You are on page 1of 56

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG


HỒ CHÍ MINH
Tìm hiểu chuyên đề “Người đi tìm hình của nước” và quá trình Bác
đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1930

HÀ NỘI
27/12/2022
Bài thu hoạch môn
Tư tưởng Hồ Chí
27/12/2022

Minh

Giáo viên hướng dẫn:


Th.s Nguyễn Thị Thu Hà

Mã lớp bài tập: 135889

Danh sách thành viên:


Bùi Gia Chính – 20224935
Phan Trọng Đức – 20224957
Nguyễn Duy Dũng - 20224961
Tạ Quốc Tuấn – 20225110

Đại học Bách khoa Hà Nội


1
Lời nói đầu

Hồ Chí Minh - Hồ chủ tịch là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân
tộc. Người đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vị hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. "Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân, nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì hối hận. Chỉ
tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa nhiều hơn nữa". (Hồ Chí Minh 1969). Không những
thế Người chính là hình ảnh kiệt xuất của một con nguồn hiện có những đóng góp quan trọng
trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật Người là kết tinh của truyền thống văn
hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của
những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu
chuẩn cho sự hiểu biết lẫn nhau.

Ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là điểm xuất phát của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Được nuôi dưỡng bởi những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, nhưng phải chứng kiến sự thất bại của các phong
trào yêu nước bi hùng của cha ông chống thực dân Pháp xâm lược và cảnh làm than, cực khổ
của nhân dân, Người đã quyết chỉ ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận và nhất là qua thực tiễn đấu
tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng
cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và
thuộc địa không chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc,
thuộc địa, phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thể mới. Tiếp thu thể giải quan, phương
pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mac - Lênin bằng thiên tài trí tuệ, nhân thức
đáng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới. Người đã khẳng
định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản".

Với mong muốn tìm hiểu hành trình ra đi tìm đường cứu nước cũng như để hiểu rõ
hơn về quá trình đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, với con đường cách mạng vô sản, chúng em
lựa chọn đề tài “Tìm hiểu chuyên đề “Người đi tìm hình của nước” và quá trình Bác
đi tìm đường cứu nước từ ngày 5/6/1911 đến khi thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1930”

2
Phương pháp nghiên cứu

-Trang bị kiến thức thực tế thông qua buổi tham quan thực tế tại lăng Chủ tịch, bảo tàng Hồ
Chí Minh, nghe hướng dẫn thuyết trình về các chủ đề hiện vật trong bảo tàng.

-Tự tìm hiểu thông qua sách, báo và các trang web chính thống.

-Tham khảo, lắng nghe ý kiến từ những người có chuyên môn.

Kết cấu bài thu hoạch

Chương 1. Vài nét về Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuyên đề “Người đi tìm hình của
nước”

Chương 2. Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ 5/6/1911 đến khi thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930

Chương 3. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học
cho thanh niên hôm nay

3
MỤC LỤC
Lời nói đầu...................................................................................................................................................3
Chương 1. Vài nét về Chủ tịch Hồ Chí Minh và chuyên đề “Người đi tìm hình
của nước” .....................................................................................................................................................5
I. Vài nét về chủ tịch Hồ Chí Minh.......................................................................................5
II. Chuyên đề “ Người đi tìm hình của nước”............................................................................8
Phần 2. Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ 5/6/1911 đến khi thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930.....................................................................................12
I. Bối cảnh lịch sử...................................................................................................................... 12
II. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của chủ thịch Hồ Chí Minh....................................15
1. Quá trình tìm tòi và hình thành cơ bản con đường cách mạng giải phóng dân tộc của
Việt Nam và nhận ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa.........................................15
2. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và Bắt đầu tham gia hoạt động chính trị, từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin........................................................................................20
3. Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô và tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc
tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa....................................................26
4. Nguyễn Ái Quốc xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam và góp phần quan trọng vào phong trào cách mạng thế giới......................................31
4.1. Thời kì người ở Trung Quốc (1924-1927).............................................................31
4.2. Thời kì Người ở Thái Lan (1928-1929).................................................................37
5. Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (3/2/1930) ............................................................42
5.1 Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.......................................................................42
5.2. Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng...................................................................................................43
III. Tầm vóc và ý nghĩa của hành trình ra đi tìm đường cứu nước giai đoạn 1911-1930....44
Chương 3. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
bài học cho thanh niên hôm nay......................................................................................................47
1. Bài học cho thanh niên hôm nay.......................................................................................47
2. Liên hệ với ngành học........................................................................................................48
4
Tài liệu tham khảo.................................................................................................................................55

Chương 1

Đôi nét về Chủ tịch Hồ Chí Minh và tìm hiểu


chuyên đề “ Người đi tìm hình của nước”
I. Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho,
nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có
truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh
xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.

5
Tổ hợp không gian hình tượng Quê hương, gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tháng 6 năm 1911, Người đi ra nước ngoài, suốt ba mươi năm hoạt động, Người đã đi
đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với
những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống,
vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917,
thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng
đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành
lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh
cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng Sam
Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
6
được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Tháng 8 năm 1945, Người cùng Trung
ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào.
Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người
đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Người được Quốc hội khóa I bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách
mạng.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc
kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh
đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Không chỉ tài năng vĩ đại, Bác Hồ còn là tấm gương đạo đức sáng ngời cho lớp lớp
người noi theo. Bác để lại ấn tượng trong lòng quân dân ta và bạn bè quốc tế bởi sự thanh
bạch, liêm khiết và giản dị. Sự giản dị của Bác được thể hiện qua cách ăn, mặc sinh hoạt của
Bác: tấm áo nâu sờn cũ và đôi dép cao su đã theo chân Bác đi khắp mọi nẻo đường; đi công

7
tác xa Bác luôn dặn anh đầu bếp chuẩn bị cơm sẵn để nhân lúc nghỉ ngơi dọc đường ăn tránh
gây phiền hà địa phương; Là vị lãnh tụ vĩ đại nhưng Bác lại chọn cho mình một căn nhà sàn
nhỏ đơn sơ nơi cuối vườn để nghỉ ngơi và làm việc. Bác luôn gần gũi với nhân dân, đi sâu
vào cuộc sống dân tình để thấu hiểu lòng dân; yêu quý và chăm lo cho đời sống mọi người,
các cháu thiếu nhi… Bác Hồ luôn đi đầu trong các phong trào, vận động nhân dân ta học và
làm theo để phát triển đời sống kinh tế cá nhân và cộng đồng, ví dụ như: Phong trào diệt
giặc đói; giặc dốt; phong trào tập thể dục thể thao; tết trồng cây. Mỗi câu chuyện về Bác lại
thật xúc động, và thấm thía.

Kết tinh trong dáng người nhỏ bé ấy là biết bao vẻ đẹp tinh hoa. Bác Hồ – vị lãnh tụ
vĩ đại dân tộc; vị cha già yêu thương của con em Việt Nam và là một tấm gương đạo đức
sáng ngời. Dù Bác đã đi xa nhưng những tư tưởng chỉ đạo của Bác, những câu chuyện và lời
dạy ấy vẫn được nhân dân ta tiếp nối và phát triển. Những tư tưởng đó sẽ là ngọn đèn sáng
soi để Đảng, Nhà nước và nhân dân học tập, lao động, cố gắng, phấn đấu để đưa nước nhà
tiến lên phát triển; xứng vai với các cường quốc năm Châu thế giới như lời Bác đã từng căn
dặn.

8
II. Chuyên đề “Người đi tìm hình của nước”
Ngày 05/6/2021 nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước
(05/6/1911 - 05/6/2021), Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng phối hợp với Bảo tàng Hồ
Chí Minh tổ chức trưng bày chuyên đề ''Người đi tìm hình của Nước".

Trưng bày chuyên đề “Người đi tìm hình của nước”

Được bài trí công phu, với hơn 300 ảnh, tài liệu và hiện vật, trong đó có một số tài liệu,
hiện vật lần đầu tiên được công bố, Trưng bày chuyên đề giới thiệu về hành trình gian nan
đầy ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong 30 năm
bôn ba qua 3 đại dương, 4 châu lục với gần 30 quốc gia để tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, đưa đất nước đến ngày độc lập, tự do, thống nhất và phát triển. 

Nội dung trưng bày chuyên đề gồm 08 phần: Nuôi ý chí (1890-1911), Vượt trùng dương
tìm đường cứu nước (1911-1920), Tìm ra ánh sáng (1920-1924), Thổi bùng ngọn lửa cách
mạng (1924-1930), Bước ngoặt lịch sử (1930-1941), Người về mang đến mùa Xuân (1941-
1945), Người là niềm tin tất thắng (1945-1969), Viết tiếp trang sử vàng (1969- nay).
9
Phần 1: Nuôi ý chí (1890-1911)

Nội dung phần này giới thiệu về bối cảnh đất nước, quê hương, gia đình và trí tuệ bản
thân của Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành. Từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã có tư chất
thông minh, ham học, mang trong mình tình yêu quê hương, đất nước và hấp thụ vốn văn hóa
truyền thống của dân tộc. Lớn lên được tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ của đồng
bào, những tội ác của thực dân Pháp, sự thất bại của các phong trào yêu nước; được tiếp cận
với các tư tưởng lớn của phương Đông, bước đầu biết đến tư tưởng tiến bộ phương Tây;
chàng trai Nguyễn Tất Thành đã miệt mài, hăng say học tập và bắt đầu nuôi ý chí ra đi tìm
đường cứu nước.

Phần 2: Vượt trùng dương tìm đường cứu nước (1911-1920)

Phần này giới thiệu đến công chúng hành trình đi tìm đường cứu nước của chàng trai
Nguyễn Tất Thành trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin đến nước Pháp, ngày 05/6/1911. Sau
khi đến Pháp, Người đã bôn ba khắp năm châu, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên
cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Hành trình này đã
giúp Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột
của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp.

Phần 3: Tìm ra ánh sáng (1920-1924)

Những tài liệu, hiện vật trong phần này cho thấy sự chuyển biến về nhận thức tư
tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Lênin. Với việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một trong
những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt
Nam. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản".

Phần 4: Thổi bùng ngọn lửa cách mạng (1924-1930)

10
Phần trưng bày thổi bùng ngọn lửa cách mạng

Trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường về gần Tổ quốc, tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về trong nước và từng bước vạch đường lối chiến lược
cho cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, Người còn chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phần 5: Bước ngoặt lịch sử (1930-1941)

Nổi bật trong phần này là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là bước ngoặt
vô cùng quan trọng, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Đó là
kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước, là
thành quả của sự kết hợp sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài, có những
lúc bị kẻ thù bắt giam, tù đầy, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn theo dõi và chỉ đạo sát sao phong
trào cách mạng nước nhà.

Phần 6: Người về mang đến mùa Xuân (1941-1945)

Nội dung phần trưng bày giới thiệu quá trình trực tiếp lãnh đạo nhân dân làm cách
mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi về nước năm 1941. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra trang sử vàng trong lịch sử đấu tranh dựng nước
11
và giữ nước. Từ đây, nhân dân Việt Nam đã thật sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và vận
mệnh của mình. Hành trình hơn 30 năm cứu nước, giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành
– Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh kể từ năm 1911 tới đây chính thức đơm hoa kết trái.

