You are on page 1of 51

THI CUỐI KỲ ĐƯỜNG LỐI

Thi 5 - 6 trang A4, 60p, Times new roman, 13

MỤC LỤC
Chương I: Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ĐCS VN........................3
1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920) (OK)......3
2. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam
(OK) ................................................................................................................................................... 5
3. Phân tích nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên và gía trị của nó đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc và phát triển đất nước (OK).........................................................................................8
Chương II:........................................................................................................................................ 11
1. Luận cương chính trị (10 -1930) (OK)......................................................................................11
2. So sánh giữa Cương lĩnh chính trị (3/2/1930) và Luận cương (10/1930) (OK)........................14
Chương IV:....................................................................................................................................... 16
1. Nội dung cơ bản đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới (OK)................16
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay...............................19
2.1...........................................................................Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa và công
phát triển của kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường (OK)...........................................19
2.2.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế (OK)...................................................................................22
2.3.Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
(OK)............................................................................................................................................... 26
2.4.Phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(OK)............................................................................................................................................... 29
2.5.Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (OK)...................................................................................31
3. So sánh thời kỳ trước và sau đổi mới........................................................................................33
4. Việt Nam cần làm gì để bắt kịp trình độ phát triển của các nước trên thế giới?........................36
Chương VII:..................................................................................................................................... 38
1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển văn hóa con Người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước..........................................................................................38
1.1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; là mục tiêu, động lực thúc đẩy phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập quốc
tế (OK)........................................................................................................................................... 38
1.2.Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa
học (OK)......................................................................................................................................... 41

1
1.3.Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là xây dựng con người có nhân cách, lối sống
tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng
tạo (OK).......................................................................................................................................... 43
_Toc78574909
1.5.Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng (OK)..............47
2. Giải pháp xây dựng văn hóa ứng xử mạng xã hội ở sinh viên của trường Đại học Bách khoa –
ĐHQG TP.HCM hiện nay (OK)........................................................................................................48

2
Chương I: Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập ĐCS VN

1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (1911-1920) (OK)
Được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống
anh dũng chống giặc ngoại xâm nên Nguyễn Tất Thành đã sớm có một lòng nồng nàn yêu nước,
thương dân, có ý chí đánh đuổi thực dân, giải phóng dân tộc.
Bằng sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Tất Thành đã nghiên cứu và rút ra được những nguyên
nhân thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản của
Việt Nam lúc bấy giờ. Người nhận thấy: cách làm dựa vào Nhật để đánh Pháp của Phan Bội Châu
không khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; biện pháp ôn hòa của Phan Châu Trinh chẳng
khác nào “xin giặc rủ lòng thương”; phong trào nông dân của Hoàng Hoa Thám thì vẫn còn “mang
nặng cốt cách phong kiến”. Người thấy rõ phương thức đấu tranh kiểu phong kiến đã không còn phù
hợp với thời đại. Hệ tư tưởng dân chủ tư sản tuy mới ở Việt Nam nhưng nó không còn mới trên thế
giới và nó cũng không phù hợp với truyền thống và đặc điểm dân tộc, xã hội của nước ta. Từ đó,
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy nhiệm vụ trước mắt là phải tìm một con đường cách mạng mới có thể
dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đi đến thành công.
Trước nhiệm vụ đó, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành quyết định đi đến phương Tây để
tìm kiếm lời giải đáp cho mình. Sở dĩ Người lựa chọn phương Tây mà không phải phương Đông là
vì phương Tây là nơi có nền kinh tế, văn hóa, chính trị phát triển vượt bậc, nơi được mệnh danh là
có tư tưởng hòa bình, bác ái, Người muốn tìm hiểu, học hỏi để về giúp đồng bào mình. Và đặc biệt
Pháp lại là nước đang cai trị Việt Nam, muốn đánh đuổi được họ thì phải hiểu biết rõ về họ. Đó
chính là lý do mà người lựa chọn Pháp là điểm đến đầu tiên trong chuyến đi của mình. Bên cạnh
Pháp, người cũng tìm hiểu, nghiên cứu các nước khác ở Tây Âu như Mỹ, Anh. Người đánh giá cao
tư tưởng tự chủ tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản ở Anh,
Pháp, Mỹ và học được bài học tập hợp lực lượng của giai cấp tư sản để làm cách mạng tư sản thành
công.
Tuy nhiên, Người cũng nhận ra rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản đó. Nguyễn
Ái Quốc đã thấy “chủ nghĩa Uyn - xơn là một trò bịp lớn”. Người đã chứng kiến được thực trạng xã
hội tư bản chủ nghĩa cùng với bản chất bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũng như
tính chất dân chủ giả hiệu “không đến nơi” của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Từ đó,
Người đã có kết luận chung về cách mạng tư sản: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa
là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Chính cái “không đến nơi” của cách mạng tư
sản là một trong những lý do mà Người không chọn con đường cách mạng tư sản cho Việt Nam. Rõ
ràng là con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân
các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.

3
Khi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và giành thắng lợi, làm chấn động toàn
cầu. Với sự nhạy cảm đặc biệt, Người đã hướng đến cách mạng Nga và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư
tưởng của cuộc cách mạng này. Khi nghiên cứu cách mạng Nga, Người kết luận: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật”. Chính cái “đến nơi” của cách mạng Nga là một trong
nhiều lý do Người chọn đi theo con đường của cách mạng tháng Mười.
Đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Người đã tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời
giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam. Mười hai luận điểm quan trọng trong
bản Luận cương đã tác động mạnh mẽ đến Nguyễn Ái Quốc, Người đã tiếp thu, bổ sung và phát
triển sáng tạo các luận điểm này trong việc lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam.
Sự kiện Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp (tháng 12/1920) đã đánh dấu bước ngoặc trong cuộc đời hoạt động cách mạng Nguyễn Ái
Quốc: từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Từ đây, người tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.
Cũng chính từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung mọi nỗ lực, quyết tâm truyền bá lý luận Mác
- Lênin và tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga về nước. Tiến hành cuộc vận động đấu tranh giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, vạch ra phương hướng chiến lược cho cách mạng
Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc lựa chọn Phương Tây?


- Tìm cái thực chất của "tự do bình đẳng, bác ái" để từ đó xác định con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc, hiểu các nước khác làm như thế nào rồi sẽ về giúp đồng bào mình.
- Châu Âu, nơi đang có sự phát triển vượt bậc về kinh tế, về văn hóa, về chính trị.
- Khi đó Cách mạng Tháng 10 Nga vẫn chưa nổ ra và thành công. Vì đến ngày 24/10/1917
mới nổ ra và thành công vào 7/11/1917.
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn Pháp đầu tiên?
- Năm 1923, khi gặp nhà thơ Nga nổi tiếng O. Mandenstan, Hồ Chí Minh cho biết: “Vào trạc
tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đối với chúng tôi, người da
trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thuở ấy, tôi muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
- Pháp đang cai trị nước ta, muốn đánh đuổi được họ thì phải tìm hiểu về họ.
- Năm 1909, Nguyễn Ái Quốc được học thêm tiếng Pháp (ngôn ngữ được dạy học phổ cập khi
Pháp qua đô hộ nước Việt ta) nên có thể thuận tiện để lên tàu Đô đốc Latouche-Tréville đi qua
Marseille, Pháp.

4
5
1. Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam (OK)
(Phân tích để làm rõ sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong vận dụng lý luận Mác - Lênin để xây
dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở VN)
Giai đoạn 1921 - 1930, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị mọi mặt để tiến đến thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam:
 Về tư tưởng
Vấn đề quan tâm hàng đầu của Nguyễn Ái Quốc là truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con
đường cứu nước mà Người đã chọn vào phong trào cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Người không
sao chép nguyên văn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mà có sự vận dụng sáng tạo để phù hợp với
tình hình cách mạng Việt Nam. Từ đó xây dựng nên cơ sở lý luận riêng cho cách mạng giải phóng
dân tộc ở nước ta. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ
rõ rằng: “Mác đã xây dựng học thức của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử
nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa
Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà
các Xô viết đảm nhiệm”.
Để có thể truyền bá tư tưởng của mình đến mọi người dân, Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hóa nội
dung sao cho dễ hiểu, dễ cảm thụ, phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài
viết ngắn ngọn, giản dị, nội dung thiết thực như nhiều bài đăng trên một số tờ báo Người cùng khổ,
Nhân đạo, Đời sống công nhân đã nhanh chóng được lan truyền trong quần chúng nhân dân. Đặc
biệt, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Người đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của thực dân
Pháp, thức tỉnh tinh thần yêu nước của dân tộc để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
 Về chính trị
Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản trong đường lối giải phóng dân tộc cho cách mạng
Việt Nam, những vấn đề này được in trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, đây được xem là sách
giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Cụ thể gồm những vấn đề sau:
- Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải
phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết
với nhau, song trước hết phải giải phóng dân tộc, đánh đuổi đế quốc xâm lược. Từ điểm này cho
thấy, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã dùng phương pháp biện chứng
duy vật để phân tích xã hội thuộc địa, chỉ ra mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của nước ta lúc bấy giờ là
mâu thuẫn giữa kẻ đi xâm lược và dân tộc bị mất nước. Thực tế thấy rõ, mâu thuẫn giữa địa chủ và
nông dân thì không gây gắt, cho nên cần đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Việc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội cũng là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi nước ta không cần thiết phải trải
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Thực chất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
của nó chính là xã hội chủ nghĩa.

6
- Về lực lượng cách mạng, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
“là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”. Giống với chủ nghĩa Mác -
Lênin, Nguyễn Ái Quốc cũng lấy công - nông là gốc, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Bên cạnh đó,
Người cũng sáng tạo khi xác định lực lượng có cả các giai cấp phong kiến (sĩ) và tư sản, tiểu tư sản
(thương), Người cho rằng tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ cũng mang trong mình tinh thần yêu
nước, cũng muốn giành lại độc lập cho dân tộc. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp được lực lượng
cách mạng cả “sĩ, nông, công, thương” để tạo dựng được một sức mạnh toàn dân chống kẻ thù xâm
lược.
- Về phương pháp cách mạng, sử dụng bạo lực cách mạng và phải có sách lược, mưu chước,
kế hoạch rõ ràng. Cách mạng là sự nghiệp của cả quần chúng vì vậy phải động viên, giác ngộ và tổ
chức quần chúng đi đúng hướng, làm quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng. Quan điểm này cho
thấy Nguyễn Ái Quốc đã có sự tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đây là quan điểm đúng đắn, bởi vì cách mạng Việt Nam là cuộc chiến đấu quyết
liệt, không khoan nhượng, không thể chỉ sử dụng con đường cải lương thỏa hiệp mà phải lấy bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Điều này không hề trái với quan điểm yêu hòa
bình, nhân đạo, nhân ái của dân tộc Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng: muốn thắng lợi thì cách mạng phải
có một Đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu tư tưởng của Mác khi đặt Đảng cộng sản là lãnh
đạo cho cuộc cách mạng vô sản. Tuy nhiên, ở chủ nghĩa Mác thì Đảng cộng sản được xây dựng trên
nền lực lượng công - nông và lý luận Mác - Lênin, đến Nguyễn Ái Quốc thì Đảng cộng sản là sự kết
hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân
Việt Nam. Đó chính là sự sáng tạo của Người, và Đảng cộng sản của Việt Nam chính là Đảng của
cả dân tộc.
- Về quan hệ với cách mạng thế giới, Người xác định: “cách mạng An Nam cũng là một bộ
phận của cách mạng thế giới”. Người đề cao việc tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc tuy nhiên
cũng không xem nhẹ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, để từ đó có thể kết hợp đồng thời sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại làm cho cuộc cách mạng đi đến thành công.
- Tiếp thu tư tưởng của Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính
quốc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ khắng khít với nhau, như "hai cánh của một con chim". Người nêu rõ:
cách mạng thuộc địa không phụ thuộc cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có tính chủ động độc lập
“cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng vô sản ở chính quốc và góp phần thúc đẩy
cách mạng chính quốc tiến lên”.
 Về tổ chức
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm mục đích “làm cách
mạng dân tộc và cách mạng thế giới”. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân có
tính chất quá độ, vừa tầm, thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Điều này giúp cho

7
những người Việt Nam yêu nước ở các giai tầng khác nhau có thể dễ dàng tiếp thu tư tưởng cách
mạng, rèn luyện, giác ngộ các tầng lớp thanh niên yêu nước. Từ đó thúc đẩy phong trào công nhân
và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền. Nhờ
vậy, đã tạo điều kiện tiếp xúc thực tiễn, rèn luyện lập trường, quan điểm cho thanh niên yêu nước,
đồng thời giúp thanh niên hiểu rõ được nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Bên cạnh đó cũng truyền bá được chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận cách mạng đến những
người công nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc còn lựa
chọn một số thanh niên gửi đi du học ở các nước như Trung Quốc, Liên Xô để đào tạo, nâng cao
trình độ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ của Đảng cộng sản.
Tóm lại, với sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị chu
đáo cho việc thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam. Khi thấy sự chia rẽ của ba tổ chức cộng sản,
Người chủ động rời Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc) để chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức
cộng sản thành một Đảng duy nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là bước chuẩn bị đặc biệt
quan trọng, tạo điều kiện đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đến với những thắng
lợi sau này.

