Professional Documents
Culture Documents
của nhóm thì chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu chủ đề lựa chọn phương
thức thâm nhập.
Chúng ta có thể thấy rằng các công ty thường mở rộng ra quốc tế để ki ếm
lợi nhuận lớn hơn từ các năng lực cốt lõi của họ, bằng cách chuy ển giao
các kỹ năng và sản phẩm có nguồn gốc từ các năng lực cốt lõi của họ sang
các thị trường nước ngoài nơi mà các đối thủ cạnh tranh bản địa thiếu
những kỹ năng đó. Cách thức thâm nhập tối ưu cho những doanh nghiệp
này phụ thuộc vào bản chất các năng lực cốt lõi của họ. Sự khác biệt có thể
được rút ra giữa các công ty này chính là năng lực cốt lõi của họ thuộc về
bí quyết công nghệ hay thuộc về bí quyết quản lý.
Thứ ba, những người quản lý tin rằng những vụ thâu tóm thì ít r ủi ro h ơn
là việc thành lập công ty mới hoàn toàn. Khi một công ty tiến hành một v ụ
thâu tóm, họ mua toàn bộ tài sản của công ty và những tài sản này lúc đó
vẫn đang sản sinh ra lợi nhuận và doanh thu. Trong khi đó, doanh thu và
lợi nhuận từ một công ty thành lập mới hoàn toàn là không chắc chắn và
cũng không tổn tại ngay lúc đó. Ngoài ra, khi một công ty tiến hành một
vụ thâu tóm trên thị trường nước ngoài, họ không chỉ mua l ại được những
tài sản hữu hình, như: máy móc, hệ thống hậu cần,... mà còn mua l ại được
những tài sản vô hình bao gồm thương hiệu và khách hàng t ại qu ốc gia đó.
Mình có một ví dụ chính là thương vụ mua lại Instagram của Facebook
vào năm 2012. Thay vì phát triển một sản phẩm mới, Facebook đã quyết
định mua lại Instagram, một ứng dụng chia sẻ hình ảnh và video ngắn n ổi
tiếng với hơn 30 triệu người dùng. Thương vụ này được coi là ít rủi ro h ơn
so với việc thành lập một công ty mới hoàn toàn bởi vì Instagram đã có s ẵ
một lượng người dùng đáng kể, đồng thời đã có một thị trường và một
danh mục khách hàng trung thành.
Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm thì những vụ thâu tóm cũng
thường xuyên cho ra kết quả thất vọng. Và những vụ thâu tóm thất b ại là
do một vài lý do sau. Đẩu tiên, những công ty tiến hành mua lại th ường
xuyên trả nhiểu hơn giá trị tài sản của công ty bị mua lại. Vì giá c ủa công
ty mục tiêu có thể cao hơn giá trị ban đầu nếu có một công ty khác muốn
mua lại. Thêm vào nữa, ban quản lý của những công ty tiến hành mua l ại
thường xuyên quá lạc quan về giá trị và họ cũng sẵn lòng để trả nhiều hơn
mức vốn hóa thị trường của công ty mục tiêu. Ví dụ như Daimler-Benz
mua lại Chrysler vào năm 1998 với giá 40 tỷ $, hơn 40% giá trị th ị trường
của Chrysler trước khi tiến hành mua lại. Daimler đã trả quá nhi ểu b ởi vi
họ nghĩ rằng họ có thể sử dụng Chrysler để có thể tăng thị phần tại Mỹ.
Tuy nhiên, trong vòng một năm mua lại, DaimlerChrysler đã phải đối mặt
với một cuộc khủng hoảng do việc kinh doanh yếu kém trên thị trường
Mỹ.
Thứ hai, rất nhiều vụ thâu tóm thất bại do có nh ững s ự xung đột v ề v ăn
hóa của công ty tiến hành mua lại và công ty bị mua lại. Sau khi v ụ thâu
tóm hoàn thành, rất nhiểu công ty bị mua lại bị mất đi lực lượng quản lý,
bởi vì những nhân viên của họ không thích nghi được với cách làm việc
của những công ty tiến hành vụ thâu tóm. Điều đó đã xảy ra tại
DaimlerChrysler, rất nhiều chuyên gia quản lý đã rời bỏ DaimlerChrysler
trong năm đầu tiên sau khi thương vụ sáp nhập được tiến hành vì lí do
những người quản lý người Mỹ được trả lương gấp 2 đến 3 lần những
đổng nghiệp người Đức.
