Professional Documents
Culture Documents
LV CK2-33 TQAnh+DsBn N pĐHY 01.12.21
LV CK2-33 TQAnh+DsBn N pĐHY 01.12.21
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
HÀ NỘI – 2021
LỜI CẢM ƠN
Sau 2 năm học tập và nghiên cứu, được sự giảng dạy, chỉ bảo tận tình
của các thầy giáo, cô giáo, các nhà khoa học và sự nỗ lực của bản thân. Đến
nay, tôi đã hoàn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
sau đại học, Bộ môn Ngoại Trường Đại Học Y Hà Nội, Ban Giám đốc, Khoa
Ngoại 2, Phòng kế hoạch tổng hợp, Bệnh Viện Bưu Điện đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới: các thầy trong hội đồng chấm đề
cương đã góp ý tích cực cho tôi để tôi hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Với lòng biết ơn chân thành nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
PGS.TS. Đỗ Trường Thành, người thầy đáng kính đã dành thời gian, trí tuệ,
tận tình chỉ bảo, dìu dắt, dạy tôi những kiến thức chuyên môn quý báu trong
suốt quá trình học tập và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng với tình cảm thân thương nhất, tôi xin cảm ơn toàn thể gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên giúp đỡ và ủng hộ tôi trong suốt
thời gian tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi là Trần Quốc Anh học viên lớp Chuyên khoa II - Khóa 33 chuyên
ngành Ngoại khoa Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của: PGS.TS. ĐỖ TRƯỜNG THÀNH.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2021
Học viên
Biểu đồ 3.1. Phân bố nhóm tuổi của bệnh nhân nghiên cứu...........................45
Biểu đồ 3.2. Phân bố giới tính của bệnh nhân nghiên cứu..............................46
Biểu đồ 3.3. Phân loại BMI của bệnh nhân nghiên cứu..................................47
Biểu đồ 3.4. Vị trí sỏi......................................................................................48
Biểu đồ 3.5. Phân loại kích thước sỏi..............................................................49
Biểu đồ 3.6. Xét nghiệm nước tiểu..................................................................52
DANH MỤC HÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sỏi tiết niệu là bệnh thường gặp trên thế giới, nguy cơ hình thành sỏi ở
một cá thể là 5 – 10 %.1 Hiện nay ở Việt Nam sỏi tiết niệu là bệnh khá phổ
biến, chiếm tỷ lệ 45 – 50% trong số bệnh lý tiết niệu nói chung. Trong bệnh lý
sỏi tiết niệu thì sỏi thận chiếm vị trí hàng đầu với tỷ lệ từ 70 - 75%, thường
gặp ở độ tuổi 30 -60 tuổi, tỷ lệ gặp ở nam thường cao hơn nữ.2
Khoảng 80% bệnh sỏi tiết niệu được chữa khỏi hoặc kiểm soát được
bằng điều trị nội khoa phần còn lại cần phải can thiệp ngoại khoa. 1,2 Những
năm đầu của thế kỷ XX trên thế giới và ở nước ta điều trị sỏi thận chủ yếu là
áp dụng phương pháp mổ mở kinh điển. Từ nửa sau của thế kỷ XX, cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật trên thế giới đã có nhiều phương pháp
điều trị sỏi thận ít xâm lấn như tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL), tán sỏi nội soi
ngược dòng (RIRS), tán sỏi thận qua da (Percutaneous nephrolithotomy -
PCNL) dần thay thế mổ mở. Mổ mở chỉ còn là chỉ định cuối cùng khi các
phương pháp điều trị ít xâm lấn thất bại hoặc không thể áp dụng.
Phẫu thuật Tán sỏi thận qua da đường hầm tiêu chuẩn 24 - 30Fr được
Fernstrom và Johansson thực hiện và công bố lần đầu tiên năm 1976.3,4 Từ
năm 2008 PCNL đường hầm nhỏ được áp dụng trên thế giới với kích cỡ ống
nong thường từ 12 - 20Fr đã mang lại hiệu quả cao, khắc phục được hạn chế
cũng như giảm thiểu biến chứng của PCNL đường hầm tiêu chuẩn.5,6
Tại Việt Nam năm 1997 bắt đầu thực hiện TSQD đường hầm tiêu
chuẩn, định vị sỏi bằng X quang ở một số trung tâm ngoại khoa lớn như BV
Việt Đức, BVTW 108.7,8 Đến năm 2012 TSQD đường hầm nhỏ được áp dụng
tại Việt Nam đã đạt tỷ lệ sạch sỏi cao, giảm thiểu các biến chứng so với
TSQD tiêu chuẩn.9 Bên cạnh đó việc áp dụng siêu âm để định vị sỏi giúp kỹ
thuật được tiến hành đơn giản, thuận lợi hơn cũng như tránh được phơi nhiễm
2
X quang. Năm 2019 Đỗ Trường Thành báo cáo kết quả tán sỏi qua da đường
hầm nhỏ, định vị bằng siêu âm trên 1065 bệnh nhân cho kết quả sạch sỏi
97,52%; tỷ lệ biến chứng sau mổ là 2,44%. 10 Trong thời gian gần đây, với ưu
điểm thuận lợi trong triển khai, kết quả phẫu thuật tốt, hiệu quả cao, TSQD
đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm điều trị sỏi thận được đào tạo
chuyển giao kỹ thuật, triển khai rộng rãi tại các cơ sở y tế trong cả nước.
Tại Bệnh viện Bưu Điện phẫu thuật tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ
định vị sỏi bằng siêu âm đã được triển khai từ năm 2017, mang lại nhiều lợi ích,
thuận lợi trong triển khai, giảm nguy cơ chảy máu, suy thận tiềm tàng, đạt hiệu
quả cao trong lấy sỏi. Nhằm đánh giá tính hiệu quả và mức độ an toàn của
phương pháp phẫu thuật này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá
kết quả phẫu thuật tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu
âm tại Bệnh viện Bưu điện” với 2 mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân được phẫu
thuật tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm tại
Bệnh viện Bưu Điện.
2. Đánh giá kết quả sớm và một số yếu tố liên quan đến kết quả sớm của
phẫu thuật tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm
ở nhóm bệnh nhân trên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
cột sống 6cm. Xương sườn 12 chắn ngang phía sau thận ngang mức phạm vi
dưới của cơ hoành và chia mặt sau thận thành 2 tầng liên quan: tầng ngực ở
trên liên quan với xương sườn 11, 12, góc sườn hoành màng phổi và cơ
hoành, tầng thắt lưng liên quan cơ ngang bụng, cơ vuông thắt lưng và cơ thắt
lưng. Vì mặt sau thận, ở cực trên được che lấp bởi xương sườn 11, 12 và
màng phổi.11 Do vậy, khi chọc dò vào thận qua nhóm đài trên dễ gây thủng cơ
hoành vào khoang màng phổi, phổi.
Hệ thống bài xuất của thận có nguồn gốc về mặt vi thể ở vùng vỏ tại
tiểu cầu thận, nơi mà dịch lọc đầu tiên thấm vào bao Bowman. Dịch lọc từ
bao Bowman qua ống lượn gần, quai Henle và ống lượn xa và cuối cùng trở
thành nước tiểu đổ vào ống góp. Các ống góp tập trung thành ống nhú đổ vào
đài nhỏ ở đỉnh của tháp thận, mỗi thận có từ 7 - 13 đài nhỏ, mỗi miệng đài nhỏ
loe ra úp lên 1-3 nhú thận.11,15
Đài thận nhỏ là cấu trúc lớn đầu tiên của hệ thống bài xuất của thận.
Chúng xếp thành 2 hàng theo chiều dọc của tháp thận và các đài thận tương
ứng. Vì sự xoay tự nhiên của thận nên những đài trước điển hình sẽ mở rộng
ra bên trong bình diện đứng ngang, trong khi đó những đài sau mở rộng ra sau
trong bình diện đứng dọc. Các đài nhỏ hợp lại với nhau thành 2 - 3 đài lớn và
cuối cùng các đài lớn hợp thành bể thận.11
Bể thận được hình thành từ sự tập hợp của hai đài lớn trên có thể bổ sung
1-3 đài nhỏ trung gian ở giữa. Đài lớn trên dài và mảnh, đi chéo xuống dưới và
vào trong theo một góc 450 và phần giữa đài này thu hẹp lại. Đài lớn dưới gần
như nằm ngang, rộng hơn và không có chỗ hẹp. Đôi khi xuất hiện thêm đài lớn
giữa đổ vào góc hợp bởi hai đài lớn trên và dưới. Hướng của các đài thận rất có
giá trị trong việc định hướng chọc vào các đài thận trong tán sỏi qua da.14,15
Bể thận nhìn chung có hình phễu dẹt, miệng phễu nhận nước tiểu từ các
đài lớn và đài nhỏ đổ vào, phần đáy hẹp tiếp nối với niệu quản cách rốn thận
khoảng 1cm.15 Vị trí bể thận so với xoang thận không hằng định. Bể thận
thường nằm ở vị trí trung gian (33,3%), một nửa nằm trong xoang, một nửa
nằm ngoài xoang, nhưng có thể bể thận nằm ngoài xoang (30,6%) hay trong
xoang hoàn toàn (36,1%).15,16 Bể thận có nhiều hình thái khác nhau, hình dạng
bể thận theo phân loại của Graves (1986) có một số thể dạng như sau: dạng
phễu: 56% (112/200); dạng chữ Y: 13% (26/200); dạng cành cây: 15%
(30/200); dạng bóng: 11,5% (23/200); dạng chữ T: 4,5% (9/200).15,17
8
Mặt trước bể thận thường bị che phủ bởi các nhánh của ngành ĐM
trước bể gây khó khăn cho việc phẫu tích vào mặt trước bể thận. Trong khi
ngành ĐM sau bể thận chỉ che 1/3 trên mặt sau bể thận phần ngoài xoang, 2/3
dưới bể thận thường không bị che lấp bởi mạch máu nên mặt sau bể thận là
đường vào bể thận thuận lợi.14,15
1.1.1.5. Phân bố mạch thận
Mạch thận gồm 1 động mạch và 1 tĩnh mạch lớn đi vào và đi ra khỏi
thận qua rốn thận.18 Trên bình diện giải phẫu tĩnh mạch nằm ở trước hơn động
mạch và cả động mạch và tĩnh mạch đều nằm trước hơn so với hệ thống đài
bể thận.19
Động mạch thận
Xuất phát từ động mạch chủ bụng, ngay dưới động mạch mạc treo
màng trên, thường ở ngang mức bờ trên đốt sống thắt lưng II hay thân đốt
sống thắt lưng I. Động mạch thận phải đi sau tĩnh mạch chủ dưới.14
Động mạch thận phải dài hơn động mạch thận trái, nó chạy ngang trước
đốt sống thắt lưng I, đi chếch xuống dưới ở phía sau tĩnh mạch chủ dưới, dọc
sau tĩnh mạch thận tương ứng, khi tới rốn thận thì chạy chếch lên trên tĩnh
mạch thận.11
Động mạch thận trái ngắn hơn, nằm trong bình diện ngang hoặc đi xiên
xuống dưới một chút để vào rốn thận. Cả hai động mạch thận xoay ra phía sau.
Động mạch thận có đường kính tương đối lớn vì vừa có chức năng nuôi
dưỡng tổ chức thận vừa là động mạch thận chức phận.11,16
Phân nhánh động mạch thận.
Động mạch thận thường chia thành 2 nhánh tận là các ngành trước bể
và sau bể khi đến cách rốn thận 2 - 3 cm.11,14
Ngành trước bể thường chạy lên trên TM thận, bắt chéo mặt trước bể
thận để chia thành chia thành 3 - 5 nhánh (4 động mạch) phủ mặt trước bể
thận, rồi chạy qua rốn thận vào xoang thận.
9
Ngành sau thường đi ở trên bể thận tới góc sau trên rốn thận thì chạy
vòng xuống bắt chéo mặt sau bể thận ở sát mép sau rốn thận và chia nhánh
cấp máu cho mặt sau.
Ngành ĐM trước bể phân nhánh tới các phân thuỳ nửa trước. Ngành
ĐM sau bể phân nhánh vào phân thuỳ sau.
Các nhánh của ngành trước; ngành sau bể tiếp tục phân chia thành
nhiều ngành nhỏ hơn trong xoang thận để chui vào nhu mô.
Hình 1.6. Liên quan của thận với các tạng trong ổ bụng.12
Mặt trước bên của hai thận liên quan đến đại tràng nên khi chọc dò tìm
đường vào thận dễ gây tổn thương vào đại tràng.7
Hình 1.7. Liên quan giữa thận với màng phổi và đại tràng.12
Mặt sau là mặt phẫu thuật kinh điển khi mổ mở lấy sỏi thận và đồng
thời cũng là vùng tạo đường hầm trong quá trình nội soi tán sỏi qua da.
12
Vị trí thường vào là điểm ngay bên dưới xương sườn 12 một vài cm.
Không nên chọc sát xương sườn 12 có thể gây tổn thương mạch và thần kinh
gian sườn.
Thận phải Tụy ĐM chủ bụng Thận trái
Hình 1.8. Hướng chọc vào đài thận mặt sau ngoài - vùng vô mạch.23
Phần lớn các trường hợp tán sỏi qua da có đường chọc dò vào thận qua
đài giữa và đài dưới.
Đường chọc dò vào thận thích hợp nhất là đường ít tổn hại mạch máu
nhất. Nghiên cứu cổ điển của Brodel (1901) đã mô tả vùng vô mạch tương đối
ở mặt sau của thận giữa chỗ phân chia của động mạch thận ở mặt trước và
mặt sau thận. Vì thế để đi vào hệ thống đài bể thận nên dựa vào các trục của
đài thận và đi qua chiều dày nhu mô thận.21
Hình 1.9. Diện vô mạch giữa nhánh của ngành trước và sau ĐMT.22
13
Đường chọc dò vào thận thường là đường vuông góc mặt sau ngoài
thận ít tổn hại mạch máu và tạng xung quanh nhất, tương ứng với việc tiếp
cận nhóm đài sau thận. Về mặt giải phẫu một đường chọc tốt là đường chọc
ngắn nhất qua nhu mô, chỉ đâm qua các vi mạch để giảm thiểu tổn thương nhu
mô cũng như mức độ chảy máu ở mức thấp nhất, đó chính là đường đi qua
đỉnh của tháp thận, đỉnh của đài thận là vị trí phù hợp nhất và an toàn nhất để
chọc kim và nong giãn. Đây không chỉ là phần ít di động nhất của đài thận mà còn
là phần nhu mô mỏng nhất đồng thời không có các mạch thuỳ thận đi qua chỉ có
các vi mạch song song với đường bài xuất, đầu của kim chọc dừng ở bể thận.
ứng với các mốc xương sườn, cột sống trên phim chụp, nghiên cứu kỹ chi tiết
giải phẫu đài bể thận, cần xác định chính xác vị trí sỏi, mức độ giãn của các
đài, bể thận, liên quan giữa sỏi, thận, bể thận, xương sườn, và các tạng liên
quan trước mổ để quyết định đường chọc dò tạo điều kiện cho việc siêu âm
chọc vào thận trong mổ nhanh hơn, chính xác, tiếp cận được với sỏi nhiều
nhất, dễ thực hiện nhất, hạn chế tai biến, biến chứng.
1.2. NGUYÊN NHÂN VÀ SỰ HÌNH THÀNH SỎI THẬN.
1.2.1. Sự hình thành sỏi thận.
Sỏi tiết niệu là hậu quả của những rối loạn thành phần các chất vô cơ
trong nước tiểu từ đó thúc đẩy quá trình bão hòa nước tiểu. Thành phần của
sỏi có thể là chất khoáng hoặc hữu cơ hoặc cả hai thành phần.
Cơ chế hình thành sỏi thận chưa được xác định rõ ràng, có nhiều giả
thiết nhưng giả thiết được nhiều người chấp nhận nhất là việc hình thành sỏi
từ trong lòng của hệ tiết niệu. Sự hình thành sỏi trải qua nhiều giai đoạn: sự
hình thành nhân sỏi, kết tụ các nhân sỏi, cố định sỏi ở một vị trí nhất định và
từ đây sỏi cứ to dần lên, rất nhiều các yếu tố khác nhau tham gia quá trình
hình thành sỏi.24
Những thành phần hóa học khác nhau có thể kết tinh ở dưới nhiều
dạng khác nhau. Canxi oxalate kết tinh dưới dạng CaOx monohydrate (COM)
hoặc CaOx dihydrat (COD) hay CaOx trihydrat (COT). Cơ chế hình thành sỏi
còn phụ thuộc vào tình trạng giải phẫu của thận và sự chuyển hóa.25,26
1.2.2. Nguyên nhân sinh bệnh sỏi thận.
Có nhiều nguyên nhân gây sỏi thận. Ngoài các yếu tố do ăn uống, sỏi
thận có thể xuất hiện do những rối loạn chuyển hoá, các bệnh lý tiết niệu,
bệnh đường ruột, rối loạn chức năng tiểu cầu thận, bệnh lý thần kinh hoặc do
quá trình điều trị.
