thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu thơ mở đầu
của bài thơ.
+ Trong câu thơ có sự liên tưởng, gắn kết giữa câu hát cánh buồm và gió khơi để tô đậm
sức mạnh tinh thần của người lao động.
+ Sự lặp lại ý thơ ở câu một còn góp phần tạo nên một điệp khúc của bản tráng ca, lao
động, như vậy ở câu thơ mở đầu bài thơ sẽ là sự hăm hở, lạc quan khi bắt đầu cuộc hành
trình lao động còn câu thơ cuối sẽ là tiếng hát khỏe khoắn mang lại niềm vui chiến thắng
khi công cuộc lao động đã hoàn thành.
- Câu thơ thứ hai gợi ra hình ảnh đẹp, tráng lệ, huy hoàng ở đó mặt biển bao la trở thành
trường đua kì vĩ được đo bằng kích thước tự nhiên, vũ trụ.
+ Đoạn thuyền với gió làm bánh lái, câu hát căng buồm như một con thuyền thần thoại
trong cuộc trinh phục tự nhiên giờ đây hối hả chạy đua cùng thời gian.
+ Biện pháp nhân hóa vừa gợi tả không khí khẩn trương hối hả trở về của con người sau
một đêm lao động say mê vừa thể hiện tầm vóc và sức mạnh lớn lao của con người.
+ Đã có một thời biểu hiện ra trước mắt của con người như một sức mạnh bí ẩn, của con
người cảm thấy cô đơn, nhỏ bé còn trong câu thơ tài hoa của Huy Cận, con người hiện
lên mang sức mạnh, tầm vóc sánh ngang vũ trụ với tư thế là người bạn là chủ nhân của
biển cảm của biển cả, câu thơ vì thế tràn đầy niềm lạc quan.
- Câu thơ thứ ba tiếp câu hai bằng nghệ thuật điệp vòng kết hợp với biện pháp nhân hóa
đem lại một vẻ đẹp khác lạ dường như mặt trời, thiên nhiên cũng hối hả, khẩn trương
trong cuộc chạy đua cùng con người giữa con người và thiên nhiên có một sự hô ứng
cộng hưởng thật dịu dàng.
+ Hình ảnh “mặt trời đội biển” đẹp một cách tráng lệ, rực rỡ, huy hoàng mở ra một ngày
mới tinh khôi như vậy thiên nhiên đã đi trọn vòng quay của nó trong khoảnh khắc thời

122
gian vũ trụ ấy, người lao động đã hăm hở say mê khoảnh khắc thời gian vũ trụ ấy, người
lao động đã hăm hở say mê trở về trong rạng rỡ bởi thành quả lao động lớn lao.
+ Ba chữ “nhô màu mới” gợi một không gian sáng hồng, tinh khôi, ấm áp chính là ẩn dụ
về tương lai tươi sáng đối với người lao động khi họ làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời
mình.
- Câu thơ cuối bài gợi tả một cảnh tượng huy hoàng, đẹp đẽ, nên thơ, vừa kỳ vĩ, vừa lãng
mạn đầy chất men say.
+ Câu thơ có cái rực rỡ của hiện tượng thiên nhiên, tráng lệ, nhưng ấn tượng hơn cả là cái
rực rỡ huy hoàng của thành quả lao động với muôn vàn mắt cá phản chiếu qua mặt trời
trở thành muôn vàn mặt trời bé xíu tỏa sáng, rực rỡ khiến đoàn thuyền trở nên sáng đẹp,
lấp lánh ánh sáng huy hoàng không chỉ màu sắc thực, cảnh tượng thực mà còn làm huy
hoàng của thành quả lao dộng trên biển thành ẩn dụ cho cuộc đời cho tương lao tươi
sáng, cho hiện tại đầy niềm tin và lạc quan.
à Nếu bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một khúc tráng ca về lao dộng thì khổ thơ cuối
đem lại âm hưởng khỏe khoắn, sôi nổi phơi phới bay bổng như tiengs hát lạc quan tin
tưởng mà nhà thơ dành tặng cuộc đời.

Bếp lửa
1, Tác giả.
- Bằng Việt là tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ trẻ thời chống Mĩ cho sự nghiệp sáng
tác văn học Bằng Việt để lại tuy không lớn nhưng để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người
yêu thơ.
- Tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, quê ở Hà Tây trong một gia đình nông dân.
- Tuổi thơ của Bằng Việt từng trải qua nhiều khốn khó, thiếu thốn gắn bó cùng người bà
trong tình cảm thiêng liêng, sâu nặng.
- Mười chín tuổi Bằng Việt được cử đi du học bên Liên Xô, đây là bước ngoặt quan trọng
trong cuộc đời thì rõ, thời gian du học ở Nga, Bằng Việt đã sáng tác nhiều tác phẩm có
giá trị, sự nghiệp sang tác của nhà thơ, bắt đầu từ những ngày tổ quốc
- Phong cách thơ Bằng Việt có nét riêng ở chất giọng trầm lắng, suy tư lời thơ mượt mà
câu chữ trau truốt hình ảnh giàu sức gợi.
2, Tác phẩm.
- Xuất sứ in trong tập Hương Câu bếp lửa (1968) cùng với Lưu Vũ.
- Hoàn cảnh sáng tác năm 1963 khi tác giả đang là sinh viên ngành luật ở Liên Xô sống
giữa môi trường hiện đại tác giả bỗng dựng nhớ về bếp lửa của ngày xưa khốn khó nồng
đượm nhiều tình cảm của tuổi thơ sống cung bà được chăm sóc, dậy dỗ, thương yêu.
- Bài thơ là nỗi nhớ là lòng kính yêu, là sự biết ơn vô hạn của cháu đối với bà đó cũng
chính là tình cảm gia đình, tình cảm quê hương đất nước, tất cả được khơi nguồn từ bếp
lửa thân thương.
II, Đọc - Hiểu văn bản.
 Bố cục:
+ Phần 1: (3 câu đầu): bếp lửa gợi nỗi nhớ niềm thương.
+ Phần 2: (tiếp đến bình yên): kỉ niệm tuổi thơ gần với bếp lửa tình bà cháu.
123
+ Phần 3: (tiếp theo thiêng liêng – bếp lửa): suy ngẫm về bà.
+ Phần 4: (còn lại): lời tự nhắc của cháu.
1, Ba câu đầu.
- Bài thơ mở ra một không gian của làng quê thanh bình với mái trăng nghèo ở với: “Một
bếp lửa chòn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.”
+ Hình ảnh bếp lửa được đặc tả trong hai câu thơ đầu hiện lên cả hình dáng tính chất , đặc
biệt là gắn với kỉ niệm như được che phủ bởi thời gian, bởi khoảng cách không gian.
+ “Ấp iu” là cách dùng từ sáng tạo ghép giữa hai từ “ấp ủ” và “nồng đượm” một mặt nó
diễn tả động tác khéo léo, cẩn trọng. Mặt khác nó thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu, kỉ
niệm.
+ Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, với cử chỉ khéo léo, với tấm lòng chi
chút yêu thương, bà chính là người nhóm lửa, giữ lửa yêu thương.
- Từ ba câu thơ đầu, hai hình tượng thơ bếp lửa và người bà sẽ lồng quyện vào nhau, làm
nên mạch cảm xúc trôi chảy, liền mạch tự nhiên, hai hình tượng này sẽ sóng đôi, tỏa sáng
trong suốt cả bài thơ với giọng điệu rưng rưng, xúc động.
2, Ba khổ thơ tiếp.
- Trong dòng hồi tưởng về quá khứ có những cụm từ chỉ thời gian, đó là khi người cháu
“lên bốn tuổi” và “tám năm ròng” đó là quãng thời gian ấu thơ gắn bó trong tình bà cháu,
trong quãng thời gian ấy có những ấn tượng in đậm.
+ Năm Bằng Việt bốn tuổi, cũng là lúc dân tộc, bước vào nạn đói năm 1945, cái đói triền
miên, kéo dài “đói mòn đói mỏi”, cái đói khiến người ta tuyệt vọng và kiệt sức đến hơn
cả hai triệu đồng bào ta chết đói thành ngữ “đói mòn đói mỏi” với nghệ thuật tách từ
“mòn, mỏi” đã khắc sâu ấn tượng, ám ảnh day dứt về cái đói.
+ Hình ảnh “làng chay tàn cháy rụi” gợi nên cảnh khốc liệt của đời sống, đó là giai đoạn
hết sức cơ cực, gian nan mà bà và cháu đã trải qua.
+ Ấn tượng sâu đậm nhất trong kí ức về tuổi thơ vẫn là mùi khói bếp, thứ khói tỏa ra từ
những bếp nghèo đơn sơ làm cay mắt, cay mũi để đến khi nghĩ lại dù ở thời gian xa đến
mấy vẫn thấy “sống mũi còn cày”. Đây là cách nói đặc sascws khi đồng hiện cảm xúc của
quá khứ và hiện tại, quá khứ. Quá khứ của cậu bé bốn tuổi khiến chàng trai ở tuổi 22 hiện
tại rưng rưng nghẹn ngào những mùi khóc ấy không chỉ dấu ấn của khốn khó, nghèo nàn
mà còn là hương vị của tình yêu thương không bao giờ phai.
+ Âm thanh tiếng tu hú khắc khoải, da diết gợi khung cảnh đồng quê quen thuộc, gợi
không khí xa vắng, buồn nhớ, gợi hình ảnh người bà còm cõi bên bếp lửa cùng người
cháu nhỏ vắng cha mẹ và theo thời gian đứa cháu lớn lên, bà còm cõi hơn tiếng tu hú
đồng vọng cùng cháu để rồi trở thành một âm thanh ám ảnh không thể nào quên.
+ Quá khứ tuổi thơ còn in đậm nét kỉ niệm được bà kể chuyện, bà bảo ban việc làm, bà
chăm lo việc học, những điều rất gian dị đơn sơ ấy gắn với bếp lửa ấm nồng tình bà cháu
làm nên một niềm hạnh phúc vô ngần.
- Trong dòng kí ức về tuổi thơ, trong hào quang của bếp lửa quá khứ trong nỗi niềm rưng
rưng xúc động của đứa cháu xa quê, hình ảnh người bà hiện lên vừa tảo tần, lam lũ vừa