8
2. Phân tích nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên và giá trị của nó đối với sự nghiệp
giải phóng dân tộc và phát triển đất nước (OK)
 Hoàn cảnh ra đời cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cuối năm 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời và hoạt động phân tán, chia rẽ làm ảnh hưởng xấu
đến phong trào cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động rời Xiêm
về Trung Quốc và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào tháng 2/1930.
Hội nghị đã thống nhất thành lập một Đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh tuy vắn tắt
nhưng đã đề ra được những vấn đề chiến lược phát triển lâu dài của cách mạng Việt Nam.
 Nôi dung của Cương lĩnh
Về phương hướng chiến lược, Cương lĩnh xác định Việt Nam chủ trương làm “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Hai cuộc cách mạng này có mối
quan hệ biện chứng, cách mạng trước thành công sẽ tạo điều kiện cho cách mạng sau giành thắng
lợi. Điều này cho thấy Cương lĩnh đã nắm vững học thuyết Mác – Lênin và thấy rõ con đường phát
triển tất yếu, đề ra phương hướng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng, Cương lĩnh xác định phải đánh đổ đế quốc và phong kiến làm cho
Việt Nam hoàn toàn được độc lập. Từ hai nhiệm vụ này cho thấy, Cương lĩnh đã xác định đúng đắn
hai mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: mâu thuẫn giữa thực dân Pháp với dân tộc
Việt Nam, mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Khi nhiệm vụ cách mạng hoàn thành
thì hai mâu thuẫn này sẽ được giải quyết cũng đồng nghĩa là cách mạng đã đi đên thành công. Đặc
biệt, trong hai nhiệm vụ đó, Cương lĩnh đã đặt nhiệm vụ đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc lên
hàng đầu. Đó là lựa chọn đúng đắn vì mâu thuẫn dân tộc đang là vấn đề bức xúc nhất trong xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ. Khi giải quyết được mâu thuẫn này cũng sẽ đồng thời tạo cơ sở, điều kiện để
giải quyết các mâu thuẫn khác. Ngoài ra, cương lĩnh cũng nêu lên các nhiệm vụ ở lĩnh vực kinh tế
và văn hóa - xã hội như thủ tiêu các thứ quốc trái, tịch thu sản nghiệp lớn và ruộng đất của đế quốc
chủ nghĩa, xóa bỏ sưu thuế, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa, …
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh chỉ ra rằng, phải đoàn kết với tất cả các giai cấp, các tầng
lớp nhân dân yêu nước để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngoài hai lực lượng chính của
cách mạng là công nhân và nông dân, cách mạng còn phải lôi kéo, tập hợp tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, thanh niên. Bên cạnh đó, còn phải lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ và tư
bản An Nam, nhưng nếu họ đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Điều này cho thấy Cương
lĩnh đã đánh giá đúng đắn và có chính sách đối xử phù hợp đối với mỗi giai tầng xã hội. Từ đó tranh
thủ được lực lượng, tạo lập sức mạnh cho cách mạng đồng thời cũng thể hiện sự cương quyết trừng
trị đối với thế lực chống phá cách mạng.
Về phương pháp cách mạng, Cương lĩnh chỉ rõ phải dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng
nhân dân để tiến hành bạo lực cách mạng giành chính quyền. Cho thấy Cương lĩnh đã thấm nhuần
tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là quan điểm

9
đúng đắn, bởi vì cách mạng Việt Nam là cuộc chiến đấu quyết liệt, không khoan nhượng, không thể
chỉ sử dụng con đường cải lương thỏa hiệp mà phải lấy bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng. Điều này không hề trái với quan điểm yêu hòa bình, nhân đạo, nhân ái của dân tộc Việt
Nam.
Về lãnh đạo cách mạng, Cương lĩnh nhận định: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách
mạng, Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng. Trong đó, Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định thắng lợi. Việc tin tưởng và dựa vào Đảng sẽ giúp tạo một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện
tiến hành cách mạng thành công. Để không phụ lòng tin yêu đó, Đảng phải thể hiện được uy tín,
năng lực của mình, phải dẫn dắt cách mạng đi đúng hướng và làm cho giai cấp vô sản lãnh đạo
được quần chúng nhân dân. Không chỉ giai cấp vô sản, Đảng còn phải kết nạp những người ưu tú
trong các tầng lớp khác của xã hội để tập hợp sức mạnh chuẩn bị cho cuộc cách mạng.
Về quan hệ cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, Cương lĩnh khẳng định:
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Phải thực hành liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Thực tế thì giai cấp vô sản
các nước cũng đã cấu kết với nhau để tiến hành đàn áp các phong trào đấu tranh ở chính quốc và
thuộc địa. Vì vậy, giai cấp vô sản ở các nước cũng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau thì mới có thể
hợp sức giành được thắng lợi. Nhờ quan điểm này, Việt Nam có thể đồng kết hợp được sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại để làm cho cuộc cách mạng đi đến thành công. Đây cũng là tư tưởng
cơ sở cho vấn đề đoàn kết quốc tế sau này: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới
trong thời đại mới.
 Giá trị của Cương lĩnh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh được những đặc điểm, tình hình xã hội
thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Đồng thời xác định đúng đắn
mâu thuẫn lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và toàn thể dân tộc Việt Nam. Từ đó,
Cương lĩnh đã đề ra những vấn đề chiến lựơc phát triển lâu dài cho cách mạng Việt Nam.
Từ việc nhìn nhận đúng đắn vai trò của các tầng lớp trong xã hội, Cương lĩnh đã có những
chính sách để tập hợp lực lượng, tạo được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Cương lĩnh đã tiếp
thu tư tưởng của Mác khi đã đặt Đảng cộng sản là lãnh đạo cho cuộc cách mạng vô sản. Đồng thời
nêu lên được vấn đề đoàn kết quốc tế trong tiến trình cách mạng, từ đó kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp được sức manh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhìn chung, những nội dung cơ bản của Cương lĩnh là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta.
Nhờ những giá trị đó, Cương lĩnh đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, đó là tìm
ra phương hướng phát triển mới phù hợp cho đất nước, giải quyết được tình trạng khủng hoảng về
đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế thế kỷ XX.

10
Cho đến nay Cương lĩnh chính trị đầu tiên vẫn còn giữ nguyên những giá trị của mình, tiếp tục
soi đường cho công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hợp tác quốc tế, xây dựng Việt Nam dân giàu, nước manh xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.

11
Chương II:

1. Luận cương chính trị (10 -1930) (OK)


(Phân tích nội dung và đánh giá ưu điểm, hạn chế)
 Hoàn cảnh ra đời
Năm 1930, thế giới đã bước vào thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa tư bản Pháp
cũng bị ảnh hưởng nặng nề nên đã ra sức bóc lột các nước thuộc địa, đặc biệt là bán đảo Đông
Dương. Ở nước ta, Đảng cộng sản vừa mới ra đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi lại quyền dân
tộc và dân chủ. Cuộc đấu tranh ngày càng lan rộng ra khắp nơi, đặc biệt nhất là phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh.
Vào tháng 4/1930, Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước để điều đi khảo sát phát triển
phong trào công nhân và nông dân. Sau đó, Trần Phú được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời và được giao nhiệm vụ cùng với một số đồng chí soạn thảo Luận cương để chuẩn bị cho Hội
nghị Ban chấp hành trung ương Đảng. Trần phú đã chủ trì Hội nghị họp từ ngày 14 đến ngày
30/10/1930 tại Hương Cảng (Trung quốc). Hội nghị đã thảo luận và thông qua Luận cương chính
trị, quyết định đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương và cử Trần Phú
làm Tổng Bí thư.
 Nội dung của Luận cương
Luận cương đã phân tích những đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Đông
Dương và chỉ ra những vấn đề chiến lựơc cho cách mạng Đông Dương.
Về mâu thuẫn xã hội, Luận cương đã chỉ rõ mâu thuẫn gay gắt ở Đông Dương lúc bấy giờ là
mâu thuẫn giữa thợ thuyền, dân cày, các phần tử lao khổ với địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Mâu thuẫn này xuất phát từ việc thợ thuyền và dân cày là hai bộ phận bị bóc lột tàn nhẫn nhất trong
xã hội. Dân cày thì đói khổ do phải đóng sưu cao, thuế nặng. Thợ thuyền thì tiền lương không đủ ăn
lại bị cúp ngược, cúp xuôi trong khi ngày làm trung bình 11-12 giờ lại còn bị chửi đánh.
Về phương hướng cách mạng ở Đông Dương, Luận cương nêu rõ: đó là cuộc “cách mạng tư
sản dân quyền”, có tính chất thổ địa và phản đế. Sau đó sẽ "bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Điểm này cho thấy Luận cương đã có sự tiếp nối các văn
kiện trước đó, nhận thấy rõ tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải
được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó chính là
xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ cách mạng, Luận cương khẳng định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là
đánh đổ phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khắng khít với
nhau nhưng Luận cương lại xem “Vấn đề thổ địa là cốt của cách mạng tư sản dân quyền”. Việc này
có thể lý giải là do Luận cương muốn sớm đưa dân cày thoát khỏi tính trạng bị bóc lột. Mà dân cày
chiếm đại đa số, hơn 90% dân số ở Đông Dương, khi dân cày được giải phóng sẽ trở thành nguồn
lực lượng đông đảo cho cách mạng.

12
Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản là lãnh đạo cách mạng, trong
đó dân cày là lực lượng đông đảo nhất. Đối với những giai tầng khác, Luận cương cũng có những
nhìn nhận khác nhau. Luận cương cho rằng tư sản thương nghiệp đã đứng về phe đế quốc còn tư sản
công nghiệp thì thuộc về quốc gia cải lương, nhưng cuối cùng họ cũng sẽ theo phe đế quốc chủ
nghĩa. Tiểu tư sản thủ công nghiệp có ác cảm với cả đế quốc và cách mạng nên có thái độ rất do dự,
còn tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng. Tiểu tư sản trí thức chỉ hăng hái chống đế
quốc ở thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ, bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ và tri thức thất
nghiệp vì sinh hoạt cực khổ nên mới đi theo cách mạng mà thôi. Từ những nhìn nhận đó, cho thấy
Luận cương đã có sự quan sát quan thái độ của từng giai tầng xã hội đối với cách mạng. Tuy nhiên,
sự nhìn nhận này còn mang tính phiến diện đồng thời chưa đề ra những chủ trương, chính sách đối
xử với những giai tầng này.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương xác định phải thực hiện “võ trang bạo động” và
“phải tuân theo khuôn pháp nhà binh”. Đây là điểm đặc biệt của Luận cương, bạo lực cách mạng ở
đây không chỉ đơn thuần là dùng vũ lực mà còn phải có nghệ thuật, và phải theo tình thế trực tiếp.
Khi không có tình thế trực tiếp, Luận cương cũng khuyến khích quần chúng kịch liệt đấu tranh, biểu
tình bãi công. Điều này không phải là sự nóng vội hay kích động mà mục đích của Luận cương là để
suy động đại quần chúng ra thị oai, dự bị cho nhân dân về cuộc võ trang bạo động sau này. Khi thời
cơ đến, Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chính phủ của địch và giành lấy chính
quyền cho công nông.
Nhận thấy nguy cơ chiến tranh của các đế quốc càng ngày càng gần, Luận cương nhắc nhở
Đảng phải hết sức "phản đối binh bị", chống chiến tranh, phải tổ chức quân đội và đội tự vệ của
công nông. Đồng thời phải bênh vực Liên bang Xô viết và phong trào cách mạng trên thế giới. Như
vậy, không chỉ xem xét tình hình ở Đông Dương, Luận cương cũng có sự quan sát đến tình hình thế
giới để xác định phương pháp, hướng đi phù hợp cho cuộc cách mạng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Luận cương xác định đây là nhân tố cốt yếu cho thắng lợi cách
mạng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng,
đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương. Đây là quan điểm điểm đúng đắn,
có sự kế thừa những văn kiện trước đó. Việc tin tưởng và dựa vào Đảng sẽ giúp tạo một nền chính
trị ổn định, tạo điều kiện tiến hành cách mạng thành công. Hơn nữa, Luận cương cũng nêu ra những
nhiệm vụ cụ thể của Đảng như: phải tổ chức ra những đoàn thể độc lập (công hội, nông hội), phải
thâu phục đại đa số giai cấp mình và hết sức liên lạc những hoạt động công khai và bí mật để
khoách trương cuộc công nhân vận động.
Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Luận cương khẳng định Cách
mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới. Giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn
kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp. Việc đoàn kết các dân tộc
thuộc địa với nhau là vô cùng cần thiết để tạo sức mạnh tổng hợp chống lại chủ nghĩa đế quốc. Hơn
nữa, kẻ thù chính của Đông Dương hiện tại là Pháp, liên hệ mật thiết với giai cấp vô sản Pháp sẽ
giúp nắm bắt rõ thông tin, tình hình xã hội ở nước đang cai trị ta. Đồng thời kết hợp với giai cấp vô