15
Giảm bài tiết nước tiểu có thể do thói quen uống ít nước, mất nước do
làm việc trong môi trường nóng hay do ỉa chảy kéo dài.20,27
1.2.2.1. Tăng canxi niệu.28
Tăng canxi niệu là khi lượng canxi trong nước tiểu > 300mg/24h ở nam
và 250mg/24h ở nữ. Nguyên nhân gây tăng canxi niệu có thể là:
Tăng canxi niệu do hấp thụ.
Tăng canxi niệu thứ phát sau khi ăn nhiều natri.
Tăng canxi niệu do tiêu huỷ: bệnh lý cường cận giáp.
Tăng canxi niệu tự phát: Hay gặp ở các bệnh ác tính như u hạch
lympho.
Ngoài ra, các bệnh như cường chức năng tuyến giáp, bệnh u
hạt (sarcoidois, tuberculosis …) cũng có thể là nguyên nhân gây
tăng canxi niệu.29
1.2.2.2. Tăng oxalate niệu.
Bệnh lý xảy ra có thể do rối loạn về gen làm tăng quá trình tổng hợp
oxalate tại gan và hội chứng ruột ngắn kém hấp thụ.
Các thức ăn như chè, cafe, socola … có nhiều hàm lượng oxalate.
1.2.2.3. Tăng acid uric niệu
Gặp trong bệnh Gout, u tuỷ.
1.2.2.4. Tăng cystine niệu
Bệnh có tính chất di truyền, tăng cystine niệu là khi nồng độ cystine
niệu trên 200mg điều này làm môi trường nước tiểu toan hoá lại tạo điều kiện
hình thành sỏi cystine.30
1.2.2.5. Tăng xanthine niệu
Enzym xanthine oxydase tham gia chuyển hoá base purin: chuyển
hyphoxanthine thành xanthine, rồi thành acid uric. Sự thiếu enzym này làm
cho hypoxanthine tăng cao trong nước tiểu và tạo điều kiện hình thành sỏi.
16
Đái máu: 75% các trường hợp cơn đau quặn thận có kèm theo các rối
loạn tiểu tiện như đái máu, đái buốt, đái rắt.
Một số trường hợp cơ đau quặn thận đi kèm với rối loạn tiêu hóa như
buồn nôn, nôn, bụng chướng.
1.3.2.2. Triệu chứng thực thể
Qua thăm khám có thể ấn đau vùng thắt lưng, các trường hợp sỏi thận
kéo dài gây giãn đài bể thận có các dấu hiệu chạm thận, bập bềnh thận.
1.3.3. Triệu chứng cận lâm sàng
1.3.3.1. Chụp X quang hệ tiết niệu
Phim X quang hệ tiết niệu không chuẩn bị giúp phát hiện sỏi cản
quang, đánh giá hình thái, kích thước, vị trí, số lượng sỏi. Ngoài ra thông qua
tính cản quang của sỏi có thể tiên lượng sỏi dễ vỡ khi tán hay sỏi cứng khó vỡ
khi tán. Thông thường sỏi có mật độ cản quang cao thường cứng, khó vỡ
thành mảnh nhỏ khi chúng ta tán sỏi.
1.3.3.2. Siêu âm hệ tiết niệu
Siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh hữu hiệu và an toàn, rất có
giá trị trong chẩn đoán bệnh lý hệ tiết niệu. Siêu âm đánh giá tình trạng ứ
nước thận, phát hiện cũng như đánh giá vị trí, số lượng và kích thước sỏi.
Hiện tại siêu âm còn được sử dụng để định vị sỏi trong quá trình chọc
dò tán sỏi thận qua da.
1.3.3.3. Chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV)
Đánh giá được chức năng của thận
Xác định được sỏi trên hệ tiết niệu kể cả sỏi không cản quang
Đánh giá được hình dáng của đài bể thận và hệ tiết niệu.
Đánh giá được sự lưu thông của cả hệ tiết niệu
19
chứng hoặc kích thước tăng thường xuyên, cũng như trường hợp can thiệp
theo yêu cầu của bệnh nhân.32 Điều trị ngoại khoa bao gồm các phẫu thuật mở
kinh điển và các phương pháp can thiệp ít xâm lấn.20,31
1.4.2.1. Phẫu thuật mổ mở kinh điển.33
Hyppocrate (460 - 370), là người đầu tiên mô tả phẫu thuật trong bệnh
lý sỏi thận. Nghiên cứu phẫu thuật lấy sỏi thận đạt tới đỉnh cao vào những
năm giữa thế kỷ 20. Phẫu thuật mổ mở kinh điển là phương pháp được áp
dụng trong một thời gian dài điều trị sỏi thận.33
Chỉ định:
- Sỏi đài bể thận có biến chứng: Nhiễm khuẩn, viêm đài bể thận, thận
ứ nước, ứ mủ, suy thận…
- Sau can thiệp các phương pháp khác thất bại: Tán sỏi ngoài cơ thể,
Mổ nội soi lấy sỏi, Tán sỏi qua da…
Phương pháp mổ lấy sỏi thận:
- Mở bể thận lấy sỏi với sỏi đài bể thận trung gian và ngoài xoang,
chiếm 70 -75% các trường hợp sỏi thận.
- Mở bể thận rộng rãi (Gil Vernet) với sỏi san hô lớn.
- Mở bể thận và nhu mô cực dưới (Paquin).
- Mở bể thận và nhu mô mặt sau cực dưới (Boyce.W.H, Resnick).
- Mở qua nhu mô thận để lấy sỏi đài thận khi đài bể thận giãn, thận ứ nước.
- Mở nhu mô thận mở rộng rãi dọc bờ ngoài thận theo đường vô
mạch (Hyrth) lấy sỏi san hô lớn phức tạp là một phẫu thuật lớn,
mức độ tổn thương nhu mô, nguy cơ chảy máu tăng.
- Cắt thận bán phần, cắt thận bán phần có quy cách khi sỏi khu trú ở
một đài thận, đài bể thận chủ yếu cắt thận đài dưới.
- Cắt thận toàn bộ khi thận mất chức năng, ứ nước nhu mô giãn
mỏng, thận ứ mủ do sỏi mất hết chức năng, hay thận teo gây tăng
huyết áp.
21
Ngày nay với sự phát triển của nhiều phương pháp can thiệp ít xâm lấn
phẫu thuật mổ mở lấy sỏi thận đã được thu hẹp ở nhiều nước phát triển.
1.4.2.2. Tán sỏi ngoài cơ thể.
Tán sỏi ngoài cơ thể là một phương pháp ít gây sang chấn dựa trên
nguyên lý: Sóng tập trung vào một tiêu điểm với một áp lực cao làm vỡ sỏi
thành các mảnh nhỏ sau đó bài tiết ra ngoài.34,35
- Chỉ định:
Vị trí sỏi: bể thận, đài trên, đài giữa. Sỏi ở đài dưới thường cho
kết quả kém.
Kích thước sỏi 2,5cm tính theo đường kính lớn nhất.
Số lượng sỏi 3 viên và tập trung ở 1 hoặc 2 vị trí trong hệ thống
đài bể thận.
Chức năng thận còn tốt, không có dấu hiệu tắc nghẽn đường bài
tiết nước tiểu phía dưới viên sỏi định tán.
- Chống chỉ định:
Nhiễm khuẩn tiết niệu tiến triển, chức năng thận kém.
Chít hẹp đường niệu phía dưới sỏi do bẩm sinh hoặc mắc phải.
Bệnh nhân có bệnh lý nội khoa đang tiến triển
Phụ nữ có thai, trẻ em dưới 10 tuổi.
Bệnh nhân dị dạng cột sống hoặc béo phì không định vị được sỏi.
Bệnh nhân có trạng thái tâm thần không ổn định có thể làm ảnh
hưởng tới sự hợp tác trong điều trị.
1.4.2.3. Tán sỏi thận qua nội soi ngược dòng bằng ống soi mềm.31
Năm 1977 Goodman là người đầu tiên báo cáo tán sỏi thận qua nội soi
ngược dòng.36 Với sự phát triển của trang thiết bị, phương pháp này đã được
cải tiến sử dụng nội soi ngược dòng bằng ống bán cứng, ống mềm tán sỏi
thận, áp dụng với trường hợp sỏi đài thận ở mọi vị trí.
22
- Chỉ định
Sỏi bể thận đường kính < 2,5cm, sỏi nhóm đài thận < 2cm.
TSNCT thất bại hoặc chống chỉ định TSNCT.
Sỏi thận sau các can thiệp như TSQD, TSNS, mổ lấy sỏi.
Sỏi thận ở những người có hoàn cảnh như chuẩn bị ghép tạng,
phi công, phụ nữ có thai, làm việc ở biên cương hải đảo...
- Chống chỉ định:
Hẹp, gấp khúc NQ, dị dạng thận NQ không đặt được máy soi
Sỏi kích thước lớn
NKTN, thận ứ nước mất chức năng.
Các bệnh lý nội khoa đang tiến triển.
Chống chỉ định về gây mê hồi sức.
1.4.2.4. Phẫu thuật nội soi lấy sỏi thận trong và sau phúc mạc
Phẫu thuật nội soi trong hoặc sau phúc mạc để lấy sỏi thận được ứng
dụng từ quá trình phát triển của phẫu thuật nội soi ổ bụng. Thường được áp
dụng trong các trường hợp sỏi bể thận với bể thận ngoài xoang hoặc bể thận
trung gian. Tuy nhiên với sự phát triển của các phương pháp can thiệp ít xâm
lấn khác như: tán sỏi thận qua da và tán sỏi thận qua nội soi ngược dòng bằng
ống mềm thì chỉ định mổ nội soi sau phúc mạc lấy sỏi thận đang dần được thu
hẹp. Theo hướng dẫn của hiệp hội tiết niệu Châu Âu (2015) về điều trị sỏi
thận thì phương pháp điều trị này được lựa chọn cho một số trường hợp
không thể tiến hành hoặc điều trị thất bại bằng các phương pháp TSNCT,
TSTQD và tán sỏi NS ngược dòng.32
1.4.2.5. Tán sỏi qua da và tán sỏi qua da đường hầm nhỏ.
Tán sỏi qua da và tán sỏi qua da đường hầm nhỏ điều trị sỏi thận.
Tán sỏi qua da và tán sỏi qua đường hầm nhỏ là phương pháp can thiệp
ít xâm lấn đang được sử dụng phổ biến trong điều trị sỏi thận.4,37
23
- Chỉ định:
Sỏi thận và niệu quản đoạn trên có kích thước lớn hơn 1,5cm.
Sỏi trong túi thừa đài thận.
Sỏi thận nhiều viên.
Sỏi thận đã thất bại với các phương pháp can thiệp khác hoặc
chống chỉ định các can thiệp khác.
- Chống chỉ định:
Bệnh nhân bệnh lý nội khoa chưa được điều trị ổn định.
Bệnh nhân có NKTN.
Phụ nữ có thai.
Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao: già yếu, bệnh phối hợp.
Phình động mạch thận.
Thận teo mất chức năng hay quá giãn độ dầy nhu mô quá mỏng.
Những bệnh nhân có sỏi thận trên thận dị dạng (thận móng ngựa,
thận dị dạng xoay, thận lạc chỗ, thận niệu quản đôi…), ung thư thận, dị dạng
cột sống, hẹp đài bể thận…, khi chỉ định PCNL cần thận trọng.
- Tai biến trong phẫu thuật.
Chảy máu: chảy máu là biến chứng thường gặp, chiếm tỷ lệ 0,5%
đến 1,5%. Vị trí chảy máu có thể xuất phát từ nhu mô thận, tĩnh mạch và động
mạch do tổn thương thủng, rách.38,39
Ngộ độc nước liên quan tới nước rửa, cũng giống như các kỹ
thuật nội soi tiết niệu trong môi trường nước khác, thời gian phẫu thuật quá
dài, dịch rửa thoát ra ngoài vào trong lòng mạch máu thường là tĩnh mạch,
khoang sau hay trong phúc mạc tuy nhiên sự hấp thu này không làm thay đổi
về điện giải và sinh hóa của bệnh nhân. Để giảm bớt ảnh hưởng của biến
chứng các tác giả khuyên có thể dùng nước muối sinh lý.40
24
Thủng hệ thống đài bể thận: Thường xảy ra trong quá trình tạo
đường hầm hoặc trong khi tán và lấy sỏi.
Tổn thương ống tiêu hóa.
Thủng đại tràng: Hiếm gặp với tỷ lệ dưới 1%.
Thủng tá tràng: Hiếm gặp, thường được điều trị bảo tồn
với đặt thông mở thận ra da và thông mũi dạ dày kèm nuôi
dưỡng tĩnh mạch.
Tổn thương gan, lách: rất hiếm gặp.
Tổn thương phổi, màng phổi: Do liên quan mật thiết về giải phẫu
học giữa màng phổi và xương sườn XI, XII nên chọc dò vào thận ở trên
xương sườn có nguy cơ tổn thương phổi và màng phổi với tỷ lệ thay đổi từ
0% đến 8% tùy nghiên cứu.
- Biến chứng sau phẫu thuật.
Chảy máu sau phẫu thuật là biến chứng thường gặp, có thể xảy ra
ngay sau phẫu thuật, cũng có thể gặp muộn sau khi bệnh nhân đã ra viện.
Chảy máu động mạch với tỉ lệ khoảng 0,9 - 3 %, đa số phải truyền máu hoặc
nút mạch chọn lọc, mổ mở cầm máu.41
Sốt, nhiễm khuẩn sau mổ: Có thể do sự giải phóng các chất gây
viêm hay do nhiễm khuẩn niệu hấp thu vào máu, tỷ lệ chuyển sang nhiễm
khuẩn huyết từ 0,8 - 4,7% có thể dẫn tới tử vong từ 0,04 - 0,8%. Theo Segura
và cộng sự tỷ lệ nhiễm trùng huyết sau tán sỏi thận qua da khoảng 0,25% đến
1,5% đa số các trường hợp là từ nhiễm trùng niệu hấp thu vào.39
Rò nước tiểu qua dẫn lưu thận ra da kéo dài, chủ yếu do hoại tử
nhu mô thận chỗ chọc và nong đường hầm. Để xử trí thường chụp lại X quang
hệ tiết niệu, đánh giá tình trạng sỏi sót, có thể phải đặt lại ống thông JJ.
Các biến chứng khác.
25
Năm 1999 Fraser báo cáo tán sỏi qua da dường hầm nhỏ trên 43 trường
hợp tỷ lệ sạch sỏi là 88%.48
Năm 2001 Lahme báo cáo tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng
dẫn của siêu âm qua 19 bệnh nhân tất cả đều sạch sỏi.49
Năm 2008, Basiri thực hiện nghiên cứu so sánh trên 100 bệnh nhân
được tán sỏi định vị bằng siêu âm và màn hình quang cho kết quả sạch sỏi
tương đương nhau nhưng định vị bằng siêu âm tránh được phơi nhiễm bức
xạ.50
Năm 2010 Cheng. F đã nghiên cứu 2 nhóm so sánh mini PCNL và
PCNL tiêu chuẩn đã kết luận mini PCNL có tỷ lệ sạch sỏi cao hơn (85,2% so
với 70,0%) và có tỷ lệ biến chứng thấp hơn.5
Năm 2011, Gamal báo cáo 34 trường hợp tán sỏi qua da định vị bằng
siêu âm cho kết quả sạch sỏi là 94%.51
Zeng (2013) trong báo cáo nghiên cứu 10000 trường hợp mini PCNL
với kích cỡ đường hầm là 18Fr đã kết luận đây là một phương pháp hiệu quả
và an toàn trong điều trị sỏi thận.6
Năm 2017, Samad Zare báo cáo một nghiên cứu gồm 250 bệnh nhân
tán sỏi qua da, định vị tiếp cận sỏi bằng siêu âm tỷ lệ sạch sỏi nói chung là
88% và nhận định đây là phương pháp an toàn và hiệu quả.52
1.5.2. Tại Việt Nam
Năm 1997: Vũ Văn Ty và cộng sự báo cáo các trường hợp tán sỏi qua
da tại bệnh viện Bình Dân.53
Năm 2003: Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng báo cáo kết quả TSTQD tại bệnh
viện Bình dân trên 50 trường hợp.8
Năm 2009: Vũ Nguyễn Khải Ca báo cáo nghiên cứu ứng dụng phương
pháp tán sỏi qua da trong điều trị sỏi thận ở bệnh viện Việt Đức.7
27
Năm 2015: Hồ Trường Thắng báo cáo hiệu quả phương pháp tán sỏi thận
qua da bằng đường hầm nhỏ tại Bệnh viện Việt Đức với 30 trường hợp.54
Năm 2017: Hoàng Long, Vũ Nguyễn Khải ca, Nguyễn Đình Liên và
cộng sự báo cáo kết quả nghiên cứu tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ dưới
hướng dẫn siêu âm, lựa chọn tối ưu trong điều trị sỏi đài bể thận với 270
trường hợp.9
Năm 2018: Lương Hồng Thanh báo cáo hiệu quả phương pháp tán
sỏi thận qua da bằng đường hầm nhỏ định vị bằng siêu âm tại Bệnh viện
Việt Đức với 165 trường hợp tỷ lệ sạch sỏi là 88,5%. 55
Năm 2019: Đỗ Trường Thành báo cáo Đánh giá phương pháp tán sỏi
thận qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm, bệnh nhân với tư thế
nằm nghiêng tại BV Hữu Nghị Việt Đức trong 2 năm với 1065 bệnh nhân cho
tỷ lệ sạch sỏi là 97,52%.10
28
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Độ IV: Đài bể thận giãn rất to, ranh giới đài- bể thận không rõ ràng.
