You are on page 1of 18

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MAC LÊNIN

Khái niệm:
- Chất dùng để chỉ “tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng; là sự
thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật hiện tượng làm cho sự vật
hiện tượng là nó mà không phải sự vật, hiện tượng khác”.
- Ví dụ: Nguyên tố sắt có nguyên tử khối là 56 g/mol , nhiệt độ nóng chảy là
15400C, dẫn điện và dẫn nhiệt tốt… những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng
của sắt để phân biệt nó với các nguyên tố khác.
- Lượng dùng để chỉ “tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô,
trình độ phát triển, tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật hiện tượng”.
Lượng được biểu hiện ở “số bộ phận, số thuộc tính, ở nhịp điệu và tốc độ vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng; biểu hiện ở kích thước ngắn hay dài, số lượng nhỏ
hay lớn, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm,
màu sắc đậm hay nhạt,…”.
Ví dụ: Vận tốc xe máy là 50km/h; lá cây có màu xanh đậm.

Quy luật sự tích lũy về Lượng dẫn đến sự thay đổi về Chất:
- Mỗi sự vật hiện tượng đều tồn tại chất và lượng, khi nó vận động phát triển thì
lượng và chất của nó cũng vận động và biến đổi theo. Sự thay đổi đó không diễn ra
độc lập mà có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình thay đổi của lượng không
ngay lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay
đổi đến một giới hạn nhất định (độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất.
- Độ dùng để chỉ “mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng;
là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn
đến sự thay đổi về chất; sự vật hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật,
hiện tượng khác”.
- Điểm nút là “giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ,
làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại
đó bắt đầu xảy ra bước nhảy”.
- Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ “giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự
biến đổi về lượng”.
Ví dụ:
- Nước từ 200 đến 1000 thì bay hơi , thì từ 200 đến 1000 được gọi là “độ”, còn
ngay điểm mốc 1000 là “điểm nút”, từ 1000 trở đi nước biến thành hơi gọi là “bước
nhảy”
- Trong quá trình học tập dài 4 năm của sinh viên thì lượng không ngừng tăăng lên,
đó không chỉ là các kiến thức cơ bản trong sách vở, trong giáo trình mà còn là các kĩ
năng mềm như cách giao tiếp ứng xử, cách giải quyết tình huống, cách phân tích,.. đó
là “độ”. Tuy nhiên quá trình đó chưa đủ làm thay đổi chất, sinh viên còn phải vượt
qua những bài kiểm tra kết thúc học phần – “điểm nút” để tốt nghiệp. Khi đó sinh viên
đã có “bước nhảy” thành cử nhân.
Ý nghĩa đối với việc học tập của sinh viên:
- Từng bước tích lũy kiến thức một cách đầy đủ, chính xác và hiệu quả: ssự vận
động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng
đến một giới hạn nhất định, việc học tập của bản thân cũng không nằm ngoài điều đó.
Trong quá trình rèn luyện ở trường học, tích lũy kiến thức là quá trình tích lũy về
lượng, nó phát tiển qua từng bài giảng, từng học kì, từng năm học giúp bản thân có
một lượng thông tin nhất định để dẫn đến sự thay đổi về chất (trở thành tân sinh viên
hay được cấp bằng cử nhân). Giờ đây lượng không chỉ là kiến thức sách vở mà còn là
những kĩ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về suy nghĩ, tư duy, nhận thức
và hành động, hay tích lũy thêm các mối quan hệ xã hội.
- Bản thân phải tự học tập rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc: Muốn có sự
thay đổi về chất thì phải có sự thay đổi về lượng, sự tích lũy ấy phải tự bản thân chúng
ta phấn đấu, đánh đổi bằng công sức của bản thân qua quá trình tự học, tự nghiên cứu,
định hướng chứ không bằng một sự giúp đỡ nào khác vì không ai có thể giúp mình
tiếp thu kiến thức cả. Bản thân chúng ta cần phải không ngừng phấn đấu trao dồi kiến
thức, tìm kiếm những thông tin, mang về những lượng tốt (có cơ sở, đầy đủ và chính
xác). Qua đó, làm biến đổi chất tốt hơn, tạo nên các thành tích tương ứng với sự nỗ lực
của chính mình.
- Học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai
đoạn: trong quá trình học tập cần tránh xu hướng “tả khuynh”, tức là khi lượng chưa
biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học
tập của bản thân phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) làm biến đổi về chất
(kết quả học tập) theo quy luật. Cần học tập đều đặn mỗi ngày để chất được thấm sâu
vào tiềm thức. Tránh tình trạng gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh
nghiệm nhận thức được trong quá trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội
trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, tránh nghĩ rằng mình đã làm hết
sức có thể.’
Khái niệm:
- Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất. Chính người
lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động
của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối
tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất
của lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với
tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối
sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một
cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người.
Mối quan hệ biện chứng:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành
quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
- Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau:
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó
trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả
của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không
phù hợp.
LLSX bị kiềm hãm khi nào: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong
trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu hơn LLSX. VD: tổ chức lạc hậu khiến người lao
động mất đi cảm hứng lao động. Cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vd: Trong xã
hội nguyên thủy, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ sản xuất thô
sơ, lạc hậu, nên của cải làm ra hầu hết đều bị tiêu dùng hết, không có của cải dư thừa
nên không có việc chiếm đoạt làm của riêng, tất cả mọi người trong xã hội đều bình
đẳng, không có áp bức, bóc lột, bất công.
Thực trạng tại Việt Nam: Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các
hình thức kinh doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế, các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản,
manh mún của quan hệ sản xuất phong kiến được công nhận.
Như vậy, trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và được đạt
nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4 %, cao
nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005-2010,
GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
Giải pháp:
- Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc biệt là
đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm đẩy mạnh
phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thiện quan hệ sản xuất.
- Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công nghệ, tập
trung xây dựng một số phòng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực trên các
lĩnh vực công nghệ trọng điểm như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hóa
dầu….
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường,
các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,
giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực

Quan điểm Triết học Mác - Lênin về nhân tố con người:


- Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể trong sự thống
nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân
theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của xã hội.
- Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-
bắc (1845): "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội" .
- Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng
mà là hiện thực, mang tính thực tại khách quan chứ không thần bí, không phải tự nhiên
mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người.
Phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay:
- Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy nhân tố con người, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới, nhờ đó mà “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền
kinh tế được nâng lên... Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín như ngày nay”. Những thành tựu trong phát huy nhân tố con người ở nước ta trong
những năm qua là khá toàn diện, có thể khái quát một số thành tựu cơ bản như: i) Phát
huy huy môi trường dân chủ nhằm phát huy nhân tố con người, “thực hiện ngày càng
tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ
trọng của đất nước… Chú trọng thực hiện dân chủ cơ sở” (3); ii) Ngày càng coi trọng
vấn đề phát triển toàn diện con người, trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội;
iii) Chăm lo đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn nên “Đời sống nhân dân cả về vật
chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt”(4)...
- Từ thực trạng đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề cập một cách nhất
quán, sâu sắc, toàn diện về vấn đề phát huy nhân tố con người. Điều đó thể hiện tập
trung trong Quan điểm chỉ đạo, Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 -
2030, Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và cả trong Đột phá chiến lược.
Một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay theo
tinh thần Đại hội XIII của Đảng:
- Bảo đảm môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái trong lành, bền vững cho nhân
dân sinh tồn và phát triển
- Bảo đảm xây dựng môi trường xã hội tối ưu để người dân yên tâm sinh sống, lao
động, học tập, sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển, hoàn thiện bản thân, đồng thời
đóng góp cho sự phát triển của đất nước
- Lấy phát huy nhân tố con người trong hệ thống chính trị làm cơ sở, động lực khơi
dậy ý chí, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh trong các tầng lớp nhân dân