13
sản Pháp cùng thực hiện cách mạng, làm suy yếu chính quyền, lực lượng Pháp cả ở thuộc địa lẫn
chính quốc.
 Ưu điểm
Nhìn chung, Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà Cương lĩnh đã nêu ra đồng thời là
một văn kiện tương đối chi tiết, cụ thể so với các văn kiện vắn tắt trước đó.
Luận cương đã nêu lên được đặc điểm và tình hình xã hội ở Đông Dương. Từ đó đã xác định
rõ tính chất “cách mạng tư sản dân quyền” ở Đông Dương. Luận cương cũng vận dụng những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, nêu lên được vai trò của Đảng và vấn đề đoàn kết quốc tế
trong tiến trình cách mạng. Từ đó kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức
manh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Như vậy, Luận cương đã vạch ra được một con đường cách mạng, tạo điều kiện tiến hành cách
mạng giành độc lập dân tộc trên toàn cõi Đông Dương.
 Hạn chế
Luận cương chưa nắm vững đặc điểm của xã hội thuộc địa nữa phong kiến, nên chưa xác định
được mâu thuẫn chính ở Đông Dương. Từ đó, Luận cương đã đặt nhiệm vụ ruộng đất lên hàng đầu,
điều này là điểm chưa hợp lý trong Luận cương. Bời vì nếu tiến hành cách mạng ruộng đất quá sớm
và gay gắt sẽ đẩy những đại địa chủ và tư sản về phía đế quốc chủ nghĩa Pháp mà Pháp cũng sẽ
không đứng yên để ta thực hiện nhiệm vụ đó. Nên đánh đuổi được Pháp trước, chỗ dựa vững chắc
của đại địa chủ và tư sản cũng sẽ bị triệt tiêu và tự nhiên cách mạng ruộng đất cũng dễ dàng đi đến
thành công.
Bên cạnh đó, Luận cương chưa đánh giá đúng vai trò của các tầng lớp (tiểu tư sản, tư bản dân
tộc, địa chủ vừa và nhỏ) trong lực lượng cách mạng. Chỉ tập trung đưa ra phương hướng hoạt động
cho giai cấp vô sản mà chưa đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi. Thực
tế những giai tầng khác trong xã hội đều bị đế quốc chủ nghĩa Pháp chèn ép, đều có ít nhiều lòng
yêu nước và câm thù đế quốc chủ nghĩa Pháp. Họ không dám theo cách mạng cũng chỉ vì mưu sinh
mà thôi. Nếu có cách tiếp cận và vận động hợp lý, những giai tầng đó hoàn toàn có thể là một trợ
lực mạnh cho cách mạng.
Hơn nữa, với mục đích cách mạng là giành độc lập cho toàn Đông Dương nhưng Luận cương
lại bỏ qua sự khác biệt về lịch sử, văn hóa của các nước Đông Dương. Từ đó chưa gắn kết được ba
nước Việt - Miên - Lào để chung sức chung lòng cùng làm cách mạng thành công.
Những hạn chế trên cho thấy Luận cương còn quá chú trọng vào việc áp dụng một cách máy
móc những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản vào cách mạng giải phóng dân
tộc. Chưa có sự vận dụng sáng tạo cho phù hợp với tình hình cụ thể của các nước thuộc địa nửa
phong kiến.

14
1. So sánh giữa Cương lĩnh chính trị (3/2/1930) và Luận cương (10/1930) (OK)
 Giống nhau
Về phương hướng chiến lược cách mạng, cả Cương lĩnh và Luận cương đều xác định được
tích chất của cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Sau
khi giành thắng lợi sẽ “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Cho thấy cả hai văn kiện đều nhận thấy rõ tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
của nó chính là xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ cách mạng, cả hai văn kiện đều xác định chống phong kiến để lấy lại ruộng đất
cho dân cày (phản phong) và chống đế quốc để giành lại độc lập cho dân tộc (phản đế). Sự giống
nhau này xuất phát từ việc giải quyết hai mâu thuẫn căn bản trong xã hội. Đó là mâu thuẫn giữa địa
chủ với nông dân cùng với mâu thuẫn giữa đế quốc với toàn thể dân tộc Việt Nam.
Về lực lượng cách mạng, hai văn kiện xác định lực lượng chủ yếu là công nhân và nông dân.
Vì đây là hai lực lượng cơ bản đông đảo trong xã hội, đều bị áp bức bóc lột nặng nề nên có tinh thần
đấu tranh mạnh mẽ, góp phần to lớn vào công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Về phương pháp cách mạng, Cương lĩnh và Luận cương đều sử dụng sức mạnh tổng hợp của
quần chúng nhân dân để tiến hành bạo lực cách mạng giành chính quyền. Điều này là đúng đắn, bởi
vì cách mạng Việt Nam là cuộc chiến đấu không khoan nhượng, không thể chỉ sử dụng con đường
cải lương thỏa hiệp mà phải lấy bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Điều này
không hề trái với quan điểm yêu hòa bình, nhân đạo và nhân ái của dân tộc Việt Nam.
Về đoàn kết quốc tế, cả hai văn kiện đều xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận với
cách mạng thế giới, phải liên hệ mật thiết giai cấp vô sản trên thế giới. Điều này cần thiết để cách
mạng có thể tổng hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chống kẻ thù xâm lược.
Về lãnh đạo cách mạng, Cả hai văn kiện đều có sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin khi đặt
Đảng cộng sản lãnh đạo cuộc cách mạng và xem đây là nhân tố quyết định thắng lợi. Việc tin tưởng
và dựa vào Đảng sẽ giúp tạo một nền chính trị ổn định, tạo điều kiện tiến hành cách mạng thành
công.
Cương lĩnh chính trị và Luận cương có những điểm giống nhau trên là do đều xuất phát từ
những đặc điểm, tình hình xã hội của nước thuộc địa nửa phong kiến. Bên cạnh đó, cả hai văn kiện
đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản, cũng như sự ảnh hưởng từ cách mạng
tháng Mười Nga.
 Khác nhau
- Về nhiệm vụ cách mạng:
Cương lĩnh xác định phải đánh đổ đế quốc Pháp, sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai
phản cách mạng. Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân
chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết.
Khác với Cương lĩnh, Luận cương lại xác định “Vấn đề thổ địa là cốt của cách mạng tư sản
dân quyền”. Việc này có thể lý giải là do Luận cương muốn sớm đưa dân cày thoát khỏi tính trạng

15
bị bóc lột. Mà dân cày chiếm đại đa số, hơn 90% dân số ở Đông Dương, khi dân cày được giải
phóng sẽ trở thành nguồn lực lượng đông đảo cho cách mạng.
- Trong xác định lực lượng cách mạng:
Cương lĩnh không chỉ dựa vào lực lượng công nông mà còn liên minh đoàn kết với các giai
tầng khác để tiến hành cách mạng. Cương lĩnh xác định phải liên hệ, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, thanh niên về phía cách mạng, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ,
nhưng nếu họ đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Từ đó phát huy được sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc.
Luận cương cũng xác định lực lượng chính của cách mạng là giai cấp vô sản nhưng lại chưa
đánh giá đúng khả năng cách mạng các giai tầng khác. Luận cương cho rằng tư sản thương nghiệp
thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương
và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc, tiểu tư sản thương nghiệp thì không tán
thành cách mạng, tiểu tư sản công nghiệp thì do dự, tiểu tư sản tri thức thì xu hướng quốc gia chủ
nghĩa và chỉ có thể hăng hái chống đế quốc thời kỳ đầu. Từ đó chưa tập hợp được sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc để tiến hành cách mạng thành công.
Từ những điểm khác nhau đó, cho thấy Cương lĩnh tuy vắn tắt và ra đời trước nhưng lại thể
hiện sự đúng đắn trong giải quyết những vấn đề của cách mạng. Cương lĩnh đã thể hiện sự vận dụng
và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm cách
mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta. Từ đó, Cương lĩnh đã vạch ra phương hướng căn bản
của cách mạng nước ta, tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc đồng thời kết hợp nó với sức mạnh
của thời đại.
Luận cương thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy
nhiên, Luận cương vẫn có những hạn chế như sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa
Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam. Còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp nên chưa xác định
nhiệm vụ hành đầu của một nước thuộc địa nửa phong kiến là giải phóng dân tộc. Không đánh giá
đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, tư sản, địa chủ yêu nước nên chưa tập hợp được sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.

16
Chương IV:

1. Nội dung cơ bản đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới (OK)
(Phân tích các nội dung cơ bản và những hạn chế trong đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời
kỳ trước đổi mới)
 Mục tiêu, phương hướng công nghiệp hóa
Trước thời kỳ đổi mới, nước ta tiến hành công nghiệp hóa qua hai giai đoạn.
- Ở miền Bắc (1960 - 1975):
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Đảng đã nhận định: đặc điểm lớn
nhất của nước ta là từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, Đại hội III đã xác định mục tiêu của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là “xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội”. Đảng xác định đó là mục tiêu cơ bản,
lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Thực tế, trước tình trạng kém phát triển của nước ta,
việc tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là điều cấp thiết, phải tiến hành ngay để vựt dậy
đất nước. Điều này đã thể hiện bước đi đúng đắn đầu tiên của Đảng trong việc xây dựng và phát
triển đất nước.
Tuy nhiên, bước đi này gặp phải rất nhiều khó khăn, khi tình hình trong nước và quốc tế diễn
biến ngày càng phức tạp. Chưa thực hiện xong kế hoạch 5 năm đầu tiên thì Mỹ đã mở rộng cuộc
chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Trong bối cảnh đó, miền Bắc phải đồng thời thực hiện hai nhiệm
vụ, vừa phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải chiến đấu chống Mỹ.
Về cơ cấu kinh tế, Đại hội III đã xác định kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công
nghiệp nặng làm nền tảng, đồng thời chú trọng đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Hội nghị
Trung ương 7 khóa III đã đề ra phương hướng chỉ đạo tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã
hội chủ nghĩa: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, kết hợp chặt chẽ phát triển
công nghiệp với phát triển nông nghiệp. Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng. Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh
phát triển công nghiệp địa phương”.
Việc phát triển những ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, hóa lọc dầu, cơ điện tử và xây
dựng những nhà máy sản xuất thiết bị để trang bị cho các ngành khác là điều cần thiết để phát triển
kinh tế đất nước, góp phần giúp Việt Nam phát triển tương xứng với khu vực thế giới. Tuy nhiên
đang trong thời kỳ chiến tranh, đầu tư nhiều vào công nghiệp nặng là rất tốn kém, gây sức ép lớn
đến kinh tế đất nước. Tuy vậy, Đảng vẫn tiếp tục chú trọng phát triển công nghiệp nặng trong 10
năm tiếp theo.
- Trên phạm vi cả nước (1975 - 1985):
Tại Đại hội IV (1976), Đảng xác định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát

17
triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Kết hợp xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp. Kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”.
Tuy đã thấy được hạn chế ở Hội nghị Trung ương 7, nhưng Đảng lại tiếp tục thực hiện chiến
lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Nguyên nhân là vì đất nước đã hết chiến tranh, các
nước xã hội chủ nghĩa khác không còn viện trợ, nhu cầu đời sống nhân dân tăng cao. Điều này cho
thấy sự nóng vội trong tiến hành công nghiệp hóa, muốn đẩy nhanh phát triển mà chưa xem xét điều
kiện đất nước có cho phép hay không. Kết quả là, trong 5 năm đầu thực hiện chiến lược (1975-
1980), đất nước lại rơi vào tình trạng khó khăn, công nghiệp nặng gây tốn kém lại không đạt được
hiệu quả như mong đợi. Các mặt hàng nhu cầu thiết yếu như lương thực, thực phẩm không đáp ứng
đủ nhu cầu xã hội.
Rút kinh nghiệm thực tiễn những năm đầu, Đảng đã có sự điều chỉnh chiến lược công nghiệp
hóa trong Đại hội V (1982). Thấy rõ từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là cần phải xác
định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng
đường. Từ đó, Đảng đã xác định: “Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải
lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Việc
xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm
phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Từ chỉ đạo ở Đại hội V cho thấy, Đảng đã nhìn nhận được hạn chế, điều chỉnh đúng đắn mục
tiêu và bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ đó, nước ta đã đạt được
một số hiệu quả kinh tế như tăng tỷ trọng công nghiệp và giảm nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy nhiên,
sự điều chỉnh này còn chưa dứt khoát, rõ ràng, và thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh
chiến lược quan trọng này. Từ đó, đời sống nhân dân ngày càng khăn, nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
 Kết quả thực hện chủ trương và ý nghĩa
Tuy gặp nhiều khó khăn, quá trình công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới vẫn đạt được những
hiệu quả nhất định. Nhiều xí nghiệp, khu công nghiệp và trung tâm công nghiệp (Hải Phòng, Thái
Nguyên, Quảng Ninh, Nam Định, …) được hình thành. Nhiều cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng
quan trọng như điện, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng. Xây dựng được hàng chục trường
đại học, cao đẳng, trung cấp nghề giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước. Tỷ trọng
giá trị công nghiệp cũng đã tăng từ 18,2% (1960) lên 30% (1985).
Những kết quả đạt được đó có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ sở vật chất ban đầu để phát
triển các ngành khác, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
 Hạn chế và nguyên nhân
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới thực hiện theo mô hình khép kín, hướng nội và thiên
về phát triển công nghiệp nặng. Sự khép kín thể hiện rõ khi chỉ tiến hành công nghiệp hóa trong
phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa mà thiếu sự so sánh, học tập được kinh nghiệm đối với các
quốc gia khác. Lấy mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô là mô hình mẫu mà không xem xét, đánh
giá mô hình đó có phù hợp với Việt Nam hay không. Việc thiên về công nghiệp nặng mà không tập

18
trung sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng nên đã không đủ đáp ứng được nhu cầu thiết
yếu cho xã hội.
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới chủ yếu dựa vào lợi thế lao động, tài nguyên, đất đai
và viện trợ các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nước ta có nguồn lao động dồi dào nhưng trình độ lao
động còn rất thấp, tài nguyên và đất đai thì cũng có giới hạn, nếu khai thác quá mức và không hiệu
quả sẽ dẫn đến nguy cơ bị cạn kiệt. Bên cạnh đó, phần lớn viện trợ mất đi sau khi nước ta đã giành
độc lập (1975), mà một đất nước không thể chỉ dựa vào viện trợ của người khác mà phải tự lực tự
cường, mới có thể giữ vững nền độc lập. Ngoài ra, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước
và các doanh nghiệp Nhà nước, phân bổ nguồn lực thông qua cơ chế quan liêu, bao cấp, không tôn
trọng quy luật thi trường.
Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hậu
quả kinh tế xã hội. Muốn phát triển nhanh nhưng lại không suy xét điều kiện đất nước có đủ đáp
ứng hay không. Những ngành công nghiệp then chố còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ,
chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Những hạn chế trên xuất phát từ hai nguyên nhân sau:
- Về khách quan, do điều kiện đất nước nghèo nàn, lạc hậu, lại vừa bị tàn phá nặng nề do chiến
tranh gây ra, chưa đủ sức để tiến hành công nghiệp hóa.
- Về chủ quan, chúng ta mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ
sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư. Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị
quyết Đại hội V, chưa thực sự coi trọng mặt trận nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.