Nhu mô thận rất mỏng, < 3mm. Chỉ số PPI=1/3.
- Số lần chọc dò: Tính từ khi đặt kim chọc dò xuyên lên mặt da bệnh
nhân tiến hành chọc dò đến khi rút kim ra được tính là một lần, trong nghiên
cứu này chúng tôi chỉ tính số lần chọc dò của đường hầm đầu tiên với các
trường hợp cần tạo nhiều đường hầm, chia làm 3 nhóm như sau.
Nhóm 1: 1 lần
Nhóm 2: 2 lần
Nhóm 3: ≥ 3 lần
- Chọc dò thất bại: Các trường hợp chọc dò không tiếp cận tiếp cận
được sỏi. Nguyên nhân và xử trí chọc dò thất bại.
- Thời gian tạo đường hầm: Từ khi bắt đầu chọc dò đến khi nong tạo
xong đường hầm vào thận, tiếp cận sỏi thành công (đặt xong Amplatz) (phút)
- Số đường hầm được tạo ra: Khi đặt Amplatz thành công tiếp cận
máy soi vào đài bể thận được tính là 1 đường hầm. Số đường hầm được chia
thành các nhóm:
Nhóm 1: 1 đường hầm.
Nhóm 2: 2 đường hầm.
Nhóm 3: ≥ 3 đường hầm.
- Thời gian tán và lấy sỏi: Tính từ đặt máy soi qua Amplatz tán sỏi
đến khi lấy hết sỏi đặt JJ.
- Thời gian phẫu thuật: Tổng thời gian từ khi đặt thông niệu quản đến
khi đặt xong dẫn lưu thận (phút).
Tai biến trong mổ:
- Chảy máu trong mổ: Tình trạng chảy máu nhiều trong phẫu thuật
làm mờ phẫu trường không thể tiếp tục lấy sỏi phải dừng phẫu thuật, phải
truyền máu hoặc chuyển mổ mở.
33
- Tổn thương hệ thống đài bể thận: Tổn thương đài bể thận khi nong
đường hầm, khi đặt máy hoặc khi tán sỏi bằng laser. Được phát hiện dựa vào
hình ảnh nội soi trong khi thực hiện tán sỏi.
- Tổn thương các tạng trong ổ bụng: Do quá trình chọc dò hoặc tạo
đường hầm kim chọc dò, đường hầm, xuyên qua ống tiêu hóa, thường gặp tổn
thương đại tràng. Tổn thương có thể nằm ngoài phúc mạc hoặc trong phúc
mạc, được phát hiện dựa vào quá trình kiểm tra đường hầm trước và sau khi
tán sỏi, hoặc theo dõi tình trạng bệnh nhân sau mổ.
- Tràn dịch, khí màng phổi: Do kim chọc dò vào phổi và khoang màng
phổi. Theo dõi tình trạng bệnh nhân sau mổ có biểu hiện như đau ngực, ho,
khó thở. Chụp X quang tim phổi thẳng có hình ảnh tràn khí, tràn máu khoang
màng phổi.
- Các tai biến khác
Theo dõi sau mổ.
- Chảy máu sau mổ: trong quá trình theo dõi sau mổ, khi dịch chảy qua
dẫn lưu đỏ tươi, số lượng nhiều, nước tiểu đỏ, kèm theo biểu hiện toàn thân và
xét nghiệm công thức máu có chỉ định truyền máu hoặc phải can thiệp nút mạch.
- Lượng hemoglobin mất trong mổ: dựa trên lượng hemoglobin của
bệnh nhân trước và sau mổ.
- Sốt sau tán sỏi qua da: Sốt sau tán sỏi qua da được ghi nhận là những
trường hợp sốt ≥ 37,5 0C.58
- Nhiễm khuẩn huyết: Ghi nhận các trường hợp nhiễm khuẩn huyết khi
kết quả cấy máu có vi khuẩn.
- Sốc nhiễm khuẩn: Ghi nhận các trường hợp nhiễm khuẩn, kèm theo
tình trạng suy chức năng các cơ quan, huyết áp tụt, huyết áp tâm thu < 90
mmHg, hoặc giảm > 40 mmHg so với trị số bình thường, không đáp ứng với
bù dịch mà phải dùng vận mạch.59
34
- Tụt dẫn lưu thận: trong quá trình hậu phẫu dẫn lưu thận có thể bị tụt
ra ngoài.
- Rò nước tiểu: sau rút dẫn lưu thận dịch chảy qua chân dẫn lưu quá 2
tuần được xác định là rò nước tiểu.
- Số ngày rút dẫn lưu thận: tính từ ngày đặt dẫn lưu thận đến ngày rút.
- Số ngày nằm viện sau mổ: tính từ ngày phẫu thuật đến khi ra viện.
Đánh giá tỷ lệ sạch sỏi và sót sỏi
- Tiêu chuẩn đánh giá sạch sỏi và sót sỏi: Theo hướng dẫn của Hiệp
hội tiết niệu châu Âu năm 201532:
Sạch sỏi là khi không còn sỏi trên kết quả siêu âm sau tán sỏi
hoặc khi còn sót sỏi nhỏ có kích thước < 4mm. Tác giả Yang
Liu, những mảnh sỏi có kích thước <4mm được xem là không
có ý nghĩa trên lâm sàng do những mảnh sỏi này có thể đào
thải được ra ngoài theo nước tiểu.60
Sót sỏi: là khi còn một hoặc nhiều sỏi kích thước ≥ 4mm, phải
tiếp tục theo dõi hoặc phối hợp phương pháp khác để điều trị.
Dựa vào kết quả XQuang ngày thứ 3 sau mổ chúng ta đánh giá kết quả tán
sỏi ngay sau mổ: sạch sỏi, sót sỏi.
Đánh giá biến chứng sau mổ: Các biến chứng trong và sau mổ trong nghiên
cứu của chúng tôi sẽ được phân loại theo Clavien- Dindo. 61 Theo phân loại
này biến chứng được chia làm 5 độ:
- Độ I: Gồm các biến chứng không cần phải điều trị nội khoa, phẫu
thuật, can thiệp nội soi và chẩn đoán hình ảnh. Các chế độ điều trị
có thể cho phép là: Các thuốc chống nôn, thuốc hạ sốt, thuốc giảm
đau, thuốc lợi tiểu, điện giải và vật lý trị liệu. Độ này cũng gồm
các trường hợp nhiễm trùng vết mổ.
35
- Độ II: Gồm các biến chứng phải yêu cầu điều trị nội khoa với các
thuốc khác các thuốc ở biến chứng độ I, phải truyền máu hoặc nuôi
dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch.
- Độ III: Gồm các biến chứng phải yêu cầu phẫu thuật hoặc các can thiệp
nội soi, can thiệp chẩn đoán hình ảnh. Độ 3 được chia làm 2 mức:
IIIa: Gồm các can thiệp không gây mê.
IIIb: Gồm các can thiệp cần gây mê.
- Độ IV: Gồm các biến chứng có thể ảnh hưởng đến tính mạng bệnh
nhân và yêu cầu phải điều trị tích cực hoặc hồi sức tích cực:
IVa: Suy chức năng của một tạng.
IVb: Suy chức năng nhiều tạng.
- Độ V: Bệnh nhân tử vong.
Khám lại bệnh nhân sau một tháng: tất cả các bệnh nhân đều được hẹn
khám lại sau 1 tháng để kiểm tra và xét rút JJ.
- Lâm sàng: Các triệu chứng đau lưng, đái máu, sốt…
- Cận lâm sàng: XQ hệ tiết niệu và siêu âm sau mổ 1 tháng chúng ta
đánh giá kết quả tán sỏi còn sỏi hay hết sỏi, nếu hết sỏi tiến hành rút
JJ cho bệnh nhân, nếu còn sỏi xét can thiệp sỏi.
Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật: Dựa kết quả siêu âm và chụp X
quang khi bệnh nhân khám lại chúng tôi đánh giá kết quả tán sỏi: sạch sỏi
và sót sỏi; ghi nhận đây là kết quả sớm sau tán sỏi qua da.
Đánh giá một số yếu tố liên quan đến kết quả tán sỏi qua da.
- Tiền sử mổ sỏi thận cùng bên.
- Chỉ số BMI
- Kích thước sỏi, hình thái sỏi, mức độ ứ nước thận.
36
2.3. QUY TRÌNH TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ DƯỚI
HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM.
Bệnh nhân được chẩn đoán sỏi thận và được chỉ định tán sỏi qua da,
định vị bằng siêu âm, được chuẩn bị đầy đủ hồ sơ và các điều kiện trước mổ.
Quy trình này được áp dụng cho cả bệnh nhân hồi cứu và tiến cứu.
2.3.1. Chuẩn bị bệnh nhân
Bệnh nhân được chẩn đoán sỏi thận, có chỉ định, đủ tiêu chuẩn TSTQD
theo tiêu chuẩn lựa chọn.
- BN được làm xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh đánh giá số lượng,
kích thước sỏi, hình thái sỏi, chức năng thận 2 bên, tương quan sỏi với
nhu mô, đài bể thận và các tạng xung quanh, các mốc giải phẫu, phẫu
thuật viên cần lưu ý cũng như các bệnh lý thận đi kèm. Lưu ý số
lượng, kích thước sỏi, tương quan sỏi với nhu mô, đài bể thận và các
mốc giải phẫu, phẫu thuật.
- BN được điều trị tích cực hết nhiễm khuẩn tiết niệu, nuôi cấy không
có vi khuẩn trong nước tiểu trước mổ mới chỉ định phẫu thuật
TSTQD.
- Bệnh nhân và gia đình được giải thích về tình trạng bệnh và phương
pháp điều trị, hiệu quả, ưu điểm của phẫu thuật TSTQD so với các
phẫu thuật khác cũng như các nguy cơ phẫu thuật có thể gặp. bệnh
nhân và gia đình đồng ý chọn phương pháp TSTQD bằng đường hầm
nhỏ.
- Điều trị ổn định các bệnh toàn thân như tăng huyết áp, đái tháo
đường.., truyền máu nếu người bệnh có thiếu máu nhiều.
- Nâng cao thể trạng người bệnh trước mổ trong trường hợp già yếu suy
kiệt.
- Người bệnh được chuẩn bị trước phẫu thuật theo quy trình chung.
37
2.3.2. Hồ sơ bệnh án
- Hồ sơ bệnh án đầy đủ thông tin, các phương pháp chẩn đoán sỏi thận,
đánh giá tình trạng toàn thân của người bệnh và các bệnh phối hợp,
biên bản hội chẩn của khoa thống nhất chỉ định phẫu thuật tán sỏi thận
qua da; có giấy đồng ý phẫu thuật được người bệnh và gia đình ký.
2.3.3. Trang thiết bị, vật tư phục vụ phẫu thuật
Dụng cụ phẫu thuật
- Bàn để dụng cụ (loại to). Toan mổ: 10 toan lớn, 03 toan nhỏ, quần áo
mổ và găng vô khuẩn.
- Bộ đặt ống thông niệu đạo.
- Chuẩn bị một số dụng cụ tiểu phẫu bao gồm: 01 cái dao thường lưỡi
nhỏ cỡ 13, kim chỉ khâu da và kìm kẹp kim, gạc phẫu thuật.
- Bộ dụng cụ mổ mở khi cần thiết.
Hình 2.2. Bàn dụng cụ phẫu thuật nội soi tán sỏi qua da
(Nguồn: Phòng mổ bệnh viện Bưu điện)
Trang thiết bị phục vụ phẫu thuật
- Hệ thống hướng dẫn chọc dò: máy siêu âm
- Dàn máy nội soi tiết niệu: Màn hình camera, nguồn sáng, dây sáng.
- Ống kính nội soi niệu quản bán cứng 7,5/8/9Fr.
38
- Phẫu thuật viên và người phụ đứng cùng bên thận có sỏi, dàn máy nội
soi và máy siêu âm.
- Dùng siêu âm định vị kiểm tra vị trí, hình thể đài, bể thận có sỏi, xác
định vị trí đài thận để chọc dò.
Hình 2.4. Tư thế bệnh nhân tán sỏi thận qua da.
(Nguồn: Phòng mổ bệnh viện Bưu điện)
- Rạch da, cân vị trí chọc dò. Tiến hành chọc dò đài thận bằng kim 18
gauge dưới hướng dẫn siêu âm khi vào đài thận sẽ ra nước tiểu. Thông
thường khu vực chọn lựa chọc đường hầm ở vùng giữa xương sườn
11 – 12 hoặc dưới bờ sườn 12, khoảng giữa trên đường nách sau và
góc dưới bả vai. Điểm vào thận của khu vực này cơ bản là phần ít
mạch máu bên ngoài thận. Cố gắng làm cho khoảng cách giữa da và
thận là ngắn nhất, có thể đến được hết các đài thận và xử lí sỏi tối
đa. Tổ chức đài thận sau (nhóm lưng) thường được lựa chọn để
chọc dò do bộ phận đài thận uốn cong, góc kim chọc và trục dài đài
thận cơ bản đồng nhất, hướng đến bể thận. Cụ thể các vị trí sỏi thận
có thể lựa chọn như sau:
Sỏi đơn thuần ở đài thận trên, đài giữa, đài dưới thì chọn đài
đó làm mục tiêu để chọc dò và tạo đường hầm lấy sỏi.
41
Sỏi bể thận hoặc sỏi niệu quản đoạn trên chọn lựa nhiều nhất
là chọc đường hầm qua đài giữa.
Sỏi bể thận kết hợp sỏi đài thận hoặc niệu quản đoạn trên mục
tiêu chọn lựa nhiều nhất là đài thận trên hoặc đài giữa để chọc
dò đường hầm lấy sỏi. Nếu vị trí đài trên hơi cao chọc vào sẽ
gặp khó khăn, có thể chọn lựa điểm chọc đường hầm ở đài giữa
hoặc đài dưới hoặc dùng ống kính nội soi mềm để tán sỏi.
Sỏi san hô toàn phần hoặc sỏi to phức tạp đài trên, đài giữa,
đài dưới có nhiều nếu chỉ chọc một đường hầm thì phẫu thuật
lấy sỏi, tán sỏi kéo dài, hạn chế sạch sỏi. Có thể dựa vào tình
hình thực tế, phẫu thuật lần 1 hoặc lần 2 và chỉ tạo 2 hoặc
nhiều nhất 3 đường hầm phối hợp để tán sỏi, nâng cao được
tốc độ phẫu thuật và tăng hiệu suất sạch sỏi. Có thể chỉ chọc
dò vào đài dưới để tạo một đường hầm đơn kết hợp với ống
kính nội soi mềm để tán sỏi (đối với người bệnh mổ lần 2 thì
việc đi vào đài dưới dễ dàng hơn đi vào đài trên và đài giữa).
- Hạn chế tối đa số lần chọc dò vào đài bể thận và chỉ nên chọc dò dưới
15 phút. Nếu khó không chọc dò được cần chuyển mổ mở lấy sỏi hoặc
chỉ định đặt ống thông JJ ngược dòng và xét chỉ định tán sỏi qua da.
- Trong trường hợp chọc dò ra nước tiểu đục thì ngừng tán sỏi qua da,
đặt dẫn lưu thận, điều trị kháng sinh chống nhiễm khuẩn và xét chỉ
định tán sỏi qua da.