124
giàu nghị lực và đức hi sinh, người bà ấy chính là người phụ nữ Việt Nam của một thời
bom đạn khốc liệt.
3, Hai khổ tiếp.
- Từ kí ức về tuổi thơ gắn với người bà, đứa cháu suy nghĩ về bà nỗi sầu, ân cần nhẫn nại
dạy cháu nên người.
+ Hành động nhóm lửa “nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui” đầy ân tình với làng với
xóm trong cảnh đói nghèo.
+ Hành động nhóm lửa của bà còn là hành động giữ lửa để sống chờ đợi ngày sum họp
gia đình, chờ đến ngày đất nước độc lập, tự do.
+ Hành động nhóm lửa của bà còn là hành động soi sáng trí tuệ, tâm hồn và nuôi dưỡng
niềm tin trong cháu về tương lai.
+ Nghệ thuật điệp từ, điệp từ cấu trúc câu, liệt kê và cách sử dụng linh hoạt nghĩa gốc
cùng nghĩa chuyển của từ “nhóm” đã mở rộng ý nghĩa biểu hiện ý thơ về người bà.
- Kỉ niệm về bà gắn với những điều rất cụ thể nhưng lại có sức khái quát làm sáng lên,
phẩm chất truyền thống của người bà, người mẹ, người phụ nữ Việt Nam anh hùng bất
khuất, trung hậu, đảm đang, bằng sự cần cù, nghị lực và đức hi sinh, bà đã âm thầm chịu
đựng gian khổ, vất vả để con cháu được yên lòng công tác. Như vậy tình yêu cháu,
thương con đã trở thành tình yêu đất nước dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào dòng
chảy chung của đất nước.
- “Bếp lửa” gắn với tình bà cháu trở thành ngọn lửa của niềm tin, thành hồn gia đình, quê
hương, đất nước khi ấy bà trở thành người giữ lửa, truyền lửa cho các thế hệ mai sau. Từ
ngọn lửa của tình yêu thương, của hi vọng bao thế hệ trẻ đã lớn lên.
à Ẩn sâu trong dòng hồi tượng gắn với bếp lửa, với tình bà không chỉ là tình bà cháu
xúc động, thiêng liêng mà còn là niềm tự hào, là tình yêu lớn lao của con người đối với
đất nước.
à Dòng thơ “lận đận đời bà biết mấy nắng mưa “ là suy nghĩ của cháu về cuộc đời bà
một cách thấm thía, ở đó hai chữ “lận đận” vốn đã giàu sức gợi về vất vả, lo toan, lam lũ,
nhọc nhằn, lại thêm

125
MỘT SỐ BÀI NGHỊ LUẬN

Hãy sống nhanh cùng thời đại, hãy sống chậm cho tâm hồn.

Từ ý kiến trên, anh/chị suy nghĩ gì về vấn đề sống nhanh, sống chậm thời @ của giới trẻ.Hãy
trình bày suy nghĩ đó trong một bài văn ngắn khoảng 600 chữ. ( 3 điểm)

1. Giải thích: (0,5 điểm)

–   “Sống nhanh”: là lối sống năng động, chủ động trước những biến đổi không ngừng của đời sống xã
hội, có ý thức khám phá, tiếp thu cái mới.

–   “Sống chậm”: là dành thời gian thảnh thơi cho tâm hồn, để lắng nghe bản thân và những người
xung quanh, không xô bồ, ồn ã.