19
1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay
(Phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng, vận dụng trong thực tiễn, đề ra những giải pháp góp
phần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước). (5 nội dung)

1.1. Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự
phát triển của kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường (OK)
 Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa
Công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng
máy móc. Còn hiện đại hóa là quá trình ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội.
Có nhiều nguyên nhân mà nước ta phải thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Trước
hết, trong khi nền kinh tế nông nghiệp nước ta lạc hậu và kém phát triển thì nền khoa học - kỹ thuật
của thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ. Chỉ có tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa
mới có thể vựt dậy nền kinh tế đất nước, giúp nước ta bắt kịp với sự phát triển của thế giới. Bên
cạnh đó, ta có lợi thế to lớn của một nước đi sau đó là có thể học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu các công
nghệ của các nước đi trước mà không phải bỏ sức tìm tòi, nghiên cứu. Như vậy, ta có đủ điều kiện
và lý do để có thể tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Điều đặc biệt cần chú ý là không thể chỉ thực hiện riêng lẻ công nghiệp hóa. Vì như vậy sẽ làm
nước ta rơi vào tình trạng sử dụng công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu gây tổn hao nguyên nhiên liệu,
sản xuất kém hiệu quả. Chỉ có đồng thời kết hợp với hiện đại hóa, sử dụng công nghệ, máy móc
hiện đại mới có thể rút ngắn thời gian, đạt hiệu quả cao, từ đó có thể đuổi kịp với khu vực thế giới.
Như vậy, cái đích cuối cùng mà công nghiệp hóa phải hướng tới chính là hiện đại hóa.
Đến ngày nay, quá trình này vẫn còn tiếp tục diễn ra khi mà ta phải liên tục cập nhật công
nghệ trên thế giới. Hiện tại thế giới đã bước đến cuộc cách mạng công nghệ lần thứ IV - các hệ
thống liên kết thế giới thực và ảo. Ta phải bắt kịp cuộc cách mạng này để có thể hòa nhập, sánh vai
với các khu vực thế giới. Nếu như ta không chịu cập nhật mà vẫn sử dụng những công nghệ cách
đây 5 - 10 năm sẽ làm nền kinh tế lạc hậu, đi lùi.
Từ đó, mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm để phát triển đất nước, bằng cách không ngừng
học tập, trao dồi kiến thức và cập nhật thường xuyên các thành tựu khoa học - kỹ tiên tiến trên thế
giới. Bản thân là một sinh viên của trường Đại Học Bách Khoa, em sẽ cố gắng trao dồi kiến thức
chuyên ngành của mình - Công nghệ vật liệu. Không ngừng nâng cao kỹ năng và tiếp thu những
thành tựu của vật liệu tiên tiến trên thế giới như vật liệu y sinh, vật liệu nano để có thể đóng góp
một phần vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển của kinh tế tri thức
Theo OECD, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Nền kinh tế tri thức có những đặc điểm chính như: sáng tạo là động lực của sự phát triển, chủ
thể là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá và sử dụng tri thức, ba loại hình

20
công nghệ chính là công nghệ sinh học, công nghệ nano và công nghệ thông tin, học tập là yêu cầu
thường xuyên của mọi người, mọi hoạt động của nền kinh tế tri thức đều mang tính toàn cầu hóa, …
Ta có thể và cấn thiết phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức.
Trước hết, là một nước đi sau, ta cần sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, rút ngăn khoảng cách với
các nước trên thế giới. Vì vậy chúng ta có thể không cần thiết trải qua các bước tuần tự từ kinh tế
nông nghiệp lên công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức mà có thể đồng thời kết hợp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa và kinh tế tri thức. Bên cạnh đó, những đặc điểm của nền kinh tế tri thức
đã có tác động nhiều mặt đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nên việc tiến hành
công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức là điều bắt buộc và không hề
xa lạ đối với nước ta. Hơn nữa, tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh
tế tri thức giúp đất nước nâng cao trình độ, từ đó có thể tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn,
hoàn thiện hơn.
Thấy rõ điều đó, từ Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Để đạt được hiệu quả kinh tế, hai nhiệm vụ “công nghiệp hóa - hiện
đại hóa” và “phát triển kinh tế tri thức” cần được thực hiện đồng thời và lồng ghép vào nhau. Phải
ra sức đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đồng thời đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo để
tăng nhanh tiềm năng tri thức quốc gia.
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư, ứng
dụng những loại hình chính của nền kinh tế tri thức là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và
công nghệ nano. Trường Đại Học Bách Khoa cũng đã thường xuyên đổi mới chính sách và chương
trình học nhằm cập nhất những kiến thức, công nghệ, kỹ thuật mới cho sinh viên. Với đặc điểm của
nền kinh tế tri thức là xem học tập là yêu cầu thường xuyên của mọi người, thì bản thân sinh viên
cần phải chủ động học tập, nghiên cứu, nâng cao kiến thức để có thể góp phần vào tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của đất nước.
 Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên, môi trường
Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với sự phát triển của kinh tế tri thức đã đem lại
những hiệu quả nổi bật về kinh tế nhưng cũng đồng thời để lại những hậu quả về tài nguyên và môi
trường. Trong đó, quá trình đô thị hóa đã làm dân số ở các đô thị tăng cao, gây ra sức ép về vấn đề
tài nguyên và môi trường trong quản lý đô thị. Việc phát triển các ngành công nghiệp nặng cũng
gây ra sức ép lớn đến tài nguyên và gây ô nhiễm ở các khu công nghiệp. Ngoài ra, công nghiệp hóa
- hiện đại hóa nông thôn theo hướng tự phát, sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu dẫn đến việc tiêu tốn
nhiều nguyên nhiên liệu, gây ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, đây cũng chính là hậu quả của
việc công nghiệp hóa mà không đi liền với hiện đại hóa.
Trước tình hình đó, Nghị quyết 41 – NQ/TW (11/2004) đã khẳng định: “bảo vệ môi trường
vừa là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Đến Đại hội X đã nêu rõ: “chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện
với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.

21
Ngày nay, ô nhiễm môi trường đã trở thành một trong những vấn đề mang tính toàn cầu, đòi
hỏi sự chung tay giải quyết từ tất cả mọi người, ở mọi quốc gia. Nước ta cũng đã có nhiều giải pháp
khác nhau để bảo vệ môi trường, mà nổi bật hiện nay là việc thay thế ống hút nhựa bằng ống hút
giấy, tre, gạo, … giúp giảm lượng rác thải nhựa cho môi trường. Bản thân mỗi sinh viên cũng có
trách nhiệm bảo vệ môi trường bằng cách nâng cao hiểu biết về môi trường, tích cực tham gia vào
các hoạt động bảo vệ môi trường của trường học, làng xã, nơi mình sinh sống.
Tóm lại, với phương hướng cơ bản đầu tiên trong quan điểm chỉ đạo, Đảng đã thể hiện năng
lực lãnh đạo với tưu duy nhạy bén của mình trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước.

22
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế (OK)
 Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa
học - kỹ thuật tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế -
xã hội, trong đó việc sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị
trường. Còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế -
xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Có nhiều nguyên nhân để công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với sự phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị
trường không những giúp khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế mà còn sử dụng
chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế thị
trường phát triển thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, chọn lọc được những người sản
xuất kinh doanh giỏi, tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao có thể đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ thúc đẩy các doanh
nghiệp tích cực cải tiến kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm để có thể cạnh tranh với các doanh ngiệp nước ngoài. Ngoài ra, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng đông đảo của nhân dân, vì nó hướng hướng tới được
mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cải thiện đời sống của nhân dân.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng định tại Đại hội Đảng
IX: chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đến Đại hội X, Đảng tiếp tục khẳng định: “Để đi lên con người xã hội, chúng ta phải
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường được bảo đảm bởi vai trò quản lý của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ
thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh
công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Đây không phải
chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Khi đầu tư vào
lĩnh vực nào đó đều phải tính toán, cân nhắc kỹ càng, hạn chế chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém
hiệu quả và lãng phí thất thoát.
Nhờ mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được những
thành công lớn trong đại dịch COVID-19 năm 2020, tổng sản phẩm (GDP) tăng 2,91% so với năm

23
2019, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Với nguyên tắc quyền lực Nhà
nước là tập trung, thống nhất đã giúp cho chính quyền Trung ương có đủ sức mạnh và thẩm quyền
để ban hành quyết định nhanh chóng khi mà đại dịch chỉ cần chậm trễ dù chỉ một ngày cũng có thể
lây lan ra cộng đồng và vượt tầm kiểm soát. Từ đó, Việt Nam hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa
phòng, chống dịch thành công, vừa tập trung nguồn lực phát triển kinh tế.
 Công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế quốc gia gắn
liền với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế quốc tế,
vào hệ thống thương mại đa phương.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế, nên tất yếu phải hội nhập quan hệ kinh tế quốc tế. Bởi vì hội nhập kinh tế quốc tế sẽ góp phần để
duy trì hòa bình, bảo vệ chủ quyền, độc lập cho đất nước, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế giúp khai thác thị
trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao như lúa
gạo. Đồng thời thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài như ở các khu chế xuất và khu công
nghệ, thu hút được công nghệ hiện đại như ở khu công nghệ cao. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế
giúp ta học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, từ đó sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển rút ngắn được khoảng cách chênh lệch so với khu vực trên thế giới.
Nói cách khác, đó là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói
chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh hội nhập, ta cần phải quan tâm giữa gắn liền hội nhập kinh tế quốc tế với việc
giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước. Đảng ta cùng đã chỉ rõ phải phát huy cao độ nội
lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồn ngoại lực, tranh thủ nguồn vốn,
khoa học - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đây là nguồn bổ sung quan trọng cho sự phát triển của đất
nước.
Ở Đại hội XI chỉ rõ: “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính
độc lập, tự chủ của nền kinh tế”. Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế”.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế giới, trở
thành đối tác chiến lược và đối tác toàn diện của 30 nước, là thành viên của các tổ chức lớn trên thế
giới như ASEAN, WTO, APEC. Nửa đầu năm 2020, Việt Nam đảm nhận thành công nhiệm vụ kép,
vừa dẫn dắt ASEAN đương đầu dịch bệnh COVID-19 trên cương vị Chủ tịch luân phiên, vừa đảm
nhiệm thành công cương vị Chủ tịch tháng của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Đây là một bước
tiến khẳng định uy tín và vị thế quốc tế ngày càng lớn mạnh của Việt Nam.
Ở Trường Đại Học Bách Khoa, đã có hơn 20 chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh ở
bậc đại học và sau đại học được công nhận bởi các trường đại học uy tín ở Mỹ, Úc, Nhật, châu Âu.
Nhờ vậy, trong hơn 20 năm qua, hàng ngàn sinh viên trường đại học Bách Khoa và các trường đại
học đối tác đã chuyển tiếp qua lại lẫn nhau để học tập và nhận bằng. Có thể thấy rõ việc nâng cao

24
chất lượng, chấp nhận luật chơi quốc tế của các tổ chức kiểm định uy tín, đã mở ra cánh cửa hội
nhập quốc tế sâu rộng cho Trường đại học Bách Khoa - ĐHQG TP.HCM. Các tân kỹ sư của trường
hiện nay không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn giỏi tiếng Anh, vững kỹ năng và tự tin hội nhập.