Phần 7: Người là niềm tin tất thắng (1945-1969)

Phần trưng bày thể hiện quá trình đấu tranh bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng
non trẻ, lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng cùng toàn thể nhân dân Việt Nam.

Phần 8: Viết tiếp trang sử vàng (1969-nay)

Nội dung phần này giới thiệu quá trình thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
sau khi Người qua đời; quân và dân cả nước đã anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi hoàn
toàn trong công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trải qua hơn 50
năm, Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để xây dựng đất nước giàu mạnh, như
mong muốn cuối cùng Người ghi trong Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấu đấu,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

12
Phần 2

Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ năm


1911 đến 1930

I.Bối cảnh lịch sử

Cuối thế kỷ XIX, sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội Việt Nam, làm thay đổi kết cấu giai cấp, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống mọi người dân
(trong đó có họ hàng, gia đình và bản thân Hồ Chí Minh) là thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam. Sau thời kỳ "bình định", thực dân Pháp thi hành chính sách "khai thác thuộc địa" - thực
chất là tăng cường bóc lột, vơ vét thuộc địa. Vì vậy, đời sống nhân dân lao động đã khó khăn,
lại càng thêm khốn đốn. Hậu quả là khiến Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở
thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trưng bày Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX – Bảo tàng Hồ Chí Minh

13
Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một
gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông
dân và địa chủ càng gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Vì vậy, chỉ có giải quyết thành công những mâu thuẫn trên đây - đồng nghĩa với việc
tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát
triển. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.

Để giải quyết mâu thuẫn trên đây, nhiều phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi với mục
tiêu “Phen này quyết chống cả Triều lẫn Tây”. Đó là phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa
thục,... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như: Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh lãnh đạo hay khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân đảng dưới
sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài,…Rồi khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới
sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm... Đó là trang sử đấu tranh vẻ vang
của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra sôi nổi, rộng khắp các
vùng miền, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh cuối cùng đều thất bại.

Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến
và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại
độc lập dân tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý
luận cách mạng tiên tiến của giai cấp công nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam thành công. Vì thế, một câu hỏi khó nhằn được đặt ra cho dân tộc ta
lúc đó là: “Ai là người lãnh đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam? đến
lúc này vẫn chưa có lời giải.

Đến mãi sau này, câu hỏi này mới được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả lời nhà văn Mỹ
Anna Luy Xtơrông: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường
tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là
Nhật, người khác lại nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ!?”

Là một người xuất thân từ gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước,
trọng nghĩa, Hồ Chí Minh sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân. Người có thời
gian sống ở Huế. Đó là điều kiện để Người tìm hiểu, làm quen với cuộc sống quan chức,

14
Hoàng triều. Tuy nhiên, thực tế ấy đã làm cho Người thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp
hèn của giới quan chức, tay sai. Từ những trải nghiệm đầu đời của mình và cuộc sống lận
đận, trắc trở của người cha, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu chuyện cha
mình thường bình giải "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ". Cho nên, đầu năm
1910, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức thì ông vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc trị
bệnh cứu người, còn Hồ Chí Minh thì thấy rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trường. Điều
này càng thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.

Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn là công
việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân rất bưng bít tư tưởng mới, ngăn trở sách báo tiến
bộ với âm mưu giam hãm dân ta trong vòng nô lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip
Manđenxtam: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói
thế...Trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người ta như con vẹt. Chúng
giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà
cả Rútô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi
ra nước ngoài.”

Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và quyết tâm
chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối, hiểu được điều
kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con
đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi.

Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người nhận xét:

"Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Điều đó là sai lầm,
chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.

Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác
gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng
theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến."

15
Từ những trải nghiệm cuộc sống và với quyết tâm lớn, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra
mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân ở Việt Nam với cái lý tưởng
cao đẹp của nước Pháp - quốc gia đã đề xướng ra lý tưởng cao đẹp và hấp dẫn mọi con người
"Tự do - Bình đẳng - Bác ái", muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở "nước mẹ" xa xôi! Người cho
rằng "Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Và chính những nhận thức về bối cảnh đất nước
và những tìm hiểu của Hồ Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người sang Pháp và các nước
khác... Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một
quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam.

Quyết định sang phương Tây của Hồ Chí Minh là sự phủ nhận sự tồn tại nhà nước
thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam. Đó là đòn tiến công đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với
nhà nước đương thời, mở cửa ra thế giới để đón nhận những nhân tố mới của thời đại, tiếp
thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước
Việt Nam thông qua Hành trình cứu nước của một con người - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh.

II. Hành trình ra đi cứu nước của Hồ Chí Minh


1. Quá trình tìm tòi và hình thành cơ bản con đường cách mạng giải
phóng dân tộc của Việt Nam và nhận ra bản chất của chế độ tư bản
chủ nghĩa

Cách đây 111 hơn năm (5-6-1911), trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, từ Bến
cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Theo hành trình
của tàu, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân ở cảng Marseille, cảng Le Havre của Pháp. Những
ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt
Nam, Người nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự hơn những tên thực
dân Pháp ở Đông Dương.

16
Về mục đích ra đi của mình, năm 1923, Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi
tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Đối
với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy
tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau
những chữ ấy”. Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong
đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi
ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra
nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Khách sạn Omni Parker ở thành phố Boston, Mỹ. Tại khách sạn này, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp trong những năm 1912-1913

Để tiếp tục thực hiện mục đích đó, năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho
một chiếc tàu của hãng Chargeurs Réunis đi vòng quanh châu Phi,ở đây người làm đủ thứ

17
việc như rửa bát, lau dọn, gọt củ cải, mang than lên những bậc cầu thang chật hẹp và đặc biệt
là phải chống chọi những cơn sóng biển khiến người ta đứng còn không nổi, đã có dịp dừng
lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… Đến đâu, Người
cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của
bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy Người đã trông thấy ở Dacar: “Đến Dacar, bể nổi
sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể thả ca nô xuống vì sóng rất to. Để liên
lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn
người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”. Cảnh
tượng đó làm cho Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Người liên tưởng một cách tự nhiên đến số
phận của người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của mình. Họ cũng là nạn nhân của sự
hung ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên đường
Người đi qua, tạo nên ở Người mới đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các
nước thuộc địa. Đối với bọn thực dân tính mạng của người da đen hay da vàng đều không
đáng một xu.

Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục đi qua Martinique (Trung Mỹ), Uruguay và
Argentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, Người có dịp tìm hiểu
cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong
lịch sử. Người vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao
động Mỹ. Người đã đến thăm quận Brooklyn của thành phố New York. Người đi xe điện
ngầm đến khu Harlem để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của
những người da đen. Ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt
thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là
những thủ đoạn bóc lột rất tàn bạo. Người cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao
động da đen và rất căm giận những kẻ phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách
man rợ, mà sau này Người đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ (Lynch).

Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian
để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư
sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh
hào quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.

18
Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ trở về Le Havre, sau đó sang Anh.
Đến nước Anh, để kiếm tiền sinh sống, Người nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm
thợ đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nhưng Người đã tranh thủ học tiếng Anh, Nguyễn
Tất Thành gửi thư liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình
sinh hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư Nguyễn
Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời cuộc. Cuối năm 1913,
Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Drayton Court, phía tây London. Một thời gian
sau, Nguyễn Tất Thành lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Carlton-một khách sạn
hạng sang nổi tiếng ở London. Nguyễn Tất Thành làm việc dưới sự điều khiển của vua bếp
Escophier, một người Pháp có tư tưởng tiến bộ. Nguyễn Tất Thành được giao nhiệm vụ thu
dọn và rửa bát, đĩa, nồi, chảo,... Những người giàu có khi ăn uống rất lãng phí, bỏ thừa khá
nhiều, có khi cả một phần tư con gà. Người gói lại những miếng ngon đưa cho nhà bếp. Hành
động này gây sự tò mò cho rất nhiều người trong nhà bếp trong đó có vua bếp Escophier.
Ông Escophier chú ý tới việc làm đó và hỏi: “Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào
thùng như những người kia?

- Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy.

- Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe tôi. Chính những câu nói ấy dã chạm đến trái tim của ông
Escophier, ông vừa nói vừa cười và có vẻ bằng lòng.

-Tạm thời anh hãy gác ý nghĩ cách mạng của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm
bếp, làm ngon anh sẽ được nhiều tiền. Anh bằng lòng chứ?”. Từ đó, ông chuyển Nguyễn Tất
Thành vào chỗ làm bánh với mức lương cao hơn.

19
Hành trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại nước Anh, năm 1913.

Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của
nhiều nhà chính trị và triết học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này, Người được đọc một tờ
báo Anh đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng thành phố (Cork-Coóc), nhà đại ái
quốc Airơlen, đấu tranh chống đế quốc Anh, bị bắt. Trong tù ông đã tuyệt thực. Ông nằm
nghiêng một phía, không ăn, không cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn người
Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố London đưa tiễn ông Mac Swiney
về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn Tất Thành hết sức xúc động và cảm phục tinh thần bất khuất
của ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Coóc
sẽ không bao giờ đầu hàng”.

Trên cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Người đã đến các nước tư bản tiên tiến lúc bấy
giờ là Pháp, Mỹ, Anh… và các nước thuộc địa ở châu Phi, châu Mỹ, châu Á; được tận mắt
20
chứng kiến sự xấu xí của chế độ tư bản chủ nghĩa. Người nhận ra bản chất của chế độ tư bản
chủ nghĩa là: “Trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”, “cách mệnh
tư bản là cách mệnh chưa đến nơi” và “trong cuộc đấu tranh giành độc lập thì phải dựa vào
sức mình để giải phóng mình, đừng bao giờ hy vọng trông chờ vào sự “ban ơn” của chính
quyền tư sản”.

2. Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và bắt đầu tham gia hoạt động
chính trị, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin

Khi đang sống và hoạt động tại đất nước Anh thì chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn
ra và bước vào giai đoạn vô cùng ác liệt, với suy nghĩ rằng mình có thể hòa mình vào
phong trào đấu tranh của Việt kiều yêu nước tại Pháp cũng như phong trào đấu tranh của
công nhân Pháp thì cuối năm 1917 Người đã quyết định từ Anh quay trở lại Pháp và tại
đây Người đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ hai bậc tiền bối đi trước đó là cụ Phan
Châu Trinh và luật sư Phan Văn Trường.

Trưng bày “Chủ tich Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác – LêNin và khẳng định con đường cách
mạng Việt Nam” – Bảo tàng Hồ Chí Minh

21
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp - “tổ chức duy nhất theo
đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Thay mặt Hội
những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan
Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Versailles. Dưới
bản Yêu sách gồm tám điểm:

 Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.


 Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền
hưởng những bảo đảm pháp lý như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa
án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân An Nam.
 Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
 Tự do lập hội và hội họp.
 Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
 Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ.
 Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
 Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị
viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.

