You are on page 1of 7

2.1.

Thực trạng độc quyền trong lĩnh vực điện lực của Việt Nam hiện nay
2.1.1. Nguyên nhân
Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng độc quyền kinh tế trong một số
ngành và lĩnh vực, ảnh hưởng tiêu cực đến sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp, mà nổi bật nhất là lĩnh vực điện lực.
Thứ nhất, nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do chính sách ưu tiên đầu
tiên của chính phủ và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhà nước, có thể dẫn đến sự thiếu cạnh tranh và độc quyền trong lĩnh vực điện lực.
Trong nhiều năm qua, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách hướng tới
sát nhập các doanh nghiệp sản xuất điện vào Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN),
tạo ra sự độc quyền trong lĩnh vực này. Điều này đã giúp tập trung quyền lực và
giảm đáng kể sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất điện.
Ngoài ra, chính sách tài chính của nhà nước cũng có ảnh hưởng đến độc quyền
điện. Trong quá trình huy động vốn để đầu tư vào các dự án sản xuất điện, các
doanh nghiệp bị hạn chế trong việc tiếp cận với các nguồn tài chính từ các nhà đầu
tư bên ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Điều này cũng góp phần giảm sự
cạnh tranh và tăng sự độc quyền trong lĩnh vực sản xuất điện.
Thứ hai, khó khăn trong đầu tư cũng là một trong những nguyên nhân gây ra độc
quyền điện ở Việt Nam. Lĩnh vực sản xuất điện thoại yêu cầu đầu tư vốn lớn và rủi
ro cao, đặc biệt là trong quá trình phát triển các nguồn điện mới và sạch. Tuy
nhiên, sự thiếu hụt vốn đầu tư cần thiết đã làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất
điện khó có thể tham gia vào thị trường, đồng thời ảnh hưởng cũng đến khả năng
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Các quy định pháp lý và chính sách đầu tư của Việt Nam cũng gây khó khăn cho
các doanh nghiệp muốn tham gia vào lĩnh vực sản xuất điện. Các quy định pháp lý
về đấu thầu và quản lý dự án đôi khi không minh bạch và đầy đủ, khiến nhiều
doanh nghiệp khó có thể tham gia vào các dự án sản xuất điện.
Thêm vào đó, lĩnh vực sản xuất điện tại Việt Nam còn đối mặt với các rào cản thị
trường khác như yêu cầu phải có quan hệ gắn kết với các cơ quan chức năng hay
các nhà thầu lớn, những điều kiện kỹ thuật và công nghệ cao, giá cả đầu vào tăng
cao vì nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài, bên ngoài ra còn phải đối mặt với các
môi trường báo thức và phát triển bền vững. Tất cả những yếu tố này đều ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh và tạo ra sự độc quyền trong lĩnh vực sản xuất
điện.
Thứ ba, thách thức trong việc tìm kiếm các nguồn năng lượng mới: Việt Nam
đang đối mặt với khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn năng lượng mới, nguồn
đa dạng hóa cung cấp điện. Việc tìm kiếm các nguồn năng lượng mới để đáp ứng
nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của con người đang đối mặt với nhiều thức
thức, đặc biệt là trong bối cảnh thay đổi khí hậu và quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế xanh hơn.
Một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình tìm kiếm các nguồn năng
lượng mới là phí đầu tư ban đầu. Đầu tư vào các công trình điện gió, điện mặt trời,
điện thủy điện, điện hạt nhân và các nguồn năng lượng sạch khác có chi phí đầu tư
ban đầu lớn, và do đó yêu cầu sự đầu tư từ các nhà đầu tư lớn .
Thứ hai là vấn đề kỹ thuật và công nghệ. Các công nghệ mới trong lĩnh vực năng
lượng sạch đang được phát triển, tuy nhiên, chúng vẫn chưa đủ phát triển để có thể
sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Điều này đòi hỏi sự đầu tư và phát triển công nghệ
tiên tiến hơn để đạt được.