Để thu hút đầu tư từ nước ngoài, Việt Nam cần làm gì?
 Hạn chế ở VN:
- Việt Nam có thủ tục hành chính phiền hà và vô số phức tạp nảy sinh trong việc giải phóng
mặt bằng. Nhà nước (mà cụ thể là chính quyền địa phương) cần thực hiện những hoạt động này, sau
đó mới tiến hành đấu thầu hay đấu giá một cách công khai và cạnh tranh.
- Thiếu lao động, đặc biệt là lao động quản lý và có kỹ năng.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, tình trạng mất điện đột ngột không được báo trước, nhiều tuyến giao
thông huyết mạch thường xuyên tắc nghẽn, hàng hóa bị ách tắc ở cảng... là những điều đã được
phản ảnh đi phản ảnh lại nhiều lần nhưng vẫn không hề được cải thiện → yêu cầu cấp bách không
chỉ để thu hút thêm dự án FDI mới mà còn để giữ chân những dự án hiện hữu
- Giá nhiên liệu biến động khó lường.
- Mối liên kết lỏng lẻo giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế nội địa cũng là một điểm yếu của
nền kinh tế Việt Nam. Công nghệ phụ trợ của chúng ra rất yếu, và trong nhiều lĩnh vực, để có thể
xuất khẩu được thì cần phải nhập khẩu tới 70-80% nguyên vật liệu từ nước ngoài.
 Ta cần phải:
- Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện cho những dự án FDI tạo ra sức lan tỏa mạnh
mẽ về công nghệ, quản trị, và kỹ năng
- Hết sức thận trọng trước những dự án chỉ nhằm mục đích khai thác tài nguyên thiên nhiên
(vốn hữu hạn và ngày càng khan hiếm), dứt khoát ngăn chặn những dự án tổn hại đến môi trường vì
cái giá phải trả của các thế hệ tương lai có thể lớ nhơn nhiều lần một vài mối lợi trước mắt.
- Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện nay, khuyến khích dự án có khả năng tạo ra nguồn ngoại
tệ để giúp cân bằng cán cân thanh toán, ngăn chặn những dự án mang tính đầu cơ để giảm thiểu
những rủi ro tiềm tàng.
- Các nhà hoạch định chính sách FDI cần điềm tĩnh để đánh giá một cách cẩn thận những gì
mình đã làm được và những gì cần tiếp tục hoàn thiện để có thể cải thiện môi trường kinh doanh và
trên cơ sở đó duy trì và thu hút các dự án FDI một cách bền vứng và hiệu quả nhất.

Đề xuất giải pháp pt bền vững đất nước trong qt đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập
quốc tế, theo anh chị cần phải làm gì?
 Thực trạng
- Hàng chục, trăm ngàn thanh niên đang đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong các
doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài.

25
- Bên cạnh đó, nhiều thanh niên vẫn thờ ơ ngoài cuộc, vẫn chạy theo lợi ích cá nhân.
 Trách nhiệm sinh viên
- Không ngừng học tập, trao dồi kiến thức. Đặc biệt về ngoại ngữ và tin học
+ Ngoại ngữ: Giúp tiếp cận tri thức từ sách báo, tài liệu. Giao tiếp người nước ngoài để giao
lưu học hỏi văn hóa, tiếp thu tri thức thế giới. Sao cho giao tiếp hiệu quả
+ Tin học: phục vụ học tập, làm việc, giao tiếp và giải trí. Không use tin học làm công cụ vi
phạm pháp luật. Nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học – chìa khóa mở kho tang tri thức cho nhân
loại.
→ Nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học – chìa khóa mở kho tang tri thức cho nhân loại.
- Không chỉ tri thức, cần có kỹ năng, SV phải tự tin, bản lĩnh. Dám đối đầu với thách thức,
chấp nhận thật bại.
- Khi giao lưu với nước ngoài, tiếp thu chọn lọc những cái hay, cái tốt. Nắm bắt, chọn lọc
thông tin một cách chọn lọc, ko để bị tác động bởi thông tin xấu. Kiên quyết đấu tranh
hành vi sai trái, thông tin sai lệch ảnh hướng đến sự pt đất nước.

26
1.3. Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững (OK)
Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm
chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, ... tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể
sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động
xã hội.
Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của tương lai. Thước đo của phát triển bền vững là ba lĩnh
vực kinh tế, môi trường và xã hội cần phải được phát triển cân đối, đồng đều với nhau.
Vậy tại sao lại lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững?
Trong ba yếu tố tham gia vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa (vốn, khoa học - kỹ thuật và con
người) thì yếu tố con người được coi là yếu tố cơ bản. Trong năm yếu tố để tăng trưởng kinh tế
(vốn, khoa học - kỹ thuật, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị, con người) thì yếu tố con người là yếu tố
quyết định. Vì các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên, đất đai, … chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng
không có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con người mới có thể được khai thác, sử
dụng hiệu quả, phát huy được tác dụng của nó. Đồng thời các nguồn lực khác đều có giới hạn còn
nguồn lực con người là vô hạn. Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và sản sinh về mặt sinh học
mà còn tự đổi mới không ngừng, nhờ đó con người đã từng bước cải tạo và làm chủ được thiên
nhiên.
Về kinh tế, con người được xem là lực lượng lao động chính, như Lênin đã từng nhận định
“người lao động là lực lượng hàng đầu của nhân loại”. Vì vậy, đầu tư phát triển nguồn lực con
người là cơ bản và tất yếu cho quá trình sản xuất. Nguồn lực con người càng có trình độ, kỹ năng
lao động cao thì quá trình sản xuất có năng suất cao hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời,
khi kinh tế phát triển thì chất lượng cuộc sống con người cũng được nâng cao. Như vậy, con người
không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu của phát triển kinh tế.
Về môi trường, khi con người có trình độ cao và ứng dụng được những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất thì quá trình sản xuất sẽ tiêu tốn ít tài nguyên hơn đồng thời sẽ thải ra ít chất thải
hơn. Việc xử lý chất thải trong sản xuất ngày càng tiên tiến hơn, từ “xử lý cuối đường ống” và hiện
nay là công nghệ “sản xuất sạch hơn”, tù đó hướng tới phát triển bền vững về môi trường.
Về xã hội, con người được xem là mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội. Vì nhiệm vụ xây
dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh” đến cho cùng là vì con người. Từ đó cho thấy, khi ta
phát triển nguồn lực con người thì cũng đồng thời thực hiện được mục tiêu cuối cùng của phát triển
xã hội.
Như vậy, quan điểm lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững là quan điểm vô cùng đúng đắn và hợp lý. Để phát triển nguồn nhân lực con
người nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần quan tâm đặt biệt đến giáo dục
và đào tạo. Nguồn nhân lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng và chất

27
lượng, phải có trình độ và khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến
trên thế giới đồng thời có thể sáng tạo được công nghệ mới. Trong đó lực lượng cán bộ khoa học -
kỹ thuật, khoa học và quản lý, đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Bên phát triển về trình độ tri thức, những yêu tố khác như đạo đức, nhân phẩm, sức khỏe của
con người cũng cần được hết sức quan tâm. Đạo đức hết sức quan trọng, thiếu đạo đức thì xã hội sẽ
không thể phát triển được, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Có tài mà không có đức là người
vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Bên cạnh đó, con người cũng cần có đủ
sức khỏe để có thể thích ứng với cường độ lao động cao và môi trường cạnh tranh gay gắt trong nền
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với hội nhập quốc tế. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta đã
quan tâm: “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người
Việt Nam”, trong đó lĩnh vực y tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng và chất, Đại hội Đảng XI cũng đã chỉ rõ:
“phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.
Với quan điểm lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nhất định về kinh tế, môi trường và xã hội. Song,
nhìn chung vẫn chưa theo kịp trình độ phát triển của thế giới, nền giáo dục vẫn còn nặng về lý
thuyết và nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh trong học tập, thi cử. Từ đó đòi hỏi những phương thức
phát triển nguồn nhân lực hiệu quả hơn nữa để có thể đưa con người Việt Nam sánh vai với các
nước trên khu vực và thế giới.
Đảng xác định thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nguồn lực con người.
Vì vậy, là một sinh viên của trường đại học Bách Khoa, em nhận thấy bản thân và thế hệ trẻ thanh
niên cần ra sức nổ lực học tập, không ngừng rèn luyện sức khỏe và đạo đức, trao dồi kỹ năng và
kinh nghiệm để phấn đấu trở thành lực lượng xung kích cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để phát huy nguồn lực con người trong quá trình CNH-HĐH VN hiện nay, theo anh
chị cần phải làm gì?
- Đẩy mạnh công tác GD&ĐT, Mọi hoạt động của hệ thống GD và ĐT phải hướng tới việc
xây dựng và pt con người VN có trí tuệ và đại đức.
- Thu hút nhân lực chất lượng cao. Coi trọng bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ tri thức
chuyên gia hàng đầu.
- Bảo đảm dân chủ, tự do tư tưởng, điều kiện, phương tiện cho hoạt động sáng tạo tri thức,
tôn trọng nhân cách tri thức. Chăm lo sức khỏe, chất lượng dân số, đảm bảo an sinh xã hội
tạo điều kiện thuận lợi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tạo việc làm cho người
lao động

28
- Đấu tranh, phê phản, đẩy lùi cái xấu, cái hèn, cái lạc hậu, chống hành vi, quan điểm sai trái,
tiêu cực ảnh hưởng xấu đến pt con người
- Mỗi SV còn ngồi trên ghế giảng đường đại học cần phải cố rắng rèn luyện phẩm chất đạo
đức, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm. Học hỏi và tích cực tham giá các hoặt động nghiên
cứu, sáng tạo

29
1.4. Phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (OK)
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - kỹ thuật tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm khoa học công nghệ có thể hiểu là toàn bộ các hoạt động đảm bảo có hệ thống và
sáng tạo hỗ trợ phát triển các kho tàng kiến thức chung của nhân loại. Đó có thể là kiến thức về con
người, về đời sống - xã hội, tự nhiên, ... giúp tạo nên những ứng dụng mới hiện đại hơn. 
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, khoa học và công nghệ đang chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi vì nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, cần phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, khoa học và công nghệ làm tăng năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm, từ đó giúp nâng cao lợi thế cạnh
tranh cho nước ta. Với vai trò như vậy, khoa học và công nghệ trở thành yếu tố quyết định chống lại
“nguy cơ tụt hâu về kinh tế”, giúp nước ta bắt kịp phát triển của các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Từ đó, hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã nêu rõ: “Phát triển
khoa học và ứng dụng khoa học - kỹ thuật là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan
trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời “ưu tiên và tập trung mọi
nguồn nhân lực quốc gia cho phát triển khoa học - kỹ thuật”.
Để làm được điều đó, ta phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sang chế, kết hợp
với phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Ta cần cần phải phát triển công
nghệ hiện đại ở một số ngành, lĩnh vực then chốt, đồng thời chú trọng phát triển công nghệ cao để
tạo đột phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết vấn đề việc làm. Đồng thời, phải đẩy
mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ nhân lực có trình độ cao, đủ khả năng tiếp
cận và ứng dụng các thành tự khoa học và công nghệ vào sản xuất.
Nhờ thực hiện quan điểm xem “phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, động lực của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ở các lĩnh vực khác nhau.
Trong nông nghiệp, việc áp dụng những máy móc công nghệ hiện đại đã giúp những người nông
dân đỡ vất vả hơn, những giống lúa mới cũng mang lại chất lượng và năng suất cao. Trong công
nghiệp, nước ta đã sản xuất ra được các sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam, có chất
lượng và giá thành mang tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Nổi bật hiện nay là tập đoàn
Vingroup đã sản xuất dòng xe hơi VinFast, đây là thương hiệu “xe quốc dân” đầu tiên ghi danh Việt
Nam trên bản đồ ngành công nghiệp ô tô thế giới. Trong xây dựng và giao thông, nước ta cũng đã
làm chủ được công nghệ thiết kế, thi công các nhà máy thủy điện lớn, phát triển lưới điện, hệ thống

30
thông tin - viễn thông, các công trình ngầm, nhà cao tầng (đặc biệt với Landmark 81), đường cao
tốc đạt chuẩn quốc tế.
Đặc biệt là ngành y tế, nhất là trong đại dịch COVID-19 hiện nay, các tổ chức khoa học - kỹ
thuật đã sản xuất thành công bộ KIT phát hiện virus SARS-CoV-2 được công nhận về chất lượng để
sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Nuôi cấy và phân lập thành công virus SARS-CoV-2 để nghiên cứu
sản xuất vacxin rút ngắn giai đoạn, sản xuất và thử nghiệm thành công nhiều loại robot phục vụ
chăm sóc y tế cho người nhiễm bệnh.
Đến ngày nay, thế giới đang tiến hành cuộc cách mạng công nghệ 4.0, với sự hợp nhất giữa
các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống
thực và ảo, vạn vật kết nối Internet và các hệ thống kết nối Internet. Ta phải bắt kịp cuộc cách mạng
này để hòa nhập, sánh vai với các khu vực thế giới. Trường Đại Học Bách Khoa cũng đã thường
xuyên đổi mới chính sách và thay đổi chương trình học nhằm cập nhất những kiến thức, thành tựu
khoa học - kỹ thuật mới vào chương trình dạy. Bản thân em là một sinh viên của trường Đại Học
Bách Khoa, em sẽ cố gắng trao dồi kiến thức chuyên ngành của mình - Công nghệ vật liệu. Không
ngừng nâng cao kỹ năng và tiếp thu những thành tự của vật liệu tiên tiến trên thế giới như vật liệu y
sinh, vật liệu nano để có thể đóng góp một phần vào tiến trình phát triển của đất nước.

Để phát pt KH-KT trong quá trình CNH-HĐH VN hiện nay, theo anh chị cần phải làm
gì?
- Học tập, rèn luyện kỹ năng, trang bị đủ kiến thức để có thể nắm bắt, sử dụng những thành
tựu khoa học kỹ thuật và sáng tạo ra cái mới.
- Cập nhật thông tin, những cuộc cm công nghệ trên tg: 4.0.