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng
không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem
đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Ví dụ: Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. khoa học cũng đã chứng minh
được rằng, thế giới vật chất nói chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước
khi xuất hiện con người và bộ óc người.
Ý nghĩa phương pháp luận:
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những
đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ
vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế
hoạch mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà
không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ
động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con
người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc
giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc
sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
Lý do phải đảm bảo nguyên tắc khách quan của sự xem xét:
- Đảm bảo nguyên tắc khách quan của sự xem xét sẽ giúp ta đưa ra phương pháp
đúng đắn, khoa học, dẫn đến thành công. Trong mọi hoạt động, căn cứ vào điều kiện
khách quan, quy luật khách quan sẽ đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả và không bị các
yếu tố khách quan cản trở, đảm bảo cho sự phát triển của đối tượng tác động và hoạt
động đó theo đúng ý thức của mỗi người. giúp phát triển trí tuệ và tạo nên đột phá, biết
dự đoán một cách khoa học, phù hợp quy luật khách quan khi đó chúng ta có thể đối
phó với những biến đổi của quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trước đây chúng
ta luôn xác định điều kiện tất yếu diễn ra cuộc cách mạng từ đó đề ra chủ trương,
đường lối phù hợp. Điều kiện khách quan như: sự chín muồi của mâu thuẫn giữa các
giai cấp trong xã hội tạo nên cuộc khủng hoảng về chính trị sâu sắc hay sự vực dậy
của nông dân khi bị áp bức, bóc lột quá sức chịu đựng,…
- Ngược lại, không đảm bảo nguyên tắc khách quan sẽ dẫn đến sai lầm, bị những
yếu tố chủ quan chi phối để nhận thức sai lệch, tô hồng hay bôi đen cho sự vật. Ý thức
trở nên thụ động, chủ quan, lười suy nghĩ tư duy. Tư tưởng lạc hậu, luôn hoạt động
theo quy luật mà không chịu đổi mới, không bắt kịp với những tiến bộ khoa học kĩ
thuật, với sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
Ví dụ: trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Trước kia do
không nhận thức được rằng mọi chủ trương đường lối…đều phải dựa trên điều kiện
vật chát hiện có mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp nặng trong khi mọi
tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó, chúng ta đã bị thất bại.
Vận dụng:
- Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy nhà trường vì nội quy nhà trường giành cho sinh
viên là tiêu chuẩn đánh giá về tác phong, đạo đức mà mỗi sinh viên phải có. Không
nên có tư tưởng cá nhân là nội quy nhà trường rưởm rà, làm ảnh hưởng đến việc học,
thời gian.
- Khi đề bạt, tranh cử ban cán sự lớp phải đảm bảo tính công bằng, đánh giá trung
thực năng lực của từng thành viên để bổ nhiệm vào vị trí phù hợp dẫn dắt tập thể lớp đi
lên. Không nên vì định kiến cá nhân mà bác bỏ người tài mà bầu cho người mình coi
trọng. Dẫn đến mâu thuẫn trong lớp, không đưa lớp phát triển được.
- Mỗi sinh viên phải trung thực trong từng bài làm của mình, trong kiểm tra, trong
thi cử. Không vì điểm số mà đánh mất giá trị cốt lỗi của bản thân khi sao chép, hỏi bài.
dù điểm cao nhưng không phản ánh đúng năng lực của sinh viên. dẫn đến nhiều hệ lụy
sau này.
- Sinh viên phải tự tìm ra phương pháp học tập đúng cách cho bản thân, dựa trên
tình trạng sức khỏe, tâm lý và đặc điểm cá nhân. từ đó có được kết quả học tập như
mong muốn. đặt ra kế hoạch học tập cho bản thân, sinh viên phải xét đến điều kiện
thực tế như: thời gian, sức khỏe, tài chính... để đưa ra những kế hoạch đúng đắng cho
bản thân.

Khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế – xã
hội.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về
mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến
cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai
cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả
các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,…
đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi
nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật.
Ví dụ: Cơ chế bao cấp (cở sở hạ tầng) tương ứng với nó là Nhà nước mệnh lệnh
quan liêu( kiến trúc thượng tầng). Cơ chế thị trường (cơ sở hạ tầng) thì tương ứng với
nó là Nhà nước năng động, hoạt động có hiệu quả (kiến trúc thượng tầng)

- Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động
khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế,
nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
Ví dụ: Nhà nước tư sản hiện đại củng cố, bảo vệ, phát triển sở hữu tư nhân tư liệu
sản xuất. Còn Nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát triển sở hữu xã hội (tập thể).
Vai trò của Nhà nước đối với CSHT nước ta hiện nay:
- Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước là yếu tố cơ bản có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với cơ sở hạ tầng, là một phần trongtrong KTTT do CSHT
sản sinh ra.
- Vai trò của Nhà nước tác động đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở 3 chiều hướng.
Bằng công cụ pháp luật, bằng sức mạnh kinh tế và sức mạng bạo lực của Nhà nước có
thể tác động làm cho kinh té phát triển theo chiều hướng tất yếu.
+ Nếu Nhà nước quản lí tốt sẽ thúc đẩy CSHT, làm cho xã hội và các mặt của đời
sống phát triển
+ Ngược lại, nếu không đảm bảo được quy luật trong mối quan hệ của CSHT và
KTTT sẽ kiềm hãm, phá vỡ các mặt của xã hội, trở nên lỗi thời, lạc hậu.
- Nhà nước là yếu tố tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với CSHT vì nó là công cụ
bạo lực tập trung trong tay giai cấp thống trị.
- Nó không chỉ thực hiện chức năng kinh tế bằng hệ thống chính sách kinh tế – xã
hội đúng, nó còn có tác dụng trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Các bộ
phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng phải thông qua thì mới có hiệu lực đối với
CSHT.

Khái niệm:
- vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
- ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức mang
bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích cực,
tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực
tiễn.
Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng,
trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính
thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên
ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
+ Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách
quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
+ Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội
dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con
người.
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính
phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là
thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy
nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
+ Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật
chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về
thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức
phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì
mới có sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất
phải được đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng
minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.

b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời
sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người, nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho
con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế
hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai
hướng:
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật
chất phát triển.
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của
vật chất.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá
tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách
quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng
ta chuyển nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất
nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra
mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.