Điều này gây ra sự phụ thuộc quá mức vào các nguồn điện truyền thống, giúp tập
trung quyền lực vào các doanh nghiệp hiện hữu và tạo ra quyền lực độc lập trong
lĩnh vực này.
Thứ tư, sự thiếu cạnh tranh thực sự là một nguyên nhân khác gây ra tình trạng
độc quyền trong lĩnh vực điện lực tại Việt Nam hiện nay. Việc thiếu vốn đầu tư và
kinh nghiệm của các doanh nghiệp mới khi tham gia vào thị trường đã khiến họ
gặp nhiều khó khăn trong công việc cạnh tranh với doanh nghiệp đã có thâm niên
hoạt động lâu năm và có vị trí thế mạnh trên thị trường . Bên cạnh đó còn thiếu
tranh luận và thảo luận mở rộng về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh và độc
quyền kinh tế trong xã hội. Thiếu sự quan tâm và tham gia của đông đảo người
dân, các tổ chức và cơ quan tổ chức cũng có khả năng khiến vấn đề này không
được đưa ra để thảo luận và giải quyết một cách hiệu quả.
Thứ năm, một nguyên nhân khác gây ra độc quyền trong lĩnh vực điện lực của
Việt Nam hiện nay là quy định luật về kinh doanh và cạnh tranh chưa đầy đủ, chưa
rõ ràng, dẫn đến những khó khăn trong ứng dụng và giám sát hoạt động động kinh
doanh. Nhiều quy định về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền vẫn còn mơ hồ và
chưa được áp dụng một cách nghiêm ngặt, để lại nhiều kẽ hở cho các doanh nghiệp
lớn để sử dụng quyền lực của mình và tạo ra quyền lực độc quyền trong trường và
lĩnh vực của mình.
Điều này cũng gây ra sự thiếu minh bạch và công bằng trong việc giải quyết
tranh chấp và xử lý các hành vi vi phạm đối với các doanh nghiệp. Việc thiếu sự rõ
ràng và chính xác trong quy định luật cũng làm cho các doanh nghiệp không đủ tự
tin để tham gia vào thị trường và cạnh tranh với các đối thủ lớn. Điều này dẫn đến
sự tập trung nguồn lực và độc quyền trong tay các doanh nghiệp lớn, khiến cho thị
trường trở nên không còn cạnh tranh và khó có sự phát triển bền vững.
Thứ sáu, thái độ của một số doanh nghiệp và cá nhân trong việc lợi dụng quyền
lực, tài nguyên để cạnh tranh không lành mạnh là một trong những nguyên nhân
đóng góp vào sự độc quyền kinh tế tại Việt Nam. Thái độ này có thể thể hiện qua
việc các doanh nghiệp sử dụng các phương thức không lành mạnh để loại bỏ các
đối thủ cạnh tranh, ví dụ như sử dụng quyền lực chính trị, lợi nhuận sử dụng quan
hệ, thanh toán tiền đen, hoặc sử dụng sử dụng các trò chơi gian nan trong hoạt
động kinh doanh. Một số cá nhân hoặc nhóm người cũng có thái độ lợi dụng vị trí,
quyền lực để kiếm lợi cá nhân thông qua các hoạt động kinh doanh không minh
bạch và không lành mạnh, đóng góp phần tạo nên sự độc quyền trong lĩnh vực vực
kinh tế.
Tóm lại, độc quyền là một thực trạng đang tồn tại và có tác động lớn đến sự
phát triển kinh tế của lĩnh vực điện lực nói riêng và của Việt Nam nói chung. Tuy
nhiên, để giải quyết vấn đề này, không phải là một công việc đơn giản và yêu cầu
sự thay đổi toàn diện trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị của đất nước.
2.1.2. Thực trạng
Hiện nay, trạng thái độc quyền vẫn đang tồn tại vô cùng rõ ở lĩnh vực điện lực.
Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) vẫn chiếm ưu thế trong thị trường kinh doanh
điện.