2. Phân tích, chứng minh: (1,5 điểm)

– “Sống nhanh cùng thời đại” là để theo kịp, lĩnh hội, tiếp thu nhữngxu hướng, thành tựu
mới nhằm hoàn thiện bản thân, tăng cường hiệu quả lao động, góp phần vào sự phát triển
chung của xã hội để
không bị tụt hậu.
– “Sống chậm cho tâm hồn” là biết yêu thương, chia sẻ, biết “cho” và “nhận”, không
bon chen, giành giật, đố kị, lợi dụng người khác để tư lợi,… “Sống chậm cho tâm hồn”
là để cảm nhận những gì tốt đẹp trong cuộc sống, để dành thời gian thanh lọc và bồi
dưỡng tâm hồn mình, còn là để lấy lại cân bằng trong cuộc sống.
– Trong nhịp sống hiện đại, con người cần biết cân bằng giữa “sống nhanh” và “sống
chậm” để có một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc.
3. Bình luận, mở rộng: (1,0 điểm)
– Khẳng định ý kiến trên là phương châm sống hoàn toàn đúng đắn, tích cực.
– Phê phán những con người không có thiện chí tiếp thu, đón nhận cái mới, bảo thủ;
những con người chỉ mải mê đuổi theo lợi ích trước mắt mà quên đi những giá trị bền
vững.
– Rút ra bài học: luôn luôn có ý thức làm mới bản thân, sống năng động, lành mạnh; đồng
thời trân quý những giá trị tâm hồn, hình thành cách sống nhanh sống gấp để theo kịp
thời đại nhưng đôi thi cũng phải “sống chậm lại, nghĩ khác đi, yêu thương nhiều hơn”.
Tự học là dựa trên cơ sở của những kiến thức và kĩ nãng đã được học ở nhà trường
để tiếp tục tích lũy tri thức và rèn luyện kĩ năng. Hình thức này không có giới han.
về thời gian, nghĩa là học suốt đời. Tất cả học sinh trên một đất nước đều được học
một chương trình như nhau nhưng trình độ rất khác nhau bởi kết quả học'tập của
mỗi cá nhân còn phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp và hiệu quả tự học của mỗi
học sinh. Nói cách khác, tự học là một trong những nhân tố quyết định kết quả học
tập của mỗi người.
Học là hoạt động thu nhận kiến thức và hình thành kĩ nàng của một cá thể học tập
nào đó. Hoạt động học có thể diễn ra dưới hai hình thức, dưới sự hướng dẫn của
126
thầy, cô giáo - hoạt động này diễn ra trong những không gian cụ thể, thời gian cụ
thể, những điều kiện và quy tắc cụ thể và có giới hạn về thời gian. Tự học là dựa
trên cơ sở của những kiến thức và kĩ nãng đã được học ở nhà trường để tiếp tục
tích lũy tri thức và rèn luyện kĩ năng. Hình thức này không có giới hạn về thời
gian, nghĩa là học suốt đời.
Thực tế ngày nay cho thấy cách học phổ biến của học sinh chưa mang lại hiệu quả
cao. Nhiều bạn đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên lớp. Thầy cô
dạy như thế nào thì hiểu và học như thế dẫn đến quá trình thụ động, thiếu suy nghĩ
và sáng tạo. Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mươi lăm
phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm tràn lan.
Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến mọi người không chịu tự học, càng
thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Hơn nữa, ngày nay khi việc học được nâng cao
thì có quá nhiều sách tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn... dẫn đến việc học sinh lười
suy nghĩ trong khi làm các bài tập. Hậu quả của nhừng việc trên rất nặng nề vì sẽ
dễ dẫn đến hiện tượng học vẹt - học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đề
được nêu ra trong bài dẫn đến việc học xong là quên ngay, không làm được các bài
tập thực hành, chỉ học lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng rỗng,... Một khi kiến
thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao giờ cao.
Tinh thần tự học là ý thức học, ý thức ấy dần trở thành một nhu cầu thường trực
đốì với chủ thể học tập; là có ý chí vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để tự học một
cách có hiệu quả; là có phương pháp học phù hợp với trình độ bản thân, hoàn cảnh
điều kiện cụ thể. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng tri thức, là
điều kiện giúp ta thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học cho bản thân
thì chúng ta chắc chắn sẽ thành công và nâng cao được tri thức của chính mình. Tự
học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học: chủ động suy nghĩ,
tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học giúp ta
tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình, từ
bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân.
Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giáng trên lớp, tiết kiệm được thời
gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Và
qua tự học, từ lí thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành, giúp ta có thể
nhanh chóng hình thành kĩ năng, củng cố và nâng cao kiến thức đã học. Vì vậy,
chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả
cao cho chính bản thân mình. Ví như các vị danh nhân nổi tiếng trên thế giới thành
đạt trong sự nghiệp học tập, có được kiến thức uyên thâm cũng là nhờ biết chủ
động tự học mà dần đến thành công. Đó là Thần đồng Lương Thế Vinh khi xưa,
nhờ cố gắng chủ động tự học cộng với phẩm chất thông minh trời ban mà sau đỗ
trạng, chế ra bảng cửu chương còn lưu truyền mãi đến ngày nay,... Hay vị lãnh tụ
vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta cũng đã từng nỗ lực tự học. Bác đã tự say mê tìm
tòi học hỏi và đã thành công, thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các nước trên
thế giới và tìm ra được con đường cứu nước, đưa cả dân tộc Việt Nam thoát khỏi

127
ách đô hộ của thực dân Pháp hướng đến nền độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc
ngày nay.
Chính vì vậy, tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập, mang lại
một kết quả học tập cao nhất. Nếu biết nỗ lực tự học, chúng ta sẽ thành công, sẽ có
được một tương lai rộng mở cho chính mình. Nếu chúng ta học tập thành công,
chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã hội, đưa đất nước ngày càng đi
lên, phát triển đến một tầm cao mới.

Bài tham khảo 2 về tự học

Học là thu nhận kiến thức từ người khác truyền lại, rèn luyện thành kỹnăng, nhận
thức: Học ở trên lớp, học ở trường, học thầy, học bạn... Nếuhọc là quá trình tìm
hiểu , thu nhận kiến thức và hình thành kỹ năng củabản thân thì tự học là sự chủ
động , tích cực , độc lập tìm hiểu , lĩnh hội trithức và hình thành kỹ năng cho mình.
Tự học là tự mình tìm hiểu nghiêncứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ
năng. Tự học có thểkhông cần sự hướng dẫn của người khác. Quá trình tự học
cũng có phạmvi khá rộng :khi nghe giảng ,đọc sách hay làm bài tập , cần tích cực
suy nghĩ , ghi chép , sáng tạo nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích chobản
thân . Tự học cũng có nhiều hình thức: có khi là tự mày mò tìm hiểuhoặc có sự chỉ
bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo …Dù ở hình thức nào thìsự chủ động tiếp nhận tri
thức của người học vẫn là quan trọng nhất bởinó luôn giúp con người có được kiến
thức vững vàng sâu sắc. Người cótinh thần tự học luôn chủ động, tự tin trong cuộc
sống.

Tự học có nhiều hình thức như: Tự học ở trường, tự học ở nhà, tự họcngoài xã
hội.... Nghe giảng trên lớp cũng cần có sự tích cực học tập.Không phải thầy ghi gì,
giảng gì người học cứcắm đầu ghi chép và họcthuộc theo nội dung đã chép được.
Khi nghe giảng, người học phải chonlọc những gì cần học ghi vào vở, thực hành
nội dung cơ bản rồi mới ghichép. Người học phải trình bày ý kiến của mình
đốivới.những vấn đề chưa rõ, chưa hiểu với người dạy để nắm chắc kiến
thức,hiểuđược bản chấtcủa kién thức.

Tự học ở nhà tức là phải tự học lại các kiến thức về lý thuyết đã đượchọc trên lớp
vận dụng lý thuyết vào làm bài tập thực hành. Tự sưu tầm thêm các bài tập nâng
cao để làm. Tự giác, tích cực đọc, nghiên cứu trướcbài mới trước khi được học,
đọc sách tham khảo về các kiến thức có liên quan đến môn học, đồng thời tự
nghiên cứu sáng tạo ra các cách làm bài tập, giải bài tập hay bằng con đường ngắn
nhất, nhanh nhất và dễ hiểunhất. Từ việc nắm được khoa học từ sách vở người học
phải biết vận dụngkiến thức đó vào thực tế đời sồng. Tấm gương của bạn Phạm
128
Văn Nghĩa là một minh chứng cho tinh thần tự học. Em đã biết vận dụng những
điều đãhọc từ nhà trường để thụ phấn cho cây, tạo ra ròng rọc kéo nước từ
giếngsâu. Sự sáng tạo trong học tập của em đã gúp cho cây trồng nhà mình cónăng
suất cao, gúp mẹ em vơi bớt được phần nào nỗi nhọc nhằn vất vả.Chính vì vậy
Phạm Văn Nghĩa đã được thành doàn thành phố Hồ ChíMinh phát động phong trào
học tập tấm gương Phạm Văn Nghĩa.
Phải tự học mới thấy hết những ý nghĩa lớn lao của  công việc này .Tự học
giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu íchhơn trong
cuộcsống . Không những thế tự học còn giúp con người trở nênnăng động , sáng
tạo , không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác . Từ đó biết tự bổ sung những
khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân.Tự học là một công việc gian
khổ , đòi hỏi lòng quyết tâm và sự kiên trì. Càng cố gắng  tự học con người càng
trau dồi được nhân cách và tri thứccủa  mình .Chính vì vậy tự học là một việc làm
độc lập gian khổ mà khôngai có thể học hộ , học giúp . Bù lại , phần thưởng của tự
học thật xứngđáng : đó là niềm vui , niềm hạnh phúc khi ta chiếm lĩnh được tri
thức.Biết bao những con người nhờ tự học mà tên tuổi của họ được tạc vàolịch
sử .Hồ Chí Minh với đôi bàn tay trắng ra đi từ bến cảng nhà Rồng ,nhờ tự học
Người biết nhiều ngoại ngữ và đã tìm được đường đi cho cảdân tộc Việt Nam đến
bến bờ hạnh phúc . Macxim Gorki với cả một thờithơ ấu gian  khổ ,không được đi
học , bằng tinh thần  tự học ông đã trởthành đại văn hào Nga  .Và còn rất nhiều
những tấm gương khác nữa : LêQuí Đôn ,Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền …Nhờ tự
học đã trở thành bậc hiềntài , làm rạng danh cho gia đình  quê hương xứ sở .Việc
tự học có ý nghĩa to lớn như vậy nên bản thân mỗi chúng ta phảixây dựng cho
mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê , hamhọc, ham hiểu biết , giàu
khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phụctri thức .Từ đó bản thân mỗi  con
người cần chủ động , tích cực, sáng tạo ,độc lập trong học tập. Có như vậy mới
chiếm. lĩnh được tri thức để vươn tới những ước mơ, hoài bão của mình
Càng hiểu vai trò và ý nghĩa của việc tự học,em càng cố gắng vàquyết tâm học tập
hơn .Bởi tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất đểhoàn thiện bản thân và biến
ước mơ thành hiện thực . Có lẽ bởi vậy màLê-nin đã từng đặt ra một phương
châm : “Học , học nữa , học mãi”.

