You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ LUẬT

LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CHUNG


BUỔI THẢO LUẬN LẦN NĂM
Lớp: QTL46A2
DANH SÁCH THÀNH VIÊN

STT Họ và tên MSSV


1 Lê Phương Khanh 2153401020112
2 Phạm Thị Phương Linh 2153401020135
3 Phạm Tú Linh 2153401020136
4 Trần Hà Linh 2153401020139
5 Võ Ngọc Bảo Linh 2153401020143
6 Nguyễn Vũ Quỳnh Mai 2153401020150
7 Nguyễn Hà My 2153401020159
8 Trần Liểu Huyền My 2153401020162

MỤC LỤC
NHẬN ĐỊNH..................................................................................................................... 3
1
1. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật hình sự...3
2. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì không có giai đoạn phạm tội chưa đạt.3
1. Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên
thực tế............................................................................................................................. 4
2. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp không bị coi là tội phạm.......4
1. Mọi trường hợp có từ hai người bất kỳ trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng
phạm............................................................................................................................... 4
BÀI TẬP............................................................................................................................ 5
Bài tập 2.......................................................................................................................... 5
1.Trong vụ án trên có đồng phạm không? Nếu có hãy xác định vai trò của mỗi người trong
đồng phạm......................................................................................................................5
2.Xét về dấu hiệu chủ quan,hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?..............5
3. Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?........6
4. Những người trên phạm tội ở giai đoạn nào? Tại sao?................................................6
5. Ngọc có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao?..........7
6. Tình huống trên có phải là trường hợp phạm tội có tổ chức không? Tại sao..............8
Bài tập 4.......................................................................................................................... 8
1.Hành vi của A có đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người
không?............................................................................................................................9
2. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người không? (biết rằng hành vi giết
người được quy định tại Điều 123 BLHS).......................................................................9
3. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng vũ khí trái phép không? (biết rằng
hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều 304 BLHS)...........9
Bài tập 6.......................................................................................................................... 9
1. Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn nào?.............................................10
2. Nếu A (17 tuổi), B (15 tuổi) thì A và B có đồng phạm hay không? Tại sao?............10

NHẬN ĐỊNH

1. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật
hình sự.

Nhận định sai.

2
Việc biểu lộ ý định phạm tội tuy cũng là một bước trong quá trình thực hiện tội phạm
nhưng nói chung nó chưa có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội, bởi vì nó chưa
phải là sự bắt đầu thực hiện ý định phạm tội và cũng không phải bất cứ người nào có ý
định phạm tội đều nhất thiết thực hiện ý định ấy nên bản thân việc biểu lộ ý định
phạm tội đứng một cách độc lập vì chưa thực sự đe dọa gây nguy hiểm đáng kể cho xã
hội. Chính vì vậy Tiểu lộ ý định phạm tội về nguyên tắc không phải chịu trách nhiệm
hình sự nên nó không phải là một giai đoạn thực hiện tội phạm.

Tuy nhiên, trong một số ít trường hợp đặc biệt tuy chỉ mới là điều lộ ý định phạm tội
nhưng chúng đã mang tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên luật hình sự quy định là
một tội độc lập và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, không phải mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo
pháp luật hình sự mà có một số ít trường hợp ngoại lệ.

Ví dụ: hành vi đe dọa xâm phạm tính mạng trong Tội khủng bố nhằm chống chính
quyền nhân dân (khoản 3 Điều 113 BLHS 2015).

2. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì không có giai đoạn phạm tội
chưa đạt.

Nhận định sai.

Căn cứ vào Điều 15 BLHS 2015: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm
nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài Ý muốn của
người phạm tội.” Do đó, đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức mà hành vi
khách quan bao gồm nhiều hành vi, nếu người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các
hành vi mà bị dừng lại do nguyên nhân khách quan thì tội phạm này được coi là chưa
thực hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm (phạm tội
chưa đạt).

CSPL: Điều 15 BLHS 2015

Ví dụ: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS 2015) là tội phạm có cấu
thành tội phạm hình thức về mặt khách quan bao gồm: hành vi bắt cóc con tin, hành vi
đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu hành vi phạm tội mới chỉ thực hiện hành vi bắt
cóc con tin mà đã bị bắt giữ thì trường hợp này ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

1. Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự
chấm dứt trên thực tế.