Trải qua hơn 15 năm phát triển EVN đã có bước phát triển đáng kể so vớingày
đầu thành lập. Tuy nhiên sau 15 năm phát triển, cơ chế tập trung điều hành cả
ngành điện Việt Nam ở EVN lại là những cản trở lớn thách thức sự phát triển theo
nhịp nhu cầu phát triển của xã hội. Với cơ chế tập trung, EVN có thể dễ dàng huy
động được nguồn lực để phát triển các công nghiệp trọng điểm, nhưng nó cũng tạo
ra sự mất cân đối trong từng vùng miền và trong cả 3 khâu: phát điện, truyền tải và
phân phối.
a, Độc quyền trong sản xuất:
EVN đang quản lý hệ thống nhà máy phát điện gồm cả thủy điện và nhiệtđiện. Một
số nhà máy điện được tiến hành cổ phần hóa như Vũng Áng, Phả Lại,Cát Bà…
trong đó có một số nhà máy do PVN, TKV làm chủ đầu tư nhưngnhững doanh
nghiệp này mới chỉ có thể tham gia xây dựng tạo nguồn điện.Chính vì việc độc
quyền sản xuất mà EVN đã sử dụng nguồn vốn khổng lồvào việc đầu tư mất cân
đối. Có thể minh họa điều này bằng sự ra đời rất nhanhtrung tâm nhiệt điện rất lớn
ở Phú Mỹ (gần 4.000MW) trong giai đoạn 1998-2003 trong khi miền Bắc chẳng có
thêm nguồn điện nào trong thời gian dài saukhi NMNĐ Phả Lại 2 vào vận hành. Vì
vậy mới có việc trong thời gian kỷ lục 2năm, EVN đã phải gấp rút hoàn thành
đường dây 500kV mạch 2 để tải điện từNam ra Bắc, trong khi nếu đầu tư phát triển
hài hòa thì có thể tránh khỏi việcđầu tư tập trung quá nhiều vào lưới truyền tải lớn
trong giai đoạn 2003-2006 như đã làm.
Một trong những nguyên nhân dẫn đền độc quyền trong sản xuất chính bởiviệc
đàm phán với EVN hết sức khó khăn. Nhiều nhà đầu tư cũng muốn đầu tưvào lĩnh
vực điện, nhưng họ sợ khi xây xong nhà máy thì nhà phân phối điệnđộc quyền là
EVN không mua, hay mua điện với giá quá rẻ. Vì vậy mới nói, khâu truyền tải và
phân phối độc quyền của EVN tất yếu sẽ dẫn tới khâu độcquyền sản xuất điện
b, Độc quyền trong truyền tải và phân phối:
Theo cấu trúc của ngành điện Việt Nam, EVN đứng ở vị trí là trung tâm truyền tải
và phân phối điện. Điện khi đến người tiêu dùng hay doanh nghiệp hầu hết đều
phải thông qua EVN (EVN truyền tải 100% và chiếm 95% lượng điện năng). EVN
vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực điện, vừa thực hiện chức
năng kinh doanh cộng với chức năng phân phối điện. Từ trước tới nay, việc sản
xuất, truyền tải, phân phối và kinh doanh mua bán điện năng; xuất nhập khẩu điện
năng; đầu tư và quản lý vốn đầu tư các dự án điện; quản lý,vận hành, sửa chữa, bảo
dưỡng, đại tu, cải tạo, nâng cấp thiết bị điện, công trình điện; thí nghiệm điện... đều
do EVN thực hiện. EVN sở hữu phần lớn các nguồn điện, nắm giữ toàn bộ hệ
thống điều độ điện quốc gia, hệ thống truyền tải điện, phân phối và kinh doanh, kể
cả điện bán buôn, bán lẻ, điện cho khách hàng trong cả nước. EVN là tổ chức duy
nhất kinh doanh điện trên toàn quốc, chưa có sự cạnh tranh mang tính chất thị
trường ở bất cứ hoạtđộng nào trong ngành điện. Mặc dù, khi nhận thấy khả năng
không thể tự đáp ứng cung cấp điện từ phía EVN cho nền kinh tế quốc dân,chính
phủ Việt Nam đã cho phép nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành
điện. Nhưng cũng chính bởi cơ chế độc quyền cả 3 khâu mà gây ra cản trở lớn cho
các nhà đầu tư bên ngoài EVN.