Bản yêu sách đòi các quyền tự do dân chủ và các quyền tự quyết, phía dưới kí tên là
Nguyễn Ái Quốc, đây cũng chính là lần đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện và cũng
chính là lần đầu tiên vấn dề của một nước Việt Nam thuộc địa vô cùng bé nhỏ thuộc cõi
Đông Dương được đưa ra trường quốc tế một hội nghị mang tính chất quốc tế đòi các quyền
tự do dân chủ và quyền tự quyết cho dân tộc mình.
Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới người có tên Nguyễn Ái Quốc. Trong một lần đến
theo dõi buổi nói chuyện ở Hội trường Hooctiquyntơ tại Paris, viên mật thám Pháp Paul
Arnoux chuyên theo dõi người Việt Nam sống ở Paris, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc
đang phân phát truyền đơn in bản Yêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt lên dự
cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người sẽ đặt chữ thập
cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông Dương”.

22
Qua việc bản Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau
này Người đã viết: “Chủ nghĩa Wilson chỉ là một trò bịp bợm lớn” và “Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân
mình”.

Giữa lúc Người đang loay hoay tìm con đường cứu nước cho dân tộc mình thì Người
đã vô cùng mừng rỡ khi đã gặp gỡ và đọc được bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản đã kiên
quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông. Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được Đại hội lần thứ hai
Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc
con đường giành độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan
trọng đó, Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm
thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong
đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi
theo con đường cách mạng triệt để của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày
30-12-1920, tại thành phố Tours (Pháp), Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là đại biểu
chính thức và được mời phát biểu. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn
bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải
hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải
tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời kêu gọi thống
thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn
phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!”.

23
Tại đại hội lịch sử này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III
Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người
cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan
trọng trong đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước
ta. Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Versailles năm 1919 mới là
phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc
Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến
quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị
của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Lênin. 40 năm sau nhìn lại sự kiện
này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống
cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và
của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một
người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”.

Việc Nguyễn Ái Quốc tiếp thu Chủ nghĩa Mác – Lênin đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với Chủ nghĩa Mác – Lênin và sau đó ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
đã thúc đẩy các phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt
Nam phát triển đúng hướng.

Để thúc đẩy phong trào cách mạng ở các thuộc địa, trong đó có cách mạng Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thấy sự cần thiết phải xúc tiến công tác tuyên truyền và tổ
chức. Tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã gặp nhiều người cách mạng châu Phi, châu Mỹ latinh.
Tháng 7-1921, tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với họ thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa.
Lúc thành lập Hội đã có 200 hội viên và hai tổ chức người thuộc địa xin gia nhập toàn bộ vào
Hội, đó là Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp và Hội Đấu tranh cho quyền con
người ở Ma-đa-gát-xca. Hội đã bầu Ban Thường vụ do Nguyễn Ái Quốc đứng đầu; thông
qua Điều lệ do Nguyễn Ái Quốc thảo với mục đích chính là “Bênh vực cho quyền lợi của tất
cả đồng bào ở các xứ thuộc địa”. Để thực hiện mục đích đó, Điều thứ 2 của Điều lệ nêu
rõ: Hội tập hợp và hướng dẫn cho mọi người dân các xứ thuộc địa hiện sống trên đất Pháp
để:

- Soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp theo
tôn chỉ tương trợ.
24
- Thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa.

Ngày 19-1-1922, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp thuộc địa đã họp quyết định lập ra
Hội Hợp tác người cùng khổ và ra tờ báo cùng tên. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ, Hội Hợp tác là
hội kinh doanh sản xuất, mỗi cổ phần đóng 100 phơ-răng, hùn vốn 15.000 phơ-răng để ra tờ
báo “Người cùng khổ”. Tuy nhiên, về sau, số người đóng cổ phần không đủ nên Hội Hợp tác
người cùng khổ không thành lập được nhưng báo Người cùng khổ vẫn được ra.

Ngày 1-2-1922, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí trong Hội Liên hiệp thuộc địa ra
lời kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung,
ủng hộ Hội Liên hiệp thuộc địa, đoàn kết với nhân dân “chính quốc”. Lời kêu gọi có đoạn:
“Các bạn ở chính quốc! Các đồng chí ở thuộc địa! Vì lợi ích của công lý, sự thật và tiến bộ,
cần xóa bỏ mọi khoảng cách giả tạo chia rẽ các bạn. Người cùng khổ là tờ báo đầu tiên có
mục đích thực hiện nhiệm vụ không dễ dàng đó. Để có thể thành công trong việc này, chúng
tôi kêu gọi sự tận tình của các đồng chí mà chúng tôi biết là luôn luôn vượt trên mọi thử
thách. Hãy gia nhập Hội Hợp tác “Người cùng khổ” của chúng tôi hoặc ngay từ hôm nay gửi
mua dài hạn báo Người cùng khổ của chúng tôi, hoặc tốt hơn, nếu có thể đồng chí làm luôn
cả hai việc cùng một lúc. Thành công của chúng tôi tùy thuộc ở sự tận tình của các đồng chí
và tương lai các thuộc địa tùy thuộc ở sự thành công đó…”

25
Nguyễn Ái Quốc ra báo Người cùng khổ

Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính trong việc xuất bản báo “Người cùng khổ”,
từ việc tổ chức ban biên tập, tòa soạn, viết bài, sửa chữa, đi in, đem báo về tòa soạn, cho đến
việc gửi báo đi các thuộc địa. Trong số đầu tiên báo có lời chào mừng như sau: “Trong lịch
sử của quần chúng bản xứ các thuộc địa Pháp chưa có một tờ báo nào lập ra để kêu to sự
thống khổ và sự nghèo nàn chung của họ, không phân biệt xứ sở và chủng tộc. Báo Người
cùng khổ ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi
thuộc Pháp, ở Ma-đa-gát-xca, ở Đông Dương, Ăng-ti và Guy-am.”

Báo “Người cùng khổ” đã thật sự trở thành vũ khí chiến đấu, là diễn đàn để Nguyễn
Ái Quốc và Hội Liên hiệp thuộc địa tuyên truyền tư tưởng giải phóng các nước thuộc địa.

Việc xuất bản báo “Người cùng khổ” là một vố đánh vào bọn thực dân ở các nước
thuộc địa, nhất là ở Đông Dương, ai đọc báo “Người cùng khổ” đều bị bắt. Mặc dầu khó
khăn nhưng tờ báo vẫn tiếp tục phát triển. Suốt trong thời gian tồn tại, từ tháng 4-1922 đến
tháng 6-1926, báo “Người cùng khổ” ra được 38 số với 35 tờ. Nguyễn Ái Quốc ủng hộ rất
đều cho báo mỗi tháng 25 phơ-răng. Anh nói: Chúng ta phải bằng bất cứ giá nào làm cho tờ
báo sống. Nó mất đi sẽ là một thiệt hại to lớn đối với tổ chức và nhất là đối với công tác
tuyên truyền lúc này cần thiết hơn lúc nào hết…”.

Tháng 6-1923, trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết bức thư gửi lại cho
các đồng chí của mình. Anh viết: Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người cùng khổ” đã
làm cho nước Pháp, nước Pháp chân chính hiểu rõ những việc đã xảy ra trong các thuộc địa.
Làm cho nước Pháp hiểu rõ bọn cá mập thực dân đã lợi dụng tên tuổi và danh dự của nước
Pháp để gây nên những tội ác không thể tưởng tượng được. Nó đã thức tỉnh đồng bào chúng
ta. Đồng thời nó cũng khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp tự do bình đẳng và
bác ái. Nhưng chúng ta còn phải làm nhiều hơn.

Theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản đào tạo Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ tương
lai cho cách mạng Đông Dương, Quốc tế Cộng sản cùng với Đảng Cộng sản Pháp tổ chức
cho Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc tạm biệt Pari, tạm biệt
nước Pháp, để lại hình ảnh đẹp về một chiến sỹ quốc tế nhiệt thành đấu tranh giải phóng dân
26
tộc, giải phóng con người, thực hiện những lý tưởng cao đẹp của đại cách mạng Pháp: Lý
tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái.

 Với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria),
Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã thổi một luồng gió mới đến nhân dân các nước
bị áp bức, đoàn kết họ trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc,  đã góp phần
truyền tải những thành quả mang tính thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, tích cực
tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam, thức tỉnh
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết đấu tranh giành tự do, độc lập.

3. Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô và tích cực hoạt động trong phong trào
cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa.

“Nguyễn Ái Quốc – người An Nam duy nhất ở Moskva, người đại diện của chủng tộc
Mã Lai cổ xưa. Anh trông như một cậu thiếu niên gầy gò, linh hoạt, mặc chiếc áo dệt len.
Anh sử dụng tiếng Pháp, ngôn ngữ của kẻ áp bức, nhưng phát âm không được rõ ràng, giọng
buồn giống như tiếng chuông khe khẽ của tiếng mẹ đẻ. Nguyễn Ái Quốc có vẻ khó chịu khi
nói đến từ “văn minh”. Anh ấy hầu như đã đi khắp các nước thuộc địa, đến cả Bắc Phi và
Trung Phi và tận mắt thấy đủ điều…”. Đây là lời kể về lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc của nhà báo,
nhà thơ Liên Xô Osip Emilyevich Mandelstam đăng trên Tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, sau khi
ông lần đầu tiên được gặp Người đến thăm Quốc tế Cộng sản tại Moskva năm 1923.

Ngày 27-6-1923, Nguyễn Ái Quốc trong tay với giấy thông hành mang tên người thợ
ảnh “Chen Vang” rời cảng Hamburg trên con tàu mang tên nhà cách mạng Đức Karl
Liebknecht. Ngày 30-6-1923, Người đến thành phố Petrograd (nay là Saint-Petersburg) – cái
nôi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Sự xuất hiện của một người nước ngoài không
làm gia tăng sự chú ý của nhân viên an ninh địa phương

27
Giấy thông hành số 1829, do Đại diện toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết
Liên bang Nga tại Đức cấp cho Nguyễn Ái Quốc, bí danh “Chen Vang”, ngày 16-6-1923.

Hành trình trên quê hương Cách mạng Tháng Mười Nga

Tại thủ đô Moskva, Nguyễn Ái Quốc ở khách sạn Lux trên phố Tverskaya, nơi mỗi
sáng sớm Người thích đi dạo đến khu vực Quảng trường Đỏ. Đối diện Thư viện Bảo tàng
Rumyantsevsky (nay là Thư viện mang tên V.I. Lênin) là trụ sở của Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản, nơi Nguyễn Ái Quốc khi vừa đến đã trở thành cán bộ Phòng châu Á.

“Trong thời gian lần đầu đến Liên Xô, tôi đã chứng kiến đất nước Xô viết khởi đầu
con đường của mình trong điều kiện gian nan như thế nào. Thật khó để kể về chủ nghĩa anh
hùng vĩ đại nhất, về sự hy sinh của những người công nhân và nông dân khi bước vào xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, rõ ràng là, nhân dân Liên Xô đã đạt được những thành
tựu đầu tiên. Sự tiến bộ nhanh chóng của đất nước Xô viết, bất kỳ thành công nào của nước
này cũng mang đến niềm vui và hạnh phúc trong tim mỗi người làm cách mạng, cho chúng ta
niềm tự hào về sự nghiệp của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại”, sau này Chủ tịch Hồ Chí
Minh kể lại.