Tham khảo

129
Trò chơi điện tử phù hợp với sự phát triển của nền công nghệ thông tin,bên
cạnh việc đem lại những điều bổ ích cho thanh,thiếu niên nó cũng có một phần nào
đó gây tác hại đối với các em do bản thân các em không làm chủ được mình,vì vậy
mà các em xao nhãng việc học tập và còn phạm nhiều sai lầm khác.Chúng ta cần
phải ngăn chặn.

Chúng ta luôn đặt ra nhiều câu hỏi về trò chơi điện tử.Câu hỏi thứ nhất:"Vì
sao trò chơi điện tử rất phù hợp hấp dẫn đối với học sinh hiện nay ?".Trò chơi điện
tử rất hấp dẫn đối với học sinh và phần lớn là học sinh Trung học,cũng có phần
một ít là một số các em học sinh đang ở tuổi nhi đồng.Trò chơi điện tử có hình ảnh
đẹp.Màu sắc được phối hợp hài hòa nhưng cũng có phần bí ẩn làm cho người chơi
cảm thấy hồi hộp,bị lôi cuốn theo trò chơi.Về nhân vật cũng sinh động không kém
gì hình ảnh.Về âm thanh có trò thì có điệu nhạc vui nhộn,có trò thì có điệu nhạc
hoành tráng của những trận đánh nhau giữa hai game thủ.Ngày nay,nền công nghệ
thông tin ngày càng phát triển hơn trước nên đã tạo ra nhiều trò chơi hay,hấp dẫn
mọi người và nhất là học sinh.Nhiều trò chơi mà các game thủ có thể nói chuyện
với nhau nhờ những bàn phím của vi tính.Nhiều trò chơi hấp dẫn các học sinh hiện
nay như Audition,Boom,Võ Lâm,...Nhiều trò còn áp dụng nhiều kĩ thuật mới của
ngành tin học làm cho nhân vật của các trò chơi có thể di chuyển nhanh,động tác
mềm mại,uyển chuyển hơn.Trò chơi điện tử rất hấp dẫn đối với học sinh hiện nay
nhờ vào hình ảnh sinh động,nhân vật của trò chơi đẹp,âm thanh phù hợp với trò
chơi và đặc biệt là họ có thể nói chuyện với nhau khi đang chơi....Câu hỏi thứ hai
là:"Tại sao nhiều học sinh trong các trường học vì mãi chơi điện tử mà xao nhãng
việc học hành ?".Các bạn học sinh say mê game hiện nay chỉ muốn chứng tỏ mình
tài giỏi hơn các bạn khác trong game.Những bạn học sinh như vậy thường không
làm chủ được bản thân mình.Có nhiều bạn say mê game đến nỗi phải trốn học đi
chơi,mất bài,mất vở,cuối năm bị xếp loại học sinh kém,vì thế làm cho các bạn
thêm chán nãn,nghĩ rằng mình là người vô dụng.Có bạn còn nói dối cha mẹ,làm
những điều không tốt để có tiền đi chơi điện tử.Có bạn còn nói dối thầy cô,bạn bè
rằng mình bị bệnh này bệnh nọ để có thể nghỉ học mà đi chơi trò chơi điện tử vô
bổ đó.Tất cả các việc làm trên ảnh hưởng đến việc học tập của bản thân,đạo đức
ngày càng suy kém và nguyên nhân chính của nó là sự say mê game quá độ của
các bạn học sinh.

Có nhiều bạn học sinh hỏi rằng:"Làm thế nào để có thể vừa chơi vừa giải trí
để nâng cao sự hiểu biết mà vẫn là những người học sinh giỏi,là những người con
ngoan ?".Câu trả lời của tôi hơi dài nhưng có thể giúp các bạn trong việc học tập
mà vẫn được giải trí.Chúng ta phải tập trung tất cả vào việc học tập,cần phải hoàn
thành các bài tập tốt trước khi đến trường.Ở nhà thì phải giúp gia đình trong một số
130
công việc nhẹ khác,làm những việc theo lời tôi nói thì các bạn sẽ nhanh chóng trở
thành những học sinh gương mẫu,nắm vững kiến thức.Vào thời gian rãnh rỗi thì
các bạn cũng cần phải đọc thêm sách báo,rèn luyện sức khỏe vào buổi sáng
sớm.Và chúng ta cũng có thể tham gia game để thư giãn qua những ngày học tập
mệt mỏi.

Bên cạnh đó tôi thấy mỗi bạn học sinh cần phải tự giác thực hiện quy định
của gia đình mình về thời gian dành cho giải trí,thư giãn,không để ảnh hưởng đến
việc học tập.Khi chơi các trò chơi điện tử cần tránh những nội dung không phù hợp
với lứa tuổi và tôi cũng kiến nghị chính quyền cần quản lí các địa điểm dịch vụ
điện tử...Cha mẹ cần quan tâm,nhắc nhở gia đình,con cái thường xuyên.Nhà trường
cần tổ chức nhiều sinh hoạt tập thể bổ ích cho các em để các em tránh được chuyện
mãi chơi điện tử,xao nhãng việc học tập và phạm những sai lầm khác.