Khái niệm:
Mối liên hệ phổ biến là một phép biện chứng với mục đích dùng để chỉ tính phổ
biến của các mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, quâ đó cũng có thể khẳng định
rằng mối liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không
loại trừ sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào. Bên cạnh đó thì những mối liên hệ tồn tại
ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới.
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của
mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ 1: Trong thế giới động vật thì động vật hấp thụ khí O2 và nhả khí CO2, trong
khi đó quá trình quang hợp của thực vật lại hấp thụ khí CO2 và nhả ra khí O2.
Ví dụ 2: Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến. Khi chúng ta làm đề kiểm tra
toán, lý, hóa, chúng ta phải vận dụng kiến thức văn học để đánh giá đề thi.
Khái niệm:
Quan điểm toàn diện là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng, sự vật
hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung
gian có liên quan đến sự vật. Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý
phổ biến của các hiện tượng, sự vật trên thế giới. Bởi phải có quan điểm toàn diện vì
bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật, sự việc; không có bất cứ sự vật nào tồn tại
một cách riêng biệt, cô lập, độc lập với các sự vật khác.
Ví dụ: Khi bạn nhận xét về một người nào đó thì không thể có cái nhìn phiến diện ở
vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con người, các mối quan hệ
của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện
tại
Lý do trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ
gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn
nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối
liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và
ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt
động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ,
phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ
yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương
nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với
con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả
quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian
khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng
ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới
những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử
dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác
phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
Ý nghĩa đối với sinh viên:
Phần lớn sinh viên có thể nhận thức rõ ràng phải nhìn nhận sự vật, hiện tượng từ
nhiều mặt, trong nhiều mối liên hệ, tránh việc nhìn nhận phiến diện, chủ quan để rồi
kết luận về bản chất của sự vật, hiện tượng một cách mù quáng, sai lầm. Các bạn sinh
viên luôn có tinh thần tích cực rèn luyện cách nhìn nhận, đánh giá tổng thể, toàn diện
đối với những gì đang xảy ra xung quanh cuộc sống của bản thân mình.
Đối với bản thân, các bạn sinh viên luôn cố gắng hiểu rõ con người mình, tìm ra
những điều thực sự mong muốn, khát khao. Họ đã biết hạn chế những tác động từ thế
giới bên ngoài, không xem xét một cách tràn lan, dàn đều để có thể tìm ra đâu là
những mặt, những mối liên hệ gắn với bản chất thật sự trong con người mình.
Đối với những người xung quanh, các bạn sinh viên đã biết suy nghĩ và nhìn nhận
sự việc từ góc độ của họ để từ đó có cái nhìn khách quan, thấu đáo hơn. Trước các vấn
đề nóng được chia sẻ rộng rãi và nhiều khi chưa được kiểm duyệt thông tin trên mạng
xã hội, sinh viên đã từng bước thận trọng hơn trong phát ngôn, hành xử ở thế giới ảo
này. Nhiều bạn rất bình tĩnh khi luôn lắng nghe ý kiến từ những nguồn tin cậy, từ
những người trong cuộc,…rồi mới có động thái ủng hộ hoặc phản đối.
Khi trở thành sinh viên, được tiếp cận với xã hội nhiều hơn, được lắng nghe nhiều
câu chuyện về cuộc sống, không ít sinh viên đã có những chuyển biến sâu sắc trong
nhận thức, tích cực trong việc cổ động thái độ sống văn minh, tiến bộ, biết nhìn nhận
sự vật, hiện tượng đa chiều và gắn liền với cả quá trình vận động của nó.

Khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế – xã
hội.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
Vai trò của CSHT đối với KTTT:
- Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó.
Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về
mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến
cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai
cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả
các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,…
đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi
nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật.
Ví dụ: Cơ chế bao cấp (cở sở hạ tầng) tương ứng với nó là Nhà nước mệnh lệnh
quan liêu( kiến trúc thượng tầng). Cơ chế thị trường (cơ sở hạ tầng) thì tương ứng với
nó là Nhà nước năng động, hoạt động có hiệu quả (kiến trúc thượng tầng)
CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay:
1. Cơ sở hạ tầng
- Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền
với các hình thức sở hữu khác nhau:
- Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm
chí đối lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở
hữu toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư
nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.
- Ví dụ:
+ Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline,
Vinamilk…
+ Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở
các địa phương.
+ Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…
+ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai
Vietnam…
- Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động
lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát
triển hết mọi tiềm năng.
2. Kiến trúc thượng tầng
- Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam
khẳng định:
- Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội
tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để
nhân dân là người làm chủ xã hội.
- Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội,
Chính phủ, quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng
nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền
lực đều thuộc về nhân dân.
– Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải
quyết mâu thuẫn giữa chúng.