31
1.5. Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (OK)
 Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
Phát triển nhanh ở đây được hiểu là quá trình tăng tốc trong phát triển, mà mục đích là để bắt
kịp tiến trình phát triển của thế giới. Thực tế, nhiều nước đã tiến hành công nghiệp hóa từ rất sớm
và đã đạt nhiều thành tựu vượt bậc. Còn Việt Nam là nước đi sau, lại có nền kinh tế lạc hậu, cần
phải đẩy nhanh quá trình phát triển để không bị bỏ lại xa ở phía sau. Bênh cạnh đó, với lợi thế của
một nước đi sau, ta có thể tận dụng kinh nghiệm, thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước đi trước
mà không cần phải mày mò, nghiên cứu lại. Vì vậy, việc đi tắt, đi nhanh, bỏ qua một số bước là
điều có thể và cần thiết phải thực hiện trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển nhanh là điều cần thiết nhưng phải phát triển sao cho đạt được hiệu quả. Vì nếu chỉ
phát triển nhanh, cứ dồn hết sức để đẩy mạnh phát triển mà không xem xét tính hiệu quả sẽ dễ mắc
những sai lầm, thất bại không đáng có. Đây cũng là kinh nghiệm từ thất bại ở thời kỳ công nghiệp
hóa trước đổi mới, muốn làm nhanh làm lớn mà không suy xét, dẫn đến không đạt được hiệu quả lại
còn rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Bên cạnh đó, Phát triển hiệu quả ở đây còn được hiểu
là việc sử có hiệu quả, tiết kiệm nguồn vốn, tài nguyên giúp tránh lãng phí cho đất nước.
Phát triển nhanh và hiệu quả thôi là chưa đủ, còn phải hướng tới phát triển bền vững. Ở đây,
quan điểm phát triển bền vững được hiểu là phải đi đến đâu, chắc đến đó. Mục tiêu đặt ra ban đầu
phải vừa sức, và khi đạt được mục tiêu đó thì đặt ra một mục tiêu khác cao hơn, quá trình này cứ
liên tục diễn ra. Mỗi mục tiêu đạt được tương ứng với mỗi cột móc trong tiến trình phát triển, cột
móc phía trước sẽ là cơ sở, tạo đà để đạt đến cột móc phía sau. Đây chính là ý nghĩa của sự phát
triển bền vững trong quan điểm này. Để thực hiện được phát triển bền vững, cần phải tính toán kỹ
lưỡng, suy xét đến những hiệu quả và tác hại về lâu dài. Phải có tầm nhìn dài hạn để có thể đầu tư
được những lĩnh vực đạt hiệu quả to lớn trong tương lại. Đồng thời, phải chú ý nâng cao những yếu
tố phát triển lâu dài như giáo dục - đào tạo, để có nguồn nhân lực tri thức dồi dào cho mai sau.
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững là nội dung quan trọng để thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chỉ có phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mục tiêu
đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi con người đều được hưởng thành quả của sự phát triển.
 Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa
Trong hai mặt vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, thì kinh tế là nền tảng vật chất còn
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Như vậy, kinh tế và văn hóa về cơ bản đã có mối liên hệ
mật thiết với nhau.
Mối liên hệ mật thiết giữa kinh tế và văn hóa còn thể hiện trong sự chi phối lẫn nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Trong kinh tế, văn hóa hóa thân thành những chuẩn mực, văn hóa kinh doanh
để hướng dẫn và thúc đẩy con người không ngừng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề.
Đổi lại trong văn hóa, kinh tế phát triển giúp con người có nhiều cơ hội tiếp nhận và hưởng thụ văn

32
hóa, đồng thời cũng sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa
chính là “đặc sắc” của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa là quan điểm đúng đắn, phù hợp và
cần thiết cho sự phát triển của nước ta.
 Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Tiến bộ xã hội là sự vận động phát triển của xã hội con người từ thấp lên cao, là sự phát triển
của trình độ sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Một xã hội tiến bộ mới có thể nâng cao
chất lượng cuộc sống cho con người. Cái đích hướng tới của tiến bộ xã hội là vì sự phát triển toàn
diện của con người.
Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong
phân phối thu nhập, cơ hội phát triển. Theo quan điểm của Đảng, công bằng xã hội không phải là ai
dù làm ít hay nhiều đều phải được hưởng thành quả như nhau, mà bản chất của công bằng xã hội là
bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ,
quyền lợi với nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm. Như vậy, không phải cứ thu hẹp khoảng cách giàu
- nghèo đã là công bằng xã hội, mà phải làm cho mọi người dù giàu hay nghèo đều có cơ hội phát
triển như nhau.
Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”. Đến Đại hội XIII,
Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”
Thưc hiện tiến bộ và công bằng xã hội không những là mục tiêu, nhiệm vụ cần giải quyết mà
còn là động lực cho sự phát triển đất nước. Chỉ có thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội mới đem
lại một xã hội trong sạch, an toàn, ổn định và phát triển.
Ngày nay, tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng được thực hiện hiệu quả. Các tư tưởng trọng
nam khinh nữ, phân biệt giàu nghèo và phân biệt tôn giáo đã dần được xóa bỏ. Chất lượng cuộc
sống cũng ngày càng được nâng cao, Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như tỷ lệ thất nghiệp cao,
giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch mức sống ngày càng tăng, …
Tóm lại, Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là quan điểm cuối cùng trong đường lối thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm này của Đảng đã thể hiện rõ sự quan tâm đến đời
sống xã hội, làm rõ mục tiêu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa hướng đến, đó là xây dựng đất
nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

33
2. So sánh thời kỳ trước và sau đổi mới
 Giống nhau
Trước đây cũng như hiện nay Đảng ta đều quan niệm công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta luôn khẳng đinh công nghiệp hóa đối với nước
ta là một tất yếu, khách quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, các nước tư bản chủ
nghĩa đã thực hiện từ lâu, và được đề cập trong chủ nghĩa Mác - Lênin. Công nghiệp hóa đều nhằm
chuyển đổi một cách căn bản nền sản xuất xã hội từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động sử
dụng máy móc, phương tiện kỹ thuật là phổ biến, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chũ nghĩa
xã hội, trên cơ sở đó, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Tiến hành công nghiệp hóa trước và nay đều phải được thực hiện theo hướng hiện đại hóa tuy
có sự khác nhau về mức độ. Do sự phát triển rất nhanh chóng của khoa học - công nghệ, khái niệm
hiện đại hóa luôn luôn được bổ sung những nội dung mới với phạm vi bao quát nhiều mặt, từ sản
xuất, kinh doanh đến dịch vụ, quản lý.
Việt Nam chưa đưa ra chính sách đặc biệt, có tính đột phá để tạo ra mũi nhọn hiệu quả phát
triển mạnh bền vững đi trước. Khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của đất nước chưa cao, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo bản chất và nội dung công nghiệp hóa hiện đại còn chậm, …
 Khác nhau
- Về đường lối:
Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý;
còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới gắn liền với hiện đại hóa và gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở
hạ tầng chưa hình thành, do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá
trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Trên thế giới, cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại đã chuyển lao động bằng máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự
động hóa, đó là quá trình hiện đại hóa.
Trên thế giới lại phát triển khoa học - công nghệ như vũ bão, ra đời nhiều thành tựu khoa học -
kỹ thuật tiên tiến. Nếu ta cứ dậm chân tại chỗ, không tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ bị
bỏ lại phía sau. Đồng thời, với lợi thế là một nước đi sau, ta có thể học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu các
công nghệ của các nước đi trước mà không phải bỏ sức tìm tòi, nghiên cứu. Do vậy, chúng ta phải
tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa để rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các
nước phát triển, đây là yêu cầu tất yếu của nước ta.
Nếu chỉ thực hiện công nghiệp hóa sẽ rơi vào tình trạng sử dụng thiết bị cũ, lạc hậu gây tổn
hao nguyên nhiên liệu, sản xuất kém hiệu quả và chất lượng. Chỉ có tiến hành công nghiệp hóa gắn
liền với hiện đại hóa, sử dụng máy móc tân tiến hơn mới có thể đuổi kịp với khu vực thế giới, đủ
sức cạnh tranh để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình v
theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động

34
thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa), quá
trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, đi trước đón đầu, hội
nhập với thời đại).
- Mô hình kinh tế:
+ Ở thời kỳ trước đổi mới: tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội. công
nghiệp hóa trong nền kinh tế hiện vật (có trao đổi), không thừa nhận thị trường và cạnh tranh.
+ Ở thời kỳ đổi mới: công nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trưởng đ-
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quá trình. Kinh tế mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ.
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trưởng giúp khai thác hiệu quả
mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế,
tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị
trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Thành phần kinh tế:
+ Ở thời kỳ trước đổi mới: chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh nghiệp
nhà nước. công nghiệp hóa là việc của Nhà nước, thông qua khu vực quốc doanh và tập thể là chủ
yếu
+ Ở thời kỳ đổi mới: công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo.
- Cơ chế:
+ Ở thời kỳ trước đổi mới: phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện công nghiệp hóa được
thực hiện = chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các
chỉ tiêu pháp lệnh. Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của
các nước xã hội chủ nghĩa.
+ Ở thời kỳ đổi mới: chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trưởng, doanh nghiệp tự hạch
toán kinh tế. Thị trường phản ánh nhu cầu xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ các
nguồn lực sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế-xã hội làm thước đo. Lấy phát
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; phát triển khoa học
- công nghệ là nền tảng, động lực công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển
yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo. Nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm
bắt và sử dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của thời gian và có khả năng sáng tạo công
nghệ mới. khoa học - công nghệ có vai trò quyết định tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình

35
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học - công nghệ
là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp
với phát triển công nghệ nội sinh.
- Tốc độ:
+ Ở thời kỳ trước đổi mới: tiến hành 1 cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm
nhanh, làm lớn, không quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội. Đảng đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hóa, xây dựng 1 cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hiện đại, trù liệu thời gian công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa≈ 20 năm… 
+ Ở thời kỳ đổi mới:  công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự
nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. Đảng xác định: quá trình công nghiệp hóa phải được tiến hành
từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chũ nghĩa xã hội; cơ cấu
kinh tế hợp lý với từng giai đoạn.
Xây dựng chũ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn
đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát
triển.
- Lĩnh vực:
+ Ở thời kỳ trước đổi mới: kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp,
ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức
phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. 
+ Ở thời kỳ đổi mới:  phải phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. 
1 là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân. 
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. 
Ba là, phát triển kinh tế vùng. 
Bốn là, phát triển kinh tế biển. 
Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ. 
Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

36
3. Việt Nam cần làm gì để bắt kịp trình độ phát triển của các nước trên thế giới?
 Khái niệm
Công nghiệp hóa là là quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về
kinh tế - xã hội của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước,
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa học - công
nghệ ngày càng hiện đại. công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc.
Hiện đại hóa: quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến,
hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội.
 Tính tất yếu của việc tiến hành đồng thời hai quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Sau chiến tranh thế giới II, nhiều nước dù thắng hay bại đều trở thành nước kiệt quệ đã trở
thanh mét trong những nguyên nhân cho bước khởi động của cuộc khoa học và công nghệ hiện đại.
Có thể chia cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70. Giai đoạn này sử dụng
khoa học - kỹ thuật để hiện đại hóa các công cụ sản xuất, phát triển kinh tế theo hướng mở rộng và
tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lượng sản xuất
cả về con người và công cụ sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai bắt đầu những năm 70 cho đến nay vẫn đang tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai
đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với quy mô lớn và toàn diện lực lượng sản xuất trên cơ sở áp
dụng các thành tựu khoa học và kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử
dụng những phương tiện kỹ thuật và công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng loạt các
thbị lạc hậu bằng các thbị hiện đại làm cho năng suất và chất lượng sản phẩm lên cao. Đây là giai
đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lượng sản xuất, ở các nước tư bản chủ nghĩa thì đây là thời kỳ
mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của
phương thức sản xuất mới.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nước do nhiều nguyên nhân dễ dẫn đến sự chênh lệch
về kinh tế. Trên thế giới hình thành 3 nhóm nước: cường quốc kinh tế, nước phát triển và đang phát
triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các
nước đang phát triển là đường lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách
mạng về kinh tế.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học và kỹ thuật, lực lượng sản xuất
còn non nớt chưa phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hộicon người. Để có cơ sở kỹ thuật của nền
sản xuất lớn, không còn con đường nào khác là công nghiệp hóa, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên
trình độ khoa học và kỹ thuật phát triển cao. Muốn vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phát triển
tuần tự và phát triển nhảy vọt, cùng 1 lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao động thô
sơ sang lao động tự động hóa có sự chỉ đạo của nhà nước theo định hướng xã hộicon người.
Để bắt kịp trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với các nước trên thế giới, Việt Nam cần
thực hiện 1 số định hướng sau:

37
- Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Tiến hành rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Chủ động hòa nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
- Tranh thủ phát huy cả nội lực lẫn ngoại lực nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh và ổn định
kinh tế.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải quyết đồng bộ các vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
- Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Phát triển kinh tế vùng.
- Phát triển kinh tế biển.
- Dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
- Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.