Game luôn luôn hấp dẫn đối với chúng ta.Bên cạnh việc thành thạo các trò
chơi,chúng ta cần phải phấn đấu trở thành học sinh giỏi và những người con
ngoan.Đồng thời chúng ta còn biết ngăn chặn các bạn khác vì say mê game mà xao
nhãng việc học tập,phạm nhiều sai lầm

đê4.một hiện tượng khá phổ biến ngày nay là vứt rác ra đường hoắc ở những nơi
công cộng. ngồi bên hồ, dù là hồ đẹp nổi tiếng , người ta cũng tiện tay vứt rác
xuống... em hãy đặt một nhan đề gọi ra hiện tượng ấy và viết bài văn nêu suy nghĩ
của mình. 1.Mở bài:
-Nhìn vào bộ mặt của các đô thị,ng ta có thể đánh giá trình độ và mức độ phát triển
của 1 quốc gia.Ở các nc tiên tiến,vấn đề giữ gìn vệ sinh nơi công cộng,bảo vệ môi
trường sạch đẹp đc quan tâm thường xuyên.
-Ở nc ta,chuyện vứt rác,xả nc bẩn làm ô úê nơi công cộng, khá phổ biến.Có thể gọi
hiện tượng này là nếp sống thiếu văn hóa,văn minh.
2.Thân bài:
*Nguyên nhân:
-Do lối sống ích kỉ,chỉ nghĩ đến mình mà k nghĩ đến ng khác (dc:muốn cho nhà
mình sạch đem rác vứt ra đừong họặc sông,hồ,công viên…)
- Do thói quen xấu đã có từ lâu(dc: tiện tay vứt rác ở mọi nơi kể cả các khu di tích
hay thắng cảnh nổi tiếng)
- Do k ý thức đc hành vi của mình góp phần phá họai môi trường,vô ý thức và
thiếu văn hóa.
-Do việc giáo dục ý thức ng dân chưa đc làm thường xuyên và việc xử phạt chưa
nghiêm túc.
*hậu quả:
- Mất vẻ mỹ quan đô thị (dc)
-Ô nhiễm môi trường nc,k khí,đất.(dc)
-Góp phần làm phát triển dịch bệnh(dc)

131
-Tốn kém nhiều trong việc thuê ng dọn dẹp khác khu di tích,đừong phố,công
viên….(dc)

*Biện pháp:
-Đẩy mạnh tuyên truyền,giáo dục cho ng dân ý thức bảo vệ môi trừơng.
-Xử phạt nghiêm và nặng với những hành vi cố tình làm ảnh hưởng xấu tới môi
trường
-K chỉ có lực lượng thu dọn rác ở đừong phố mà cần chú ý đến sông ngòi,kênh
rạch…
-Quan trọng hơn cả là mỗi ng cần có ý thức,sửa đổi đc thói quen xấu của mình.

3.Kết bài:
-Những hành vi thiếu văn hóa trên rất đáng phê phán vì nó gây ảnh hưởng k nhỏ
tới xã hội.
-Mỗi ng cần nhận thức rõ hành vi của mình,cùng nhau bảo vệ môi trừơng,bảo vệ
môi trường cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ bản thân con ng khỏi những nguy cơ
diệt vong.

Bài viết: Ngày nay, trên thế giới, môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu . Ở
các quốc gia tiên tiến , vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường
xuyên nên việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa . Người dân
được giáo dục rất kỹ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp . Đáng
buồn thay nước ta có một hiện tượng phổ biến là vứt rác ra đường hoặc những nơi
công cộng , không giữ gìn vệ sinh đường phố . Việc làm đã gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường mà cụ thể ở đây là gây ô nhiễm môi trường .
Hiện tượng không giữ gìn vệ sinh đường phố có rất nhiều biểu hiện nhưng phổ
biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng . Ăn xong một que lem hay một
chiếc kẹo , người ta vứt que, vứt giấy xuống đất . Uống xong một lon nước ngọt
hay một chai nước suối , vứt lon , vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác
để cách đó rất gần . Tuy vậy , họ vẫn thản nhiên , vô tư không có gì áy náy . Thậm
chí khi ăn xong một tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà vo tròn
rồi trét lên ghế đá và cứ thế bỏ đi chỗ khác . Không chỉ với những nơi công cộng ,
ở một số khu phố , con đường có đặt bảng khu phố văn hóa nhưng cỏ mọc um tùm
tràn lan , rác rưởi ngập đầy khắp lối đi , mùi hôi khó chịu bốc lên suốt ngày . Một
biểu hiện phổ biến khác là một số tài xế chở gạch,đá phế thải ở các công trinh xây
dựng đem đổ khắp nơi và cả trên dưới phố. Con người ta còn vô ý thức đến mức
mang xác súc vật chết như chó, mèo, chuột, gia cầm như gà, vịt ném xuống hồ ,ao,
sông rạch và ra đường.Ở một số hàng, quán bán trên vỉa hè người ta đổ tất cả đồ ăn
dư thừa, nước rửa chén, bát xuống cống khiến cho nước thải bị ứ đọng ,cống bị tắt
nghẽn.Đáng sợ hơn, ở một số dòng sông những người sống trong những con đò
đậu ngay trên sông có những việc làm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Họ
vô tư xả rác trên đò xuống sông, đi tiêu đi tiểu xuống sông rồi ngay lập tức lại lấy
nước dưới sông lên tắm gội, giặc giũ thậm chí là nấu nướng. Thế nhưng hiện tượng
xả rác đó còn lan sâu vào một tầng lớp trí thức trẻ ngày nay. Biểu hiện cụ thể ở một
số sinh viên làm gia sư. Họ thường đứng ở các ngã ba, ngã tư đường để phát tờ rơi

132
quảng cáo nhóm gia sư của mình một cách bừa bãi khiến khắp đường phố rải rác
đầy những tờ rơi.
Những việc làm trên tuy nhỏ nhưng lại gây tác hại vô cùng to lớn .Phải chăng dọn
dẹp sạch sẽ nhà mình từ phòng khách đến nhà ăn, từ trong nhà ra ngoài vườn là
tốt?Còn việc vứt rác bừa bãi, bạ đâu quăng đó cả những nơi công cộng là không
cần thiết, không quan tâm không ảnh hưởng gì d9enu61 mình, đến gia đình
mình.Điều này, mỗi chúng ta cần suy nghĩ lại.Bạn nghĩ sao khi một thành phố văn
minh,giàu đẹp lại ngập tràn trong biển rác? Nó thể hiện hành vi của người vô văn
hóa, vô ý thức, gây mất vệ sinh và ảnh hưởng đến sức khỏe con ngươì. Người ta vô
tư vứt rác xuống sông nhưng họ có nghĩ rằng bao nhiêu người sử dụng nguồn nước
này để ăn uống, tắm giặt?Nước không sạch,con người sử dụng, ăn uống, sức khỏe
sẽ ra sao? Không có sức khỏe tốt thì lực lượng con người sẽ cống hiến như thế nào
cho đất nước khi bước vào thiên niên kỉ mới với nền kinh tế công nghiệp , hiện
đại . Không ở đâu xa , ngay trong thành phố của chúng ta – nơi con sông Đồng Nai
chảy qua phải chịu bao rác rưởi dơ bẩn . Công viên ven bờ sông là nơi sinh hoạt
thể dục thể thao của các cụ ông , cụ bà và cả các thanh thiếu niên trong khu vực .
Mọi người đến để thư giãn , hóng mát nhưng nhìn xuống dòng nước ven bờ , nước
bẩn theo cống vẫn từng ngày từng giờ ung dung đổ xuống , bao ni lông bị ném
xuống trôi bồng bềnh gây phản cảm , mất mĩ quan cả dòng sông . Còn đối với
những ghế đá vô tội vạ bị những người vô ý thức trét bã kẹo cao su , khi có một
người nào đó vô tình ngổi lên thì việc gì sẽ xảy ra ? Bã kẹo sẽ dính chặt vào quần
áo của người đó không những làm bẩn quần áo mà còn gây sự khó chịu . Và sẽ ra
sao khi người ngồi trên ghế đá kia có một cuộc hẹn quan trọng ? Bạn thấy đó , chỉ
cần có một hành động vô ý thức đó mà gây ảnh hưởng đến công việc của người
khác .
Ngày nay , đi đến đâu cũng có nhiều người tự hào khoe khu phố mình đang sống là
một khu phố văn hóa . Thế nhưng , được đặt bảng khu phố văn hóa mà rác rưởi
vương vãi khắp nơi gây phản cảm cho người đi đường . Như vậy họ chẳng khác gì
tự mình mỉa mai mình , tự đánh mất thể diện mình và cả khu phố . Cỏ mọc um tùm
là điều kiện thuận lợi cho sinh sôi nảy nở của loài muỗi . Từ đó phát sinh dịch bệnh
sốt xuất huyết – căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng của con người .
Và việc một số tài xế đổ gạch đá phế thải ra ngoài đường thì sao ? Một con đường
đang sạch đẹp bỗng dưng phải hứng chịu vô số đất đá . Chúng vương vãi khắp nơi
gây ùn tắc giao thông . Và cũng trên những con đường ấy đã xảy ra bao vụ tai nạn
giao thông gây đau thương cho nhiều gia đình . Không chỉ có gạch đá bị thải ra
đường mà còn có cả xác súc vật nữa . Như đã kể ở trên , xác súc vật bị quăng bừa
bãi khắp nơi . Thịt của chúng dần phân hủy kèm theo là một mùi hôi vô cùng khó
chịu đối với những người vô tình đi ngang qua . Tệ hại hơn ," )