Thứ ba, chính là khó khăn trong việc hòa nhập giữa công ty ti ến hành
mua lại và công ty bị mua lại, điểu đó thường xuyên gặp phải những rào
cản. Và sự khác nhau của trong triết lý quản lý và văn hóa công ty c ũng có
thể làm chậm tiến trình hội nhập hoạt động. Qụay trở lại ví dụ tại
DaimlerChrysler, sự khác nhau sáu múi giờ giữa những người ở Mỹ và
những người ở Đức đã làm kế hoạch hòa nhập của công ty bị quá hạn.
Cuối cùng, rất nhiểu các vụ thâu tóm thất bại do những sự sàng lọc trước
khi tiến hành mua lại. Rất nhiều các công ty đã quyết định tiến hành mua
lại một công ty khác mà không phán tích những lợi ích và chi phí ti ềm
năng. Họ thường xuyên tiến hành một vụ thâu tóm quá vội vàng, có lẽ bởi
vì nỗi lo về việc một đối thủ cạnh tranh khác sẽ mua trước trong thương
vụ. Tuy nhiên, sau khi thực hiện xong vụ thâu tóm, rất nhiểu công ty đã
khám phá ra rằng họ đã mua phải một công ty có vấn để chứ không phải
một công ty hoạt động tốt.
Một ví dụ thực tiễn là việc tập đoàn dầu khí BP (British Petroleum) mua
lại công ty TNK-BP của Nga vào năm 2013. Trước khi thực hiện thương
vụ mua lại TNK-BP, BP đã bỏ qua việc xem xét kỹ các yếu tố quan tr ọng
như rủi ro chính trị và quản lý tài chính của công ty. Sau khi mua l ại, BP
đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và rủi ro trong việc quản lý TNK-BP,
bao gồm các tranh chấp với đối tác Nga và phải bán lại các tài s ản không
cần thiết để giảm thiểu rủi ro tài chính. Điều này đã dẫn đến vi ệc BP phải
chịu tổn thất tài chính lớn, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh c ủa
công ty.
Nhược điểm: Bên cạnh những lợi thế, thành lập mới hoàn toàn một công
ty cũng có những bất lợi. Công ty thành lập mới hoàn toàn sẽ tốn thời gian
để có thể phát triển và cũng gặp khá nhiều rủi ro. Với công ty thành lập
mới hoàn toàn, doanh thu và lợi nhuận trong tương lai đểu không thể chắc
chắn.
Một bất lợi khác chính là khả năng thị trường bị chiếm trước bởi các đối
thủ cạnh tranh toàn cầu và xây dựng sự hiện diện lớn của họ tới mức hạn
chế tiềm năng thị trường của một công ty thành lập mới hoàn toàn. Ví dụ
như trong những năm 1990, McDonald's đã mở rộng quy mô kinh doanh
của mình vào thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, khi bắt đầu hoạt động tại
Trung Quốc, McDonald's đã phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ
các đối thủ toàn cầu, điển hình là KFC.
GAME
Trước khi kết thúc bài thuyết trình thì nhóm em có một trò chơi nhỏ dành cho
các bạn trong lớp. Mình tin rằng trò chơi này chắc chắn ai trong lớp mình cũng
đã từng chơi qua hoặc từng biết tới nó rồi. Đó là Plant and Zombie. Luật chơi
thì cũng đơn giản thôi. Ở đây mình có 5 câu hỏi trắc nghiệm, nếu các bạn trả lời
đúng thì những con plant này sẽ giết đc zombie còn nếu bạn trả lời sai thì
zombie sẽ ăn mấy con plant và bạn sẽ bị thua cuộc ngay lập tức. (Và ko luyên
tha luyên thuyên nữa) Chúng ta sẽ bắt đầu với câu số 1