28
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (ngồi trên sàn) cùng những người đảm bảo phục vụ kỹ thuật cho
Đại hội V Quốc tế Cộng sản, tháng 6-1924

“Trong thời gian lần đầu đến Liên Xô, tôi đã chứng kiến đất nước Xô viết khởi đầu
con đường của mình trong điều kiện gian nan như thế nào. Thật khó để kể về chủ nghĩa anh
hùng vĩ đại nhất, về sự hy sinh của những người công nhân và nông dân khi bước vào xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, rõ ràng là, nhân dân Liên Xô đã đạt được những thành
tựu đầu tiên. Sự tiến bộ nhanh chóng của đất nước Xô viết, bất kỳ thành công nào của nước
này cũng mang đến niềm vui và hạnh phúc trong tim mỗi người làm cách mạng, cho chúng ta
niềm tự hào về sự nghiệp của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại”, sau này Chủ tịch Hồ Chí
Minh kể lại.

“Nỗi đau lớn nhất trong đời tôi…”

Một trong những mong mỏi thiết tha nhất của người cộng sản nhiệt huyết Nguyễn Ái
Quốc là được gặp Lênin. Dù biết tình hình sức khỏe của Lênin đang trầm trọng, nhưng
Nguyễn Ái Quốc vẫn không nguôi hy vọng bệnh tình sẽ qua đi, và thần tượng của Người sẽ
29
có thể tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản, vốn đã được hoàn tất mọi khâu chuẩn bị.
Tuy nhiên, ngày 21-1-1924, Liên Xô phát đi tin buồn: Lênin qua đời.

Trong suốt cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự tôn kính đối với vị
lãnh tụ giai cấp vô sản thế giới. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Người cho rằng, trong mắt
nhân dân các nước phương Đông, V.I. Lênin không chỉ là vị lãnh tụ: “Lênin là người có sức
thu hút rất lớn… Sự tôn kính của chúng tôi đối với Lênin là lòng tôn kính của người con đối
với cha mẹ, điều này ở đất nước chúng tôi được coi là một trong những phẩm chất cơ bản của
con người. Đối với những người từng phải trải qua nhiều đau khổ và sự nhạo báng như chúng
tôi, thì Lênin là hiện thân của lòng bác ái chân chính”.

Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản khai mạc ngày 17-6-1924 tại Nhà hát Lớn ở
Moskva, diễn ra không có sự tham dự của người sáng lập ra Quốc tế Cộng sản và người cổ
vũ tư tưởng – lãnh tụ giai cấp vô sản thế giới V.I. Lênin.

Những năm sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thổ lộ rằng, thời gian ở nước Nga là một
trong những khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời Người. Mặc dù vậy, Người vẫn hiểu
là nên trở về Tổ quốc để biến ước mơ về một đất nước Việt Nam độc lập, tự do thành hiện
thực. “Ngay từ nhỏ và cả khi trưởng thành, tôi chưa bao giờ trải qua cảm giác được tự do,
niềm vui vô bờ bến và niềm hạnh phúc như lúc ở Moskva. Và dù sao, tôi vẫn ngồi đếm từng
ngày trước khi diễn ra Đại hội của Quốc tế Cộng sản, để ngay sau bế mạc là tôi có thể lập tức
lên đường và bắt đầu sự nghiệp hoạt động cách mạng trên thực tế của mình”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhớ lại.

Tình cảm và lòng tôn kính của người Nga đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời, Thị trưởng Moskva Yury Mikhailovich Luzhkov từng viết: “Chủ tịch Hồ
Chí Minh xứng đáng được xếp vào những nhà hoạt động chính trị kiệt xuất của thế kỷ XX.
Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh khốc liệt, nặng nề, dai
dẳng đã thoát khỏi ách thuộc địa và bảo vệ được nền tự do, độc lập trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ xâm lược. Thực hiện di huấn của người Thầy và Lãnh tụ của mình, các thế hệ sau
này đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất và thịnh vượng, chiếm một vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới…
30
Thành phố Moskva luôn trân trọng giữ gìn những ký ức trong sáng về đồng chí Hồ Chí
Minh. Một quảng trường của thành phố đã được đặt tên Người, giữa quảng trường dựng
tượng đài tuyệt đẹp của Người sáng lập nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”.

Tượng đài Hồ Chí Minh tại thành phố Vladivostok

31
4. Nguyễn Ái Quốc xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam và góp phần quan trọng vào phong trào cách
mạng thế giới
4.1. Thời kì Người ở Trung Quốc (1924-1927)

Trong hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sống và hoạt động cách mạng ở nhiều nơi, nhiều nước. Trong đó, Trung Quốc là nơi Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sống và hoạt động qua nhiều thời kỳ với khoảng thời gian cộng lại gần 10
năm. Đặc biệt, không thể không nhắc đến thời kỳ Người hoạt động ở Quảng Châu, Trung
Quốc (1924 - 1927). Thời kỳ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt
Nam. Nó đánh dấu thời kỳ Người trở về gần Tổ quốc “... đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập...”

Người nhận thức được rằng chỉ có thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, triển khai cách
mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mới có thể giải phóng nhân dân Việt Nam
ra khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Thực hiện mong muốn của mình và được sự đồng ý
của Quốc tế Cộng sản, ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từ thủ đô
Mátxcơva đã đến Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy, trên cương vị phái viên của
Quốc tế Cộng sản, trong Phái bộ của Cố vấn Borodin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn.
Theo các nhà nghiên cứu, việc Nguyễn Ái Quốc lựa chọn đến Quảng Châu, Trung Quốc là
một bước đi quan trọng để thực hiện kế hoạch mà Người vạch ra từ năm 1923 khi đến nước
Nga. Bởi khi đó Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng:

Thứ nhất, trong những năm 1923 - 1924, Quảng Châu đang được mệnh danh là
“Mátxcơva của phương Đông”, thu hút nhiều nhà cách mạng đến từ những quốc gia bị áp
bức. Hình thức cách mạng Trung Quốc có nhiều thay đổi lớn, phong trào cách mạng với
Quảng Châu làm trung tâm đã thu được nhiều thắng lợi. Tại đây, nhà cách mạng Tôn Trung
Sơn đã thành lập Chính phủ cách mạng, tuyên bố thực hiện 3 chính sách lớn “liên Nga, liên
Cộng và giúp đỡ nông dân”, tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng
Cộng sản Liên Xô, cải tổ Quốc Dân Đảng với sự giúp đỡ của đoàn cố vấn do Liên Xô và
Quốc tế Cộng sản cử tới. Những người cộng sản Trung Quốc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quen
32
biết như Chu Ân Lai, Lí Phú Xuân, Trương Thái Lôi lúc này cũng đã có mặt tại Quảng Châu,
tạo ra cục diện Quốc - Cộng hợp tác cùng thúc đẩy cách mạng Trung Quốc. Chính vì vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin rằng ở Quảng Châu lúc này kết hợp tham gia thực tiễn cách mạng
Trung Quốc với thực hiện mục tiêu vận động cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ có hiệu quả.

Thứ hai, Quảng Châu, Trung Quốc khi đó là nơi tập trung một lớp thanh niên mới đầy
nhiệt huyết đến từ Việt Nam, theo lời kêu gọi của nhà cách mạng dân chủ Phan Bội Châu,
tham gia tổ chức Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Châu. Nhưng rồi do bất đồng với
khuynh hướng bảo thủ của các nhà cách mạng tiền bối trong Việt Nam Quang phục Hội và
muốn tìm con đường mới, năm 1923, nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước này đã thành lập
tổ chức Tâm tâm xã. Đó là một tổ chức yêu nước nhưng cương lĩnh chưa rõ ràng, phần nào
chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc nắm bắt được
tình hình đó và mong muốn đến Quảng Châu thay đổi tổ chức này, dẫn dắt thanh niên Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản, học theo chủ nghĩa Mác-Lênin. (Sau này, những
thành viên ưu tú của Tâm tâm xã đã trở thành hạt nhân của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu năm 1925. Chính Tâm tâm xã đã
cung cấp cho cách mạng Việt Nam những thế hệ chiến sĩ cộng sản đầu tiên và xuất sắc như
Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu...).

Thứ ba, Người cho rằng lúc này cần phải nhanh chóng tìm đến Quảng Châu, một địa
điểm gần với Việt Nam, có điều kiện tương đối thuận lợi để triển khai những công việc cần
thiết, sớm thực hiện mục tiêu về nước phát triển phong trào cách mạng. Đó là việc mở lớp
huấn luyện cho những thanh niên yêu nước Việt Nam có mặt tại Quảng Châu về con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, lôi cuốn thanh niên
từ trong nước sang, huấn luyện xong lại cử họ về nước hoạt động, tuyên truyền cách mạng.
Từ kết quả huấn luyện đào tạo, sẽ lập ra một số tổ chức cách mạng của thanh niên, chọn lọc
trong đó những phần tử trung kiên, chuẩn bị hạt nhân để tiến tới thành lập một chính đảng vô
sản ở Việt Nam.

Như vậy, Quảng Châu đã được Nguyễn Ái Quốc chọn là một điểm dừng chân, một địa
bàn hoạt động, một “căn cứ địa quốc tế” của cách mạng Việt Nam. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc
đã khẩn trương tiến hành các hoạt động chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra
đời chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Được sự giúp đỡ bí mật của Đảng Cộng
33
sản Trung Quốc và Chính phủ cách mạng ở Quảng Châu, từ đầu năm 1926 đến tháng 4/1927,
tại Trụ sở số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250) đối diện với
Trường đại học Trung Sơn (nay là Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu), Nguyễn Ái Quốc đã
trực tiếp mở ba lớp huấn luyện chính trị cách mạng cho lớp thanh niên ưu tú của Việt Nam
đang có mặt tại Quảng Châu với tổng số 75 người. Giảng viên chính của các lớp là Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có một số giảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc
và Liên Xô. Để tổ chức được ba lớp học đó, Nguyễn Ái Quốc đã phải vượt qua biết bao khó
khăn, thử thách, trước hết là về trụ sở, tài chính và các mối liên lạc. Nội dung các bài giảng
của Nguyễn Ái Quốc sau này được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại và in
thành cuốn sách nổi tiếng Đường Kách mệnh. Đây là tác phẩm lý luận chính trị vô sản đầu
tiên ở nước ta, đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin ở Việt Nam.
Kết thúc khóa học, có người được giữ lại ở nước ngoài công tác, có người được cử đi học
tiếp ở Liên Xô, hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Quảng Châu)... còn phần đông thì được cử
về nước hoạt động, gây dựng và tổ chức, phát triển các phong trào cách mạng Việt Nam.

