You are on page 1of 5

- Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia.

Ông phơi bày những cái xấu xa của


xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định
triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai. Tuy
nhiên Truyền kỳ mạn lục không chỉ thể hiện tư tưởng nhà Nho, mà còn thể hiện sự dao động
của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến…Đó là những mong muốn của
Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công
bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người... Giá trị lớn của
Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó.
- Truyền kỳ mạn lục là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng
truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách
và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu
vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương
thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi,
văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động.
-> Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của
bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới
ảnh hưởng của sáng tác dân gian.

- Nhà Hậu Lê sau thời thịnh trị cuối thế kỷ 15 đã bắt đầu suy yếu. Một võ tướng nhà Lê là
Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, giành ngôi nhà Lê, lập ra nhà
Mạc.
- Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim tập hợp lực lượng chống nhà Mạc.
- Năm 1533, Chiến tranh Lê – Mạc chính thức bùng nổ.
- Trong 60 năm chiến tranh (1533–1592) giữa Lê và Mạc đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai
bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng
những nhân tài, vật lực trong tay. -> Nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị
bỏ hoang. Dân gian còn lưu lại những câu ca dao nói về sự khổ cực của nhân dân trong việc
lao dịch, quân ngũ vì chiến sự ở Cao Bằng:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng
* Sau đó, thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc" để lấy lòng
thiên hạ và tiếp tục sự phân tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn. Nước Đại Việt trong giai đoạn
này bị chia cắt hơn 150 năm. Bắt đầu từ năm 1627 và kết thúc vào cuối thế kỷ 18 khi nhà Tây
Sơn (Nguyễn Huệ) lật đổ cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh.

“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du )

Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu
có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng
nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội
hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của
riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ
về số phận bi ai của Vũ Nương.

Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái,
Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui
về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét : “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”,
là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kì Mạn Lục”.Từ một
sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ
Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người
vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ,
nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng ” Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ
Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi . Mong manh như sương như
khói , ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn ” ( Đồng Thị Sáo ).

Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh
đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi
vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi
nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm
sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn “. Khi mẹ chồng
vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ
ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi
việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh
“chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẽ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết
khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình
thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh
“bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín
núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín
tâm can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả đươc cái tình của
con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm
“Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm :

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu


Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắc khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân
với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền
đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được
nương tựa nhà giàu”. Còn Vũ Nương, nàng nương tựa vào Trương Sinh cũng vì cái thú vui
“nghi gia nghi thất” . Đây là một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có
âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang
tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc
nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.

Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng,
chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời
nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ
ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch
của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ
đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với
thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn
ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh,
quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải
mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn
nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn
chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi
oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ
chính mình.

Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại
của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống,
kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”.
Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ
vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ
Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày
tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị
chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn
hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho
thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội
phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán
là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.

Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ
chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ,
dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương
Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ
ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong
cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.

Ở chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc
đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng
kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử”
nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim
nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của
Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện”
và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ
Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa
đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn
Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng
thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.

Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương” , ta không
khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống
truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy
đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang
thương.Tác phẩm không kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung
hòa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể
chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.

“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số
phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người
phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong
kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến
tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Trang
truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả
trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẫn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.

Chúng ta đều biết nàng tự giết cuộc đời mình, nàng tự chọn cái chết. Và đó là thứ đầu tiên và
có lẽ duy nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình nàng được tự chọn.

You might also like