Hình 2.6. Hình ảnh nước chảy qua đốc kim chọc.
(Nguồn: Phòng mổ bệnh viện Bưu điện)
Thì 3: Tán sỏi thận qua da:
- Rút lõi kim chọc dò, đặt dây dẫn đường đầu cong vào vị trí chọc dò.
Nong đường hầm theo dây dẫn thông qua các loại nong có sheet tương
ứng 6 - 18Fr.
- Đặt Amplatz (ống tạo đường hầm qua da) cỡ 18Fr.
- Dùng ống kính soi thận đưa qua Amplatz xác định vị trí, số lượng sỏi
trong đài bể thận.
- Tán sỏi thận bằng holmium laser 80W thành mảnh nhỏ kết hợp bơm
nước bằng máy. Bơm rửa lấy mảnh sỏi hoặc dùng pince gắp sỏi.
- Trong quá trình tán sỏi, có thể dùng siêu âm hoặc soi trực tiếp kiểm
tra đài bể thận, phát hiện và kiểm soát mảnh sỏi tán di chuyển nhằm
hạn chế sót sỏi
43
- Thời gian tán sỏi tối đa trong khoảng 2 giờ. Nếu sỏi to, phức tạp hoặc
chảy máu nhiều không nên cố tiếp tục phẫu thuật. Có thể đặt dẫn lưu
thận qua da và xem xét chỉ định tán sỏi qua da lần 2.
A B
do chọc dò quá mạnh, hoặc quá trình thao tác tán sỏi quá mạnh hay do
bơm nước áp lực quá cao.
- Nhận định kết quả tốt khi tán vỡ vụn sỏi, bơm rửa lấy hết sỏi, không
biến chứng.
2.3.6. Theo dõi sau mổ.
- Theo dõi toàn trạng của bệnh nhân
- Đánh giá dịch qua dẫn lưu thận, màu sắc nước tiểu.
- Theo dõi các biến chứng có thể xảy ra như: chảy máu sau mổ, sốt,
nhiễm khuẩn huyết…có hướng xử trí kịp thời.
- Đánh giá tình trạng sạch sỏi sau mổ.
- Rút thông niệu đạo, dẫn lưu thận và ra viện, hẹn khám lại sau một
tháng.
2.4. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Số liệu nghiên cứu thu thập theo bệnh án mẫu được nhập vào máy
tính, xử lý theo các toán trong chương trình toán thống kê y học chuẩn
SPSS 20.0.
- Các thuật toán thống kê được sử dụng: T test, χ².
- Giá trị so sánh có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
2.5. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU.
- Nghiên cứu được sự đồng ý của bệnh nhân, Ban giám đốc, Khoa
Ngoại 2, Phòng Kế hoạch tổng hợp, Bệnh viện Bưu Điện.
- Tôi xin cam đoan tiến hành nghiên cứu trung thực, khách quan; áp
dụng các nguyên lý nghiên cứu và đạo đức nghiên cứu cũng như phổ
biến kết quả nghiên cứu.
- Đề tài nghiên cứu chỉ nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng,
không nhằm mục đích nào khác.
45
- Các thông tin của bệnh nhân sẽ được giữ bí mật, chỉ phục vụ mục đích
nghiên cứu.
46
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 9/2017 tới tháng 6/2021 tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Bưu
Điện Hà Nội có 85 bệnh nhân thuộc nhóm đối tượng nghiên cứu, bao gồm
45 bệnh nhân hồi cứu và 40 bệnh nhân tiến cứu. Số liệu thu được ở các bệnh
nhân này cho kết quả như sau:
3.1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU.
35%
30%
25%
20%
32% 31%
15%
25%
10%
12%
5%
01%
0%
< 30 30 - 39 40 - 49 50 - 59 ≥ 60
Biểu đồ 3.1. Phân bố nhóm tuổi của bệnh nhân nghiên cứu (n=85)
Nhận xét:
- Tuổi trung bình trong nghiên cứu là: 54,7 ± 10,6 tuổi, thấp nhất là 28
tuổi và cao nhất là 76 tuổi.
- Nhóm tuổi có sỏi chiếm tỷ lệ cao nhất là 50 - 59 tuổi chiếm 31,8%.
- Nhóm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất là < 30 tuổi với 1,2%.
47
Nam
Nữ
28%
72%
Biểu đồ 3.2. Phân bố giới tính của bệnh nhân nghiên cứu (n=85)
Nhận xét:
- Tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 71,8%, nữ chiếm 28,2%.
Tiền sử Số lượng Tỷ lệ %
Tổng 85 100
Nhận xét:
- Có 11 bệnh nhân tương ứng 12,9% có tiền sử mổ lấy sỏi cùng bên.
48
Nhẹ cân
Bình thường
Thừa cân
77%
Biểu đồ 3.3. Phân loại BMI của bệnh nhân nghiên cứu (n=85)
Nhận xét:
- Phần lớn bệnh nhân nghiên cứu có phân loại chỉ số BMI ở mức bình
thường chiếm 76,5%.
Sốt 4 4,7%
Tổng 85 100%
49
Nhận xét:
- Triệu chứng lâm sàng gặp chủ yếu khi vào viện là đau âm ỉ vùng thắt
lưng chiếm 81,2%.
- Có 9 bệnh nhân (10,6%) rối loạn tiểu tiện và 4 bệnh nhân (4,7%) có
biểu hiện sốt khi vào viện.
- Có 3 BN không có triệu chứng lâm sàng khi vào viện chiếm 3,5%.
52,9%
47,1%
27%
11% < 20mm
20 - 40 mm
> 40mm
62%
Nhận xét:
- Trong nghiên cứu có 28,2% là các trường hợp sỏi S1; 50,6% sỏi S2;
18,8% sỏi S3; có 2 trường hợp (2,4%) S4; không có trường hợp nào sỏi S5.
51
Nhận xét:
- Trong nghiên cứu có 8,2% số trường hợp thận không ứ nước.
- Có 53% số trường hợp thận ứ nước độ I và 25,9% thận ứ nước độ II
- Thận ứ nước độ III chiếm 12,9%; không có trường hợp ứ nước độ IV.
Xét nghiệm huyết học khi vào viện.
Bảng 3.5. Xét nghiệm huyết học khi vào viện.
Chỉ số X ± SD Min - Max
Số lượng hồng cầu (T/L) 5,2 ± 0,6 3,79 - 6,99
Hemoglobin (g/L) 148,3 ± 13,1 114,0 - 178,0
Hematocrit (L/L) 0,45 ± 0,04 0,34 - 0,55
Số lượng bạch cầu (G/L) 8,2 ± 2,0 4,8 - 15,2
Số lượng bạch cầu
5,1 ± 1,9 2,1 - 12,3
Đa nhân trung tính (G/L)
Nhận xét:
- Các chỉ số huyết học trong nhóm nghiên cứu phần lớn trong giới hạn
bình thường.
52
Nhận xét:
- Chỉ số ure trước mổ trung bình là 5,7 ± 1,5 mmol/l
- Xét nghiệm creatinin trước mổ trung bình là 89,5 ± 20,1 µmol/l
- CRP trước mổ trung bình là 4,1 ± 6,3 mg/l.
53
100% 25%
26%
90%
80%
70%
91% 91%
60%
50% 75%
74%
40%
30%
20%
09% 09%
10%
0%
Hồng Cầu Bạch Cầu Nitrit Cấy nước tiểu
Nhận xét:
Trong nhóm nghiên cứu chọc dò vào đài dưới thận chiếm 62,4%; 37,6%
chọc dò vào đài giữa, không có trường hợp nào chọc dò vào đài trên thận.
Số lần chọc dò
Bảng 3.8. Số lần chọc dò trong mổ.
Số lần chọc dò trong mổ Số lượng Tỷ lệ %
1 lần 77 90,6%
2 lần 8 9,4%
Tổng 85 100%
Nhận xét:
- Trong nghiên cứu có 90,6% các trường hợp chọc dò 1 lần và 9,4% cần
phải chọc dò 2 lần,
Liên quan giữa số lần chọc dò và tiền sử mổ cũ cùng bên
Bảng 3.9. Số lần chọc dò và tiền sử mổ cũ cùng bên.
Tiền sử mổ cũ
Số lần chọc
Không có tiền sử mổ Tiền sử mổ cũ Tổng
dò
cũ n(%) n(%)
1 72 (93,5) 5(6,5%) 77(100%)
2 2(25%) 6(75%) 8(100%)
Tổng 74(87,1%) 11(12,9%) 85(100%)
p <0,05
Nhận xét:
- Có 93,5% số bệnh nhân chọc dò 1 lần không có tiền sử mổ cũ; 6,5% là
có tiền sử mổ cũ.
- 75% các bệnh nhân chọc dò 2 lần đều có tiền sử mổ cũ, còn 25% chưa
có tiền sử mổ cũ.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, bệnh nhân có tiền sử
mổ cũ thận cùng bên gây khó khăn, kéo dài thời gian chọc dò.
55
p <0,05
56
Nhận xét:
- Trong nhóm chọc dò 1 lần vào đài bể thận có 1,3% trường hợp thận
không ứ nước; 55,8% thận ứ nước độ I; 28,6% ứ nước độ II và 14,3% ứ nước
độ III.
- Các trường hợp chọc dò 2 lần là thận không ứ nước và thận ứ nước độ I.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Mức độ ứ nước thận có
liên quan đến số lần chọc dò, thận không ứ nước hoặc ứ nước độ I – II gây
khó khăn cho quá trình chọc dò, thận giãn hay ứ nước độ III – VI thường dễ
chọc dò hơn.
Số đường hầm
Bảng 3.12. Số đường hầm trong mổ.
Số lần đường hầm trong mổ Số lượng Tỷ lệ %
1 đường hầm 82 96,5
2 đường hầm 3 3,5
Tổng 85 100%
Nhận xét:
- Thời gian tạo đường hầm trung bình: 10,3 ± 2,9 phút [6 - 25]
- Trong nghiên cứu có 96,5% các trường hợp tạo một đường hầm trong
mổ và 3,5% trường hợp cần phải tạo 2 đường hầm. Các trường hợp làm thêm
đường hầm do sỏi đài thận nằm cạnh, gần song song với đường hầm, chúng
tôi kết hợp siêu âm và máy soi trong thận làm đường hầm thứ 2 thuận lợi để
lấy nốt sỏi.
Thời gian phẫu thuật trung bình.
Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu là 70,1 ± 13,7 phút
[40 - 120]; ngắn nhất là 40 phút, dài nhất là 120 phút.
57
Liên quan giữa thời gian phẫu thuật và bên can thiệp.
Bảng 3.13. Thời gian phẫu thuật và bên thận can thiệp.
Bên can Thời gian phẫu thuật (phút)
n p
thiệp X ± SD Min Max
Bên phải 45 69,0 ± 12,7 40 115
Bên trái 40 71,3 ± 14,8 55 120 > 0,05
Tổng 85 70,1 ± 13,7 40 120
Nhận xét:
- Thời gian phẫu thuật trung bình bên bên phải là 69,0 ± 12,7 phút; bên
trái là 71,3 ± 14,8 phút.
- Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Vị trí sỏi thận bên
phải hay trái không ảnh hưởng đến thời gian phẫu thuật.
Liên quan giữa thời gian phẫu thuật và kích thước sỏi
Bảng 3.14. Thời gian phẫu thuật và phân loại kích thước sỏi.
Nhận xét:
- Thời gian phẫu thuật trung bình của nhóm có kích thước sỏi < 20mm
là 62,8 ± 8,8 phút; nhóm 20 - 40 mm là 70,0 ± 15,3 phút và của nhóm kích
thước sỏi > 40mm là 73,3 ± 10,3 phút.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kích thước sỏi càng lớn,
thời gian phẫu thuật càng kéo dài.
Liên quan giữa thời gian phẫu thuật và hình thái sỏi.
58
Nhận xét:
Có một bệnh nhân tai biến trong mổ chiếm 1,2% là trường hợp chảy
máu trong mổ chúng tôi dừng tán sỏi, theo dõi bệnh nhân xét tán sỏi lần 2.
Một trường hợp không đặt được JJ xuôi dòng, chúng tôi tiến hành đặt
JJ thành công bằng nội soi ngược dòng.
Đặt dẫn lưu thận
Tất cả bệnh nhân đều được đặt dẫn lưu thận.
Nhận xét:
- Các xét nghiệm huyết học sau mổ có sự thay đổi sau mổ so với trước
mổ không nhiều.
- Số lượng bạch cầu trung bình tăng từ 8,2 ± 2,0 G/L lên 11,5 ± 2,6 G/L;
tương tự lượng bạch cầu đa nhân trung tính cũng tăng từ 5,1 ± 1,9 G/L lên 9,3
± 3,6 G/L.
- Hemoglobin mất trong mổ là trung bình: 13,9 ± 10,3 g/L
Liên quan lượng hemoglobin mất trong mổ và số lần chọc dò.
60
Nhận xét:
- Lượng hemoglobin mất trong mổ trung bình là: 13,9 ± 10,3 g/L.
- Lượng hemoglobin mất ở nhóm chọc dò một lần trung bình là 13,7 ±
10,4g/L; nhóm chọc dò 2 lần là 16,7 ± 10,4g/L.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Liên quan lượng hemoglobin mất trong mổ và kích thước sỏi.
Bảng 3.19. Lượng hemoglobin mất trong mổ và kích thước sỏi.
Lượng hemoglobin mất trong mổ
Phân loại (g/L))
kích thước sỏi n p
X ± SD Min Max
- Lượng hemoglobin mất trung bình ở nhóm sỏi kích thước < 20mm là
11,2 ± 10,6 g/L; ở nhóm > 40mm trung bình 16,2 ± 11,2g/L.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kích thước sỏi có liên
quan đến lượng hemoglobin mất trong mổ.
Liên quan giữa lượng hemoglobin mất trong mổ và mức độ ứ nước thận
Bảng 3.20. Lượng hemoglobin mất trong mổ và mức độ ứ nước thận.
Nhận xét:
- Lượng hemoglobin mất trung bình của nhóm thận không ứ nước là 17,9
± 9,9 g/L; ứ nước độ I là 13,4 ± 10,0 g/L; độ II là 12,9 ± 9,3 g/L
- Thận ứ nước độ III có lượng hemoglobin mất trung bình trong mổ là
16,4 ± 12,3 g/L.
- Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Mức độ ứ nước
thận không liên quan đến lượng hemoglobin mất trong mổ.
Bảng 3.21. Xét nghiệm sinh hóa sau mổ so với trước mổ.
Nhận xét:
- Các xét nghiệm sinh hoá có sự thay đổi nhẹ so với trước mổ.
- Creatinin trung bình tăng từ 89,5 ± 20,1 µmol/l lên 91,2 ± 22,3 µmol/l.
- Chỉ số CRP trung bình tăng từ 4,1 ± 6,3 mg/l lên 25,0 ± 35,9 mg/l. Ghi nhận
sự tăng CRP ở phần lớn bệnh nhân sau phẫu thuật.
Tỷ lệ sạch sỏi sau ngay mổ.
Bảng 3.22. Tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ.
Kết quả Số lượng Tỷ lệ %
Sạch sỏi 65 76,5%
Sót sỏi 20 23,5%
Tổng 85 100%
Nhận xét:
- Tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ là 76,5%.
- Trong 23,5% trường hợp sót sỏi có 2 trường hợp (2,4%) được tiến hành
tán sỏi qua da lần 2.
Biến chứng sau mổ
63
Nhận xét:
- Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ biến chứng là 10,7 % trong đó
chiếm nhiều nhất là sốt sau tán sỏi chiếm 5,9%.
- Chảy máu sau mổ có 3 trường hợp (3,6%): trong đó 2 trường hợp phải
truyền máu chiếm 2,4%; một trường hợp truyền máu và can thiệp mạch (1,2%)
- Một trường hợp sốc nhiễm trùng chiếm 1,2%.
Phân loại biến chứng theo Clavien - DinDo.
Bảng 3.24. Phân loại biến chứng theo Clavien – DinDo.
- Trong nghiên cứu có 10,7% biến chứng sau mổ được phân loại theo
Clavien - DinDo trong đó 5 trường hợp biến chứng độ I là sốt sau tán (5,9%).
- Biến chứng độ II chiếm 2,4% các trường hợp chảy máu cần truyền máu.
- Một trường hợp biến chứng độ III là bệnh nhân chảy máu cần nút mạch
và một trường hợp biến chứng độ IV là trường hợp sốc nhiễm trùng, sau quá
trình điều trị nội khoa với kháng sinh theo kháng sinh đồ, thuốc vận mạch,
bệnh nhân ổn định, ra viện.
Số ngày rút thông niệu đạo.