Nhận định sai.

Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm tội phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm tức là hành vi phạm tội đã thỏa mãn các dấu hiệu khách quan
và chủ quan được quy định trong luật và nó đã phản ánh được đầy đủ bản chất nguy

3
hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó. Như vậy thời điểm tội phạm hoàn thành không
dùng để chỉ thời điểm người phạm tội đạt được mục đích của mình hay không, khi tội
phạm hoàn thành thì cũng có thể người này đã đạt được mục đích của mình nhưng
cũng có thể chưa đạt được mục đích đó.

2. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp không bị coi là tội
phạm.

Nhận định sai.

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến
cùng, tuy không có gì ngăn chặn

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội
định phạm, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội khác, thì
người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này

Vậy 1 người vẫn bị coi là tội phạm dù tự ý chấm dứt việc phạm tội thi hành vi của
người đó đủ cấu thành tội phạm thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự

Ví dụ: A đang thực hiện hành vi giết B nhưng đam đâm được 1, 2 nhát thì dừng lại.
Hành vi của A mặc dù không dẫn đến việc B chết nhưng cũng khiến B bị thương với
tỷ lệ thương tật trên 11%. Vì vậy A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

CSPL: điều 16 BLHS 2015


1. Mọi trường hợp có từ hai người bất kỳ trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm là đồng phạm.

Nhận định sai.

Đồng phạm là trường hợp có 2 người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm

Để được xem là đồng phạm thì 2 người thực hiện phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Và phải đáp ứng đủ dấu hiệu bắt buộc của
hành vi khách quan đó là hành vi của mỗi người phải liên kết, hỗ trợ, bổ sung và là
điều kiện cho hành vi của người còn lại. Ngoài ra, hành vi của những đồng phạm phải
thuộc 4 hành vi: thực hành, tổ chức, xúi giục, giúp sức.

CSPL: Điều 17 BLHS 20152015

BÀI TẬP

Bài tập 2
Trường, Hiếu, Ngọc là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp. Biết nhà ông
Bằng có nhiều tiền do trúng xổ số, bọn chúng bàn cách lấy trộm. Theo kế hoạch Hiếu
và Ngọc đã tẩm thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng.
Tối hôm đó, Trường, Hiếu, Ngọc mang theo dụng cụ đến phục kích ở sau vườn

4
nhà ông Bằng. Vì nhà đông người nên chúng rút lui. Tối hôm sau, theo hẹn Trường,
Hiếu đến điểm phục kích còn Ngọc thì không đến. Không thấy Ngọc đến, Hiếu đã
đến nhà Khiêm rủ Khiêm tham gia.
Đến nửa đêm khi gia đình ông Bằng ngủ say. Hiếu đứng ngoài canh gác,
Trường và Khiêm vào cạy tủ. Nghe tiếng động ông Bằng thức dậy. Bị lộ, cả bọn bỏ
chạy, sau đó bị dân phòng bắt được.
Anh (chị) hãy xác định:

1.Trong vụ án trên có đồng phạm không? Nếu có hãy xác định vai trò của mỗi
người trong đồng phạm

Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm
(Khoản 1 Điều 17 BLHS 2015)

Trong trường hợp trên, số người phạm tội là 4 người cùng tham gia thực hiện hành vi
phạm tội đột nhập vào nhà ông Bằng để trộm tiền. Trong đó: Ngọc, Hiếu là người
giúp sức. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm, được thực hiện trước khi tội phạm kết thúc (Khoản 3 Điều 17 BLHS
2015). Cụ thể là Ngọc và Hiếu đã tẩm thuốc độc vào thức ăn giết hại 2 con chó của
ông Bằng. Hiếu còn đứng ngoài canh gác để Trường và Khiêm thực hiện hành vi
phạm tội.

Trường, Khiêm là người thực hành. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội
phạm (Khoản 3 Điều 17 BLHS 2015). Cụ thể Trường và Khiêm đã trực tiếp đột nhập
vào nhà ông Bằng để cạy tủ.

2.Xét về dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?