Ý nghĩa nhan đề của một số tác phẩm văn học lớp 9

133
Ý NGHĨA NHAN ĐỀ CỦA MỘT SỐ TÁC PHẨM
Văn bản 1: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ - NGÔ GIA VĂN PHÁI
- Là cuốn tiểu thuyết ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời
điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
Văn bản 2: ĐỒNG CHÍ - CHÍNH HỮU
- Đồng chí: Những người có cùng chí hướng, lí tưởng - đây được coi là tên gọi của
một tình cảm mới, đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách mạng và
kháng chiến.
- Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính
cách mạng. Tình đồng chí đã gúp người lính vượt lên trên mọi huỷ diệt của chiến
tranh, bom đạn quân thù.
Văn bản 3: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH - PHẠM TIẾN DUẬT
- Nhan đề dài tưởng như có chỗ thừa, nhưng lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc
đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài
và đó là hình ảnh hiếm gặp trong thơ - hình ảnh những chiếc xe không kính.

- Vẻ khác lạ còn ở hai chữ “ Bài thơ” như sự khẳng định chất thơ của hiện thực,
của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến
tranh. Hai chữ bài thơ cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác
giả.
Văn bản 4: MÙA XUÂN NHO NHỎ - THANH HẢI
- Nhan đề bài thơ là một sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Nó
thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cái cá nhân
và cái cộng đồng. Mùa xuân nho nhỏ còn thể hiện nguyện ước chân thành của
Thanh Hải, ông muốn sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình, muốn
được cống hiến những gì tinh túy nhất, tốt đẹp nhất của mình cho cuộc đời chung.
Văn bản 5: LÀNG - KIM LÂN
Tại sao Kim Lân lại đặt tên cho văn bản của mình là Làng chứ không phải là Làng
chợ Dầu ?
- Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn đề tác giả đề
cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể. Đặt tên là “Làng” vì
truyện đã khai thac một tình cảm bao trùm, phổ biến của người nông dân Việt Nam
thời kì đầu của cuụoc kháng chiến chống Pháp: Tình yêu làng quê gắn liền với
lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến

Văn bản 6: LẶNG LẼ SA PA- NGUYỄN THÀNH LONG


- Lặng lẽ Sa Pa, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài của một nơi ít người đến,
nhưng thực ra nó lại không lặng lẽ chút nào, bởi đằng sau cái vẻ lặng lẽ của Sa Pa
là cuộc sống sôi nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối
với đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng
một mình trên đỉnh núi cao. Trong cái không khí lặng im của Sa Pa. Sa Pa mà nhắc
tới người ta chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi lại có những con người ngày đêm lao
động hăng say, miệt mài lặng lẽ, âm thầm, cống hiến cho đất nước.

Văn bản 7: ÁNH TRĂNG - NGUYỄN DUY

134
- Ánh trăng chỉ một thứ ánh sáng dịu hiền, ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những
nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái,
hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống. Nhan đề bài thơ
mang ý ngiã biểu tượng - ánh trăng như ánh sáng của hàng nghìn nến đã thắp sáng
lên một góc tối của con người, thức tỉnh sự ngủ quên của con người về nghiã tình
thuỷ chung với quá khứ, với những năm tháng gian lao nhưng rất hào hùng của
cuộc đời người lính.
Văn bản 8: NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI - LÊ MINH KHUÊ
- Nhan đề Những ngôi sao xa xôi mang ý nghĩa ẩn dụ. Hình ảnh Những ngôi sao
gợi liên tưởng về những tâm hồn hôn nhiên đầy mơ mộng và lãng mạn của những
nữ thanh niên xung phng trẻ tuổi chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn trong
những năm kháng chiến chống Mỹ. Những nữ thanh niên xung phong như những
ngôi sao xa xôi toả ánh sáng lấp lánh trên bầu trời. Phần cuối truyện ngắn, hình ảnh
Những ngôi sao xuất hiện trong cảm xúc hồn nhiên mơ mộng của Phương Định -
Ngôi sao trên bầu trời thành phố, ánh điện như những ngôi sao trong xứ sở thần
tiên của những câu chuyện cổ tích.

Văn bản 9: CHIẾC LƯỢC NGÀ- NGUYỄN QUANG SÁNG


- Hình ảnh chiếc lược ngà xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, nó là cầu nối tình cảm
của cha con ông Sáu. Chiếc lược ngà là vật kỷ niệm của người cha yêu thương vô
cùng để lại cho con trước lúc hy sinh. Với ông Sáu, chiếc lược ngà như phần nào
gỡ mối tâm trạng của ông trong những ngày ở chiến khu. Chiếc lược ngà còn là
minh chứng cho tình cảm giữa hai cha con ông Sáu => chiếc lược của hi vọng và
niềm tin, là quà tặng của người đã khuất...

Văn bản 10 :Bếp lửa


Hình ảnh bếp lửa trong nhan đề Bếp lửa là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu
sắc. Từ hình ảnh của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa nấu cơm thành hình
ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỉ niệm ấm áp của hai bà cháu. Ngọn lửa còn
là ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê
hương, đất nước nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Bếp lửa mà người bà
ấp iu chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy
cháu làm, chăm cháu học, đến việc bảo cháu nghe. Bếp lửa đã thành nơi bà nhóm
lên, khơi gợi trong tâm hồn cháu những khát vọng, tình cảm đẹp.

Văn bản 11 : KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ


(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
- Những em bé chứ không phải một em bé nhằm mang tính khái quát. Chỉ một thế
hệ những con người lớn lên được nuôi dưỡng từ trên lưng mẹ. Người mẹ Tà Ôi
trong tác phẩm cũng là đại diện cho các bà mẹ Việt Nam có tình yêu con gắn liền
với tình yêu đất nước.

Văn bản 12 : BẾN QUÊ (NGUYỄN MINH CHÂU)

135
- Bến: tức là chỗ đỗ, chỗ đậu
- Quê hương (gia đình, vợ con)và những gì thân thương nhất chính bến đỗ của
cuộc đời.
- Câu chuyện thức tỉnh mỗi chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp
bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương.
Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Bến quê”:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đặt nhan đề cho truyện ngắn của mình là “Bến quê”.
Bởi vì, đây là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm. Nó vừa có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc
lại vừa có tác dụng liên kết các yếu tố, các hình ảnh trong truyện làm nổi bật chủ
đề .
“Bến quê” là những gì gần gũi, thân thương nhất với Nhĩ. Đó là những cành hoa
bằng lăng đậm sắc với những cánh hoa màu tím thẫm; là cái bờ đất lở dốc đứng, có
chuyến đò ngang chạy qua mỗi ngày; là cái bãi bồi màu mỡ, tươi tốt nằm phơi
mình bên kia sông Hồng; là người vợ hiền thục, đảm đang, ân nghĩa, thủy chung
sẵn sàng chịu đựng, hy sinh, dành tất cả tình cảm yêu thương, chăm chút cho anh
trong những ngày tháng cuối đời; là bầy trẻ với những ngón tay “chua lòm mùi
nước dưa"; là ông lão láng giềng sẵn sàng giúp đỡ, hỏi han, động viên anh mỗi
ngày... Tất cả là những gì giàu có, đẹp đẽ, thuần phác, cổ sơ nhất của mảnh đất quê
hương xứ sở- nơi đã sinh thành ra anh và sẽ đón nhận anh về khi anh nhắm mắt
xuôi tay. Đó còn là mái ấm gia đình- điểm tựa để anh cất cánh bay cao đồng thời
cũng là nơi nương tựa vững chắc, bình yên của anh trong những ngày tháng cuối
đời. Đó là nơi neo đậu bình yên nhất của cuộc đời mỗi con người.
Nhan đề “Bến quê” có ý nghĩa thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và
giá trị bình dị, gần gũi mà đích thực của cuộc sống, của quê hương. Đó cũng là
thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc được cô đúc qua nhan đề của
tác phẩm.
Ý nghĩa nhan đề bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Mời quý thầy cô tham khảo:

- Huy Cận là bút danh của Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Ân Phú - Vũ Quang
- Hà Tĩnh. Ông là một cây bút nổi tiếng của phong trào Thơ mới với tập thơ : “ Lửa
thiêng” ( 1940)

- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945, sau CM tháng Tám ông giữ nhiều
trọng trách trong chính quyền CM, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ
ca hiện đại Việt nam từ sau năm 1945

"Đoàn thuyền đánh cá" là một bài thơ hay của Huy Cận, bài thơ được viết vào giữa
năm 1958 khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được
giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu vào cuộc
sống mới bao trùm cả đời sống xã hội và trở thành nguồn cảm hứng lớn của thi ca.

Văn bản 10 : ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

136
Bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá “ được ra đời vào thời gian này và in trong tập “
TRỜI MỖI NGÀY LẠI SÁNG” 1958.
Ý nghĩa nhan đề bài thơ:
-Bài thơ ngợi ca công việc lao động xây dựng quê hương

-Đoàn thuyền chỉ sự đồng lòng chung sức của mọi người, thể hiện sự đoàn kết dân
tộc

-Bài thơ phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc , khí thế lao
động hứng khởi, hăng say của người dân chài trên biển quê hương.

Văn bản 13: TRUYỆN KIỀU


Đại thi hào Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa thế giới, đã để lại cho hậu
thế nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó
có kiệt tác Truyện Kiều. Tác phẩm này đã được đưa vào giảng dạy trong chương
trình phổ thông. Nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du
(1765-2015), nhiều giáo viên, học sinh chia sẻ sự cảm thụ và tâm huyết đối với tác
phẩm Truyện Kiều và tác gia Nguyễn Du.

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ mang giá trị đỉnh cao
nghệ thuật văn học mà còn chứa đựng ý nghĩa giáo dục đạo đức rất lớn cho học
sinh như: giúp học sinh có cái nhìn toàn diện về tính cách, vẻ đẹp và thân phận của
người phụ nữ. Cho đến nay, dù trong xã hội hiện đại nhưng chúng ta thấy đâu đó
vẫn còn nạn bạo hành gia đình, nhất là bạo hành phụ nữ, không tôn trọng vị trí của
người phụ nữ. Xã hội tiến bộ phải tiến bộ từ trong tư tưởng, trong đó, phải thừa
nhận vị trí, vai trò của người phụ nữ trong cả gia đình và xã hội. Đồng thời, giá trị
tác phẩm cho chúng ta học một điều là phải biết san sẻ những nỗi đau của người
khác”.
Truyện Kiều đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà
chếđộphong kiến đang suy thói đã bộc lộđầy đủtính chất mục nát, vô nhân, và các
tầng lớp nhân dân đã bịdồn đến bước đường cùng...Khi viết, tuy có dựa vào
Kim Vân Kiều truyện, nhưng với kỳcông tái tạo, Truyện Kiều của nhà thơ đã
trởthành viên ngọc vô giá của thểloại truyện thơ nói riêng và của nền văn học dân
tộc Việt nói chung.Cảm hứng hiện thực của tác phẩm được kết tinh vào nhân vật
trung tâm Thúy Kiều tài sắc và đa nạn. Xây dựng hình tượng Thúy Kiều và nhiều
nhân vật bất hạnh khác trong tác phẩm, tác giả một mặt đã thể hiện lòng thương vô
hạn đối với các nạn nhân; đồng thờ

137
Truyện Kiều của Nguyễn Du là 1 kiệt tác của văn chương Việt Nam và thế giới ,
không chỉ về nội dung về nghệ thuật mà còn về những ảnh hưởng của tác phẩm
này lên văn chương , văn hóa của Việt Nam và thế giới . Tôi đã đọc Kiều không
biết bao nhiêu lần và hôm nay đọc lại nghiền ngẫm suy nghĩ tôi vẫn ngộ ra nhiều ý
mới, nhiều tư tưởng ẩn chứa trong đại tác phẩm này . Đại thi hào Nguyễn Du đã
dùng 1 cốt truyện tầm thường Đoạn Trường Tân Thanh của Thanh Tâm Tài Nhân
và viết lại bằng tiếng nôm trong thể thơ lục bát 3254 câu để làm thơ 1 tác phẩm
độc đáo , xuất sắc sống mãi với thời gian, mặc dù lúc đầu khi tác phẩm ra đời và
sau đó 1 thời gian dài mọi người không đánh giá đúng giá trị vĩ đại của tuyệt tác
này .

Mở đầu tác phẩm , đại thi hào viết :

Trăm năm trong cõi người ta


Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

và khi kết thúc cụ viết

Ngẫm hay muôn sự tại trời,


Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Một triết lý sống rất sâu sắc và ý nghĩa , quan trọng và hàm chứa tất cả triết học và
tôn giáo . Đọc hết Truyện Kiều chúng ta thấy kiếp người được Nguyễn Du miêu tả
đặc sắc, lột tả hết tâm lý nhân vật, trong những mối tương quan của đời sống và xã
hội . Kiều đẹp như thế nhưng cả cuộc đời của nàng long đong lận đận và trong cái
cuộc đời chìm nổi đó của nàng , nàng đã gặp rất nhiều người , tốt có xấu có và đó
là bức tranh tổng thể của xã hội , xã hội của thời Nguyễn Du nhưng vẫn thấp
thoáng bóng dáng của thời đại của chúng ta . Nghệ thuật khắc họa nhân vật thì tài
tình, còn từ ngữ, điển tích thì xuất sắc và tuyệt cú nhất là ông đã dùng thể thơ lục