Số ngày rút thông niệu đạo sau mổ trung bình là 3,3 ± 0,6 ngày, min là
2 ngày, max là 6 ngày.
Số ngày rút dẫn lưu thận.
Số ngày rút dẫn lưu thận trung bình trong nghiên cứu là 2,3 ± 0,6 ngày,
min là 1 ngày, max là 5 ngày.
Số ngày nằm viện sau mổ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi số ngày nằm viện sau mổ trung bình là
5,5 ± 1,8 ngày, min là 4 ngày, max là13 ngày.
3.3.3. Khám lại sau mổ.
Tỷ lệ khám lại sau mổ.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều được khám lại sau mổ một tháng.
Tỷ lệ sạch sỏi khi khám lại.
Bảng 3.25. Tỷ lệ sạch sỏi khi khám lại.
Kết quả Số lượng Tỷ lệ %
Sạch sỏi 73 85,9
Sót sỏi 12 14,1
Tổng số 85 100%
Nhận xét: Kết quả khám lại sau một tháng tỷ lệ sạch sỏi là 85,9%, so với tỷ lệ
sạch sỏi ngay sau mổ là 76,5%.
65
3.4.MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ TÁN SỎI QUA DA
ĐƯỜNG HẦM NHỎ.
3.4.1. Liên quan giữa kết quả tán sỏi và tiền sử mổ cũ.
Liên quan giữa kết quả tán sỏi và tiền sử mổ cũ.
Bảng 3.26. Kết quả tán sỏi và tiền sử mổ cũ.
Kết quả tán sỏi Sạch sỏi Sót sỏi
p
Tiền sử mổ cũ n (%) n (%)
Chưa mổ 64(86,5%) 10(13,5%)
Mổ cũ 9(81,8%) 2(18,2%) > 0,05
Tổng 73(85,9%) 12(14,1%)
Nhận xét:
- Trong 64 bệnh nhân chưa có tiền sử mổ thì 86,5% có kết quả sạch sỏi;
13,5% kết quả sót sỏi.
- Trong nhóm có tiền sử mổ lấy sỏi tỷ lệ sạch sỏi chiếm 81,8% và có
18,2% sót sỏi.
- Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tiền sử mổ cũ
không ảnh hưởng đến kết quả tán sỏi.
3.4.2. Liên quan kết quả tán sỏi và phân loại chỉ số BMI.
Liên quan kết quả tán sỏi và phân loại chỉ số BMI.
Bảng 3.27. Kết quả tán sỏi và phân loại BMI.
Kết quả tán sỏi Sạch sỏi Sót sỏi
p
Phân loại BMI n (%) n (%)
Thiếu cân 5(100%) 0(0%)
Bình thường 57(87,7%) 8(12,3%)
>0,05
Thừa cân 11(73,3%) 4(26,7%)
Tổng 73(85,9%) 12(14,1%)
66
Nhận xét:
- Trong nhóm bệnh nhân phân loại BMI thiếu cân có 5 bệnh nhân
(100%) đều cho kết quả sạch sỏi.
- Có 87,7% số bệnh nhân phân loại BMI bình thường đạt kết quả sạch
sỏi, còn lại 12,3% sót sỏi.
- Có 15 bệnh nhân thừa cân thì 73,3% sạch sỏi còn lại sót sỏi.
- Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Chỉ số khối cơ thể
không liên quan đến kết quả tán sỏi.
3.4.3. Liên quan kết quả tán sỏi và mức độ ứ nước thận.
Liên quan kết quả tán sỏi và mức độ ứ nước thận.
Bảng 3.28. Kết quả tán sỏi và mức độ ứ nước thận.
Kết quả tán sỏi
Sạch sỏi Sót sỏi
p
n (%) n (%)
Phân loại ứ nước thận
Không ứ nước 6(85,7%) 1(14,3%)
Độ I 36(80%) 9(20%)
Độ II 21(95,5%) 1(4,5%) >0,05
Độ III 10(90,9%) 1(9,1%)
Tổng 73(85,9%) 12(14,1%)
Nhận xét:
- Có 85,7% số bệnh nhân thận không ứ nước cho kết quả sạch sỏi và
14,3% là sót sỏi.
- Trong nhóm bệnh nhân thận ứ nước độ I có 80% cho kết quả sạch sỏi
và 20% sót sỏi; tương ứng với thận ứ nước độ II là 95,5% và 4,5%.
- Thận ứ nước độ III thì 90,9% kết quả sạch sỏi còn lại là sót sỏi.
- Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Mức độ ứ nước
thận không liên quan đến kết quả tán sỏi.
67
3.4.4. Liên quan kết quả tán sỏi và kích thước sỏi.
Liên quan kết quả tán sỏi và kích thước sỏi.
Bảng 3.29. Kết quả tán sỏi và kích thước sỏi.
Kết quả tán sỏi
Sạch sỏi Sót sỏi
p
n (%) n (%)
Phân loại kích thước sỏi
Nhận xét:
- Trong nhóm bệnh nhân sỏi có kích thước < 20mm tất cả đều sạch sỏi.
- Có 92,5% trường hợp sỏi kích thước từ 20 – 40mm có kết quả sạch sỏi.
- Nhóm sỏi kích thước > 40mm thì 65,2% sạch sỏi và 34,8% sót sỏi.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Kích thước sỏi liên quan
đến kết quả phẫu thuật, sỏi có kích thước càng lớn, nguy cơ sót sỏi càng
nhiều.
68
3.4.5. Liên quan giữa kết quả tán sỏi và hình thái sỏi.
Liên quan giữa kết quả tán sỏi và hình thái sỏi.
Bảng 3.30. Liên quan giữa kết quả tán sỏi và hình thái sỏi.
S1 24(100%) 0(0%)
S2 38(88,3%) 5(11,7%)
S4 1(50%) 1(50%)
Nhận xét:
- Tất cả các trường hợp sỏi S1 đều sạch sỏi, trong khi đó 88,3% trường
hợp sỏi S2 sạch sỏi còn lại là sót sỏi.
- Đối với sỏi S3 có 62,5% sạch sỏi; 37,5% sót sỏi.
- Có 2 trường hợp sỏi S4 thì tỷ lệ sạch sỏi là 50%.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Hình thái sỏi có liên quan
đến kết quả tán sỏi, sỏi thận càng phức tạp càng dễ sót sỏi sau tán.
69
Chương 4
BÀN LUẬN
Từ tháng 9/2017 tới tháng 6/2021, tại Khoa Ngoại 2, Bệnh viện Bưu
Điện có 85 bệnh nhân thuộc nhóm đối tượng nghiên cứu. Bệnh nhân được
chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng chủ yếu là đau thắt lưng và cận lâm
sàng xác định vị trí, kích thước sỏi, hình thái sỏi, được chỉ định tán sỏi qua da
đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm lấy sỏi.
4.1.ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CẬN VÀ LÂM SÀNG CỦA ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU.
4.1.1. Tuổi, giới của nhóm đối tượng nghiên cứu
Sỏi thận là bệnh lý gặp ở cả nam và nữ, với tỷ lệ nam thường cao hơn
nữ; độ tuổi mắc bệnh thường từ 30 đến 60 tuổi. 2 Trong 85 bệnh nhân nghiên
cứu có 49 trường hợp là nam chiếm tỷ lệ 71,2% và 24 bệnh nhân nữ chiếm
28,2% (biểu đồ 2). Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 54,7 ± 10,6 tuổi, thấp
nhất là 28 tuổi và cao nhất là 76 tuổi. Nhóm tuổi có sỏi chiếm tỷ lệ cao nhất là
50 - 59 tuổi chiếm 31,8% ; nhóm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất là < 30 tuổi
với 1,2% (biểu đồ 1). Một số nghiên cứu như của Đào Mạnh Cường có tỷ lệ
nam chiếm 64,4% và nữ chiếm 35,6%; tuổi trung bình là 53,42 ±11,75 tuổi,
với nhóm tuổi có sỏi chiếm tỷ lệ cao nhất là 51 - 60 tuổi chiếm 45,2% ; nhóm
tuổi có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất là < 30 tuổi với 4,1%.62 Trong nghiên cứu
của Hennessey, D.B cho thấy tỷ lệ nam là 67%, nữ là 33%; tuổi trung bình là
51,5 tuổi.63
4.1.2. Đặc điểm BMI của bệnh nhân nghiên cứu.
Theo phân loại chỉ số BMI trong nghiên cứu này có 5,9% thiếu cân;
76,5% bình thường và 17,6% thừa cân (biểu đồ 3). Phân nhóm BMI của bệnh
nhân khác nhau giữa các nghiên cứu. Trong nghiên cứu của Hồ Trường
Thắng trên 30 bệnh nhân, phân nhóm BMI có 6,7% thiếu cân; trung bình là
70
76,7%; thừa cân là 16,7%.54 Lương Hồng Thanh nghiên cứu 165 bệnh nhân
thì tỷ lệ phân nhóm BMI thiếu cân là 0,6%, trung bình là 47,3%, thừa cân là
52,1%.55
4.1.3. Tiền sử mổ sỏi tiết niệu cùng bên
Trong nghiên cứu có 87,1% bệnh nhân không có tiền sử mổ sỏi tiết
niệu cùng bên; 11 trường hợp có tiền sử mổ cũ lấy sỏi thận cùng bên chiếm
12,9% (bảng 3.1). Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tùng trên 60 bệnh
nhân có 13,3% đã có tiền sử mổ sỏi cùng bên; 64 khi nghiên cứu 250 bệnh nhân
tác giả Zare cũng thấy 24 bệnh nhân chiếm 9,6% có tiền sử mổ cũ.52
4.1.4. Triệu chứng lâm sàng khi bệnh nhân vào viện
Triệu chứng lâm sàng trong bệnh lý sỏi thận thường rất đa dạng, phụ
thuộc vào vị trí, kích thước của sỏi. Sỏi thường làm tắc nghẽn đường niệu,
dẫn đến tăng áp lực lên chỗ tắc có thể gây nên cơn đau quặn thận hoặc đau âm
ỉ vùng thắt lưng, ngoài ra còn sự ứ đọng nước tiểu phía trên chỗ tắc gây ra ứ
nước thận, tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn tiết niệu. Bên cạnh đó sỏi thận còn
cọ sát vào niêm mạc gây rách xước niêm mạc đài bể thận, chảy máu, co thắt,
nhiễm khuẩn đường niệu dẫn đến các biểu hiện rối loạn tiểu tiện như tiểu dắt
tiểu buốt và có thể có biểu hiện sốt. Trong đó đau vùng thắt lưng là triệu
chứng thường gặp nhất. Một số trường hợp phát hiện sỏi sớm, kích thước
chưa lớn có thể không có biểu hiện lâm sàng. Trong nghiên cứu này có 81,2%
bệnh nhân đau vùng thắt lưng, rối loạn tiểu tiện chiếm 10,6%; 4,7% bệnh
nhân sốt; có 3,5% bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng khi vào viện
(bảng 3.2). Kết quả này tương đương với các nghiên cứu của các tác giả khác
như thận Đào Mạnh Cường cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng đau thắt
lưng là 91,7%; rối loạn tiểu tiện 3,3%. 62 Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh
Tùng cũng cho thấy 78,3% có đau vùng thắt lưng, rối loạn tiểu tiện 1,7% và
6,7% không có triệu chứng.64
71
thận ứ nước độ III (bảng 3.4). Tỷ lệ ứ nước thận trong nghiên cứu này tương
đương với nghiên cứu của Đào Mạnh Cường trong 42 bệnh nhân có 9,7%
trường hợp thận không ứ nước, 54,8% trường hợp thận ứ nước độ I; 32,3%
trường hợp thận ứ nước độ II; 5,5% thận ứ nước độ III. 62 Trong nghiên cứu
của Zare thì mức độ ứ nước thận tương ứng lần lượt là (23.2%) độ I; (16.8%)
độ II; (7.2%) độ III, còn lại là không ứ nước. 52 Sỏi thận thường gây tắc nghẽn
đường tiết niệu từ đó có thể gây ra hiện tượng ứ nước thận, cũng như các biến
chứng khác.
4.1.8. Các xét nghiệm cận lâm sàng.
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều được làm đẩy đủ các xét
nghiệm trước mổ như huyết học, sinh hoá và nước tiểu. Xét nghiệm huyết học
trước mổ phần lớn trong giới hạn bình thường (bảng 3.5). Có 17,6% tăng chỉ
số bạch cầu, trong đó 15,3% tăng bạch cầu đa nhân trung tính đây có thể là
dấu hiệu báo trước các trường hợp có nhiễm khuẩn khi vào viện nhưng đôi
khi chưa có triệu chứng lâm sàng rõ rệt. Protein phản ứng C (C – reactive
protein [CRP]) được xem như một chất chỉ điểm đối với tình trạng viêm tiến
triển âm ỉ. Xét nghiệm CRP trước mổ trong nghiên cứu này có giá trị trung
bình là 4,1 ± 6,3 mg/l (bảng 3.6) , trong đó có 59 trường hợp chiếm 69,4% là
có CRP tăng nhẹ. Trong khi đó tỷ lệ bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng của
nhiễm khuẩn là 4,7% sốt và 10,6% rối loạn tiểu tiện. Như vậy thông qua xét
nghiệm huyết học và CRP chúng tôi nhận thấy có nhiều trường hợp bệnh
nhân có tình trạng viêm trong cơ thể nhưng không biểu hiện lâm sàng. Các
trường hợp này chúng tôi đều điều trị khi xét nghiệm trở về bình thường với
phẫu thuật.
Sỏi thận thường gây tắc nghẽn đường bài xuất từ đó gây ra suy giảm
chức năng thận, đây là một trong những biến chứng thường gặp của bệnh lý
tiết niệu. Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ số xét nghiệm creatinin trung
73
bình khi vào viện là 89,5 ± 20,1 µmol/l (bảng 3.6), đa số trong giới hạn bình
thường, có 5 trường hợp tăng creatinin trong máu. Nghiên cứu của Nguyễn
Thanh Tùng cũng cho thấy giá trị creatinin trung bình khi vào viện của bệnh
nhân là 83,6 ± 27,31 µmol/l, trong đó chỉ có 3 bệnh nhân (5%) tăng
creatinin.64 Như vậy chúng ta nhận thấy qua các nghiên cứu chức năng thận
của bệnh nhân khi vào viện tương đối ổn định, không có nhiều trường hợp
suy thận nặng. Điều này có thể do hiện nay mạng lưới y tế phát triển, kèm
theo chất lượng cuộc sống tăng lên, bệnh nhân thường được khám và điều trị
sớm nên hạn chế được các biến chứng của sỏi thận. Theo nghiên cứu của một
số tác giả không có sự khác biệt về tỷ lệ sạch sỏi giữa nhóm có giảm chức
năng thận và bình thường, những BN bị giảm chức năng thận trước mổ
thường có thời gian nằm viện dài hơn.71
Trong nghiên cứu các bệnh nhân khi vào viện đều được xét nghiệm
tổng phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu. Trong đó 74,1% trường hợp có
hồng cầu niệu; bạch cầu niệu chiếm 75,3% và 9,4% có nitrit trong nước tiểu.
Có 8 bệnh nhân có kết quả cấy nước tiểu trước mổ dương tính chiếm 9,4%
(biểu đồ 6). Sỏi thận thường gây ra hiện tượng tắc nghẽn và cọ sát đường
niệu. Hiện tượng tắc nghẽn ngoài gây ra triệu chứng đau thắt lưng còn dẫn
đến ứ đọng nước tiểu và nhiễm khuẩn tiết niệu. Bên cạnh đó sự cọ sát niêm
mạc đài bể thận có thể gây ra chảy máu, đau tức kết hợp với nhiễm khuẩn tiết
niệu gây viêm xơ đài bể thận và nhu mô thận từ đó dẫn đến các biểu hiện lâm
sàng như tiểu máu, tiểu dắt buốt, tiểu mủ, sốt…Tuy nhiên trong nghiên cứu tỷ
lệ bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng tương đối thấp với 10,6% rối loạn tiểu
tiện và 4,7% sốt. Điều này cho thấy nhiều trường hợp có hiện tượng nhiễm
khuẩn niệu nhưng chưa có biểu hiện lâm sàng, xét nghiệm nước tiểu đóng vai
trò quan trọng trong việc phát hiện các trường hợp này. Trong nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Tùng có 58,3% trường hợp bạch cầu niệu nhưng không có
74
bệnh nhân nào có tiểu dắt, tiểu buốt và tất cả đều cấy nước tiểu âm tính. 64
Nitrit trong nước tiểu đóng vai trò như một chất chỉ điểm vi khuẩn trong nước
tiểu, kết quả xét nghiệm nitrit giúp chúng ta tiên lượng được mức độ nhiễm
khuẩn của bệnh nhân. Trong 8 trường hợp có nitrit niệu thì tất cả đều có kết
quả cấy nước tiểu dương tính. Jorge Gutierrez nghiên cứu 5354 trường hợp
TSQD sỏi thận nói chung trên nhiều trung tâm thấy có 16,2% cấy nước tiểu
dương tính.72
Bạch cầu niệu và nuôi cấy vi khuẩn là những xét nghiệm đánh giá tình
trạng nhiễm khuẩn tiết niệu. Đối với TSQD, nhiễm khuẩn tiết niệu sau mổ
là biến chứng thường gặp và đôi khi rất nguy hiểm nếu diễn biến đến
nhiễm khuẩn huyết và shock nhiễm trùng. Vì vậy việc kiểm soát nhiễm
khuẩn trước mổ có ý nghĩa rất quan trọng đối với TSQD. Tất cả các bệnh
nhân trong nghiên cứu đều được làm đầy đủ xét nghiệm đánh giá mức độ
nhiễm khuẩn, và được dùng kháng sinh đến khi các xét nghiệm bình
thường; các bệnh nhân có cấy nước tiểu dương tính điều trị kháng sinh đồ đến
khi cấy nước tiểu âm tính chúng tôi với tiến hành tán sỏi.