Có 3 dấu hiệu chủ quan của đồng phạm:

- Lỗi: cùng cố ý thực hiện tội phạm, thể hiện ở ý thức đối với hành vi, ý thức đối với
hậu quả và ý chí của người phạm tội

- Ý thức đối với hành vi: Nhận thức hành vi của mình gây nguy hiểm cho XH, nhận
thức mình đang hoạt động chung với người khác thực hiện các hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội. Trong trường hợp trên, Trường, Hiếu, Ngọc và Khiêm có đầy đủ
năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức hành vi của mình và những người còn
lại là hành vi vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm đến ông Băng và vật nuôi của ông.

- Ý thức đối với hậu quả: Cả 4 người đều thấy trước được hậu quả của hành vi phạm
tội là cái chết của vật nuôi của ông Bằng và có thể là sự tổn thất về tài sản của ông
Bằng nếu hành vi phạm tội này được hoàn thành.

5
- Mục đích phạm tội: là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải
đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý trực tiếp,cụ thể là trộm cắp tiền của
ông Bằng

- Động cơ phạm tội: là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành
vi phạm tội cố ý. Động cơ của 4 người là vì biết ông Bằng có nhiều tiền do trúng
xổ số nên nảy ra ý định trộm

Dựa vào các dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là đồng phạm
có thông mưu từ trước. Đồng phạm có thông mưu từ trước là hình thức đồng phạm
trong đó giữa những người đồng phạm có sự bàn bạc, thỏa thuận trước về việc cùng
thực hiện tội phạm.

- Trường, Hiếu, Ngọc là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp,cùng bàn cách
lấy trộm tiền của ông Bằng. Ngọc và Hiếu đã bỏ thuốc vào thức ăn để đầu độc chó
của ông Bằng. Lúc tới thời điểm hẹn phục kích Ngọc không đến nên Hiếu đã rủ
Khiêm tham gia. Trong lúc phạm tội cả 3 đã có sự phân công công việc và phối
hợp hành động, Hiếu canh gác còn Trường và Khiêm đột nhập vào cạy khóa tủ.

3. Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại
nào?

Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại đồng phạm
phức tạp (có âm mưu, có sự phân công vai trò giữa những người cùng tham gia thực
hiện tội phạm)

4. Những người trên phạm tội ở giai đoạn nào? Tại sao?

Để xác định giai đoạn phạm tội nào ta cần căn cứ vào hành vi thực hành (Khiêm và
Trường). Những người trên phạm tội ở giai đoạn phạm tội chưa đạt vì tội trộm cắp có
cấu thành vật chất theo Điều 173 BLHS 2015 nhưng họ chưa trộm được tài sản -
phạm tội chưa đạt. Điều đó có nghĩa là người phạm tội đã trực tiếp thực hiện tội phạm
nhưng chưa thực hiện tội phạm đến cùng về mặt pháp lý vì chưa thỏa mãn hết các dấu
hiệu thuộc mặt khách quan của CTTP.
5. Ngọc có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao?

Nếu:

a. Ngọc không đến vì lo sợ bị phát hiện;

b. Ngọc không đến vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện.

- Theo quy định tại Điều 16 BLHS 2015 thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là
tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.

6
a/ Nếu Ngọc không đến vì lo sợ bị phát hiện thì được coi là tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội. Vì:

- Thứ nhất, hành vi chấm dứt việc phạm tội của Ngọc xảy ra khi tội phạm đang ở giai
đoạn chuẩn bị phạm tội. Cụ thể:

+ Ngọc đã có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất nhằm làm cho việc phạm tội
được tiến hành thuận lợi hơn, đó là hành vi: thành lập nhóm tội phạm (Ngọc cùng với
Trường và Hiếu lập thành một nhóm tội phạm); tạo ra các điều kiện cần thiết khác để
thực hiện tội phạm (Hiếu và Ngọc đã tẩm thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con chó
nhà ông Bằng); tìm kiếm các công cụ, phương tiện phạm tội (Trường, Hiếu, Ngọc
mang theo dụng cụ đến phục kích ở sau vườn nhà ông Bằng).

+ Buổi tối Trường, Hiếu, Ngọc mang theo dụng cụ đến phục kích ở sau vườn nhà ông
Bằng. Tuy nhiên, vì nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn là nhà ông Bằng có nhiều
người nên chúng đã rút lui, tức là không thực hiện tội phạm được đến cùng.

