Professional Documents
Culture Documents
KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ
KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ
Tóm lại: Việc áp dụng án lệ ngoài ý nghĩa giải quyết một vụ án cụ thể còn
thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau này (vì nó được đúc
kết, chọn lọc kĩ càng và mang tính chuyên nghiệp), tạo sự bình đẳng trong
việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp tiên lượng được kết quả của các vụ
tranh chấp, tiết kiệm công sức của các Thẩm phán, người tham gia tố tụng,
cơ quan tiến hành tố tụng: Thẩm phán chỉ cần đối chiếu để đưa ra phán
quyết, tránh chuyện mỗi người nhìn nhận, đánh giá vấn đề một kiểu; các đơn
vị khi đàm phán, soạn thảo và ký kết hợp đồng giao dịch dân sự, thương mại
biết phòng tránh rủi ro...
Hiện nay, số lượng án thụ lý mới ở mỗi cấp Tòa án cao hơn qua từng năm.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 4 BLTTDS năm 2015: “Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”.
Quy định này đòi hỏi Tòa án phải căn cứ vào các loại nguồn khác của pháp
luật như tập quán, án lệ, áp dụng tương tự pháp luật … để giải quyết. Số
lượng án lệ quá ít là khó khăn không nhỏ trong việc giải quyết vụ án dân sự
trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng. Tính tới hiện tại, đã có hơn
600 bản án, quyết định của Tòa Án viện dẫn, áp dụng án lệ => việc áp dụng
án lệ đã cho thấy hiệu quả xử lý vụ án cao hơn, có căn cứ pháp lí và đúng
quy trình, thủ tục (dựa vào biểu đồ và bài báo: Áp dụng án lệ trong xét xử
các vụ án dân sự, từ thực tiễn của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai)
VẼ BIỂU ĐỒ
Tính đến năm 2018, Chánh án tòa án nhân dân đã kí quyết định công bố
10 án lệ, có 313 bản án, quyết định của Tòa án đã viện dẫn án lệ trong
quá trình giải quyết vụ án, hơn 440000 lượt truy cập vào Trang điện tử
về án lệ.
2019 công bố thêm 13 án lệ, hơn 600 bản án, quyết định của Tòa án đã
viện dẫn án lệ trong quá trình giải quyết vụ án, hơn 720000 lượt truy
cập vào Trang điện tử về án lệ.
Năm 2018 biên tập và xuất bản cuốn Án lệ và bình luận án lệ- Tập 1
cấp phát tới tất cả Thẩm phán trên toàn hệ thống
Năm 2019 “ Án lệ và bình luận- Quyển II”, hoàn thiện giáo trình “ Án
lệ và thực tiễn xét xử
( Trích Báo cáo tổng kết công tác năm 2018,2019 và nhiệm vụ trọng tâm công
tác 2019,2020 của các tòa án)
Về việc nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các Thẩm phán. Việt
Nam vẫn chưa quá quen thuộc với hệ thống án lệ dẫn đến:
Thẩm phán còn e ngại, lúng túng trong việc áp dụng, khiến việc viện
dẫn án lệ không thống nhất. Điều này cũng một phần do Nghị quyết
chưa hướng dẫn cụ thể như thế nào là vụ việc tương tự cũng như chưa
quy định trường hợp áp dụng cụ thể
Một vấn đề khác là nhiều Tòa án còn nhầm lẫn yếu tố bắt buộc của án
lệ. Yếu tố này nằm ở “Nội dung án lệ”, là phần có chứa đựng đầy đủ
tình tiết, sự kiện pháp lý và hướng giải quyết, có giá trị bắt buộc đối
với chủ thể áp dụng
Chúng ta đang tích cực cải thiện, trau dồi để tạo dựng nền vững chắc cho hệ
thống án lệ:
VẼ BIỂU ĐỒ
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, năm
2019 Đã tổ chức 12 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ trực tuyến về các vấn đề
như: cải cách tư pháp ở nước ta trong tình hình mới, Luật Tố tụng hành
chính, pháp luật về giao dịch bảo đảm, áp dụng các quy định tương trợ
tư pháp về dân sự tại Tòa án Việt Nam.... cho hơn 10.000 Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư kí; tổ chức 06 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho 1200
Thẩm phán. Trong năm qua, Tòa án nhân dân các cấp đã phối hợp với
Viện kiểm sát nhân dân tổ chức cho thẩm phán tham gia các “Phiên tòa
rút kinh nghiệm” , mỗi phiên tòa rút kinh nghiệm đều là một bài học
qua đó giúp các Thẩm phán đề cao tinh thần trách nhiệm trong chuẩn bị
xét xử cũng như nâng cao kinh nghiệm tổ chức phiên tòa.( Thêm vào
phần phương hướng)
( Trích Báo cáo tổng kết công tác năm 2018,2019 và nhiệm vụ trọng tâm công
tác 2019,2020 của các tòa án)
Tuy có hiệu quả là vậy nhưng có nhiều luồng ý kiến cho rằng để án lệ có chỗ
đứng vững chắc trong hệ thống pháp luật VN. Lập luận được đưa ra là:
Hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng sửa đổi, bổ sung các quy
định nên trong từng giai đoạn cụ thể thì chính sách pháp luật sẽ không
còn giống nhau. Án lệ chính là pháp luật, nhưng để vận dụng phán
quyết của bản án đó áp dụng cho vụ án sau, trong khi quy định của
pháp luật luôn thay đổi khó đảm bảo về tính đúng đắn.
Mặt khác, với một nước theo hệ thống luật thành văn như nước ta thì
Hiến pháp là đạo luật gốc, có giá trị pháp lý cao nhất. Khoản 2 Điều
103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật;…”
**Tóm lại: Việc chấp thuận áp dụng án lệ vào thực tiễn có thể coi là thay đổi đáng
chú ý nhất trong nỗ lực đổi mới nền tư pháp của Chính phủ Việt Nam. Tuy nhiên,
án lệ ở VN còn nhiều vấn đề cần cải thiện sẽ được nói cụ thể ở phần sau
3. Quy định, quy trình đối với án lệ ở Việt Nam: (tham khảo Nghị quyết
03/2015/NQ-HĐTP)
4 tiêu chí lựa chọn án lệ: (tương đối giống với các tính chất và cách giải
thích ở phần khái niệm)
1. Chứa đựng lập luận làm rõ quy định pháp luật có cách hiểu khác
nhau
2. Phải phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên
tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ
việc cụ thể.
3. Phải có tính chuẩn mực
4. Phải có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử,
bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải
giải quyết như nhau.