4.2. TÁN SỎI QUA DA ĐƯỜNG HẦM NHỎ DƯỚI HƯỚNG DẪN
CỦA SIÊU ÂM.
4.2.1. Tư thế bệnh nhân
Tư thế bệnh nhân trong tán sỏi qua da có thể được lựa chọn giữa nằm
nghiêng, nằm sấp và nằm ngửa. Các bệnh nhân trong nghiên cứu được thực
hiện ở tư thế nằm nghiêng, theo chúng tôi tư thế bệnh nhân nằm nghiêng là tư
thế quen thuộc với phẫu thuật viên tiết niệu, có thể giúp giải quyết nhanh các
tai biến trong mổ, bên cạnh đó các nghiên cứu cũng chỉ ra tán sỏi qua da
đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng có mức độ an toàn và hiệu quả cao. Pan
và cộng sự trong một nghiên cứu báo cáo trên 100 BN được chia đều làm 2
nhóm nằm nghiêng và nằm sấp đã kết luận cả tư thế nằm nghiêng và tư thế
75
nằm sấp trong TSQD đều ảnh hưởng đến tuần hoàn và khí máu tuy nhiên tư
thế nằm nghiêng ít gây rối loạn huyết động và khí máu. 73 Lương Hồng Thanh
nghiên cứu 165 bệnh nhân TSQD đường hầm nhỏ tư thế nằm nghiêng tại BV
Việt Đức kết luận đây là phương pháp điều trị sỏi thận an toàn, hiệu quả cao
với tỷ lệ sạch sỏi 88,5%, tỷ lệ biến chứng sau mổ 4,2%.55
4.2.2. Định vị dưới hướng dẫn của siêu âm.
Tất cả các bệnh nhân đều được chọc dò thành công dưới hướng dẫn của
siêu âm. Tán sỏi qua da có thể định vị sỏi bằng X quang và siêu âm. Với việc
định vị sỏi bằng màn hình X quang tăng sáng có nhiều hạn chế, thời gian gần
đây với mức độ tiện dụng cũng như những ưu điểm riêng thì siêu âm được tác
giả lựa chọn trong định vị sỏi. Siêu âm có lợi thế là xác định cả những sỏi
không cản quang, đánh giá được các liên quan của thận với sỏi và các cơ quan
nội tạng, Knoll cho rằng siêu âm dễ dàng quan sát các tạng do vậy tránh tổn
thương các cơ quan như đại tràng, gan, lách.74 Siêu âm cần thấy được cả chiều
dài đường đi của kim chọc dò để dừng lại trong đài bể thận tránh tổn thương
cổ đài và nhu mô thận. Quan sát được đầu kim chọc dò sẽ xác định được
chính xác độ sâu và phương hướng của dụng cụ nong, khác với chọc dò dưới
X quang mất nhiều thời gian, cần sử dụng thuốc cản quang và tăng nguy cơ
phơi nhiễm phóng xạ.
Chọc dò dưới siêu âm còn xác định được vị trí các nhánh sỏi ở nhóm
đài bể thận theo bình diện trước sau nhờ đó định hướng kim chọc dò và tạo
đường hầm vào thận tối ưu nhất mà từ đó có thể đưa ống soi quan sát các đài
thận để hạn chế tổn thương các cổ đài.9
Năm 2008, Basiri thực hiện nghiên cứu so sánh trên 100 bệnh nhân
được tán sỏi định vị bằng siêu âm và X quang cho kết quả tương đương
nhưng định vị bằng siêu âm tránh được phơi nhiễm bức xạ. 50 Wang trong một
nghiên cứu trên 3019 bệnh nhân có 1574 bệnh nhân thực hiện dưới định
76
hướng của siêu âm và 1445 bệnh nhân dưới định hướng của X quang đã đưa
ra nhận xét ngoài yếu tố phơi nhiễm tia X quang thì những bệnh nhân thực
hiện dưới siêu âm còn có tỉ lệ mất máu ít hơn, giảm tỉ lệ biến chứng, thời gian
nong và tạo đường hầm nhanh hơn, tỉ lệ sạch sỏi cao hơn.75 Zhu nghiên cứu so
sánh 3 nhóm bệnh nhân định vị sỏi dưới hướng dẫn của siêu âm, X quang và
kết hợp siêu âm và màn X quang tăng sáng cũng có nhận định tương tự. 65 Đỗ
Trường Thành đã nghiên cứu 1065 bệnh nhân TSQD đường hầm nhỏ, dưới
hướng dẫn của siêu âm với tư thế nằm nghiêng cũng cho kết luận đây là
phương pháp điều trị sỏi thận an toàn, hiệu quả cao với tỷ lệ sạch sỏi 97,52%,
tỷ lệ biến chứng sau mổ 2,44%. 10 Theo nhiều nghiên cứu gần đây, quá trình
định vị sỏi và tạo đường hầm kết hợp giữa siêu âm và X quang là phương
pháp hoàn hảo nhất. Sử dụng định vị siêu âm để chọc dò, sau đó nong và tạo
đường hầm dưới hướng dẫn bằng X quang đã giảm thiểu được thời gian chịu
tia phóng xạ, giảm lượng mất máu và các biến chứng.65,76
4.2.3. Quá trình chọc dò tạo đường hầm và các yếu tố liên quan
4.2.3.1. Vị trí chọc dò
Lựa chọn vị trí chọc dò vào thận là rất quan trọng trong quy trình tán
sỏi qua da đường hầm nhỏ. Vị trí chọc dò đảm bảo cho việc kiểm soát và tán
sạch sỏi, kèm theo đó là hạn chế các biến chứng. Tiếp cận vào đài bể thận hoặc
trực tiếp vào sỏi căn cứ trên chẩn đoán hình ảnh trước mổ và siêu âm trong mổ.
Việc đánh giá sỏi thận trên chụp CLVT và siêu âm là rất cần thiết để xác định
đường vào một cách thích hợp nhất trước khi chọc dò. Thời gian chọc dò và tạo
đường hầm và đặt Amplatz phụ thuộc nhiều yếu tố, kinh nghiệm phẫu thuật
viên, kích thước sỏi là đích để chọc dò trực tiếp, nếu sỏi nằm ở bể thận thì
việc chọc dò vào bể thận và tán sỏi hầu như không gặp khó khăn. Nếu sỏi
nằm ở đài thận tốt nhất vẫn là chọc trực tiếp vào sỏi, khi đó Amplatz sẽ tiếp
xúc trực tiếp với sỏi nên khi tán nhỏ sỏi sẽ được hút trực tiếp ra ngoài và
77
tránh được việc đưa Amplatz qua cổ đài để tiếp cận sỏi tránh được nguy cơ
rách cổ đài gây chảy máu. 9
Đường chọc dò vào thận được thích hợp nhất là đường ít tổn hại mạch
máu và tạng xung quanh nhất, đó là đường vuông góc mặt sau ngoài thận, đi
vào diện vô mạch mạch Brodel, với đường chọc dò này sẽ tiếp cận chủ yếu là
đài giữa và đài dưới của thận. Ngoài ra tổ chức đài thận sau (nhóm lưng)
thường được lựa chọn để chọc dò do bộ phận đài thận uốn cong, góc kim chọc
và trục dài đài thận cơ bản đồng nhất, hướng đến bể thận. Trong nghiên cứu
này tỷ lệ chọc dò vào đài dưới của chúng tôi chiếm 62,4%; đài giữa là 37,6%
(bảng 3.7). Phần lớn các trường hợp trong nghiên cứu đều là sỏi từ S1 đến S3,
theo chúng tôi từ những vị trí này tiếp cận được sỏi tốt nhất, dễ dàng di
chuyển ống soi kiểm soát đài bể thận và lấy được sỏi ở các đài thận một cách
tối đa. Chúng tôi không lựa chọn chọc dò vào đài trên một phần do hình thái
sỏi và một phần do nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chọc dò đài trên thường
vướng xương sườn, có nguy cơ tổn thương màng phổi cao hơn các vị trí
khác.77,78 Hiện nay nhiều tác giả nghiên cứu tán sỏi qua da cũng có xu hướng
ưu tiên chọc dò vào đài dưới và đài giữa thận để hạn chế các tai biến và biến
chứng. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tùng trên 60 bệnh nhân cũng ưu
tiên chọc dò vào đài giữa và đài dưới chiếm 98,3% chỉ có 1,7% trường hợp
chọc dò vào đài trên.64 Abdelhafez (2012) báo cáo 83 bệnh nhân tán qua da
chọc dò đài trên là 4,8%, đài giữa là 10,8% còn lại chọc dò vào đài dưới
(84,8%).79
4.2.3.2. Quá trình chọc dò
Trong quá trình chọc dò số trường hợp chỉ cần chọc dò một lần chiếm
90,6% (77 BN) ; có 8 trường hợp cần chọc dò 2 lần chiếm 9,4% (8 BN) và
không có trường hợp nào chọc 3 lần (bảng 3.8). Số lần chọc dò trong nghiên
cứu này có liên quan đến chỉ số BMI; mức độ ứ nước của thận và tiền sử mổ
78
cũ. Những bệnh nhân thừa cân thường khoảng cách từ da đến thận lớn, kèm
theo lớp mỡ dày là những yếu tố gây khó khăn trong quá trình chọc dò; 87,5%
các trường hợp chọc dò 2 lần là bệnh nhân thừa cân, trong khi tất cả các bệnh
nhân thiếu cân đều chọc dò một lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,05 (bảng 3.10). Lương Hồng Thanh nghiên cứu 165 bệnh nhân cũng đưa
ra nhận định phân nhóm BMI ảnh hưởng đến quá trình chọc dò. 55 Nghiên cứu
của Bagrodia A chỉ ra rằng tình trạng thừa cân của bệnh nhân gây ra nhiều
khó khăn cho TSQD trong việc đặt tư thế bệnh nhân, tăng nguy cơ chảy máu
và khó khăn cho các thao tác phẫu thuật.80
Các trường hợp thận ứ nước, đài bể thận giãn, nhu mô mỏng tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình chọc dò, thận ứ nước độ II, độ III tất cả đều chọc
dò một lần; tất cả các trường hợp chọc dò 2 lần là thận không ứ nước, hoặc ứ
nước độ I. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.11). Nghiên
cứu của Nguyễn Thanh Tùng trên 60 bệnh nhân cũng nhận thấy mức độ ứ
nước thận liên quan đến số lần chọc dò.64
Bệnh nhân có sẹo mổ cũ cũng thường gây khó khăn cho quá trình chọc
dò. Có 75% các bệnh nhân chọc dò 2 lần đều có tiền sử mổ cũ, bên cạnh đó
93,5% số bệnh nhân chọc dò 1 lần không có tiền sử mổ cũ. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.9). Theo chúng tôi những bệnh nhân này
có những thay đổi về mặt giải phẫu, ngoài ra còn sơ dính vùng thắt lưng,
khoang quanh thận, điều này gây khó khăn cho chọc dò và tạo đường hầm.
Nghiên cứu của các tác giả Segura J W , Corbel L ở những bệnh nhân đã có
sẹo mổ cũ sẽ gặp khó khăn trong quá trình đưa ống thông niệu quản lên thận
và tạo đường hầm do những biến đổi gấp góc dính của niệu quản hay do sẹo
cơ thắt lưng và khoang cạnh thận. 39,81 Tuy nhiên Lê Sỹ Trung và Darabi lại
cho rằng đó sẽ là những thuận lợi khi chọc dò vào thận, do lúc này thận đã cố
định và không di động nên sẽ dễ chọc trúng đích hơn. 82,83 Nghiên cứu của
79
Lương Hồng Thanh cũng chỉ ra số lần chọc dò có liên quan đến tiền sử mổ
cũ, mức độ ứ nước thận và phân nhóm BMI của bệnh nhân.55
Thời gian chọc dò và tạo đường hầm trung bình trong nghiên cứu là
10,3 ± 2,9 phút. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh nghiệm của
phẫu thuật viên, thể trạng của bệnh nhân, vị trí và kích thước sỏi, mức độ ứ
nước thận. Tất cả các trường hợp chúng tôi đều tiến hành chọc dò và tạo
đường hầm thành công, trong đó có 3 bệnh nhân (3,5%) cần tạo hai đường
hầm đều là những bệnh nhân có sỏi phức tạp kích thước lớn, không có trường
hợp nào tạo 3 đường hầm (bảng 3.12). Số đường hầm được tạo ra trong quá
trình tán sỏi qua da liên quan đến mức độ phức tạp của sỏi. Đối với các
trường hợp sỏi san hô hoặc sỏi thận nhiều viên nhiều trường hợp chúng ta cần
tạo nhiều hơn một đường hầm để tiếp cận và tán sỏi. Trong nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Tùng thì có 5% số trường hợp cần tạo hai đường hầm còn
95% chỉ cần tạo 1 đường hầm.64 Zhu nghiên cứu nhóm 147 bệnh nhân với tỷ
lệ sỏi đơn thuần chiếm 90,5% và sỏi phức tạp là 9,5%; tương ứng có 9,5% cần
tạo hơn một đường hầm đều ở trường hợp sỏi phức tạp với 8,8% là hai đường
hầm và 0,7% là ba đường hầm.65
Trong nghiên cứu chúng tôi thực hiện đường hầm được tạo ra với kích
thước Amplazt là 18Fr. Các nghiên cứu gần đây cho thấy việc thu nhỏ kích
thước đường hầm và ống soi thận từ PCNL sang mini PCNL làm tăng hiệu
quả tán sỏi và giảm biến chứng của PCNL tiêu chuẩn. Cheng. F đã nghiên
cứu 2 nhóm so sánh mini PCNL và PCNL tiêu chuẩn đã kết luận mini PCNL
có tỷ lệ sạch sỏi cao hơn (85,2% so với 70,0%) và có tỷ lệ biến chứng thấp
hơn.5
4.2.4. Quá trình tán sỏi qua da đường hầm nhỏ
4.2.4.1. Thời gian phẫu thuật
80
Thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu là 70,1 ± 13,7 phút
trong đó ngắn nhất là 40 phút, dài nhất là 120 phút. Sự khác biệt về thời gian
phẫu thuật giữa hai bên thận không có ý nghĩa thống kê (bảng 3.13). Hiện tại
cũng chưa thấy có báo cáo nào nói lên sự khác biệt về thời gian mổ cũng như
hiệu quả TSTQD giữa 2 bên. Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu này có
liên quan đến kích thước và hình thái sỏi. Thời gian phẫu thuật trung bình của
nhóm có kích thước sỏi < 20mm là 62,8 ± 8,8 phút; nhóm 20 - 40 mm là 70,0
± 15,3 phút và của nhóm kích thước sỏi > 40mm là 73,3 ± 10,3 phút. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.14). Những bệnh nhân có sỏi thận
thuộc phân nhóm S1 có thời gian phẫu thuật trung bình là 66,0 ± 15,8 phút ;
trong khi đó các trường hợp phân nhóm S4 có thời gian phẫu thuật trung bình
là 76,5 ± 5,0 phút. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.15).