38
Chương VII:

1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển văn hóa con Người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (OK)
(Phân tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (5-2014); vận
dụng trong thực tiễn, đề ra những giải pháp góp phần xây dựng và phát triển văn hóa con Người
Việt Nam hiện nay).
1.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; là mục tiêu, động lực thúc đẩy phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội nhập
quốc tế
 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Vật chất và tinh thần là hai mặt không thể thiếu trong đời sống xã hội. Trong đó, kinh tế là nền
tảng vật chất còn văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội” được hiểu là đặt văn hóa làm nền móng, dựa vào những giá trị văn hóa để xây dựng
ngôi nhà xã hội. Quan điểm này vô cùng đúng đắn, vì thực chất văn hóa đã phản ánh, thể hiện tổng
quát, sống động mọi mặt đời sống xã Việt Nam từ xưa đến nay. Những giá trị của văn hóa đã chi
phối hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi người dân. Nó cấu thành một hệ thống
các giá trị, truyền thống, lối sống và khẳng định bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
Với vai trò nền tảng của mình, văn hóa phải thực sự vững chắc thì xã hội mới có thể ổn định
được. Nếu nền tảng tinh thần suy yếu, xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, nhiều tệ nạn xã hội sẽ xảy ra.
Để văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, cần phải chủ trương làm cho văn hóa
thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, vào từng con người, từng gia đình và đến cả cộng đồng.
Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức để
có thể đẩy lùi những các tiêu cực xã hội và văn hóa phản tiến bộ. Muốn được như vậy, cần phải đẩy
mạnh tuyên truyền nâng cao đời sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, phường xã văn hóa, cơ
quan và đơn vị văn hóa, phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
 Văn hóa là động lực phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của tương lai. Thước đo của phát triển bền vững là ba lĩnh
vực kinh tế, môi trường và xã hội cần phải được phát triển cân đối, đồng đều với nhau.
Văn hóa là động lực của phát triển bền vững kinh tế. Bởi vì sự phát triển kinh tế không thể
thiếu các yếu tố như: sự đổi mới tư duy, năng lực khoa học và công nghệ, tiềm năng sáng tạo của
con người, … mà những tiềm năng này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa. Những tiềm năng
này là vô hạn, ngày càng sản sinh để có thể đáp ứng được sự phát triển lâu dài. Các giá trị văn hóa
cũng nằm sâu trong kinh tế, định hướng cho kinh tế phát triển. Các giá trị này trở thành những
chuẩn mực, đạo đức trong kinh tế - văn hóa kinh doanh. Nó thúc đẩy con người không ngừng sáng
tạo, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.

39
Văn hóa là động lực của phát triển bền vững môi trường. Văn hóa hướng con người đến lối
sống chừng mực, hài hòa, thân thiện với môi trường. Hạn chế lối sống ham muốn quá mức của “xã
hội tiêu thụ” dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.
Văn hóa là động lực của phát triển bền vững xã hội. Những giá trị văn hóa hướng đến con
người đến cái thiện, cái tốt, cái đẹp. Hạn chế con người làm những điều ác, điều sai trái, gây ra các
tệ nạn cho xã hội.
Như vậy, văn hóa là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Hàm lượng
văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội
càng hiện thực và bền vững.
 Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển đất nước
Mục tiêu xây dựng xã hội Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
nâng cao chất lượng đời sống người dân, đó cũng chính là mục tiêu văn hóa. Muốn phát triển đất
nước thành công thì phải đồng thời xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa - xã hội. Là mục tiêu của
sự phát triển, văn hóa thể hiện sự phát triển về trí tuệ, năng lực của con người. Văn hóa phát triển
làm cho bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng cũng được phát huy. Phát
triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm được sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, mục tiêu văn hóa vẫn thường bị lấn át, người ta chú trọng phát triển kinh tế để nâng
cao giá trị vật chất hơn là giá trị tinh thần. Dẫn đến vấn đề kinh doanh bất chấp vì lợi nhuận, chạy
theo đồng tiền mà không quan tâm đến lợi ích của người dân, của xã hội.
 Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội
Ta thấy rõ, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn hóa và
kinh tế là nền tảng tinh thần và vật chất để thực hiện nhiệm vụ chính trị là xây dựng xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Văn hóa là yếu tố không thể thiếu trong phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội. Kinh tế nếu không có văn hóa sẽ không thể phát triển, không có văn hóa
kinh doanh mà chỉ có sự “sùng bái đồng tiền”. Chính trị không có văn hóa sẽ không có sức mạnh và
động lực. Đổi lại, kinh tế tạo điều kiện vật chất để con người có thể phát triển văn hóa, cũng như
chính trị và xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Từ mối liên hệ mật thiết đó, ta thấy rõ quan điểm đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính
trị, xã hội là quan điểm vô cùng đúng đắn. Quan điểm này cũng đã từng được chủ tịch Hồ Chí Minh
nhắc đến: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Ở đây cần hiểu việc đặt văn hóa ngang hàng
như vậy không có nghĩa là làm cho kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa “dàn hàng ngang cùng tiến”
mà phải tùy thời cơ, xác định đúng trọng tâm để đầu tư phát triển cho phù hợp. Từ đó bảo đảm sự
phát triển cân đối, hài hòa, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững.
Để đạt được điều đó, chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế - xã hội: xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và
hướng tới mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội; xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

40
phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; phải có
chính sách kinh tế trong văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, …
 Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới
Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, con người là yếu tố cơ bản và quyết định. Bởi
vì các nguồn lực khác đều nằm ở dạng tiềm năng, không thể tự thân phát huy khả năng của nó mà
phải thông qua nguồn lực con người. Chỉ có con người với đủ năng lực và trí tuệ mới có thể khai
thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác để đem lại sự phát triển kinh tế - xã hội. Hơn nữa, các
nguồn lực khác đều có hạn còn nguồn lực con người là vô hạn, không ngừng sản sinh ra những giá
trị cao hơn. Đây là nguồn tài nguyên không giới hạn mà ta có thể triệt để khai thác, sử dụng để đẩy
mạnh phát triển đất nước.
Tuy nguồn “tài nguyên người” là vô hạn, nhưng để nó thực sự mang lại hiểu quả phát triển cần
phải đầu tư, nâng cao cả về lượng và chất. Vì vậy, việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người cần
phải được đặc biệt quan tâm. Trong đó, văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì nguồn lực con
người, nói cho cùng cũng là vốn trí tuệ của dân tộc do văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao. Hàm
lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người ngày càng cao thì khả
năng phát triển kinh tế – xã hội càng lớn.
Ngày nay, nước ta không ngừng truyền bá và giao lưu văn hóa Việt Nam đến các nước trong
khu vực và thế giới. Bằng các chương trình văn hóa, các kí sự mà nhiều người nước ngoài đã biết
đến văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam cũng được giao hòa với văn hóa nhân loại qua các lễ hội
văn hóa các nước tổ chức ở Việt Nam như Festival Việt - Hàn. Nước ta hiện nay đang ra sức bài trừ
các hủ tục lạc hậu (tảo hôn, bắt vợ) và mê tín dị đoan (trừ tà, thuốc chữa bách bệnh).

41
1.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ,
khoa học (OK)
 Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi là lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
Tiên tiến không chỉ thể hiện ở nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức thể hiện, trong các phương
tiện chuyển tải nội dung. Nền văn hóa tiến thể hiên trong mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn mình”, hướng tới đấu tranh để khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Đây
cũng là nền văn hóa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền văn
hóa dân tộc trog thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và mở rộng quan hệ quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng, tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, bản
chất riêng của nền văn hóa. Bản sắc văn hóa được thể hiện rõ trong truyền thống dân tộc, qua lịch
sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đó là lòng nồng nàn yêu nước, ý chí bất khuất, tự
cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái, nghĩa tình, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, lối sống
giản dị, ... Bản sắc dân tộc thể hiện sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là niềm tin
thiêng liêng, bất khả xâm phạm, nó được chuyển thành các chuẩn mực xã hội, nó không mất đi qua
thời gian mà hóa thân vào các giá trị thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo.
Nền văn hóa tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu vừa là nhiệm vụ trọng
yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn mình” trong nền văn hóa tiên tiến là nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, bản sắc văn hóa sẽ tạo thành điểm nhấn quan trọng trong văn hóa, là dấu hiệu cơ bản để
phân biệt dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới.
Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc vừa mở rộng
giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Thực hiện “hòa nhập chứ không hòa tan”, chọn lọc cái
hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác, xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam
thời hiện đại. Trong giữ gìn bản sắc dân tộc cũng phải đi liền với chống những cái lỗi thời, hủ tục
lạc hậu và mê tín dị đoan.
Hiện nay, để tuyên truyền văn hóa cho các thế hệ học sinh, sinh viên, nhiều trường học đã
thường xuyên tổ chức các cuộc thi, chương trình nghệ thuật mà trong đó các tiết mục liên quan đến
văn hóa dân tộc luôn được đánh giá cao. Bên cạnh mặt tích cực đó, nhiều mặt tiêu cực cũng xảy ra
trong quá trình hội nhập văn hóa với nước ngoài. Đó là những phong trào ăn mặc hoặc nhuộm tóc
quá lố lăng làm mất vẻ đẹp giản dị, duyên dán của người Việt Nam. Vấn đề ngôn ngữ trên các trang
mạng xã hội cũng cần được quan tâm, khi những “tiếng lóng”, những câu trộn tiếng Anh với tiếng
Việt hoặc những câu chửi nhạy cảm nhanh chóng trở nên phổ biến làm mất đi sự trong sáng của
tiếng Việt.

42
Từ đó, mỗi sinh viên cần phải ra sức giữ gìn bản sắc dân tộc bằng cách trao dồi kiến thức về
văn hóa, hiểu biết và tuyên truyền những giá trị tốt đẹp trong phong tục tập quán của người Việt
Nam (ví dụ như thể hiện lòng biết ơn và tưởng nhớ trong thờ cúng ông bà, thắp hương cho những
người có công đối với dân tộc). Đồng thời, khi giao lưu với các văn hóa nước ngoài cần phải thận
trọng chọn lọc những cái hay, giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ dân tộc trên các trang mạng xã hội hiện
nay.
 Thống nhất trong đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng
dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học
Tính thống nhất và đa dạng ở đây thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái
riêng. Những cái riêng không tách rời mà thống nhất với nhau, cùng kết hợp để tạo ra cái chung.
Nhưng trong cái chung đó vẫn nhận thấy sự đặc sắc, đa dạng của mỗi cái riêng.
Ta thấy rõ điều đó khi đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em, tuy mỗi dân tộc có thể có
tiếng nói, phong tục, tập quán khác nhau, nhưng đều là những bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt
Nam, cùng đoàn kết với nhau trong công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Trên cơ
sở “mẫu số chung” đó, những sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc được định hình, phát triển và
bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Sự thống nhất ấy còn thể hiện trong sự
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước trên cơ sở
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Ngày nay, việc giao lưu văn hóa giữa các dân tộc rất được quan tâm, các lễ hội văn hóa của
các dân tộc được tổ chức hằng năm nhằm tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Đặc biệt,
các giá trị văn hóa của các dân tộc như Cồng chiên Tây Nguyên hoặc Đờn ca tài tử đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, đó là niềm tự hào của Việt Nam. Bên cạnh nhưng
giá trị tốt đẹp, nhiều dân tộc vẫn còn tồn tại những phong tục lạc hậu như để người chết trong nhà
(dân tộc Mông), tảo hôn, ép gả (dân tộc Dao, Sán Chỉ), con dâu không được ngồi ăn cơm chung
mâm với bố chồng, con gái không được học lên lớp trên, cúng ma khi bị bệnh mà không đưa tới
trạm y tế xã, … cần phải được bài trừ.

Vai trò của sinh viên trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
- Tuyên truyền, tổ chức các hoạt động tìm hiểu văn hóa, truyền thống dân tộc.
- xác định rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của tuổi trẻ: ra sức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao tinh
thần yêu nước, tự tôn, tự hào dân tộc, không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, trình độ
chuyên môn, đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, giữ vững
bản chất truyền thống của ông cha đã dày công vun đắp, tạo dựng nên, huy động nguồn trí
tuệ tài năng của sức trẻ, cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế hiện nay.
- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đấu tranh phòng, chống và làm thất bại âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng của các thế lực thù địch đối
với cách mạng nước ta.

43
44
1.3. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là xây dựng con người có nhân cách,
lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo
 Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để
phát triển văn hóa (OK)
Giữa phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát
triển văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, nằm trong tương tác nhân - quả giữa chủ thể và
đối tượng. Bởi vì suy cho cùng mục tiêu mà văn hóa hướng đến là vì con người. Văn hóa tác động
sâu rộng tới sự phát triển con người, hoàn thiện nhân cách, nhân tính con người. Hệ giá trị Chân -
Thiện - Mỹ của văn hóa cũng chính là hệ giá trị phát triển con người.
Trong quá trình hưởng thụ văn hóa, con người cũng tác động trở lại văn hóa bằng cách kế thừa
và phát huy những giá trị văn hóa sẵn có đồng thời sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới. Những tác
phẩm văn học, nghệ thuật mà con người sáng tạo ra không những làm cho nền văn hóa dân tộc thêm
đậm đà, đặc sắc mà còn đem lại cho chính đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, tình
cảm hơn.
Như vậy, giữa con người và văn hóa có mối liên hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Không
thể tách rời giữa văn hóa với con người, giữa con người với văn hóa.
 Trọng tâm là xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc trưng: yêu
nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt
đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Trong đó, yêu nước là một truyền thống cao quý đã được hun đúc và phát huy trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước, là nét đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam. Lênin cũng đã
nói “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố hàng trăm năm, hàng
nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Không chỉ phát huy trong thời chiến, mà ngay ở thời
bình, trong tiến trình xây dựng văn hóa cũng cần đề cao lòng yêu nước của nhân dân. Để tinh thần
yêu nước của mọi người dân trở thành động lực mạnh mẽ trong xây dựng, phát triển đất nước.
Bên cạnh yêu nước, nhân ái, nghĩa tình và đoàn kết cũng là những nét đặc trưng của con người
Việt Nam, nó đã được thể hiện qua rất nhiều ca dao, tục ngữ vẫn còn giá trị đến ngày nay. Những
giá trị này đều đươc xuất phát cơ bản từ tình cảm gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, đến
tình làng nghĩa xóm rồi trở thành sự tương thân, tương ái giữa đồng bào với nhau. Không chỉ trong
nước, lòng nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết còn là cơ sở của tinh thần yêu hoà bình và tình hữu nghị với
các dân tộc trên thế giới, là điều thiết yếu trong vấn đề đoàn kết quốc tế hiện nay.
Ngày nay, trung thực vô cùng cần thiết, nó giúp ta nhìn nhận được cái sai từ đó mới có thể
khắc phục, sửa chữa được sai lầm. Nếu mỗi người là một tấm gương sáng về trung thực thì sẽ tạo
nên một xã hội trong sạch, văn minh, ngày càng ổn định và phát triển.

