Professional Documents
Culture Documents
Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa
cạnh tranh, vừa tận dụng mọi cơ hội vừa phải đối phó với những thách thức to lớn. Đối
với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu, rất dễ bị thua thiệt trên
thương trường; là sự thiếu hụt năng lực thu thập và phân tích thông tin để dự báo chiều
hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác cạnh tranh, từ đó kém khả năng
mở rộng và phát triển thị trường của mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ làm công tác hội
nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay cũng vừa học, vừa làm.
Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và công nghệ của ta
còn thấp. Bảo vệ nền kinh tế cũng như bảo vệ các doanh nghiệp của ta, nhất là các
doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu. Một lộ trình hội nhập
nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế với mức độ cao quá khả năng của các
doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường đối với nền kinh tế, đôi khi cả
chính trị của đất nước. Song điều đó cũng không có nghĩa là càng kéo dài lộ trình hội
nhập kinh tế với mức độ càng thấp càng tốt. Bởi vì kéo dài lộ trình sẽ làm cho sức ì
càng nặng, kém đầu tư cải tiến quản lý công nghệ, dẫn tới tình trạng kém hiệu quả, yếu
sức cạnh tranh và nền kinh tế ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế thế giới.
Toàn cầu hoá kinh tế có tác dụng trực tiếp đến chính trị, có những hệ quả về mặt
chính trị. Song ở đây không nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị một cách
đơn giản và máy móc. Thông qua con đường hợp tác, đầu tư, tự do hoá thương mại,
viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hoá, tự do hoá tư sản. Các thế lực
tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ muốn tạo ra những cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ
đó dẫn đến hình thành những lực lượng chính trị đối lập ngay trong lòng xã hội để thực
hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa( đối với các nước xã hội chủ
nghĩa) hoặc thay đổi chính phủ theo hướng thân phương Tây( đối với các nước đang
phát triển) gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với các nước. Tuy vậy, chủ nghĩa đế
quốc vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các nước đang phát triển, các nước xã hội
chủ nghĩa nhằm chống lại âm mưu áp đặt về chính trị. Vừa qua, Hiệp định thương mại
Việt- Mĩ đã được kí kết, một hiệp định rất có lợi đối với sự phát triển kinh tế ở Việt
Nam, nhưng trước đó Mĩ định dùng áp lực này nhằm thông qua “đạo luật nhân quyền”,
một sự can thiệp thô bạo vào nền chính trị của nước ta.
Cũng như lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hoá cũng chịu tác động bởi quá trình toàn
cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc tế, tăng
thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sự xích lại gần nhau giữa
các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu về văn hoá, khoa
học giữa các quốc gia, dân tộc tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn hoá nhân
loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện hiện đại hoá văn hoá. Tuy nhiên, mặt khác, toàn
cầu hoá kinh tế trong điều kiện do thế lực tư bản chi phối lại tạo nguy cơ làm sói mòn
bản sắc dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Trên thế giới, chủ
nghiã đế quốc nhất là đế quốc Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế của mình đang muốn toàn
cầu hoá văn hoá, thậm chí là Mỹ hoá. Người ta tuyên truyền về lối sống Mỹ, văn hoá
Mỹ, còn các kênh truyền thông Mỹ thì phủ khắp hành tinh, phim ảnh Hô-li-út của Mỹ
được chiếu khắp các nước, thậm chí đồ ăn thức uống Mỹ( Mac Donald, Coca Cola...)
lan tràn khắp nơi. Đến nỗi Pháp cũng lo bị Mỹ hoá. Mỹ muốn áp đặt giá trị, lợi ích văn
hoá, lối sống của mình cho toàn cầu. Chính vì thế, nước ta phải hết sức chú trọng đến
vấn đề bảo tồn văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá, tránh bị “hoà tan” trong khi “hoà
nhập”.
Không chỉ có vậy, toàn cầu hoá còn ảnh hưởng đến vấn đề môi trường. Từ năm 1973
đến nay, tuy số liệu điều tra chưa đầy đủ nhưng chắc chắn diện tích rừng bị giảm
không phải là con số ít. Chẳng hạn như ở Lâm Đồng, mỗi măn tính trung bình có
10.000 ha rừng bị tàn phá. Trong vòng 20 năm trở lại đây có 25% diện tích rừng bị
biến mất. Từ năm 1990 đến 1995, toàn cuốc có 5 triệu ha rừng bị huỷ diệt (bình quân
mỗi năm mất 1 triệu ha rừng) . Vấn đề ô nhiễm môi trưòng , khói bụi và rác thải ...
Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng sau hơn 2 thập niên tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Hàng năm nền
kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là
8,2% , giảm tỉ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm 1995 và khoảng 5%
năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1991-1995) đạt 17 tỷ đô la và 1996 đạt
trên 7 tỷ đô la. Mở rộng được quan hệ hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kĩ
thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước đến cuối năm 1996 có trên 700
công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đô la nằm trong 1800 dự án phát triển
kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,
ngân hàng tài chính. Chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước
trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân
thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng
động hơn.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồn nội
lực, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; kết hợp nội
lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là nội dung quan trọng của đường lối
kinh tế do Đại hội IX của Đảng đề ra. Chủ động hội nhập kinh tế là để tạo ra điều
kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Mặt khác, có độc tự chủ về
kinh tế mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo giữ vững
chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH
Việc Việt Nam tham gia toàn cầu hoá kinh tế đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất,
khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh
doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó nền kinh tế nước ta thực sự được đổi mới,
bước đầu đạt được những thành tựu to lớn: từ một nước đói kém, cơ sở vật chất
nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu đến nay trở thành một nước không chỉ đủ ăn mà còn dư
thừa, xuất khẩu ra nước ngoài( đặc biệt là lúa, gạo). Tuy nhiên, ta không được tự
bằng lòng với những gì đã đạt được bởi vì đạt được đã khó, giữ được còn khó hơn.
Vì thế đòi hỏi ta phải cố gắng nỗ lực không ngừng để củng cố những thành quả và
tạo cho mình một chỗ đứng chắc chắn trên trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình triết học Mác-Lênin
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả PTS . Nguyễn Cúc - NXB Thống kê- Hà Nội- 1995
- ASEAN- Những vấn đề và xu hướng
Bài ASEAN- Một số vấn đề môi trường và phát triển
Tác giả PTS . Trần Quốc Trị – Viện nghiên cứu Đông Nam Á
Tạp chí Cộng sản :
- Phạm Công Minh – Vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ tài chính
- Lâm Đình Ngọc - Bộ Ngoại giao