Với những trường hợp sỏi có kích thước lớn hoặc sỏi phức tạp theo chúng tôi
thì thời gian tán sỏi, kiểm soát đài bể thận và lấy sỏi sẽ kéo dài hơn. Lương
Hồng Thanh nghiên cứu 165 bệnh nhân có thời gian phẫu thuật trung bình là
89,3 ± 9,0 phút cũng kết luận thời gian phẫu thuật liên quan đến kích thước
sỏi, hình thái sỏi.55 Abdelhafez (2012) nghiên cứu tán sỏi qua da đường hầm
nhỏ với sỏi kích thước lớn trung bình 36,7 ± 23,37 mm, thời gian tán sỏi
trung bình là 99,2 ± 48,3 phút.79 Nhiều nghiên cứu cũng đưa ra nhận định,
kích thước sỏi lớn, sỏi phức tạp sẽ kéo dài thời gian phẫu thuật.67,68
4.2.4.2. Tai biến trong mổ
Trong nghiên cứu có một trường hợp tai biến trong mổ chiếm 1,2%
(bảng 3.16). Đây là trường hợp bệnh nhân chảy máu trong mổ hạn chế phẫu
trường, chúng tôi quyết định dừng tán sỏi, đặt dẫn lưu thận và điều trị nội
khoa, theo dõi và tiến hành tán sỏi lần 2. Trường hợp này khi chọc dò và tạo
đường hầm thuận lợi, chúng tôi tiến hành tán sỏi, tuy nhiên sỏi kích thước lớn
thời gian phẫu thuật kéo dài không tránh khỏi chảy máu do tổn thương nhu
81
mô thận. Bên cạnh đó hình thái sỏi phức tạp trong quá trình di chuyển ống soi
để kiểm soát và tán sỏi ở các đài thận có thể gây tổn thương cổ đài. Cũng có
trường hợp nguyên nhân chảy máu là do quá trình chọc dò và nong đường
hầm tổn thương nhu mô thận. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trong và
ngoài nước, nếu trong quá trình tán sỏi bị chảy máu thì chủ trương ngừng
cuộc mổ đặt ống dẫn lưu thận, cặp tạm thời sau đó can thiệp lại.82,84
Trong nghiên cứu không gặp tai biến nào khác. Nghiên cứu của Trần
Chí Thanh trên 68 bệnh nhân có 5 bệnh nhân chảy máu trong mổ (7,4%) đều
dừng tán sỏi và điều trị nội khoa tán sỏi qua da lần 2. 69 Thanh DT nghiên cứu
250 bệnh nhân có 3,6% chảy máu trong mổ phải dừng phẫu thuật tán sỏi qua
da lần 2, không có trường hợp chuyển mổ mở.70 Zeng nghiên cứu 10000 bệnh
nhân gặp một số tai biến trong mổ như: chảy máu trong mổ (3,4%); tổn
thương màng phổi 0,9%; tổn thương ruột 0,02%; tổn thương bể thận 0,08%.6
Chúng tôi đặt thông JJ niệu quản cho tất cả các bệnh nhân. Phần lớn
được đặt JJ xuôi dòng; có 1 trường hợp đặt JJ ngược dòng. Theo chúng tôi
thông JJ niệu quản như là một dẫn lưu bên trong, có tác dụng dẫn lưu nước
tiểu, tránh tắc nghẽn do các mảnh sỏi nhỏ. Đặt JJ xuôi dòng là ưu tiên đối với
tán sỏi qua da đường hầm nhỏ tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng đặt
được JJ xuôi dòng. Trong trường hợp này sau khi tán sỏi việc tiếp cận bể thận
để đặt JJ khó khăn do đường hầm vào đài dưới gập góc với trục bể thận niệu
quản, chúng tôi tiến hành kê lại tư thế bệnh nhân và đặt thông JJ bằng phương
pháp nội soi ngược dòng thuận lợi. Đỗ Trường Thành nghiên cứu 1065 bệnh
nhân có 45 bệnh nhân (4,22%) cần đặt JJ bằng nội soi ngược dòng.10
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều được đặt dẫn lưu thận sau
khi tán sỏi và đặt JJ, dẫn lưu thận có tác dụng thoát nước tiểu nhất là khi thận
ứ nước, lưu thông niệu quản xuống bàng quang không thuận lợi. Ngoài ra dẫn
lưu thận còn giúp theo dõi màu sắc nước tiểu qua dẫn lưu ở những bệnh nhân
82
có nguy cơ chảy máu, nhiễm khuẩn trong thận để có hướng xử trí kịp thời,
hoặc dùng để tán sỏi qua da lần 2. Theo nghiên cứu gần đây của các tác giả,
tuỳ theo kinh nghiệm của phẫu thuật viên, kích thước và hình thái sỏi, kết hợp
với nhận định trong quá trình tán sỏi chúng ta có thể cân nhắc không đặt dẫn
lưu thận.85
4.2.5. Theo dõi sau mổ
4.2.5.1. Lượng máu mất trong mổ
Lượng hemoglobin mất trong mổ trung bình trong nghiên cứu là 13,9 ±
10,3g/L (bảng 3.17). Có 3 bệnh nhân phải truyền máu do chảy máu sau mổ.
Lượng hemoglobin mất trung bình trong mổ có liên quan đến số lần chọc dò
và kích thước sỏi. Việc chọc dò tiếp cận nhu mô thận có thể gây chảy máu
nên số lần chọc dò tăng lên làm tăng nguy cơ chảy máu. Trong nhóm chọc dò
một lần lượng hemogobin mất trung bình là 13,7 ± 10,4g/L; nhóm chọc dò 2
lần là 16,7 ± 10,4g/L. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng
3.18). Những trường hợp sỏi có kích thước lớn, thời gian phẫu thuật thường
kéo dài, tăng nguy cơ tổn thương nhu mô thận dẫn tới nguy cơ chảy máu cũng
cao hơn. Lượng hemoglobin mất trung bình trong mổ ở nhóm sỏi kích thước
< 20mm là 11,2 ± 10,6 g/L; ở nhóm > 40mm trung bình 16,2 ± 11,2g/L. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.19). Lượng hemoglobin mất
trung bình trong nghiên cứu ở nhóm thận không ứ nước là cao nhất là 17,9 ±
9,9 g/L; ứ nước độ I là 13,4 ± 10,0 g/L; độ II là 12,9 ± 9,3 g/L. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p >0,05 (bảng 3.20). Khi nghiên cứu về tán sỏi
qua da Lương Hồng Thanh cũng có nhận xét lượng hemogobin mất trong mổ
không liên quan đến ứ nước thận với lượng hemogobin mất trung bình là 13,4
± 8,5 g/L.55 Tuy nhiên trong nghiên cứu của Nguyễn Thanh Tùng (2018) trên
60 BN lượng hemohlobin mất trong mổ là 22,29 ± 10,3 g/L và cho ra rằng thận
càng giãn thì mức độ mất máu càng ít.64
83
can thiệp nút mạch (độ IIIb theo phân loại Clavien); 1 trường hợp (1,2%) sốc
nhiễm khuẩn (độ IVb theo phân loại Clavien )(bảng 3.23).
Có 5 trường hợp chiếm tỷ lệ 5,9% là gặp biến chứng sốt sau tán sỏi. Tỷ
lệ sốt sau TSTQD gặp từ 2,8 - 32,1% có thể do nhiễm khuẩn trước mổ, rối
loạn chức năng bàng quang hoặc do áp lực nước trong thận cao khi mổ tuy
nhiên rất ít trường hợp tiến triển đến sốc nhiễm khuẩn.9 Trong nghiên cứu
này, tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều dùng kháng sinh dự phòng,
cấy nước tiểu trước mổ. Những trường hợp có bất thường trong xét nghiệm
nước tiểu tiến hành điều trị đến khi xét nghiệm nước tiểu bình thường mới
được thực hiện phẫu thuật. Các trường hợp cấy nước tiểu dương tính chúng
tôi tiến hành điều trị theo kháng sinh đồ đến khi cấy lại âm tính mới tiến hành
can thiệp phẫu thuật nhằm hạn chế tối đa nguy cơ nhiễm khuẩn sau mổ. Ngoài
ra tất cả các trường hợp chúng tôi đều cho xét nghiệm lại công thức máu và
CRP sau mổ. Số lượng trung bình bạch cầu sau mổ 11,5 ± 3,0 G/L tăng cao
hơn so với trước mổ là 8,2 ± 2,0 G/L; trong đó số lượng trung bình bạch cầu
đa nhân trung tính sau mổ 9,4 ± 32 G/L cũng tăng cao hơn so với trước mổ
5,1 ± 1,9 G/L (bảng 3.17). Định lượng CRP sau mổ có giá trị trung bình là
25,0 ± 35,9 mg/l cao hơn nhiều so với trước mổ 4,1 ± 6,3 mg/l (bảng 3.21).
Các xét nghiệm này giúp chúng tôi đánh giá sớm và theo dõi và tiên lượng
nguy cơ nhiễm khuẩn. Như vậy sau quá trình tán sỏi qua da tình trạng phản
ứng viêm của bệnh nhân có phần tăng lên, nguy cơ nhiễm khuẩn tương đối
cao cho dù trước mổ ổn định. Nhiều bệnh nhân có tình trạng viêm tiến triển
âm ỉ không có biểu hiện lâm sàng (chỉ 5,9% trường hợp sốt) nếu chúng ta
không theo dõi tốt, điều trị kháng sinh phù hợp thì nguy cơ bệnh nhân sốt rất
cao. Những bệnh nhân sốt do nhiễm khuẩn trong nghiên cứu đều được cấy nước
tiểu cho kết quả âm tính, được thay đổi kháng sinh điều trị ổn định.
85
Chúng tôi ghi nhận một bệnh sốc nhiễm khuẩn (chiếm 1,2%) cần chăm
sóc tích cực. Bệnh nhân này khi vào viện chưa có triệu chứng lâm sàng của
nhiễm khuẩn, xét nghiệm nước tiểu trước mổ có bạch cầu niệu, có nitrit
dương tính, kết quả cấy nước tiểu dương tính đã được dùng kháng sinh theo
kháng sinh đồ sau đó xét nghiệm lại nước tiểu bình thường, cấy khuẩn lại âm
tính chúng tôi tiến hành phẫu thuật. Sau phẫu thuật bệnh nhân bắt đầu có biểu
hiện mạch nhanh, huyết áp thấp, thân nhiệt hạ, xét nghiệm bạch cầu tăng,
CRP tăng cao sau đó bệnh nhân được chuyển chăm sóc tích cực, cấy nước
tiểu cấy máu đều dương tính dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ bệnh nhân
ổn định. Theo chúng tôi một số trường hợp tuy đã được điều trị và xét nghiệm
nước tiểu trước mổ bình thường, nhưng trong viên sỏi sẽ chứa một lượng lớn
các vi khuẩn, khi sỏi được tán vụn sẽ giải phóng các vi khuẩn nằm tiềm tàng bên
trong kết hợp thời gian phẫu thuật kéo dài do kích thước sỏi lớn dẫn đến áp lực
nước trong thận cao có thể gây ra hiện tượng nhiễm khuẩn niệu, nhiễm khuẩn
huyết. Theo nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng ngay cả khi điều trị kháng sinh đồ ổn
định, tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ TSQD vẫn cao hơn ở nhóm có cấy nước tiểu
trước mổ dương tính.72,86
Trong nghiên cứu có ba trường hợp chảy máu sau mổ. Các trường hợp
chảy máu sau mổ được theo dõi trên lâm sàng, làm xét nghiệm đánh giá mức
độ mất máu và tiến hành truyền máu. Trong quá trình theo dõi sau truyền máu
có 2 trường hợp (2,4%) bệnh nhân diễn biến ổn định; có một trường hợp
(1,2%) sau khi truyền máu, theo dõi bệnh nhân vẫn có biểu hiện mất máu,
được tiến hành chụp mạch và nút mạch chọn lọc. Chảy máu sau mổ là biến
chứng hay gặp của TSQD, nguyên nhân của các trường hợp này do rách nhu
mô thận trong quá trình nong đường hầm nhưng khi đẩy đầu vỏ Amplatz vào
trong lòng hệ thống đài bể thận, tạm thời có thể cầm máu và tiến hành tán sỏi,
khi chúng ta rút Amplatz đặt dẫn lưu thận thì chảy máu có thể xuất hiện trở
86
lại. Chảy máu có thể do chảy máu tĩnh mạch hoặc chảy máu động mạch. Chảy
máu tĩnh mạch là chủ yếu do tổn thương tĩnh mạch trong quá trình phẫu thuật,
máu từ tĩnh mạch bị thủng chảy vào hệ thống đài bể thận, trong quá trình
phẫu thuật do áp lực nước và tốc độ dòng chảy lớn nên thường không ảnh
hưởng đến quá trình mổ, sau phẫu thuật biểu hiện bằng chảy máu qua dẫn lưu
thận, những trường hợp này đa số chỉ cần theo dõi điều trị nội khoa. Chảy
máu sau mổ do rách động mạch, rò động tĩnh mạch, phình động mạch chiếm
tỷ lệ khoảng 0,9 - 3 %, những trường hợp này đa số phải truyền máu và có thể
phải nút mạch chọn lọc.41 Theo chúng tôi để hạn chế tai biến, biến chứng chảy
máu, việc quan trọng là phải chọn vị trí chọc dò vào thận, tiếp cận sỏi tốt
nhất, thao tác nhẹ nhàng trong quá trình nong đường hầm vào thận. Không
nong đường hầm quá sâu và không cố gắng tiếp cận sỏi quá mức, khi tán
sỏi cần chính xác nhằm hạn chế tối đa tổn thương nhu mô thận. Khi chọc dò
và đặt Amplatz thuận lợi thì phẫu thuật viên có thể kiểm soát cuộc mổ và
nguy cơ tổn thương nhu mô, mạch máu cổ đài là rất ít.9
Đỗ Trường Thành đã nghiên cứu 1065 bệnh nhân tỷ lệ biến chứng sau
mổ là 2,44% trong đó có 15 bệnh nhân sốt sau mổ (1,4%); có 5 trường hợp
sốc nhiễm khuẩn chiếm 0,47%; 6 bệnh nhân chảy máu sau mổ cần nút mạch
chọn lọc (0,56%).10 Zhu nghiên cứu 147 trường hợp có tỷ lệ biến chứng sau
mổ là 11,5% trong đó gặp nhiều nhất là sốt sau mổ chiếm 4,8%; 0,7% shock
nhiễm trùng; 0,7% chảy máu cần truyền máu; 0,7% chảy máu cần can thiệp
mạch sau mổ.65
4.2.5.4. Thời gian nằm viện sau mổ
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu đều được đặt dẫn lưu thận, với
thời gian rút dẫn lưu trung bình là 2,3 ± 0,6 ngày. Thời gian rút dẫn lưu thận
phụ thuộc vào mức độ hồi phục của bệnh nhân, tình trạng ứ nước thận trước
mổ, các biến chứng sau mổ, tình trạng sỏi sau mổ. Thời gian nằm viện sau mổ
87
trung bình trong nghiên cứu là 5,5 ± 1,8 ngày, dài nhất là 14 ngày, ngắn nhất
là 4 ngày. Thời gian nằm viện liên quan đến diễn biến sau mổ của bệnh nhân,
các biến chứng cũng như tình trạng sỏi sau tán. Lương Hồng Thanh nghiên
cứu 165 bệnh nhân thời gian lưu dẫn lưu thận trung bình 4,02 ± 0,77 ngày;
thời gian ra viện trung bình là 6,4 ± 2,6 ngày. 55 Thanh DT nghiên cứu 250
bệnh nhân có thời gian rút dẫn lưu trung bình là 2,87 ± 1,43 ngày, thời gian
nằm viện trung bình là 4,57 ± 2,64 ngày.70
4.3.KẾT QUẢ TÁN SỎI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN.