Trên đất Quảng Châu, tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã cải tổ Tâm Tâm xã, thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức
có tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn Việt Nam lúc đó, giúp cho những người
Việt Nam yêu nước xuất thân từ các tầng lớp dễ tiếp thu chủ nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái
Quốc dùng tên Hội mà chưa dùng tên Đảng do muốn đưa tổ chức cách mạng đó vào quần
chúng một cách thuận lợi, để quần chúng dễ tiếp thu cả về tổ chức, tôn chỉ, mục đích của
Hội, từ đó sẽ phát triển lên ở mức cao hơn. Như Người đã giải thích: “Trong tư tưởng của
những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã
chứng minh điều đó” .

Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số
phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm phát triển của mình, trong
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng,
tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội. Hội được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh
bộ, Huyện bộ và Chi bộ.

34
Mục đích của Hội là: “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mạng
dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế
giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)” .

Điều lệ của Hội đề cập đến Chương trình hoạt động như kết nạp hội viên; tổ chức các
đoàn thể như Công hội, Nông Hội, Hội học sinh, Hội phụ nữ..., thành lập chính phủ nhân
dân, đoàn kết với các giai cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản. Điều
lệ còn quy định cụ thể về điều kiện vào hội, lề lối tổ chức, cơ cấu các cấp Trung ương, xứ uỷ,
tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ, vấn đề tiến hành hội nghị thường kỳ của các cấp và hội nghị toàn
quốc, kỷ luật và nhiệm vụ của hội viên...

Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã góp phần quan trọng vào việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cũng như
về tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Thông qua những hội viên
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua phong trào vô sản hoá, luồng tư tưởng
mới của thời đại đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay
đổi tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh cách mạng, đưa đến sự thắng lợi của
khuynh hướng vô sản. Thông qua những nội dung hoạt động của mình, Hội đã thu hút đông
đảo các lực lượng vào tổ chức cách mạng của mình, đồng thời có ảnh hưởng tích cực đến các
tổ chức chính trị cùng thời khác.

Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời cho xuất bản báo Thanh niên làm cơ quan ngôn luận
của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Báo Thanh niên ra hằng tuần, bằng tiếng Việt, số
đầu tiên của báo ra ngày 21/6/1925 (từ đây, ngày 21-6 hàng năm được chọn là ngày Báo chí
cách mạng Việt Nam). Báo có các chuyên mục: xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp,
phê bình, trả lời bạn đọc, v.v.. Những bài viết của báo Thanh Niên đều ngắn gọn, lời văn giản
dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những vấn đề chính: Đế quốc và thuộc địa; Cách mạng
và cải lương; Thực tiễn của cách mạng Việt Nam; Đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; Cách
mạng dân tộc và cách mạng thế giới; Cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; Học tập lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, v.v.. Thông qua báo Thanh Niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong
và ngoài hội. Là tờ báo đầu tiên trong lịch sử báo chí vô sản nước ta, báo Thanh Niên đã góp
35
phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
Việt Nam.

Báo “Con đường công nhân” ngày 20/4/1926 – Lý Thụy ( Nguyễn Ái Quốc )

Giai đoạn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng Châu 1924 - 1927
không chỉ có tác động trực tiếp đến phong trào cách mạng của Việt Nam mà còn góp phần
quan trọng trong phong trào cách mạng Trung Quốc cũng như Quốc tế Cộng sản.

Ở Quảng Châu, bên cạnh việc tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cho phong
trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị tốt cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình trực tiếp tham gia các hoạt động
của Đảng Cộng sản Trung Quốc và cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Đối
36
với cách mạng Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc luôn xuất phát từ những nét tương đồng trong
bối cảnh lịch sử văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, là mối quan hệ tương hỗ với cách mạng
giai cấp vô sản quốc tế. Người đã có nhiều đóng góp cho cách mạng Trung Quốc. Ngay từ
khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ,
tương trợ, cùng đấu tranh giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc qua các thời kỳ.
Đây cũng là cơ sở để tình hữu nghị giữa hai nước được phát huy trong các cuộc kháng chiến
chống Nhật hay cuộc chiến tranh giải phóng của Trung Quốc, hoặc trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Việt Nam.

Đối với Quốc tế Cộng sản, những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng Châu
trong giai đoạn 1924 - 1927 đã làm phong phú hơn về mặt lý luận và thực tiễn của Quốc tế
Cộng sản trong việc lãnh đạo cách mạng giai cấp vô sản toàn thế giới. Với vai trò là thành
viên của Quốc tế Cộng sản khu vực phương Đông và đại diện của Hội Nông dân quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tích cực liên lạc, tổ chức kết nối các nhà hoạt động cách
mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức tại Quảng Châu. Cùng một số người cộng
sản Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc tham gia Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân
tỉnh Quảng Đông Trung Quốc. Đầu tháng 5/1925, Người tham dự Hội nghị lần thứ hai đại
biểu công nhân Trung Quốc. Được Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân ủy nhiệm phụ trách
công tác vận động nông dân ở Trung Quốc và một số nước khác, tháng 7/1925, Người đã
tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông nhằm đoàn kết các dân tộc
bị áp bức ở châu Á trong một mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đặt cơ
sở cho việc xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước.

Tại Quảng Châu, theo dõi và chỉ đạo phong trào nông dân ở Trung Quốc và Đông
Nam Á, tìm hiểu được tình hình của cách mạng Trung Quốc, tình hình của các nhà hoạt động
cách mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức,... Nguyễn Ái Quốc giúp Quốc tế Cộng
sản nắm được tình hình về phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông; phân tích
đánh giá để báo cáo với Quốc tế Cộng sản, hoặc viết bài đăng trên tạp chí Thông tin quốc tế
của Quốc tế Cộng sản. Điều đó sẽ gia tăng ảnh hưởng, tăng cường mối liên hệ giữa Quốc tế
Cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, thúc đẩy phát triển phong trào
cách mạng giai cấp vô sản trên phạm vi toàn thế giới.
37
Có thể nói, thời kỳ 1924 - 1927 ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
thực hiện được những công việc hết sức trọng đại, cống hiến công lao to lớn cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc Việt Nam cũng như sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.

4.2. Thời kỳ Người ở Thái Lan (1928-1929)

Năm 1927, sau khi đã hoàn thành việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên và tổ chức một số lớp học nhằm huấn luyện cho những thanh niên Việt Nam yêu
nước về con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã nghĩ đến việc rời Quảng Châu
- Trung Quốc để trở về Thái Lan- nơi có nhiều Việt kiều sinh sống để truyền bá cách
mạng. Vào tháng 4 năm 1928, Người nhận được thư trả lời từ Mátxcơva, cho phép và cấp
công tác phí để Người về Đông Dương, kèm theo ba tháng tiền ăn và thuê phòng ở. Quốc
tế Cộng sản đã cho phép Hồ Chí Minh thành lập phong trào cách mạng ở Thái Lan với sử
mạng xây dựng Thái Lan thành căn cứ địa củng cố phong trào cách mạng ở Đông Dương
chống lại thực dân Pháp.

Đầu tháng 6 năm 1928, Hồ Chí Minh rời Berlin, bắt đầu hành trình tới Thái Lan.
Người đi xe lửa từ Thụy Sĩ đến Ý, đi qua Milan và Rome. Hải trình của Người đi qua
kênh đào Suez, Port Said, Biển Đỏ, Colombo (Sri Lanka), và Singapore. Từ Singapore,
Người được Tổ chức tại Nanyang tiếp đón và chuyển Người sang một con tàu nhỏ hơn,
tên là Gola, để tiếp tục hải trình đến Thái Lan. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đã xuống tàu tại
một cảng gần Bangkok trong vai nhà buôn người Hoa với cái tên Ông Lai hay Nguyễn
Lai, do Người nói thông thạo tiếng Quảng Đông.

Hồ Chí Minh đến Thái Lan hai lần. Lần đầu vào giữa năm 1928. Sau khi xuống tàu
tại một cảng gần Bangkok và ở lại đó một thời gian ngắn, Người đến Bản Đông ở quận
Phichit và sau đó đến Udon Thani. Từ Udon Thani, Người tiếp tục đến Sakon Nakhon,
Nakhon Phanom, và Nong Khai. Từ đây, Người rời Thái Lan sang Hồng Koong và
Thượng Hải trong mùa đông năm 1929. Lần thứ hai người tới Thái Lan là tháng 3 năm
1930 và lưu lại Thái Lan một thời gian ngắn tới tháng 4 năm 1930.

Trong chuyến đi đầu tiên đến Thái Lan, Hồ Chí Minh đã đến thăm ngôi chùa Việt
Nam có tên là Wat Lokanukhlor (chùa Từ Tế). Ngôi chùa này tọa lạc trong quận người
38
Hoa trên đường Rajawong ở thủ đô Bangkok. Chùa Từ Tế là điểm hẹn của giới sĩ phu Việt
gian thời bấy giờ. Hồ Chí Minh đã đến chùa này để gặp Sư cụ Ba, một người Việt Nam
yêu nước có nhiều mối liên hệ với người Việt ở Thái Lan, cũng là người đã thành lập ra
ngôi chùa này. Khi sư ông lâm bệnh nặng vào năm 1964, Hồ Chí Minh đã cho máy bay
riêng đưa ông hồi hương để nhập viện tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô tại Hà Nội. Hồ Chí
Minh cũng đến thăm sư ông tại bệnh viện. Hồ Chí Minh ngụ lại một thời gian ngắn trong
ngôi chùa Từ Tế trước khi đến Bản Đông, tỉnh Phichit.

Mùa thu năm 1928, Hồ Chí Minh tới Bản Đông. Bản Đông nằm gần sông Nan,
nhánh phụ lưu của sông Chao Phraya. Tới năm 2013, Bản Đông đã có tên mới là Bản
Noeun Sa Mo, thuộc huyện Pa Ma Khab, tỉnh Phichit, cách Bangkok khoảng 340 km và
có thể đến bằng đường sông.

Sau khi Bản Thám ở Paknampho, địa điểm của cộng đồng người Việt đầu tiên và là
trung tâm của phong trào Đông Du do Đặng Thúc Hứa thành lập, bị chính quyền địa
phương đóng cửa vào năm 1914 dưới áp lực của Pháp, người Việt đã chuyển đến Bản
Đông, cách đó 100 km. Người Việt đã được một hoàng tử Thái Lan, người có cảm tình với
cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt, cho phép đến định cư và lập đồn điền ở Bản
Thám vào năm 1910, khi Phan Bội Châu đang ở Bangkok.