Đơn cử như công ty AES, một công ty năng lượng lớn của Mỹ, đã phải mất 5 năm
đàm phán với EVN để có một bản hợp đồng mua bán điện tại nhà máy nhiệt điện
Mông Dương 2 (Quảng Ninh). Còn đối với các nhà đầu tư trongnước, việc đàm
phán mua bán điện với EVN rất khó khăn và thường bị EVN yêu cầu cắt giảm chi
phí và đưa ra giá thành một cách bất hợp lý.
Ngay cả khi các công trình nguồn điện của các chủ đầu tư bên ngoài như Petro
Vietnam, TKV hay các chủ đầu tư khác đã vào vận hành, với chính sách "điều độ
tập trung" hay "điều tiết hợp lý", các nguồn điện của chủ đầu tư bên ngoài thường
không được huy động hết khả năng cung cấp của mình so với năng lực của các nhà
máy hoặc so với các nhà máy điện tương tự của EVN.
c, Độc quyền mua:
Việc thực hiện độc quyền mua điện của EVN được thực hiện thông qua hệ thống
mua điện tập trung, trong đó EVN là nhà mua điện duy nhất tại Việt Nam. Hệ
thống này được quản lý bởi Bộ Công Thương và đảm bảo sự liên kết giữa EVN với
các nhà sản xuất điện, các đơn vị tiêu thụ và kinh doanh điện năng khác.
Cụ thể, các đơn vị sản xuất điện (bao gồm các nhà máy nhiệt điện, thủy điện, điện
gió, điện mặt trời, khí sinh học,…) đều phải bán toàn bộ sản lượng điện mà mình
sản xuất cho EVN. Trong khi đó, các đơn vị tiêu thụ điện phải mua điện từ EVN,
với giá đều do nhà nước quy định.
Việc thực hiện độc quyền mua điện của EVN gặp phải nhiều tranh cãi về tính hợp
lý và tính khả thi. Trong những năm gần đây, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều
biện pháp Tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường mua bán điện, bao gồm
khuyến mãi các nhà sản xuất điện độc lập tham gia vào thị trường, thúc đẩy phát
triển Nguồn điện tái tạo và cho phép các đơn vị tiêu thụ điện được chuyển đổi nhà
cung cấp điện. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp này vẫn còn nhiều công
thức, đặc biệt là trong việc cải thiện hệ thống truyền tải và vận hành mạng lưới
điện quốc gia.
d, Độc quyền trong định giá:
Nếu như ở những lĩnh vực kinh doanh khác, có nhiều doanh nghiệp thamgia,
doanh nghiệp nào có chất lượng sản phẩm tốt, phục vụ chu đáo, giá cả hợplý sẽ
được khách hàng lựa chọn. Tuy nhiên, ở ngành điện khi người dân và cácdoanh
nghiệp buộc phải mua điện với mức giá do EVN định sẵn trong khi chấtlượng dịch
vụ, cung ứng còn rất nhiều tồn tại, bất cập.
Có thể so sánh ngành điện với dịch vụ viễn thông nhiều năm trước đây khixảy ra
tình trạng độc quyền, cước phí đắt đỏ. Nhưng chỉ mấy năm trở lại đây, khi có nhiều
nhà mạng cạnh tranh độc lập với nhau và thiếu đi sự hậu thuẫn củanhà nước, người
dân được hưởng dịch vụ tốt hơn với giá thành rẻ hơn. Qua đó có thể thấy, cũng nên
duy trì một môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,để người dân có thể sử
dụng nguồn điện đảm bảo hơn, giá cả hợp lý và hạn chế tình trạng thiếu điện.
Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực để giảm thiểu tình trạng độc quyền kinh tế tại Việt
Nam, nhưng vấn đề này vẫn cần thời gian và sự quyết tâm của chính phủ, các
doanh nghiệp và cả cộng đồng để đạt được một sự cạnh tranh công bằng và phát
triển bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.

You might also like