You are on page 1of 11

Vận dụng 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng vào giải thích một vấn đề thực

tiễn ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Yêu cầu 1: phần mở đầu tóm tắt, giới thiệu được vai trò của ba quy luật (1.5 điểm)
Yêu cầu 2: Phần nội dung: Phân tích được các nội dung cơ bản của ba quy luật ( 3
điểm); Vận dụng 3 quy luật vào giải thích một vấn đề thực tiễn( Kinh tế hoặc chính trị
hoặc văn hóa…) ở Việt Nam (4 điểm).
Yêu cầu 3: Phần kết luận: tóm tắt chủ đề (1.5 điểm)
Yêu cầu 4: Danh mục tài liệu tham khảo
1. Mở đầu
3 quy luật cơ bản của phép biện chứng : cả 3 quy luật đều giải thích cho nguyên lý về
sự phát triển, mỗi 1 quy luật có vị trí vai trò khác nhau
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
=> chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
- Quy luật lượng chất
=> chỉ ra cách thức của sự phát triển
- Quy luật phủ định của phủ định
=> chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển
2. Nội dung
Quy luật lượng-chất
- Khái niệm:ql lượng chất chỉ ra cách thức của sự phát triển, theo đó sự phát triển đc
tiến hành theo cách thức thay đổi lượng sẽ dẫn đến chuyển hóa về chất của sự vật,
hiện tượng và đưa sự vật hiện tượng sang một trạng thái phát triển tiếp theo
+ Chất là: 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ
không phải là cái khác
+ Lượng là phạm trù triệt học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, biểu thị số lượng, quy mô,trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng cũng như các thuộc tính của nó
Mỗi sv, htg tồn tại nhiều loại lượng khác nhau
Lượng biểu thị bởi những đơn vị đo lường cụ thế: người, kg,....
Lượng biểu thị dưới dạng khái quát: trình độ nhận thức phẩm chất đạo đức con người
Lượng biểu thị yếu tố bên ngoài: chiều cao, cân nặng
Lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong: số lượng nguyên tử của một nguyên
tố hóa học.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính tương đối, có những tính quy định
trong mối quan hệ này là chất của sự vật, nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng
và ngược lại
- Nội dung: mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Mọi sv, htg đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ làm thay đổi chất của sự vật thông qua bước
nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại thay đổi của lượng mới, tạo thành quá trình vận
động phát triển liên tục của sự vật
“độ” là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, htg
“điểm nút” là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã có thể làm thay đổi chất của
sự vật
“bước nhảy” là sự chuyển hóa về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng gây
nên.
+ dựa vào nhịp điệu: có bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần
+ dựa vào quy mô: bước nhảy toàn bộ và bc nhảy cục bộ.
- ý nghĩa
+ Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại 2 mặt chất và lượng và sự thay đổi về
lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất khi đủ điều kiện và ngc lại. Phải biết từng bước
tích lũy về lượng mới dẫn đến thay đổi về chất
+ tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn”
+ vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy để thúc đẩy quá trình chuyển hóa
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập/ quy luật mâu thuẫn
giới thiêu
+ QL mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng
+ là quy luật về nguồn gốc, động lực của mọi quá trinh vận động và phát triển
- Khái niệm mặt đối lập dùng để chí những mặt, những thuộc tính, những khuynh
hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của
nhau
- khải niệm mâu thuẩn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa
giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, htg khác nhau
Các tính chất của “mâu thuẫn”
- Tính khách quan: mâu thuẩn là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Tồn tại không
phụ thuộc vào ý thức của con người
- Tính phổ biến: Mâu thuẫn diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn tồn tại và
phát triển của sự vật , htg. Mâu thuẫn này mất đi sẽ có mâu thuẩn khác thay thế.
- Tính phong phú, đa dạng: sự vật, hiện tượng khác nhau sẽ có mâu thuẫn khác nhau.
Trong một sv, ht có thể tồn tại nhiều mâu thuẩn khác nhau và có vị trí, vai trò khác
nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật đó
Nội dung của ql mâu thuẫn
- Bên trong bất kỳ 1 sv, ht nào cũng có những mặt đối lập, những mặt đối lập này vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau, khi mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập này trở nên
gay gắt, khi đủ điều kiện chúng sẽ bài trừ chuyển hóa lẫn nhau để mâu thuẫn đc giải
quyết đẫn đến sự phát triển, khi mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới sẽ đc hình thành
và quá trình tác động chuyển hóa giữa các mặt đối lập lại tiếp diễn làm cho sự vật, ht
luôn luôn vận động và ptrien.
Ý nghĩa của mâu thuẫn
- Mthuan là nguồn gốc của sự ptr muốn phát triển phải tôn trọng mâu thuẫn, thừa nhận
có những mặt đối lập tồn tại và đấu tranh thì mới có sự phát triển
- phân tích mâu thuẫn và tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết mâu thuẫn bằng đấu
tranh giữa các mặt đối lập, không thỏa hiệp điều hòa mâu thuẫn
Quy luật phủ định của phủ định
giới thiệu
- quy luật pđ của pđ là một trong 3 pl cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ rõ
khuynh hướng phát triển của sv,ht là tiến lên, nhưng sự ptrien này có quá trình quanh
co và phức tạp
Khái niệm
“phủ định”
Các sv,ht đều có quá trình sinh ra, tồn tại, mất đi và đc thay thế bằng sv,ht khác. Phủ
định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sv, ht trong quá
trình phát triển.
Đặc điểm của “phủ định biện chứng”
- Tính khách quan: nguyên nhân của phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật,
không phụ thuộc vào ý thức con người. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu
thuẫn bên trong của sv và của quá trình từ những tích lũy về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất
- Tính kế thừa: cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ. Loại bỏ những yếu tố đã lỗi
thời, lạc hậu. Đồng thời cũng chọn lọc, giữ lại những yếu tố tích cực và cải
biến cho phù hợp với cái mới
Nội dung của ql “pđ của pđ”
- Sự phát triển diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ
thấp đến cao
- Cái mới xuất hiện dường như sẽ lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
Ý nghĩa ql
- Quá trình phát triển diễn ra quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ dịnh.
Hiểu quy luật giúp cta tránh được cách nhìn phiến diện đơn giản trong việc
nhận thức các sự vật , ht
- Cái mới ra đời là tất yếu phù hợp với sự phát triển của sv, ht. Mặc dù khi mới
ra đời, cái mới có thể còn non yếu, nhưng nó là cái tiến bộ hơn so với cái cũ. Vì
vậy, ta cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới ptr
- Khi phủ định cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái
cũ, tránh sự phủ định sạch trơn
1. Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào công nghiệp hóa hiện địa hóa của nước ta.
Trong thời kỳ 4.0
Lấy liên minh công nông làm nòng cốt-> cơ khí_> máy móc công nghệ 4.0
Trong quá trình đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu để trở thành một nước
công nghiệp, đảng và nhà nước ta luôn gặp phải những mâu thuẫn, chỉ khi giải
quyết được những mâu thuẫn này thì đất nước mới thay đổi và phát triển được.
Điều này được thể hiện qua đại hội 3 và đại hội 6.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bắt đầu được hình thành từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ III (năm 1960), với nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc
nước ta, là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chính của thời kỳ này là:
“Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công
nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước
có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ này là tiến hành công nghiệp hóa, trên cơ sở phát
triển công nghiệp nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông
nghiệp; phát triển chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, nguồn
viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, và Nhà nước cùng doanh nghiệp nhà nước
đóng vai trò chủ lực, trong việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
Tuy nhiên đã xuất hiện mâu thuẫn ở đây là do tiến hành công nghiệp hóa từ một nền
kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, những tiền đề cần thiết cho phát triển hạn chế, lại trong
điều kiện có chiến tranh và cùng nhiều nguyên nhân chủ quan khác, nên nền kinh tế
Việt Nam đã không đạt được những mục tiêu đã đặt ra, đất nước vẫn trong tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển và rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội.