Hồ Chí Minh đến tỉnh Phichit bằng tàu hỏa và ở trong một khách sạn. Ngày hôm
sau, Người đến cửa hàng Quyên Truyền Thịnh, thuộc sở hữu của một nhà buôn người Hoa
có cảm tình với phong trào của Việt Kiều. Cửa hàng này là đầu mối liên lạc bí mật giữa
Bản Đông, Quảng Châu và Hồng Kông, là nơi lý tưởng để che giấu sự dòm ngó của các
chính quyền Thái Lan và gián điệp Pháp. Tại cửa hàng, Hồ Chí Minh đưa cho chủ cửa
hàng lá thư gửi tới Võ Tùng. Võ Tùng bận việc và cử thân tín của mình là Hy đến đón Hồ
Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh từ chối không đi cùng Hy. Hy phải trở về để Võ Tùng đích
thân đến đón Hồ Chí Minhvề Bản Đông. Điều này cho thấy Hồ Chí Minh rất thận trọng.
Tới Bản Đông, Võ Tùng giới thiệu Hồ Chí Minh là một người bạn thân từ Quảng Châu,
làm nghề buôn thuốc, tên là Thầu Chín. Tại Bản Đông, Hồ Chí Minh trú tại nhà của Võ
Tùng và Đặng Quỳnh Anh chỉ khoảng hai tuần, sau đó đi tiếp tới Udon Thani ở vùng
Đông Bắc Thái Lan. Trong thời gian ngắn ở Bản Đông, Người đã đi đến các vùng lân cận,

39
gặp gỡ những người Việt Nam đã đến Bản Đông từ những năm 1910, như Đặng Thúc
Hứa, Võ Tùng, Đặng Thái Thuyến và Ngọc Ân.

Trong những ngày ở Bản Đông, Hồ Chí Minh đã dành thời gian để bồi dưỡng cảm
tình cách mạng cho Việt Kiều. Ban ngày, Người làm việc đồng áng cùng đồng bào. Ban
đêm, Người tập hợp dân chúng để hướng dẫn họ về chính trị thông báo cho họ về tình
hình chính trị Việt Nam và trên thế giới, đồng thời dạy họ cách thức tổ chức các cuộc thảo
luận, nâng cao trình độ chính trị và hiểu biết cách mạng của người Việt ở Bản Đông. Bài
giảng của Người rất đơn giản, ngắn gọn, đầy ý nghĩa và có sức thuyết phục. Mỗi bài
thường bao gồm ba phần. Phần đầu tiên là về tình hình Việt Nam và thế giới, cũng như sự
hợp tác của người Việt trên thế giới. Phần thứ hai về lý luận cách mạng và phần cuối cùng
được dành để trả lời các câu hỏi hoặc giải thích những điểm chưa rõ. Những bài giảng về
chính trị của Người luôn kết hợp lý luận Mác-Lênin với đường lối cách mạng Việt Nam,
hướng tới con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.

Những từ như “đồng chí”, “chủ nghĩa đế quốc”, “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa
Mác”, “Lênin,” và “Stalin” lần đầu tiên được vang lên giữa cộng đồng người Việt Nam ở
Thái Lan trong những cuộc họp ở Bản Đông. Người giải thích rằng, “đồng chí” có nghĩa
là những người có cùng ý chí và cùng chiến đấu vì mục đích giống nhau. Người luôn căn
dặn cộng đồng người Việt phải cư xử tốt, tuân thủ luật pháp Thái Lan, giữ gìn văn hóa
Việt Nam, giúp đỡ lẫn nhau, trung thực và chăm sóc tốt cho con cháu.

Udon Thani cách Bản Đông tới 40 ngày di chuyển bằng thuyền. Udon Thani là một
thị trấn lớn và là trung tâm của vùng Đông Bắc Thái. Udon Thani là vùng đậm chất Việt.
Số lượng Việt Kiều ở đó nhiều hơn ở Phichit, do Udon nằm không xa sông Mekong và là
một trong những địa điểm tập trung của người Việt từ miền Trung Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã ở lại đây khá lâu để gặp gỡ, giáo dục, động viên Việt Kiều tham gia hoạt động
cách mạng và chống thực dân.

Năm 1927, Udon Thani đã thành lập chi nhánh của Liên đoàn Thanh niên, Hợp tác
xã và Tổ chức Hữu nghị của Việt Kiều. Tại cuộc họp đầu tiên của Đoàn Thanh niên ở
Udon, Hồ Chí Minh đã báo cáo về tình hình thế giới và cuộc đấu tranh của phong trào

40
cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Hồ Chí Minh chú trọng
mở rộng các cơ quan, tổ chức lại các căn cứ, và xây dựng mối quan hệ gần gũi và hòa
thuận với người Thái, tôn trọng phong tục, truyền thống và luật pháp Thái Lan. Về Hợp
tác xã, ban đầu chỉ những người Việt Nam từ Việt Nam sang Thái Lan mới được chấp
nhận làm thành viên, nhưng Hồ Chí Minh đề nghị mở rộng cửa cho tất cả Việt Kiều có
nguyện vọng tham gia.

Trong thời gian ở Bản Nong Bua, Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian để dịch
sách, chẳng hạn như sách Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Chủ nghĩa cộng sản của Bhukarin
và Preobrazhensky, để sử dụng cho việc huy động và đào tạo cán bộ trẻ của Liên đoàn. Hồ
Chí Minh đã làm việc với Hoàng Văn Hoan để cùng hiệu chỉnh các bản dịch, đặc biệt là
các văn bản bằng tiếng Trung, Người phiên dịch, và Hoàng Văn Hoan phiên âm. Hồ Chí
Minh cũng mở các lớp chính trị cho cán bộ Đoàn, chấn chỉnh nếp sinh hoạt và nếp sống
của đội viên, nêu cao lòng yêu nước, khuyến khích họ cùng Việt Kiều làm ruộng. Ông
khuyến khích Việt Kiều học tiếng Thái và cho con em họ đến trường học tiếng Thái và
tiếng Việt, kêu gọi họ xin phép chính quyền địa phương để mở trường học của người Việt.

Ban đầu, phần lớn Việt Kiều coi Thái Lan chỉ là nơi ngụ cư. Họ mong mỏi ngày
được trở về Việt Nam tham gia phong trào kháng chiến và chờ ngày độc lập. Vì vậy, họ
không tập trung vào cuộc sống ở Thái. Họ không học tiếng Thái và cũng không cho con
cái theo học tiếng Thái. Nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, cuộc kháng chiến cho Việt

41
Nam trên đất Thái Lan sẽ là một vấn đề lâu dài và Việt Kiều cần phải học tiếng bản địa,
làm quen với người dân, văn hóa và chính quyền sở tại. Bằng cách này, Việt Kiều đã có
được tình hữu nghị và thiện cảm của người dân Thái Lan, và chính quyền địa phương sẽ
không phản đối các hoạt động và phong trào của Việt Kiều

Từ Udon, Hồ Chí Minh cũng đã đến thăm Nong Khai. Tại Nong Khai, Người ở gần
một ngôi chùa tên là Wat Srichomcheun. Tại đây, Hồ Chí Minh gặp những cán bộ từ
Viêng Chăn (Lào) đến để báo cáo về tình hình ở Lào và hoạt động của người Việt Nam ở
đó. Hồ Chí Minh chỉ ở Nông Khai sáu ngày trong tháng 11 năm 1928, sau đó, Người tiếp
tục hành trình đến Sakon Nakhon và Nakhon Phanom

Từ Udon, Hồ Chí Minh đi đến quận Sawang Daendin và sau đó đến quận Muang của
Sakon Nakhon. Tại Sakon Nakhon, Người ở tại tiệm thuốc gia truyền của Đặng Văn Cáp.
Tại Sakon Nakhon, Tổ chức Hữu nghị Việt Kiều, Hợp tác xã và các lớp học cho trẻ em
Việt Kiều đã được thành lập. Giống như ở Udon, Hồ Chí Minh đã tổ chức các lớp học
chính trị, giảng dạy lý luận về chủ nghĩa Mác-Lê-nin và chủ nghĩa dân tộc, và dạy các bài
thơ và bài hát yêu nước mới. Từ Sakon Nakhon, Người đến Nakhon Phanom với ba căn
cứ cách mạng vững chắc: Bản Mây (ngày nay được gọi là Ban Na Chok), Bản Ton Phung,
và Bản Wat Pa. Người ngụ lại ở Bản Mây lâu nhất.

Tại Bản Mây, chỉ cách sông Mekong 5 km, hàng trăm cán bộ đã được huấn luyện.
Mục đích của Hồ Chí Minh khi đến Nakhon Phanom không chỉ để hướng dẫn hoặc tổ
chức các lớp học chính trị cho các cán bộ mà Người còn muốn thành lập đầu mối liên lạc
giữa miền Trung Việt Nam và Lào để khảo sát tiềm năng cách mạng ở Lào và thành lập
chi bộ của Đoàn Thanh niên Việt Nam tại Lào. Do vậy, Hồ Chí Minh đã đi thuyền từ
Nakhon Phanom băng qua sông Mekong để khảo sát hoạt động của Đoàn Thanh niên Việt
Kiều ở Lào

Có thể nói, thời kỳ 1928-1929 tại Thái Lan và Lào, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
không chỉ tuyên truyền vận động các Việt Kiều tham gia tổ chức để đấu tranh, lập những tổ
chức rèn luyện chính trị cho người Việt ở đó cũng như các cán bộ mà còn tạo mối quan hệ
đoàn kết hơn giữa các nước .

42
5.Thành Lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/2/1930) và ý nghĩa
5.1. Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

Ngày 3-2-1930: Từ ngày 3 đến 7-2-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản tại Cửu Long (Hồng Kông, Trung Quốc) đã
nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và
“Lời kêu gọi” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản
Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và đồng bào bị áp
bức, bóc lột.

Tái hiện hình ảnh Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam
và là một khởi đầu cho tương lai tươi sáng của dân tộc. Trải qua 92 năm qua dưới sự lãnh

43
đạo của Đảng, nhân dân ta đã đứng lên giành lại độc lập, tự do, giải phóng chính mình khỏi
ách nô lệ thực dân và đế quốc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

5.2. Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng:

1, Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản
duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự
thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư
tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

3, Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi
của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

4, Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có
Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX,
mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối
này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc
cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi
to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi
của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

44
5, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi
vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

III. Tầm vóc và ý nghĩa của hành trình ra đi tìm đường cứu nước giai
đoạn 1911-1930

Nhận ra sự bất lực và thất bại của hệ ý thức phong kiến và hệ ý thức tư sản, quyết định
ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành cho thấy một tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc xác định hướng đi, cách đi, mục đích đi và nơi đến. Người tự quyết định con
đường đi của mình, là “Tây du” mà không “Đông du”, đến tận ngọn nguồn của chủ nghĩa đế
quốc Pháp, sang đất nước đang có những kẻ đến áp bức đồng bào mình, để khám phá các nền
văn minh.

Trạc mười ba tuổi, khi còn trên ghế trường tiểu học Pháp - bản xứ, lần đầu tiên,
Nguyễn Tất Thành biết đến ba từ đẹp đẽ: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Nhưng ngay lúc bấy
giờ, anh đã có sự hoài nghi, vì trên thực tế, không thấy tự do, bình đẳng, bác ái, mà chỉ thấy
sự áp bức, bóc lột, đồng bào đau khổ, chết chóc dưới gót giày, họng súng và lưỡi lê của bọn
thực dân. Sự hoài nghi ở tuổi trẻ thích tìm tòi, khám phá đã mang lại nhiều điều bổ ích. Việc
“muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”
là nguồn động lực mạnh mẽ thôi thúc Nguyễn Tất Thành phải ra nước ngoài, xem các nước
làm thế nào, rồi trở về giúp đồng bào.