- Thứ hai, hành vi chấm dứt việc phạm tội của Ngọc là tự nguyện và dứt khoát. Cụ
thể, vì lo sợ bị phát hiện nên đã chấm dứt việc phạm tội, đây là động lực bên trong chứ
không phải do trở ngại khách quan chi phối. Đồng thời, Ngọc đã từ bỏ hẳn ý định
phạm tội chứ không phải tạm thời ngừng lại để tìm những thủ đoạn, phương tiện khác
có hiệu quả hơn, thuận lợi hơn để tiếp tục thực hiện tội phạm.

CSPL: khoản 1 Điều 14, Điều 16 BLHS 2015

b/ Nếu Ngọc không đến vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện thì không được coi
là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì:

- Tuy hành vi chấm dứt việc phạm tội của Ngọc xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội như đã trình bày ở câu a. Nhưng hành vi chấm chấm dứt việc phạm
tội của Ngọc không phải là tự nguyện và dứt khoát, cụ thể là:

+ Vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện nên Ngọc mới không thể thực hiện tiếp tội
phạm, đây không phải do động lực bên trong mà là do trở ngại khách quan chi phối
nên không có tính tự nguyện.

+ Vì việc chấm dứt việc thực hiện tội phạm không phải là tự nguyện nên Ngọc chưa từ
bỏ hẳn ý định phạm tội, sau khi xuất viện Ngọc hoàn toàn có thể tìm những thủ đoạn,
phương tiện khác có hiệu quả hơn, thuận lợi hơn để tiếp tục thực hiện tội phạm, tức là
không có tính dứt khoát.

CSPL: khoản 1 Điều 14, Điều 16 BLHS 2015

6. Tình huống trên có phải là trường hợp phạm tội có tổ chức không? Tại sao

Tình huống trên là trường hợp phạm tội có tổ chức. Vì:

7
- Trong tình huống trên, luôn có 2 người cùng nhau thực hiện tội trộm cắp là Hiếu và
Trường. Cụ thể, khi đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì có Ngọc, Hiếu và Trường.
Sau đó, vì Ngọc không tham gia nữa nên Hiếu đã rủ Khiêm. Đồng thời, mục đích
chung của các đối tượng tội phạm là ăn trộm số tiền trúng số của ông Bằng.

- Khi thực hiện tội trộm cắp, hành vi phạm tội của Ngọc, Trường, Hiếu, Khiêm là cố
ý. Bên cạnh đó, hành vi của những người cùng thực hiện tội phạm không chỉ có sự
liên kết với nhau và nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm mà còn có sự câu kết
chặt chẽ. Được thể hiện cụ thể qua các hành vi sau:

+ Phân công nhiệm vụ: Hiếu và Ngọc đã tẩm thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con
chó nhà ông Bằng; Hiếu đứng ngoài canh gác, Trường và Khiêm vào cạy tủ.

+ Có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng chu đáo: các đối tượng đã quan sát, tạo điều kiện
cần thiết để có thể thực hiện tội phạm thuận lợi hơn (tẩm thuốc độc vào thức ăn giết
chết hai con chó nhà ông Bằng) và chuẩn bị sẵn dụng cụ đến phục kích ở sau vườn
nhà ông Bằng.

→ Như vậy, hành vi phạm tội của Ngọc, Trường, Hiếu và Khiêm không chỉ thỏa mãn
tất cả các dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm mà còn “có sự câu kết chặt chẽ” giữa
những người đồng phạm nên đây là trường hợp phạm tội có tổ chức.

CSPL: khoản 1, khoản 2 Điều 17 BLHS 2015


Bài tập 4 

Vì mâu thuẫn cá nhân, A lên kế hoạch giết B sau khi nghiên cứu lịch sinh hoạt của B.
Lựa chọn địa điểm và thời gian thích hợp, A quyết định ra tay. B trên đường trở về
nhà sau khi đi chơi với bạn gái về vào lúc 22h thì A canh sẵn ở vị trí lựa chọn và bắn
vào B. Do trời tối, ánh sáng đèn phố không đủ sáng nên B không trúng đạn. Sau phát
bắn không thành đó, A mang súng về không muốn giết B nữa. 
Anh (chị) hãy xác định: 

1.Hành vi của A có đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết
người không?