=>Để giải quyết mâu thuẫn này


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là phải thực hiện 03 chương trình
lương thực, thực phẩm (1); hàng tiêu dùng (2) và hàng xuất khẩu (3) trong những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Phát triển lương thực thực phẩm và hàng tiêu dung là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết
yếu cho đời sống nhân dân và góp phần ổn định kinh tế - xã hội; phát triển hàng
xuất khẩu là yếu tố quyết định để khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo
nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất. Xác định thứ tự
ưu tiên đó đã cho phép phát huy sức mạnh nội lực và tranh thủ sức mạnh từ bên
ngoài để phát triển kinh tế-xã hội.
2. Vận dụng quy luật lượng-chất vào quá trình công nghiệp hóa hiện địa hóa của
nước ta

Từ một nước nông nghiệp lạc hâu thành một nước nề kinh tế,...đến thời đại 4.0
 Qua qua strinhf tích lũy về lượng được thể hiện qua các kỳ đại hooijn nc ta đã
biến đổi chất thành 1 nc đnag pt như hiện nay, tiếp tục tích lũy về lượng để
biến đổi chất thành nc công nghiẹp
Quy luật lượng chất phản ánh trạng thái và quá trình phát triển công nghệ hóa hiện
đại hóa,. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất mà cụ thể là sự nghiệp
đổi mới đất nước chuyển từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Sự thay đổi về lượng được thể hiện qua
các kì đại hội
+Đại hội 6 đã đưa ra định hướng phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ
công nghiệp, đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường, về chế biến nông
lâm, thuỷ sản, tăng nhanh hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác
+ đại hội 7 công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, sản xuất . Đại hội đề cập đến lĩnh
vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp
tác quốc tế; đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung
cả nước, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại,
dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao
+ đến đại hội 8 Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa
đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Các ngành công nghiệp được chú trọng phát triển trước hết là công nghiệp chế
biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
+đại hội 9 Chủ đề của Đại hội được xác định là "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006): Đại hội X cũng đã tiếp tục bổ sung
và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: Con đường
công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình
độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có
điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời
gian.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định, đó là:
Nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi
tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới
trên trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng cho việc đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
+Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (Năm 2016): Đại hội XII đã kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết Đại hội XI; tổng kết, nhìn lại 30 năm đổi mới để rút ra những bài học
kinh nghiệm cho thời gian phát triển tới.
Đại hội cũng đã chỉ rõ việc đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số chỉ
tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được theo kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục
tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được. Đại hội cũng đã thông qua mục tiêu tổng quát của
giai đoạn 2016-2020, đó là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát
triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới”.

+ Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
ục tiêu tổng quát của Nghị quyết đưa ra, đó là: “Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu
hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công
nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia
sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước
công nghiệp phát triển hiện đại”.

=. Từ đâu đến đâu là lượng, chất

3. Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào quá trình công nghiệp hóa hiện địa
hóa của nước ta
Qua từng kì đại hội các kì đại hội phủ định lẫn nhau để đất nước phát triển
Đảng ta đã áp dụng quy luật phủ định vào qua trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, để
không ngừng nâng tầm, phát triển vị thế đất nước. Để từ từ 1 nc nn lạc hậu thành 1 nc
phash triển, đã trải qua nhiều lần phủ định.
 Ta coi từ đại hội này sang đại hội khác là qua strinhf tích lũy vê fluowngj sang
đại hội mới là một chất mới và chất mới nẩy đời trên cơ sở cái cũ

Mỗi một kỳ aaij hội mới là 1 làn phủ định đại cũ


đại hội đúc kết, rút ra kinh nghiệm, dựa trên cơ sở cái cũ đưa ra cái mới để phát triển
đất nước.
 Ta coi từ đại hội này sang đại hội khác là qua strinhf tích lũy vê fluowngj sang
đại hội mới là một chất mới và chất mới nẩy đời trên cơ sở cái cũ
+ đại hội 3 Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ này là tiến hành công nghiệp hóa, trên cơ
sở phát triển công nghiệp nặng
+ Đại hội 6 đã đưa ra định hướng phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và
thủ công nghiệp, đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường, về chế biến
nông lâm, thuỷ sản, tăng nhanh hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu
khác. Tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng trước hết là năng lượng,
phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm phục vụ thiết thực các mục tiêu kinh tế, quốc
phòng trong chặng đường đầu tiên, và chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công
nghiệp hoá trong chặng đường tiếp theo.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII phủ định tiếp đại hội c6 (năm 1991): Đảng ta
tiếp tục có những nhận thức mới, toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa.
từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”.
Phát triển công nghiệp chế biến gắn với phát triển nông-lâm-ngư nghiệp và xây
dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích
hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII phủ định đại hội 7(năm 1996): Nước ta đã
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho
phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các ngành công nghiệp được chú trọng phát triển trước hết là công nghiệp chế
biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số
cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón,
hoá chất, một số cơ sở công nghiệp quốc phòng.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001): Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài
người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, nước ta đứng trước những
thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.
Đại hội đã đánh giá tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi
mới và 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh
nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra
chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Chủ đề Đại hội và chủ đề của Chiến lược được quyết định tại Đại hội đã thể hiện
nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới là “đẩy mạnh CNH, HĐH”.
Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu quả một
số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện kim (thép, alumin,
nhôm, kim loại quý hiếm...), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản... Phát triển mạnh công
nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển
một số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.
Đất nước vẫn phát triển công nghiệp nặng nhưng kèm theo phát triển những thứ
khác- dựa trên cơ sở cái cũ
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006): Đại hội X cũng đã tiếp tục bổ sung
và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: Con đường
công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình
độ phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có
điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các
nước đi trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời
gian.
Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước,
chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa
có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức;
phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động
lực cho CNH, HĐH.
Với ngành công nghiệp được định hướng tập trung nguồn lực phát triển mạnh và
nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc,
giày dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị
đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông,
sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ thông
tin, sản xuất phần mềm. Nâng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế
biến. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết
kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công
nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định, đó là:
Nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi
tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới
trên trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng cho việc đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Đại hội cũng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó: “Từ nay đến giữa
thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 với
mục tiêu tổng quát là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại;… vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao,
công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc
phòng. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả
năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin và truyền
thông, công nghiệp dược... Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Chú trọng phát triển
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo
và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu.
Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (Năm 2016): Đại hội XII đã kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết Đại hội XI; tổng kết, nhìn lại 30 năm đổi mới để rút ra những bài học
kinh nghiệm cho thời gian phát triển tới.
Đại hội cũng đã chỉ rõ việc đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số chỉ
tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được theo kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục
tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được. Đại hội cũng đã thông qua mục tiêu tổng quát của
giai đoạn 2016-2020, đó là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát
triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới”.
Riêng với ngành công nghiệp trong giai đoạn đến năm 2030, cần tập trung ưu tiên
phát triển một số ngành công nghiệp như: Công nghệ thông tin và viễn thông, công
nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các
ngành công nghiệp khác; công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng
lượng thông minh; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu
chuẩn quốc tế. Ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với
công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt
may, da giày nhưng ưu tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với
các quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa. Ưu tiên phát triển một số ngành,
lĩnh vực cơ khí như: ôtô, máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp,
thiết bị điện, thiết bị y tế…

You might also like