Hai sự kiện rất đáng được quan tâm ở thời khắc Nguyễn Tất Thành quyết định con
đường đi của mình. Một là, tác giả Trần Dân Tiên cho biết, Nguyễn Tất Thành nhận ra cách
làm của Phan Châu Trinh là xin giặc rủ lòng thương; cách làm của Phan Bội Châu là “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau”; cách làm của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, vì trực tiếp đấu
tranh chống Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến. Trần Dân Tiên cũng cho biết, cụ
Phan Bội Châu muốn đưa Nguyễn Tất Thành và một số thanh niên sang Nhật, nhưng Nguyễn
Tất Thành không đi. Người thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Hai là, như Hồ Chí
Minh sau này đã trả lời một nhà văn Mỹ rằng, “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân
sinh ra tôi lúc này thường tự hỏi nhau rằng, ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị
của Pháp. Người này nghĩ là Nhật. Người khác nghĩ là Anh. Có người khác nữa nghĩ là Mỹ.
Tôi thì thấy phải đi ra nước ngoài để xem cho rõ”.

45
Ý thức rõ ràng, dứt khoát ngay từ đầu về mục đích ra nước ngoài của mình đã giúp
Nguyễn Tất Thành có cách đi và cách làm đặc biệt. Từng là một thầy giáo, con quan Phó
bảng, nhưng Anh chọn nghề lao động chân tay để kiếm sống và học tập. Chúng ta có thể hiểu
được rằng, đây là một lựa chọn có chủ đích để có điều kiện hòa mình vào phong trào công
nhân và các dân tộc bị áp bức; để hiểu được đằng sau những chữ Pháp tự do, bình đẳng, bác
ái là gì; hiểu được hai từ “văn minh” mà như nhà báo Liên Xô Ôxíp Man đenxtam thuật lại
thì Nguyễn Ái Quốc đã nói đến hai từ “văn minh” một cách đầy khinh bỉ. Từ đó, Nguyễn Ái
Quốc có được những bài báo sắc sảo như “Tâm địa thực dân”, “Phong trào cách mạng ở Ấn
Độ”, “Hành hình kiểu Linsơ”, “Công cuộc khai hóa giết người”... Sau này, khi trả lời phỏng
vấn của Tạp chí Thanh niên (Ca-na-đa) về việc làm và cảm tưởng của Người thời gian ở Mỹ,
Người trả lời: “Tôi làm thuê trên tàu thủy để đi xem các nước và để sang Mỹ. Tôi có làm
thuê ở Niu Oóc ít lâu. Lúc đó, cảm tưởng của tôi về Mỹ đại khái như sau: Nhân dân Mỹ rất
thông minh... ở Mỹ có một số người rất giàu có, họ sống cực kỳ xa hoa như những người ở
phố thứ 5 (Fifth Avenue). Và có rất đông người lao động rất cực khổ, nhất là người Mỹ da
đen ở khu Héclem. Điều đó làm cho tôi nghĩ rằng: Pho tượng Thần Tự Do đứng ở cảng Niu
Oóc tuy bên ngoài rất đồ sộ, cao to, nhưng bên trong thì rỗng tuếch!”

Nguyễn Tất Thành là số ít trong các nhà lãnh đạo cách mạng các nước thuộc địa lúc
bấy giờ sớm phát hiện ra tầm vóc và ý nghĩa “vạch thời đại” của cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lê-nin, Nguyễn Tất Thành
thuộc dòng tinh thần của những nhân vật hiếm thấy đại diện cho tinh hoa thế giới, những con
người mà ngay từ đầu đã kết hợp chặt chẽ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính, khát
vọng giải phóng đồng bào mình với đoàn kết và giải phóng các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, sự
gặp gỡ giữa tư tưởng của Người với tư tưởng của Lê-nin như là một cuộc “hẹn hò lịch sử”,
cuộc gặp của hai trái tim yêu nước vĩ đại muốn giải phóng đồng bào mình, lại muốn giải
phóng các dân tộc bị áp bức và Nhân dân lao động toàn thế giới. Điều đó cắt nghĩa vì sao
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin làm cho Nguyễn Ái Quốc vui
mừng, cảm động đến phát khóc lên, vì đó là cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng
chúng ta: Giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Cuộc hành trình mười năm “tìm đường” (1911-1920) đã giúp Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc tìm thấy ánh sáng khoa học, chân lý cách mạng của thời đại là chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Theo Người, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất. Đúc kết cuộc hành trình đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-
nin, vừa hoạt động thực tiễn, Người hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ. Như vậy, ngay từ năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác - Lê-
nin là vũ khí không gì thay thế được giúp đồng bào ta thực hiện khát vọng giải phóng dân
tộc.

Mười năm tiếp theo trong hành trình “mở đường” (1921-1930), Nguyễn Ái Quốc dồn
trí lực đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị các yếu tố
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức để thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam. Đầu năm
46
1930, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đó, thống nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự kiện Đảng ta ra đời đầu năm 1930 là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta,
chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng ta ra
đời cũng chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về giai cấp và đường lối lãnh đạo cách mạng kéo
dài mấy chục năm. Từ đây, Đảng chủ trương tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn gọn, đó là đường lối độc lập dân tộc đi tới và
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời gắn liền với tên tuổi
và công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc.

Đó cũng là tiền đề để giai đoạn tiếp theo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thực hiện
cuộc hành trình “dẫn đường” (1930-1945). Người cùng với Đảng ta lãnh đạo Nhân dân đấu
tranh chống áp bức, bóc lột của thực dân - phong kiến; đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Đảng ta tổ chức Hội nghị Trung
ương 8 (5/1941), quyết định “thay đổi chiến lược”. Theo sáng kiến của Người, Việt Nam độc
lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời, một tổ chức mặt trận có tinh thần dân tộc rất cao,
có một chương trình rõ rệt, đầy đủ, thiết thực, hợp nguyện vọng các giới đồng bào, đánh thức
được tinh thần dân tộc xưa nay trong Nhân dân. Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của
Đảng và sức đoàn kết hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh, Cách mạng
Tháng Tám đã thắng lợi. Hồ Chí Minh chỉ rõ lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc.

Như vậy, với cuộc hành trình “tìm đường”, “mở đường”,“dẫn đường” thực hiện khát
vọng giải phóng và phát triển, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo toàn dân phá tan được
chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, đánh đổ ách thống trị của hai đế quốc chủ nghĩa
là Pháp và Nhật. Chúng ta đã lập nên một chính thể Dân chủ Cộng hòa. Đó là một thắng lợi
xưa nay chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nhân dân từ thân phận nô lệ bước lên địa vị làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội. Chúng ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới.

Đảng ta chỉ rõ, với những thắng lợi đã đạt được, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa
phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới. Sau 35 năm đổi mới, đến nay
đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn
diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống
vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Đó chính là tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng,

47
toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con
đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Chương 3

Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của chủ tịch Hồ


Chí Minh và bài học cho thanh niên hôm nay.
1. Bài học cho thanh niên ngày nay
Một trăm mười năm đã trôi qua kể từ ngày người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân (5-6-1911 - 5-6-2021), ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của sự kiện này vẫn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự sâu sắc và để lại nhiều bài học quý
báu, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Ngày 5-6-1911, tại bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn - Gia Định (nay là Thành
phố Hồ Chí Minh), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khi đó vừa tròn 21 tuổi
trên chiếc tàu mang tên Amiral Latouche-Tréville, bắt đầu cuộc hành trình đi ra thế giới tìm
con đường mới để cứu nước, cứu dân. Trong hành trình của tuổi thanh xuân, từ một người
thanh niên mang trong mình tình yêu nước, thương dân, bằng trải nghiệm thực tế được đúc
kết thông qua lao động và tham gia phong trào cách mạng của nhân dân thế giới, Người đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lựa chọn ra con đường cho cách mạng Việt Nam, đó là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường cách mạng đúng đắn, phù hợp với điều
kiện thực tiễn của lịch sử nước ta, đưa cách mạng nước ta đến thành công. Cho đến hôm nay,
đây vẫn là sự kiện truyền ý chí, cảm hứng, khát vọng cho thanh niên Việt Nam, đồng thời
giúp chúng ta rút ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống, học tập, công tác, lao động sản
xuất, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trước hết, đó là bài học về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân tộc và phát
triển đất nước.

48
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành từ thuở nhỏ đã gắn bó và kế thừa truyền
thống văn hóa, lịch sử của dân tộc, của quê hương, đất nước, của gia đình. Trực tiếp chứng
kiến, cảm nhận những nỗi đau của đồng bào dưới ách nô lệ, thực dân, cảnh nước mất, nhà tan
đã hun đúc trong Người tình yêu quê hương, đất nước, nhân dân cùng với khát vọng cháy
bỏng về độc lập dân tộc. Chính tình yêu quê hương, đất nước, nhân dân đã thôi thúc Người
quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân. Khi tìm thấy chân lý cách mạng và con đường
giải phóng cho dân tộc mình, Người đã làm tất cả để tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào,
tổ chức đấu tranh cách mạng, giành lại nền độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong suốt 30 năm bôn ba ở nước ngoài, 28 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước nhà, lúc
nào Người cũng đặt Tổ quốc, nhân dân lên trên hết, trước hết.

Lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập của Người luôn soi đường cho các thế
hệ thanh niên Việt Nam. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
với tình yêu Tổ quốc cao cả, các thế hệ thanh niên Việt Nam sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm
bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần, chiến đấu, cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc, tô thắm truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng. Ngày hôm nay, tình yêu quê hương, đất
nước, khát vọng, hoài bão của mỗi thanh niên phải được thể hiện bằng niềm tin vững chắc,
kiên định lý tưởng và một lòng theo Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội; bằng đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, được thể hiện từ những công
việc rất cụ thể, hằng ngày, trong học tập, lao động, công tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu; bằng sự dấn thân làm những điều tốt đẹp, dám đột phá và tiên phong trong hiện
thực hóa mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra.

Với vai trò là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức giáo dục cho thế hệ trẻ.
Trong đó, chú trọng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng tối đa ưu thế của các
công cụ, phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, hệ thống thiết chế, công cụ trong
giáo dục thanh, thiếu nhi, làm sao để mỗi đoàn viên đều là người có thể truyền tải thông điệp
giáo dục cho các bạn trẻ đồng trang lứa.

Thứ hai, bài học về sự mạnh dạn tìm hướng đi mới, đột phá và khác biệt.

49
Trước những thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành tuy rất khâm
phục tinh thần cứu nước của các bậc tiền bối, nhưng Người không tán thành các con đường
cứu nước ấy, bởi bên cạnh những mặt tích cực, Người cũng nhận ra nhiều điểm hạn chế trong
cách tiếp cận của họ. Vì vậy, Người quyết tâm đi tìm con đường cứu nước mới, một lối đi
mới, đó là sang Pháp và nhiều nước khác, để “xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Bằng lao động và hòa mình
vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới, với trí tuệ thiên tài của mình, Người đã tiếp thu,
chắt lọc những giá trị chung và mới của nhân loại để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước nhà, với sự vận động, xu thế phát triển của lịch sử
loài người.