Khái niệm:
Lực lượng sản xuất là tổng hợp toàn bộ những yếu tố vật chất và ý thức tạo thành
sức mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu yếu sống sót và tăng trưởng của con người.
Nó được dùng trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định.
Yếu tố cấu thành:
Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản
xuất và người lao động:
- Tư liệu sản xuất là những tư liệu để triển khai sản xuất, gồm có tư liệu lao động và
đối tượng người dùng lao động. Trong đó tư liệu lao động gồm có công cụ lao động
(máy móc,...) và đối tượng người dùng lao động khác (phương tiện đi lại luân chuyển
và giữ gìn và bảo vệ mẫu sản phẩm,...). Đối tượng lao động là những yếu tố nguyên
nhiên vật tư có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá,...) hoặc tự tạo (polime,...).
- Người lao động là chủ thể của quy trình lao động sản xuất, là người tạo ra và sử
dụng tư liệu lao động vào đối tượng người tiêu dùng lao động để tạo ra loại sản phẩm.
Lý do trong LLSX, người lao động đóng vai trò quyết định:
Do tầm quan trọng của nhân tố con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân,
người lao động”.
Do đặc trưng sinh học – xã hội riêng có của mình, con người có sức mạnh và kỹ
năng lao động cả về chân tay, cơ bắp, lẫn trí óc. Trong lao động, sức mạnh và kỹ năng
ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần.
Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và hàm
lượng trí tuệ ngày càng tăng trong lao động của con người. Do đó, con người chính là
nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận cua nền sản xuất trong thời đại cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) hiện nay.
Công cụ lao động chính là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri
thức đã được vật thể hóa”, có tác động “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ
con người.
Bởi vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ tin học hóa, số hóa, tự động hóa…
một cách phổ biến như hiện nay, thì hiệu năng của nó thật sự rất kỳ diệu. Nhưng suy
đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá
trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng
và sáng tạo của người lao động.

Khái niệm:
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật,
hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát
triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển:
Những cái mới ra đời sẽ thay thế cho cái cũ nhưng vẫn trên cơ sở kế thừa những hạt
nhân hợp lý của cái cũ từ đó cải tạo và phát triển chúng hợp lý để nó trở thành điều
kiện, là tiền đề vững chắc cho cái mới phát triển nhanh hơn, mạnh hơn và bền vững
hơn.
- Đây chính là cơ sở lý luận khoa học để có thể định hướng được việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Theo như nguyên lý này thì trong mọi nhận thức và trong thực
tiễn cần phải có quan điểm về sự phát triển. Để có thể phát triển được thì cần phải khắc
phục được những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, định kiến, đối lập với sự phát triển.
- Để nhận thức và giải quyết được bất cứ những vấn đề gì trong thực tiễn thì một
mặt cần phải đặt sự vật theo khuynh hướng đi lên của nó. Vì vậy đòi hỏi phải nhận
thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của
nó.
- Nguyên lý về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn của con người cần phải tôn trong quan điểm phát triển phát triển. Quan điểm
này đòi hỏi khi nhận thức cũng như khi giải quyết một vấn đề nào đó thì con người cần
phải đặt chúng ở trạng thái động và nằm trong khuynh hướng chung của sự phát triển.
- Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, là quan điểm toàn diện, quan
điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn cải tạo chính bản thân của con người.
- Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia thành các quá
trình phát triển của sự vật thành những giai đoạn. Trên cơ sở này tìm ra phương pháp
nhận thức và những cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn
hoặc là kìm hãm sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự phát triển đó có lợi hay là có hại
đối với đời sống của con người.
- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm mục đích thúc
đẩy các sự vật phát triển theo đúg như quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta cần
phải tìm ra được những mâu thuẫn của sự vật qua hoạt động thực tiễn từ đó giải quyết
được mâu thuẫn và tìm ra được sự phát triển
Ví dụ:
- Trong quá trình biến đổi của các giống loài đã có sự biến đổi và phát triển từ bậc
thấp lên bậc cao;
- Quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức trong xã hội của loài
người: từ hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời nguyên thuỷ lên các
hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc…
- Sự ra đời và thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử. Cụ thể là từ nhà
nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử ra đời dựa trên cơ sở tan rã của
chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liề với chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành các giai cấp
đối kháng.
Vận dụng đối với bản thân:
- Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện, để từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần
phải phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật
và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát
triển của bản thân.
- Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
- Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh
hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội
đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi
hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu
của xã hội.

You might also like