138
bát để viết truyện . Lục bát là thể thơ dễ làm, dễ hiểu dễ đọc và dường như thông
dụng nhất trong tất cả các thể thơ của Việt Nam , nhưng làm thơ lục bát không dễ
vì rất dễ biến thành vè cũng như dễ dễ bị ép từ , ép vận, khiên cưỡng đọc lên ngô
nghê , hời hợt . Nhưng 3254 câu thơ sáu tám của truyện Kiều đọc lên mới thánh
thót mới tuyệt mỹ làm sao , phải nói là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca dùng thể thơ
lục bát . Các điển tích được sử dụng nhuần nhuyễn, tinh tế , nhân vật sâu sắc còn ý
tứ thì tế nhị , sâu xa . Ý tại ngôn ngoại , từng câu từng chữ từng từ , từng vận ,uyển
chuyển, sinh động, linh động và thấm đượm tình người cũng như là tâm huyết của
tác giả . Kể chuyện bằng văn chương đã khó mà kể chuyện bằng thơ càng khó
khắn gấp bội vì sự hạn chế, giới hạn của khuôn thước của thi ca nhưng Thanh Hiên
Tiên Điền Nguyễn Du đã vượt qua tất cả những trở ngại đó và để lại 1 áng thi ca
trác tuyệt mà muôn đời sau hậu thế cũng khó có ai sánh bằng . Kiếp người trong thi
ca của Nguyễn Du của Kiều được khắc họa rất thực và rất độc đáo , 1 hiện thực mà
ngày nay ở vào thế kỷ 21, thiên niên kỷ thứ ba với nhiều thách thức chưa từng có,
chúng ta đọc lại thấy rùng mình vì sự hiểu biết, cảm thông sâu xa của đại thi hào
với nhân vật và đời sống . Kiều là 1 mỹ nhân nhưng cả cuộc đời nàng chỉ gặp toàn
những gian truân , trắc trở , vì đâu ? Vì nàng hy sinh cho cha, cho gia đình và nàng
rơi vào những cạm bẫy của cuộc đời ác nghiệt . Dường như chúng ta vẫn đang gặp
ngàn vạn nàng Kiều trong cuộc đời của chúng ta hôm nay . Nhưng Nguyễn Du
không chỉ viết cho riêng 1 nàng Kiều, 1 mỹ nhân mà có lẽ ông ẩn dụ nói về , viết
về tất cả nhân loại của chúng ta , những người yêu chân thiện mỹ, những người
phải chịu những thân phận mà chúng ta đôi khi thấy vô lý . Nguyễn Du khuyên
chúng ta " Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài " Quả là 1 lời khuyên chí lý và sâu xa
tột bực nhưng mấy ai hiểu thấu thâm ý của nhà thơ . Kiều là 1 câu chuyện độc đáo
vì nó như là 1 tấm gương soi thần diệu, khi chúng ta đọc chúng ta soi mình vào nó
chúng ta thấy chính khuôn mặt của chúng ta . Con người của chúng ta như thế nào
thì mức độ đồng cảm với Kiều sẽ đến mức độ đó. Điều đó giải thích vì sao chúng
ta có bói kiều , chúng ta có vịnh Kiều, lẩy Kiều , vì sao có người mê Kiều nhưng
có người chê bai Kiều và thậm chí cho là tầm thường 1 tác phẩm . Từng câu chữ
của tác phẩm là 1 thế giới của sự thách thức với độc giả , từng nhân vật là 1 vũ trụ
thách đố sự khám phá của người đọc .

Hãy đọc lại 1 đoạn (Tú Bà dạy Kiều) mà nhiều người đã cho Kiều là 1 " dâm thư"
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẫn đời...
Khi khóe hạnh, lúc nét ngài
Khi ngâm ngợi nguyệt,khi cười cợt hoa
Đều là nghệ – nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nết mới là làng chơi

Theo truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc): Tú bà hỏi
Kiều:
- Tiếp khách thế nào mới lưu được khách?.
Kiều trả lời:

139
- Ngủ với ngươì ta chớ gì?;
Tú bà giẫy nẫy:
- Con này mới ngu làm sao ! Nếu con gái nhà thổ cũng như con gái nhà lương gia
thì ai buồn chơi. Nghề chơi ở trong còn lắm điều hay, khi khách lên giường, thì
mày nhường khách nằm trong, mày nằm ngoài, ngoảnh mặt lại chầu khách; tay
khách tất sờ vào mình mày, mày phải sờ hạ thể khách..
Bảy chữ vành ngoài là:
1. Khốc: khóc lóc giả bộ thương yêu, khách quyến luyến không rời được
2. Tiễn: cắt tóc mày và tóc khách, se vào nhau; mỗi người buộc vào cánh tay như
thề nguyện kết tóc se tợ
3. Thích : khi đã thỏa thê tình dục rồi, lấy kim chích tên của khách lên cánh tay hay
đùi mày, lấy mực xoa vào. Khách sẽ trút hết tiền vì nghĩ rằng mày đã chết mê chết
mệt nó, mới xăm tên nó lên thân thể mày như vậy. Khách sau đến, trông thấy ắt
phải nghĩ rằng: không biết người đi trước đãi mày thế nào mà mày yêu đến thế. Tất
nhiên sau đó sẽ hậu đãi mày để được lòng mày, yêu hơn người trước. Nhân thể
phải biết chau mày, nói: khách đi trước đã tiêu phí không biết bao nhiêu tiền mới
được lạc thú tuyệt đỉnh, do đó mới xăm tên, nay muốn được thích thú hơn, tất
nhiên phải quăng tiền cho mày.
4. Thiêu: là khổ nhục kế, hai đứa đều chích máu trong người ra để thề, phỏng gặp
thằng ngu, mày cùng nó đốt huơng thề, như thế thì nó táng gia bại sản cũng đáng
đời.
5. Giá: dùng mẹo để lừa, cứ như mong được làm vợ, suốt ngày chỉ nói chuyện mơ
ươc về nhà chồng và các điều thề thốt. Hễ nó đã mê, tự nhiên bỏ của ra; tiền đã hết
rồi, nó muốn cưới, mày giả đau không dậy, thế thì chẳng phải đợi mày đuổi, nó tự
động cũng cút xéo.
6. Tẩu: khách chơi đã hết của, mày phải đuổi nó ra khỏi cửa. Nếu nó vẫn đeo, thì
vờ hẹn nó đến một nơi nào đó, rồi nắm áo lại, dọa sẽ tri hô lên cho quan đến bắt kẻ
lưu manh có ý cưỡng bức mày. Tự khắc nó phải bỏ mày.
7. Tử: dẫu biết nó có vợ có hầu, mày vẫn thế thốt sống chết nếu không được sống
chung thì tự vẫn; vậy nó có tiêu pha hết của cho mày thì cũng phải.
Bảy chữ mới chỉ là mánh khóe bên ngoài để dụ dỗ khách.
Còn khi hành lạc, thì vành trong phải đủ tám nghề:
1. Với khách có hạ thân nhỏ thì dùng phép “đánh trống giục hoa” (kích cổ thôi
hoa).
2. Với khách có hạ thân lớn thì dùng phép “sen vàng khóa xiết” (kim liên song
tỏa).
3. Nếu khách hối hả, lụp chụp thì dùng phép “mở cờ đánh trống” (đại chiến kỳ cổ)
4. Nếu khách khoan thai thìdùng phép “đánh chậm gõ sẽ” (mạn đả khinh sao)
5. Với người mới ” vỡ lòng “thì dùng phép “ba bậc đổi thế” (khẩn thuyên tam trật).
6. Gặp khách sành sỏi thì dùng phép “tỏa tâm truy hồn“
7. Gặp khách tay ngang tì dùng phép “tả chi hữu chì“

8. Đối với khách đam mê nhan sắc thì dùng phép “dềnh dàng hớp vía” (nhiếp thần
phiến tỏa).

140
Thực sự ra nếu chúng ta nhìn 1 khía cạnh đạo đức bình thường thì có vẻ hơi quá
đáng , thô thiển nhưng nếu nhìn 1 khía cạnh khác của đời sống thì Kiều đã sa chân
vào thế giới của lầu xanh cho nên nàng phải chịu mà thôi .
Nói tóm lại , đọc lại Truyện Kiều dù cả ngàn lần chúng ta vần cảm thấy mới vì vẫn
khám phá thêm những điều thú vị , tâm đắc và dường như ẩn hiện thấp thoáng
trong đời sống chúng ta hôm nay . Từng nhân vật, từng câu chữ, từng ý tứ , từng ẩn
dụ từng ý tại ngôn ngoại đều chan chứa tình người và sự thông cảm , am hiểu kiếp
người cũng như hệ lụy và phiền toái của kiếp nhân sinh . Nguyễn Du vĩ đại ở chỗ
đó, truyện Kiều vĩ đại ở chỗ đó . Truyện Kiều là 1 tấm gương soi thần kỳ mà khi
chúng ta soi vào ta thấy chính ta .

……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….

141
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………….
.
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

142

You might also like