Lứa tuổi thanh niên luôn gắn liền với sáng tạo. Ở một phương diện nhất định, sáng tạo
cũng được coi là thuộc tính riêng có của thanh niên. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, học
theo Bác, mỗi thanh niên phải thực sự chủ động và sáng tạo trong các hoạt động của mình.
Theo đó, phải luôn có tinh thần đổi mới, sáng tạo, luôn trăn trở tìm hướng đi mới, cách tiếp
cận mới đối với mỗi vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra và dám dấn thân vào những nhiệm
vụ mới, khó; chủ động đề xuất các ý tưởng, sáng kiến, giải pháp, ứng dụng khoa học và công
nghệ trong thực hiện nhiệm vụ, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, lập nghiệp, khởi nghiệp,
bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, sáng tạo phải đặt trên nền tảng những gì đã có,
xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, tích lũy giá trị tích cực và khắc phục được hạn chế, như
con đường cách mạng của Bác là kế thừa từ truyền thống đấu tranh của dân tộc và qua đúc
rút kinh nghiệm từ những bậc tiền bối đi trước. Các tổ chức của thanh niên phải đổi mới
mạnh mẽ, có hiệu quả hơn nữa về nội dung, phương thức hoạt động, sáng tạo không ngừng
để thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới và theo kịp sự vận động nhanh
chóng của nền kinh tế cũng như quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển như vũ bão của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, bài học về kết hợp những giá trị tiến bộ của nhân loại với những giá trị truyền thống
cốt lõi của dân tộc, dựa trên năng lực của bản thân là chủ yếu.

50
Trong hành trình đi ra nước ngoài để “xem xét họ làm thế nào” nhằm “trở về giúp
đồng bào chúng ta”, suốt 30 năm rời xa Tổ quốc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều châu lục, học tập, nghiên cứu, khảo sát, chọn
lọc, tiếp thu những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại và thông qua thực tiễn các cuộc
đấu tranh cách mạng ở nhiều nước để nâng cao trí tuệ, mở rộng tầm nhìn, tìm ra con đường
giải phóng dân tộc, hướng tới mục tiêu giải phóng con người. Với thế giới quan khoa học và
cách mạng, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc, thực tiễn cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật, xu thế phát triển của lịch
sử nhân loại. Theo Người, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.

Bên cạnh đó, dù rất coi trọng sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu
chuộng hòa bình trên trên thế giới, song, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn chủ trương “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Bài học đó của Người truyền
cảm hứng cho thanh niên ngày nay là, phải luôn nỗ lực học tập, tiếp thu có chọn lọc, vận
dụng sáng tạo những trào lưu tư tưởng, giá trị tiến bộ, tinh hoa của nhân loại vào thực tiễn
xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam. Bối cảnh hội nhập, cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư giúp thanh niên có điều kiện thuận lợi để tiếp thu những giá trị tiến bộ, tinh hoa
của nhân loại và các trào lưu tư tưởng tiến bộ trên thế giới, tuy nhiên, việc tiếp thu phải có
chọn lọc, trên nền tảng các giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc, để làm giàu thêm bản sắc
dân tộc. Đồng thời, phải tự mình nỗ lực vươn lên, không trông chờ, ỷ lại, dựa dẫm vào người
khác; tích cực nâng cao năng lực ngoại ngữ, trở thành những công dân toàn cầu.

Thứ tư, bài học về nghị lực và ý chí quyết tâm, sự nỗ lực, phấn đấu vươn lên không ngừng.

Quá trình tìm đường cứu nước và cả cuộc đời hoạt động cách mạng của người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm
gương sáng ngời về nghị lực, ý chí quyết tâm, sự nỗ lực, phấn đấu vươn lên không ngừng,
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Học theo Người, thanh niên ngày nay phải luôn có ý thức
tự rèn thái độ sống đúng đắn, ý chí, nghị lực vươn lên, vượt khó sáng tạo. Mỗi thanh niên
phải tự làm giàu cho bản thân về tri thức, sức khỏe, kỹ năng, hun đúc khát vọng vươn tới
những tầm cao và không bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Công cuộc xây dựng và

51
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ còn nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi thanh
niên phải ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao nghị lực, ý chí quyết tâm, ý thức giác ngộ lý
tưởng cách mạng, để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang của tuổi trẻ, đóng góp xứng đáng
vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Thứ năm, bài học về tinh thần tự học, học tập suốt đời.

Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đi đến nhiều quốc gia, nhiều châu lục. Dù ở đâu, Người
cũng tìm mọi cách để học tập và tự tìm hiểu để nâng cao tri thức, để kiếm sống và để hoạt
động cách mạng. Người từng làm rất nhiều nghề khác nhau, như thợ đốt lò trên tàu viễn
dương, đầu bếp, quét tuyết, bốc thuốc, viết báo, viết kịch, thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ…;
tự học rất nhiều thứ tiếng, như Pháp, Anh, Trung Quốc, I-ta-li-a, Đức, Nga, Thái Lan, Tây
Ban Nha, A-rập... Nhờ đó, Người đã đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo
(L’Humanité) - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và ngày 17-7-1920,
tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người là một tấm gương
sáng ngời về tinh thần tự học, học tập suốt đời. Học tập để hoạt động cách mạng, để đạt được
mục tiêu, lý tưởng của mình và ngược lại, thông qua hoạt động cách mạng để không ngừng
học tập, hoàn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. 

Tấm gương tự học, học tập suốt đời của Bác để lại nhiều bài học và những chỉ dẫn
quý báu mà chúng ta cần học tập và noi theo. Mỗi thanh niên ngày nay phải không ngừng tự
học tập, tự rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, đồng thời coi tự học là nhu
cầu, thói quen hằng ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt được. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu
cầu, đòi hỏi mỗi thanh niên phải tự nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ, năng lực số để chủ
động tham gia, nắm bắt và tận dụng tối đa cơ hội của chuyển đổi số, trở thành những công
dân toàn cầu, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho các bước phát triển nhảy vọt của đất
nước.

52
Thứ sáu, bài học về việc chăm lo cho thế hệ tương lai.

Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước khi đang
trong độ tuổi thanh niên. Người tham gia hoạt động cách mạng, đến với “Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin, tìm ra chân
lý cứu nước, cứu dân cũng trong tuổi thanh xuân của mình. Vì vậy, Người luôn đặc biệt coi
trọng và đánh giá cao vai trò của thanh niên. Người đã lựa chọn đối tượng đầu tiên để truyền
bá tư tưởng cách mạng vào Việt Nam là thanh niên, thức tỉnh họ, làm cho họ nhận ra con
đường và đi trên con đường cách mạng, ý thức được bổn phận và trách nhiệm của mình trước
dân tộc. Cũng chính Người đã sáng lập ra các tổ chức của thanh niên, thiếu niên, nhi đồng
yêu nước, để giáo dục, đoàn kết tập hợp các đối tượng này. Ra đi tìm đường cứu nước năm
1911, 30 năm sau, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, một trong những việc quan trọng đầu tiên mà Người chỉ đạo là thành lập Mặt trận Việt
Minh và các hội cứu quốc, trong đó có “Đội nhi đồng Cứu quốc”, nay là Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh và giao cho Đoàn Thanh niên phụ trách công tác thiếu nhi. Cùng với đó,
Người chỉ đạo đổi tên Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương thành Đoàn Thanh niên Cứu
quốc Việt Nam. Trong suốt cuộc đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đến thế hệ
trẻ của nước nhà.

Liên hệ thực tế ngành học

Đối với ngành IT nói riêng, với xu hướng phát triển một cách chóng mặt của công
nghệ thông tin thì chúng em luôn luôn phải thích nghi với xu hướng phát triển của nó vì vậy
mà mỗi người luôn cần trang bị cho mình sự chủ động tìm tòi học hỏi cái mới cái chưa biết
để mở rộng vốn kiến thức cũng như thích nghi, bắt kịp xu hướng phát triển của nghành công
nghệ thông tin để tạo tiền đề cho sự phát triển, vươn tầm của bản thân và góp một phần công
sức vào công cuộc xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước mà tiền đề ở đây là mỗi sinh viên
phải có một ý chí quyết tâm, dám nghĩ dám làm, mang trong mình sự nhiệt huyết của tuổi trẻ
và sự nhìn nhận đúng đắn về mọi vấn đề trong cuộc sống. Chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành
không có gì trong tay, không một sự giúp đỡ, chỉ có một lòng yêu nước vô bờ, tinh thần của
tuổi trẻ, đã mang lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Nay những thế hệ tiếp theo, mà công
nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo là những mũi nhọn, là kim chỉ nam cho sự phát triển của thế
53
giới thì chúng em càng cần nỗ lực hơn nữa để tương lai trở thành đầu tàu chèo lái đất nước
vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Tài liệu tham khảo

1. Tư liệu từ chuyến đi thực thế Bảo tàng Hồ Chí Minh


2. Sách Hồ Chí Minh toàn tập , tập 1, tập 2
3. Sách Hồ Chí Minh – Biểu tượng của thời đại
4. http://baoquankhu4.com.vn/chinh-tri/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-
cuu-nuoc-05-6-19/
5. baotanghochiminh.vn
6. https://baotang.hochiminh.vn/
7. Sách Chủ tịch Hồ Chí Minh – Hành trình tìm đường cứu nước
8. https://vietnamnet.vn/trung-bay-chuyen-de-nguoi-di-tim-hinh-cua-nuoc-tai-bao-tang-
ho-chi-minh-791793.html
9. https://quochoi.vn/tintuc/Pages/danh-sach-tin-tuc.aspx?ItemID=56338&CategoryId=0
10. Cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh qua lời kể của G.S Hoàng Chí Bảo
11. Phim tư liệu Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước Pháp – VTV đặc biệt
12. Phim tài liệu Hồ Chí Minh- Theo dấu chân người – VTV3
13. https://baodantoc.vn/tam-voc-y-nghia-lich-su-su-kien-nguyen-tat-thanh-ra-di-tim-
duong-cuu-nuoc-1622516079098.htm
14. https://thehehochiminh.wordpress.com/2010/01/03/t%E1%BA%A1i-sao-h%E1%BB
%93-chi-minh-sang-lien-xo-nh%E1%BB%AFng-nam-1923-1924/
15. https://congdoanhaiphong.vn/tin-tuc-su-kien/danh-muc-trong/lich-su-va-y-nghia-su-
ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-03-02-1930-4095.html
16. http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/

54
17. https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/hanh-
trinh-lich-su/hanh-trinh-tren-que-huong-cach-mang-thang-muoi-nga-661020
18. http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh-voi-quang-chau-trung-
quoc-2832
19. https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/hanh-
trinh-lich-su/hanh-trinh-tren-que-huong-cach-mang-thang-muoi-nga-661020
20.

55

You might also like