45
Ngoài ra, cần cù và sáng tạo cũng là một trong những đức tính, phẩm chất không thể thiếu của
người lao động. Nhờ có cần cù, sáng tạo ta mới có thể tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự cần cù, sáng tạo càng trở nên có ý nghĩa thiết thực. Bởi đây
chính là động lực tiên quyết nhằm nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển, giúp ta sánh vai được với các nước trên khu vực và thế giới.
Như vậy, đây là những đặc tính cơ bản nhất của con người Việt Nam. Nhờ những đặc tính đó
mà ta có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Muốn xây dựng con người có
những đặc tính đó, cần phả hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con
người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ.
Giáo dục có vai trò to lớn trong hình thành những nhân cách, phẩm chất cho thế hệ trẻ. Vì vậy
cần phải quan tâm đẩy mạnh phát triển giáo dục, tạo môi trường thân thiện, tích cực để việc dạy và
học được hiệu quả. Phải thúc đẩy học sinh - sinh viên hưởng ứng phong trào “Học tập và làm việc
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trường đại học Bách khoa cũng đã tổ chức nhiều cuộc thi
như “sáng tạo khoa học kỹ thuật” và “ý tưởng sáng tạo trẻ”, từ đó rèn luyện và phát huy được khả
năng sáng tạo cho sinh viên.
Trong cộng đồng, cần phải xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi
người vì mỗi người”. Nâng cao tinh thần đoàn kết cộng đồng, ra sức thực hiện cuộc vận động “toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Phải tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực
cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân. Làm cho mỗi người dân đều được hưởng thụ các giá trị văn hóa
đồng thời phát huy được vai trò là chủ thể sáng tạo văn hóa của mình.

/“Học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; các chính sách hỗ trợ, học bổng
đưa Người trẻ Việt Nam sang nước ngoài (Nhật, Singapore, Mỹ, Đức...) nhằm phát triển trình độ
khoa học - công nghệ cũng như các phẩm chất truyền thống (Nhật bằng trách nhiệm, trung thực, tự
chủ; Đức bằng thẳng thắn, sáng tạo…) của các nước đó. Trường học, tổ chức các cuộc thi học thuật.
Internet, thông qua face, web, chương trình cộng đồng./

Để góp phần xây dựng và pt văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu pt bền vững đất
nước, theo anh chị cần phải làm gì?
Học tập, rèn luyện, trao dồi văn hóa. Tiếp thu, giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc: các đạo lý
uống nước nhớ nguồn, tinh thần nhân đạo.
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, các khuynh hướng sáng tác phản tiến bộ, nhân văn,
tha hóa con người trong lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật.

46
1.4. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng
đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa
và con người trong phát triển kinh tế
 Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng (OK)
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức là một môi trường văn hóa lành mạnh
giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống.
Trong đó, gia đình là một tế bào của xã hội, là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan
trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Không chỉ vậy, gia đình còn là nơi
chứa đựng và truyền lại các giá trị truyền thống tốt đẹp cho mỗi con người. Chính vì vậy, muốn xã
hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt. Việc chú trọng phát triển văn hóa của mỗi gia đình là điều
kiện để phát triển văn hóa của cả dân tộc. Để đạt được điều đó, ta cần phải xây dựng và nhân rộng
các mô hình gia đình văn hóa, nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa
thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi thành viên trong gia đình phải ra sức
giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống gia đình.
Ngoài việc chú trọng vai trò của gia đình, vai trò của trường học cũng cần được quan tâm, vì
nó là ngôi nhà thứ hai cũng là nơi giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ tương lại. Cần phải
xây dựng mỗi trường học thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý
tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống và giáo dục truyền thống văn hóa. Đẩy mạnh xây dựng
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, làm cho các hoạt động dạy và học ngày càng hiệu quả
hơn. Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa, ra sức ngăn chặn các tệ nạn học
đường.
Bên cạnh gia đình và nhà trường, cũng cần phải đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa ở địa
bàn dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp để hướng tới mục tiêu đoàn kết, dân chủ, văn minh
trong cộng đồng. Cần phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng nếp sống văn hóa tiến
bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Ra sức nâng cao chất lượng, hiệu quả các
cuộc vận động văn hóa, đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa".
 Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đến yếu tố văn hóa và con người
trong phát triển kinh tế
Trong hai mặt vật chất và tinh thần của đời sống xã hội, thì kinh tế là nền tảng vật chất còn
văn hóa là nền tảng tinh thần. Như vậy, kinh tế và văn hóa về cơ bản đã có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Mối liên hệ mật thiết giữa kinh tế và văn hóa còn thể hiện trong sự chi phối lẫn nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Trong kinh tế, văn hóa hóa thân thành những chuẩn mực, văn hóa kinh doanh
để hướng dẫn và thúc đẩy con người không ngừng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề.
Đổi lại trong văn hóa, kinh tế phát triển giúp con người có nhiều cơ hội tiếp nhận và hưởng thụ văn
hóa, đồng thời cũng sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Như vậy, cả hai yếu tố kinh tế và văn hóa
cần phát triển hài hòa với nhau, hỗ trợ cho nhau, cùng nhau trở thành nền tảng vững chắc cho sự
phát triển của đất nước.

47
Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phát triển kinh tế cần phải chú ý đến văn hóa, quan tâm tới
việc xây dựng con người. Đại hội VI, Đảng đã khẳng định: "Sự quan tâm đến con người và thái độ
tôn trọng lẫn nhau phải trở thành một tiêu chuẩn đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã
hội, nhất là trong các dịch vụ phục vụ nhân dân". Các chính sách kinh tế phải chú ý đến đời sống
con người, sản xuất trong kinh tế phải đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu cho con người, cải
thiện đời sống vật chất cho nhân dân.
Trong quá trình hội nhập như hiện nay, sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, con người
cần được chú trọng hơn bao giờ hết để thực hiện được mục tiêu phát triển nhanh bền vững đất nước.
Phát triển kinh tế dồng thời giữ gìn và phát triển văn hóa, con người sẽ tạo nên một sức mạnh tổng
hợp giúp đất nước ngày càng vươn xa hơn. Những giá trị văn hóa sẽ làm cho con người sống tốt đẹp
hơn, từ đó xây dựng một xã hội trong sạch, lành mạnh, ổn định và phát triển.
Để thực hiện phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, con người, cần gắn các hoạt động văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh với chương trình xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách văn hóa giữa các vùng miền, giữa các
giai tầng trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Thường xuyên các tổ chức các lễ hội, hoạt động giao lưu văn hóa cộng đồng. Phát huy các giá trị tốt
đẹp trong tôn giáo, hướng mọi người đến cái thiện, cái đẹp, đến lối sống “tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến
khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện và nhân đạo.

48
1.5. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
(OK)
Quan điểm này khẳng định động lực và nguồn lực để xây dựng và phát triển văn hóa. Xây
dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là nguyện vọng của toàn
thể dân tộc Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ đó, cần phải có sự đoàn kết của mọi người dân, mọi tổ
chức cũng như của Đảng và Nhà nước.
Trong đó, Đảng lãnh đạo nhân dân, đề ra đường lối, chính sách xây dựng, phát triển văn hóa
bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động và tổ chức kiểm tra. Sự lãnh đạo của Đảng là đầu
tàu định hướng cho mọi hoạt động của nhân dân. Và chỉ có Đảng mới có khả năng dẫn dắt toàn thể
nhân dân đi đến thành công trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa. Để làm được điều đó,
Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân từ đó đưa
ra những chính sách, chủ trương đúng đắn cho phát triển văn hóa.
Bên cạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong quản lý các
hoạt động văn hóa của nhân dân. Nhà nước là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của
nhân dân, thay mặt nhân dân giải quyết các vấn đề xã hội.
Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước. Đội ngũ trí
thức bao gồm những tầng lớp có nhân cách, lối sống tốt, trình độ cao, năng lực và khả năng sáng tạo
văn hóa, đi đầu trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc kết hợp tiếp thu văn hóa nhân loại, tạo dựng giá
trị mới cho văn hóa Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa. Đội ngũ trí thức là trụ cột để xây dựng và phát triển văn hóa, là lực lượng then chốt trong cách
mạng khoa học kỹ thuật và văn hóa.
Là một phần trong đội ngũ tri thức, mỗi sinh viên cần phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm
của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Chúng ta cần ra sức học tập, rèn luyện
đạo đức, kỹ năng, nâng cao năng lực để làm lớn mạnh thêm đội ngũ tri thức của đất nước. Bên cạnh
học tập, ta cũng cần trao dồi văn hóa, kế thừa và phát các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc đồng
thời cũng tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loạirong quá trình tiếp thu cần phải biết chọn lọc
những cái hay, cái đẹp, loại bỏ những cái xấu, cái không phù hợp với văn hóa Việt Nam.

49
2. Giải pháp xây dựng văn hóa ứng xử mạng xã hội ở sinh viên của trường Đại học Bách
khoa – ĐHQG TP.HCM hiện nay
 Thực trạng
Ngày nay, từ ngữ “mạng xã hội” đã không còn xa lạ với tất cả mọi người. Thông qua Internet,
mạng xã hội có thể liên kết tất cả mọi người ở khắp các đất nước lại với nhau.
Mạng xã hội đã đem lại cho sinh viên đại học Bách Khoa một nơi có thể giao lưu, trao đổi
kiến thức trong học tập ở các nhóm trên Facebook như HCMUT-K18, HCMUT-K19, Cộng đồng
Chúng Ta Cùng Tiên, ... Còn là nơi để cập nhật thông tin, các thông báo từ trường, khoa và bộ môn.
Ngoài ra Mạng xã hội còn là nơi để các sinh viên giải bày các tâm tư tình cảm của mình về cuộc
sống, học tập, tình yêu như trang BKU confession. Như vậy, mạng xã hội đã đem lại rất nhiều lợi
ích và là một phần không thể thiếu của sinh viên Bách Khoa.
Nhìn chung, ứng xử Mạng xã hội của sinh viên Bách Khoa khá tốt, nhưng bên cạnh những mặt
tích cực cũng có những vấn đề cần được quan tâm:
- Nhiều nhóm đa cấp đã tham gia các nhóm HCMUT-K18, HCMUT-K19 để đăng các bài
tuyển dụng, việc làm hay nhắn tin trò chuyện nhưng thực chất là lôi kéo, dụ dỗ các bạn sinh viên
tham gia vào các nhóm đa cấp.
- Trong năm 2020. các nhóm HCMUT thường xuyên có những bài đăng thu tiền, bán khóa học
như Giải tích, Đại số tuyến tính của tài khoản có tên là P-T nhưng thực chất lại là thu tiền nhưng
không có bất cứ khóa học nào,...
- Hay là gần đây, trong việc thảo luận giữa vấn đề học ở cơ sở 2 của sinh viên chính quy đại
trà đã nảy sinh xung đột giữa sinh viên muốn học ở cơ sở 2 hoặc cơ sở 1. Một số bạn sinh viên đã
có thái độ thái quá, dùng từ ngữ xúc phạm, hay dùng từ ngữ để phân biệt đối xử giữa sinh viên hệ
đào tạo đại trà với các bạn sinh viên chất lượng cao,...
 Giải pháp
Nâng cao ý thức, rèn luyện hành vi đạo đức, làm cơ sở cho xác định thái độ, hành vi ứng xử
văn hóa trên mạng xã hội. Ứng xử trên mạng xã hội luôn cần có thái độ tôn trọng người khác, biết
quan tâm, lắng nghe, chia sẻ, thông cảm. Suy nghĩ kỹ về những gì nói và đăng trên mạng, có trách
nhiệm với lời nói, hành vi. Có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa ứng xử của dân tộc, giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt khi giao tiếp trên mạng xã hội.
Tuyên truyền, phổ biến Luật An ninh mạng, giúp mỗi người hiểu rõ ý nghĩa, giá trị, nội dung,
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và những hành vi bị cấm liên quan đến văn hóa ứng xử khi tham
gia mạng xã hội:
Nhà nước sớm nghiên cứu ban hành Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, hướng tới xây dựng
môi trường mạng lành mạnh, an toàn.
Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, thầy cô giáo, các bậc phụ huynh; phối hợp
chặt chẽ giữa tổ chức, cơ quan, nhà trường và gia đình trong xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã
hội.

50
Sử dụng các giải pháp về công nghệ hỗ trợ cho xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội,
chẳng hạn như bảo mật thông tin cá nhân trên mạng, giữ bí mật mật khẩu, đặt chế độ cá nhân hoặc
chỉ bạn bè thân thiết và tin cậy mới có thể xem; nghiên cứu sử dụng phần mềm lọc, ngăn chặn thông
tin xấu, độc khi mới được đăng tải. Cơ quan chuyên trách nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên tìm
kiếm những bài đăng sai sự thật, xúc phạm người khác, những hình ảnh phản cảm, gửi tới nhà cung
cấp dịch vụ xuyên quốc gia, các mạng xã hội mà người dùng đăng tải và yêu cầu gỡ bỏ.

51

You might also like