Hành vi của A không đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết
người vì:

Tuy A đã chấm dứt việc thực hiện tội phạm một cách tự nguyện và dứt khoát nhưng
việc chấm dứt thực hiện tội phạm của A xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành. Cụ thể, A đã canh sẵn ở vị trí lựa chọn và bắn vào B nhưng do trời tối (nguyên
nhân khách quan) nên B không trúng đạn. Như vậy, đây là giai đoạn phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành do người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mà người đó cho là
cần thiết để gây ra hậu quả (bắn súng) nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý
muốn (trời tối) nên hậu quả vẫn không xảy ra.

8
2. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người không? (biết rằng hành vi
giết người được quy định tại Điều 123 BLHS).

A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo Điều 123 BLHS vì tội phạm
của A xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành do A đã thực hiện hết các
hành vi được cho là cần thiết để gây ra hậu quả (bắn súng) nhưng do nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn (trời tối) nên hậu quả vẫn không xảy ra. Theo điều 15
BLHS 2015: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
chưa đạt.” Vậy nên A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người.

CSPL: Điều 15 BLHS 2015.


3. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng vũ khí trái phép không?
(biết rằng hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều
304 BLHS).

A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng vũ khí trái phép vì theo Khoản 1 Điều
134 thì người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01 năm
đến 07 năm. Theo đó A đã sử dụng trái phép súng để nhằm mục đích là giết chết B
nhưng vì lý do khách quan là đèn phố không đủ sáng nên B không bị trúng đạn. Đây
được coi là giai đoạn phạm tội chưa đạt cụ thể là chưa đạt đã hoàn thành. 
Bài tập 6

A và B cùng thống nhất rủ nhau đi dọc phố tìm cơ hội để trộm cắp xe gắn máy.

Nhân lúc ông C để xe bên lề đường vào mua báo, A và B dùng khóa vạn năng nhanh

chóng mở khóa để lấy xe của ông C thì bị bắt giữ.

(Biết rằng hành vi này được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS).

Anh (chị) hãy xác định:


1. Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn nào?

Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

- Thứ nhất: A và B đã trực tiếp bước vào thực hiện hành vi khách quan được mô tả
trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản, hành vi của A và B là dùng khóa
vạn năng mở khóa xe của ông C.

- Thứ hai: A, B chưa thực hiện được hành vi đến cùng vì A,B đang dùng khóa vạn
năng mở khóa xe thì bị ông C bắt giữ.

9
- Thứ ba: A, B không thực hiện tội phạm được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài
ý muốn của họ, cụ thể là A, B đang dùng khóa vạn năng mở khóa xe với mong muốn
là lấy được xe của ông C nhưng lại bị nguyên nhân khách quan là bị phát hiện và bắt
giữ của ông C cản trở thực hiện ý định trộm chiếc xe của A, B.

CSPL: Điều 15 BLHS 2015.

2. Nếu A (17 tuổi), B (15 tuổi) thì A và B có đồng phạm hay không? Tại sao?

Nếu A (17 tuổi), B (15 tuổi) thì A và B không là đồng phạm.

Dựa vào dấu hiệu về số lượng người tham gia cho ta biết: Trong đồng phạm đòi hỏi
phải có ít nhất hai người cùng tham gia vào việc thực hiện một tội phạm. Những người
này phải có đầy đủ các điều kiện về chủ thể của tội phạm. Điều đó có nghĩa là họ phải
có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS và không rơi vào
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự theo theo quy định tại Điều 21
BLHS.

Trường hợp của A (17 tuổi) và B (15 tuổi) thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo quy
định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS. Tuy nhiên căn cứ vào Điều 12 BLHS thì trong
trường hợp này B (15 tuổi) không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có A  (17
tuổi) đạt điều kiện chủ thể của tội phạm. Như vậy, trong trường hợp của A (17 tuổi) và
B (15 tuổi) không thỏa mãn dấu hiệu về số lượng người phạm tội của đồng phạm nên
A và B không được coi là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội đơn lẻ.

CSPL: Điều 12 BLHS 2015, Khoản 1 Điều 173 BLHS 2015.

10

You might also like