4.3.1. Kết quả tán sỏi ngay sau mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân được chụp Xquang và siêu
âm ngày thứ 3 sau mổ để đánh giá kết quả tán sỏi ngay sau mổ. Ngay sau mổ
có 76,5% trường hợp sạch sỏi và 23,5% sót sỏi. Trong 23,5% sót sỏi có 2
trường hợp (2,4%) tiến hành tán sỏi qua da lần 2 bao gồm cả một trường hợp
chảy máu trong mổ dừng tán sỏi tiến hành tán lần 2 (bảng 3.22). Kết quả tán
sỏi qua da đường hầm nhỏ một số nghiên cứu trong thời gian gần đây như
Hoàng Long nghiên cứu trên 270 bệnh nhân kết quả tán sỏi ngay sau mổ là
77,7% sạch sỏi; 22,3% sót sỏi, trong đó có 5 bệnh nhân (1,85%) tán sỏi qua
da lần 2.9 Zare đã nghiên cứu tán sỏi qua da tư thế nằm nghiêng với định vị
bằng siêu âm trên 250 bệnh nhân cho kết quả sạch sỏi ngay sau mổ là 68%; tỷ
lệ sót sỏi 32% trong đó không có trường hợp nào tiến hành tán sỏi da lần 2, có
32 trường hợp (12,8%) tán sỏi ngược dòng và tán ngoài cơ thể.52
4.3.2. Kết quả tán sỏi khi khám lại sau một tháng.
Tất cả các bệnh nhân khám lại sau một tháng, được tiến hành siêu âm
và chụp Xquang đánh giá kết quả tán sỏi và chỉ định rút JJ. Tỷ lệ sạch sỏi khi
khám lại sau một tháng là 85,9% ; sót sỏi là 14,1% (bảng 3.25). Các bệnh
nhân được chỉ định rút JJ, những bệnh nhân còn sót sỏi đều có kích thước nhỏ
chúng tôi tiến hành theo dõi định kỳ. Như vậy kết quả tán sỏi khám lại sau
88
một tháng của chúng tôi tỷ lệ sạch sỏi cao hơn kết quả tán sỏi ngay sau mổ.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỷ lệ sạch sỏi khi khám lại thường cao
hơn tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ.9,52 Kết quả nghiên cứu của Hoàng Long trên
270 bệnh nhân tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ là 77,7% và khi khám lại sau một
tháng tỷ lệ sạch sỏi tăng lên 87,4%.9 Zare nghiên cứu trên 250 bệnh nhân kết
quả sạch sỏi ngay sau mổ là 68% tăng lên 88% khi khám lại.52 Theo chúng tôi
điều này có thể do nhiều lý do khác nhau. Tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ bao
gồm cả những trường hợp sót sỏi cần tán qua da lần 2 hoặc áp dụng các
phương pháp khác, sau khi thực hiện những can thiệp thì tỷ lệ sạch sỏi sẽ tăng
lên. Một phần do kết quả siêu âm và chụp Xquang sau ngay sau mổ có nhiều
yếu tố gây nhiễu như các mảnh sỏi ở phim Xquang ngay sau mổ chồng hình
lên nhau tạo thành đám sỏi dễ bị nhầm viên lớn; ứ đọng dịch, thậm chí có
máu cục trong đài bể thận, khí trong lòng ruột do nhu động ruột kém cũng
như dịch ngấm tổ chức quanh thận ảnh hưởng đến chất lượng siêu âm và
Xquang. Cũng có thể một số trường hợp các mảnh nhỏ có thể tự đào thải bằng
đường tự nhiên. Tỷ lệ sạch sỏi sau tán sỏi qua da được báo cáo từ 62% đến
94,3% chênh lệch khá lớn giữa các tác giả do không đồng nhất chỉ tiêu lựa
chọn sỏi, phương pháp tán, năng lượng tán sỏi, tiêu chuẩn đánh giá sạch sỏi.10
4.3.3. Một số yếu tố liên quan đến kết quả tán sỏi qua da đường hầm nhỏ
dưới hướng dẫn của siêu âm.
Sau khi nghiên cứu 85 bệnh nhân được tán sỏi qua da đường hầm nhỏ
dưới hướng dẫn của siêu âm ghi nhận kết quả sớm sau tán sỏi là: tỷ lệ sạch sỏi
85,9%, sót sỏi 14,9% chúng tôi tiến hành đánh giá một số yếu tố liên quan
đến kết quả tán sỏi.
4.3.3.1. Liên quan giữa tiền sử mổ cũ sỏi thận và kết quả tán sỏi
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 74 bệnh nhân chưa có tiền sử mổ thì
86,5% có kết quả sạch sỏi; 13,5% kết quả sót sỏi. Trong nhóm có tiền sử mổ
89
lấy sỏi thận tỷ lệ tán sạch sỏi chiếm 81,8% và 18,2% sót sỏi. Sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p>0,05 (bảng 3.26). Theo chúng tôi những
bệnh nhân có tiền sử mổ cũ có thể gây khó khăn trong quá trình chọc dò, tạo
đường hầm, nhưng khi đã tạo được đường hầm và tiếp cận sỏi thì không ảnh
hưởng đến kết quả tán sỏi. Nguyễn Đình Xướng qua nghiên cứu 175 BN gồm
113 BN mổ lần đầu và 62 trường hợp có tiền sử mổ mở cũng nhận định không
có sự khác biệt về kết quả tán sỏi giữa hai nhóm. 87 Basari nghiên cứu 162
trường hợp gồm 65 BN có tiền sử mổ mở so với 117 BN chưa mổ mở cũng có
nhận xét tương tự.88
4.3.3.2. Liên quan giữa phân loại BMI và kết quả tán sỏi
Trong nhóm bệnh nhân phân loại BMI thiếu cân tất cả đều cho kết quả
sạch sỏi. Có 87,7% số bệnh nhân phân loại BMI bình thường có kết quả sạch
sỏi; còn lại 12,3% sót sỏi. Trong nhóm bệnh nhân thừa cân thì có 73,3% cho
kết quả sạch sỏi và 26,7% sót sỏi. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p>0,05 (bảng 3.27). Theo phân nhóm BMI thì ở những bệnh nhân thừa cân
thường gây khó khăn trong quá trình chọc dò vào đài, bể thận, nhưng khi chọc
dò thành công và tạo đường hầm thì những trường hợp này không ảnh hưởng
đến kết quả tán sỏi. Các tác giả Zhou. X; Chen. F nghiên cứu hiệu quả TSQD
trên bệnh nhân thừa cân, và so sánh với các đối tượng khác đều khẳng định
TSQD là một phương pháp hiệu quả, an toàn và không có sự khác biệt tỷ lệ sạch
sỏi, tỷ lệ biến chứng đối với bệnh nhân thừa cân với các bệnh nhân có BMI bình
thường hay thiếu cân.89,90 Trong nghiên cứu của Lương Hồng Thanh cũng cho
rằng kết quả tán sỏi qua da không liên quan đến chỉ số BMI.55
4.3.3.3. Liên quan giữa mức độ ứ nước thận và kết quả tán sỏi
Có 85,7% số bệnh nhân thận không ứ nước cho kết quả tán sạch sỏi và
14,3% là sót sỏi. Trong nhóm bệnh nhân thận ứ nước độ I thì 80,0% có kết
quả sạch sỏi và 20% là sót sỏi. Những bệnh nhân thận ứ nước độ II có kết quả
90
tán sạch sỏi là 95,5 và 4,5% sót sỏi. Trong các trường hợp thận ứ nước độ III
thì 90,9% sạch sỏi; 9,1% sót sỏi. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với
p>0,05 (bảng 3.28). Mức độ ứ nước thận có thể gây khó khăn trong quá trình
chọc dò, khi đã chọc dò và tạo đường hầm thành công và tiếp cận sỏi, không ảnh
hưởng nhiều đến kết quả tán sỏi. Ngoài ra như chúng tôi nhận thấy một số
trường hợp thận ứ nước nhiều còn gây khó khăn cho quá trình lấy sỏi, nhưng khi
giảm áp lực bơm nước, cố định viên sỏi chúng tôi đều tán và lấy sỏi thành công.
Nghiên cứu của các tác giả khác cũng đưa ra nhận định mức độ ứ nước thận
không ảnh hưởng đến kết quả tán sỏi.62,91 Karatag nghiên cứu 112 bệnh nhân tán
sỏi qua da chia làm hai nhóm thận không ứ nước và thận ứ nước cũng đưa ra kết
luận mức độ ứ nước thận không ảnh hưởng đến kết quả tán sỏi.91
4.3.3.4. Liên quan giữa kích thước sỏi và kết quả tán sỏi
Trong nhóm bệnh nhân sỏi có kích thước < 20mm tất cả các trường hợp
cho kết quả sạch sỏi. Có 92,5% số bệnh nhân có sỏi kích thước từ 20 - 40 mm
có kết quả tán sạch sỏi và 7,5% sót sỏi. Các bệnh nhân có kích thước sỏi > 40
mm thì 65,2% có kết quả sạch sỏi, 34,8% sót sỏi. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05 (bảng 3.29). Kích thước sỏi càng lớn thì nguy cơ sót sỏi
càng cao. Đối với sỏi có kích thước lớn, thời gian tán kéo dài, khi sỏi được
tán thành nhiều mảnh nhỏ, dưới áp lực nước khiến các mảnh sỏi nhỏ có thể di
chuyển đến các vị trí khác của đài bể thận, có những vị trí mà ống soi không
kiểm soát hết được làm tăng nguy cơ sót sỏi. Nghiên cứu của Hoàng Long
trên 270 bệnh nhân cũng đưa ra nhận định kích thước sỏi có liên quan đến kết
quả tán sỏi.9 Abdelhafez (2013) nghiên cứu tán sỏi qua da đường hầm nhỏ
chia làm hai nhóm kích thước sỏi < 2cm và > 2cm cho kết quả tỷ lệ sạch sỏi
của nhóm < 2cm là 90,8%; nhóm >2cm có kết quả sạch sỏi là 76,3%. Tác giả
đã đưa ra kết luận kích thước sỏi có liên quan đến kết quả tán sỏi qua da, sỏi
kích thước lớn làm tăng nguy cơ sót sỏi.67
91
4.3.3.5. Liên quan giữa hình hình thái sỏi và kết quả tán sỏi
Trong nghiên cứu này những bệnh nhân có sỏi S1 thì tất cả cho kết quả
sạch sỏi. Ở nhóm sỏi S2 có 88,3% sạch sỏi và 11,7% sót sỏi. Các bệnh nhân
sỏi thuộc nhóm S3 thì tỷ lệ sạch sỏi là 63,5%, sót sỏi là 37,5%. Có 2 bệnh
nhân sỏi S4 thì có 1 bệnh nhân chiếm 50% sạch sỏi và một bệnh nhân sót sỏi
chiếm 50%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (bảng 3.30). Kết quả
tán sỏi trong nghiên cứu có liên quan đến hình thái của sỏi. Theo chúng tôi
hình thái sỏi càng phức tạp, sỏi nằm ở nhiều vị trí trong đài bể thận, trong quá
trình tán sỏi rất khó để chúng ta kiểm soát được hết tất cả các vị trí như vậy sẽ
làm tăng nguy cơ sót sỏi. Những nghiên cứu gần đây của các tác giả như
Hoàng Long, Lương Hồng Thanh cũng đưa ra kết luận hình thái sỏi có liên
quan đến kết quả tán sỏi.9,55 Abdelhafez (2012) tán sỏi qua da đường hầm nhỏ
trên 83 trường hợp có 38,6% sỏi đơn thuần; 61,4% sỏi phức tạp, có kết quả
sạch sỏi ở nhóm sỏi đơn thuần là 96,9% và nhóm sỏi phức tạp là 66,7% và
nhận định kích thước và mức độ phức tạp của sỏi có liên quan với thời gian
tán sỏi và mức độ sạch sỏi.79 Tác giả Burak Turna nghiên cứu 234 BN chia
thành các nhóm sỏi và phân tích theo sự phức tạp của sỏi và diện tích bề mặt
sỏi cũng cho các kết luận tương tự.68
Như vậy kết quả tán sỏi qua da trong nghiên cứu của chúng tôi không
liên quan đến tiền sử mổ cũ, phân nhóm BMI và mức độ ứ nước thận nhưng
liên quan đến kích thước và hình thái sỏi. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài
nước cũng có nhận xét tương tự.9,67,79
92
KẾT LUẬN
Nghiên cứu 85 bệnh nhân tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng
dẫn của siêu âm tại khoa Ngoại 2, BV Bưu Điện từ tháng 9/2017 đến tháng
6/2021. Chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân nghiên cứu
- Tuổi trung bình: 54,7 ± 10,6 tuổi. Nhóm tuổi thường gặp 50 - 59 tuổi
chiếm 31,8%. Tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 71,8%, nữ chiếm 38,2%.
- Tiền sử thận mổ cũ là 12,9%. Phân nhóm BMI chủ yếu là bình thường
chiếm 76,5%.
- Triệu chứng lâm sàng khi vào viện: đau thắt lưng là triệu chứng chính
chiếm 81,2%; 3,5% không có triệu chứng.
- Vị trí sỏi: 52,9% sỏi thận phải ; 41,7% sỏi thận trái.
- Kích thước sỏi: kích thước sỏi trung bình là 34,4 ± 11,2 mm.
- Hình thái sỏi theo phân loại Mores và Boyce.W.H: có 28,2% là các
trường hợp sỏi S1; 50,6% sỏi S2; 18,8% sỏi S3; có 2 trường hợp (2,4%) S4;
không có trường hợp nào sỏi S5.
- Mức độ ứ nước thận: 8,2% số trường hợp thận không ứ nước; có
53,0% số trường hợp thận ứ nước độ I; 25,9% thận ứ nước độ II; 12,9% thận
ứ nước độ III.
- Không có trường hợp nào thiếu máu, 17,6% bạch cầu tăng. Xét
nghiệm sinh hoá: có 5,9% số trường hợp tăng creatinin máu; 69,4% tăng nhẹ
CRP trước mổ.
- Xét nghiệm nước tiểu: 74,1% có hồng cầu niệu và 75,3% có bạch cầu
niệu, 9,4% có nitrit và vi khuẩn trong nước tiểu.
93
2. Kết quả tán sỏi đài dưới thận bằng phương pháp tán sỏi qua da
đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm và một số yếu tố liên quan.
- Vị trí chọc dò: chọc dò vào dài dưới thận chiếm 62,4%. Có 37,6% chọc
dò vào đài giữa, không có trường hợp nào chọc dò vào đài trên thận.
- Số lần chọc: 90,6% bệnh nhân chọc dò 1 lần; có 9,4% cần phải chọc
dò 2 lần. Những bệnh nhân có tiền sử mổ cũ và phân nhóm BMI thừa cân
thường gây khó khăn cho việc chọc dò, bên cạnh đó những trường hợp thận ứ
nước nhiều thì chọc dò sẽ thuận lợi hơn. Tiền sử mổ cũ, phân nhóm BMI và
mức độ ứ nước thận ảnh hưởng một cách có ý nghĩa tới khả năng chọc dò -
tạo đường hầm qua da vào thận.
- Thời gian phẫu thuật trung bình: 70,1 ± 13,7 phút. Thời gian phẫu thuật
có liên quan đến kích thước và hình thái sỏi, những trường hợp sỏi kích thước
lớn và phức tạp thì thời gian phẫu thuật thường kéo dài hơn.
- Lượng hemoglobin mất trong mổ trung bình là: 13,9 ± 10,3 g/L. Một
trường hợp tai biến chảy máu trong mổ chiếm 1,2%
- Tỷ lệ sạch sỏi ngay sau mổ: 76,5%.
- Tỷ lệ biến chứng: 10,7% trong đó 5,9% là sốt, 2,4% chảy máu cần
truyền máu, 1,2% chảy máu cần truyền và nút mạch, 1,2% sốc nhiễm khuẩn.
- Thời gian nằm viện sau mổ: 5,5 ± 1,8 ngày.
- Tỷ lệ sạch sỏi khi khám lại 1 tháng: 85,9% bệnh nhân sạch sỏi; 14,1%
sót sỏi.
- Kết quả tán sỏi trong nghiên cứu có liên quan đến kích thước và hình
thái sỏi, những trường hợp sỏi có kích thước lớn, hình thái sỏi phức tạp thì tỷ lệ
sót sỏi cao hơn. Bên cạnh đó kết quả tán sỏi không bị ảnh hưởng bởi tiền sử mổ
cũ, phân nhóm BMI cũng như mức độ ứ nước thận.
94
KHUYẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu 85 bệnh nhân TSQD đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn
của siêu âm điều trị sỏi thận, để nâng cao hiệu quả và giảm tỷ lệ tai biến, biến
chứng của phẫu thuật, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Các biến chứng liên quan đến nhiễm khuẩn niệu là biến chứng thường
gặp, trong đó nhiễm khuẩn huyết là biến chứng rất nặng có nguy cơ tử vong.
Các biến chứng nhiễm khuẩn sau mổ này có thể được giảm thiểu tối đa nếu
bệnh nhân được chuẩn bị trước mổ tốt như: điều trị kháng sinh trước mổ, cấy
vi khuẩn nước tiểu, chỉ can thiệp khi xét nghiệm đã ổn định. Trường hợp
trong quá trình chọc dò hay nong thận nếu thấy nước tiểu đục hoặc có mủ nên
dừng phẫu thuật, dẫn lưu thận, xét tán sỏi qua da sau khi đã điều trị nội khoa.
Cần theo dõi sát quá trình hậu phẫu để đánh giá và tiên lượng và điều trị sớm
các biến chứng có thể xảy ra.
Phẫu thuật tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn của siêu âm
với ưu thế là phẫu thuật ít xâm lấn, thuận lợi để triển khai tại nhiều cơ sở y tế,
mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Tuy nhiên cần có quá trình đào tạo chuyển
giao kỹ thuật và tuân thủ tốt quy trình chuẩn bị bệnh nhân và phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO