You are on page 1of 56

GIÁO DỤC MỚI – Hoàng Văn Đức

* Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã (Kinh Dịch)


(Dạy kẻ mông muội – trẻ con – phải nuôi dưỡng tâm trí cho minh chính, đó là công
trình của bậc thánh nhân)
* Tu kỷ chí thân, kỳ đức nãi chân.
Xả thân nhi ngôn tu giả, giả dã
(Lão Tử)
(Trau lấy thân mình, thì đức mình mới được chân thật. Bỏ thân ra mà nói tu là giả
dối vậy)
1. Công cuộc giáo dục một con người phải bắt đầu từ khi mới lọt lòng mẹ sinh ra
và phải kéo dài trọn đời: một công cuộc giáo dục liên tục.
Thật ra, một công cuộc giáo dục toàn hảo phải khởi sự trước khi sinh, và trong
trường hợp đó, chính người mẹ phải lo liệu, và lo liệu bằng hai cách hoạt động.
1-Hoạt động cho chính mình để chính mình được tiến hóa
2-Hoạt động cho đứa con mà mình đang tạo ra hình hài.
Bởi vì bản tính của đứa trẻ sắp sinh ra đời tùy thuộc rất nhiều vào người mẹ sáng
tạo ra nó, tùy thuộc vào hoài bão, vào ý chí của người mẹ, cũng như tùy thuộc vào
hoàn cảnh vật chất của người mẹ.
Khi quyết định thụ thai người mẹ phải luôn luôn gìn giữ tư tưởng, ý nghĩ của mình
cho trong sạch thanh cao, tình cảm cho tốt đẹp, và hoàn cảnh vật chất cho đơn
giản.
Đó là phần giáo dục phải được áp dụng cho chính các bà mẹ. Nếu thêm vào đó các
bà còn có một ý chí tri thức đứng đắn và một quan niệm cao cả về sứ mạng làm mẹ
đối với tương lai một dòng họ, một xã hội hay một khối nhân quần thì chắc chắn
đứa con sắp ra đời sẽ có được những khả năng tốt đẹp đáng quý nhất.
2. Muốn được trọn hảo, một công cuộc phải bao gồm năm trạng thái chính hướng
về những hoạt động căn bản của con người là:
1-hoạt động về thể xác,
2-hoạt động về tình cảm,
3-hoạt động về trí óc,
4-hoạt động về tâm linh và
5-hoạt động về tinh thần.
Thường thường những giai đoạn giáo dục này phải diễn tiến liên tục cùng với sự
phát triển của con người; nhưng giai đoạn này không phải để thay thế giai đoạn
kia, mà tất cả đều phải liên tiếp với nhau, giai đoạn này bổ túc cho giai đoạn kia
cho đến trọn đời.
Chúng tôi đề nghị nghiên cứu năm trạng thái giáo dục trên với một sự chú tâm đặc
biệt đến sự liên quan mật thiết giữa các trạng thái đó với nhau một cách bất khả
phân. Nhưng trước khi đi vào chi tiết của vấn đề, chúng tôi muốn được phép lưu ý
các bậc làm cha mẹ một điều là: phần đông cha mẹ - vì nhiều lý do – rất ít quan
tâm đến sự giáo dục chân chính của con cái mình. Khi sinh ra đời một đứa con,
phần đông chúng ta cho rằng lo nuôi nấng nó và cung cấp cho nó một số tiện nghi
vật chất để đáp ứng những nhu cầu vật chất của nó là chúng ta đã làm xong bổn
phận. Đến tuổi đứa trẻ đi học, chúng ta tìm trường cho nó học, rồi sau đó cũng lại
phó mặc cho thầy giáo lo dạy bảo nó.
Dĩ nhiên cũng có những bậc cha mẹ ý thức được rằng con mình phải được giáo hóa
và cũng cố gắng hết sức để dạy dỗ nó. Nhưng trong số những vị ấy, dù thật tình và
thành khẩn nghiêm chỉnh nhất, cũng không mấy vị biết được rằng điều căn bản và
trước tiên để dạy dỗ một đứa trẻ chính là phải có khả năng tự giáo dục lấy mình
hầu không bao giờ nêu gương xấu cho con. Bởi vì, trong giáo dục, không gì hiệu
lực bằng tấm gương của chính người giáo dục. Thốt ra những lời cao đẹp, khuyên
răn những điều khôn ngoan sẽ không có hiệu quả nếu chính mình không sống theo
những tiêu chuẩn cao đẹp khôn ngoan đó. Lòng ngay thẳng trung thực, tính liêm
khiết, nhẫn nại, sự chịu đựng, bền gan quyết chí, tính an tịnh và sự tự chủ là tất cả
những điều hay lẽ phải chỉ có thể dạy bằng gương mẫu mà thôi.
Gương mẫu hơn rất xa lời nói. Nhiệm vụ của các bậc làm cha mẹ thật hết sức khó
khăn. Có được một quan niệm cao thượng là đáng quý, nhưng cần thiết hơn là phải
luôn luôn xử sự theo đúng quan niệm ấy, đừng nói một đàng làm một nẻo, hành bất
cập tri. Nếu con cái trông thấy nơi cha mẹ lời nói và việc làm là một thì lần lần
chúng sẽ phản ảnh một cách tự nhiên những đức tính mà cha mẹ chúng mong
muốn cho chúng có. Đương nhiên con cái phải kính trọng và ngợi khen cha mẹ, trừ
khi cha mẹ là những người bất xứng. Cha mẹ trước mắt con cái luôn luôn là những
thần tượng mà chúng cố gắng bắt chước.
Những tật xấu, những sa ngã yếu đuối, sự thiếu tự chủ của cha mẹ ảnh hưởng rất
nguy hại đến con cái, điều này thật dĩ nhiên; vậy mà chỉ có một thiểu số cha mẹ ý
thức được rõ ràng, còn đa số thì dường như không quan tâm đến. Nếu chúng ta
muốn con cái chúng ta kính trọng chúng ta thì chính chúng ta phải tự trọng lấy
mình, và lúc nào cũng phải tỏ ra mình là người đáng kính, không bao giờ độc tài,
nóng nảy giận dữ hay hành hung. Khi con chúng ta hỏi chúng ta một điều gì, đừng
trả lời nó bằng một câu tầm xàm, vì lẽ nó không thể hiểu được chúng ta. Luôn luôn
bao giờ cũng có cách để làm cho người khác hiểu mình nếu người ta chịu khó dụng
tâm tìm kiếm. Mặc dù có ngụ ngôn “Nói sự thật không hẳn là bao giờ cũng nên”,
chúng tôi có ý nghĩ quả quyết ngược lại, là: “Nói ra sự thật bao giờ cũng tốt”. Vấn
đề là phải biết nói ra sự thật một cách có nghệ thuật làm sao cho người nghe mình
nói không chói tai và sẵn sàng chấp nhận.
3. Từ lúc sơ sinh cho tới tuổi 12 hay 14, trí khôn của con trẻ ít thích hợp với những
lý thuyết trừu tượng cùng những ý niệm khái lược. Tuy nhiên, người ta có thể tập
cho nó hiểu được bằng cách dùng những hình ảnh cụ thể, những thí dụ cùng những
biểu tượng. Đối với một số trẻ em, mặc dù tuổi có lớn lên, nhưng trí óc vẫn luôn
luôn non nớt; một câu chuyện cổ tích, một trang lịch sử được kể lại cho chúng
nghe một cách khéo léo có thể dạy dỗ chúng nhiều hơn là một số lý thuyệt.
Còn một điều nữa nhất thiết nên tránh trong việc giáo dục, là không nên mắng mỏ
rầy la con một cách thiếu ý thức và không cần thiết. Đứa trẻ bị mắng, bị rầy một
cách không chính đáng rất dễ trở nên chai lỳ trước những lời khiển trách hay trước
các hình phạt. Trẻ cũng thường không lưu ý mấy đến những lời lẽ và giọng nói
nghiêm khắc, trái lại chúng ưa những lời ngọt ngào và cách nói dịu dàng hơn.
Một điều tối kỵ nữa là đừng bao giờ khiển trách trẻ về một lỗi lầm mà chính mình
cũng đã phạm phải. Trẻ là những quan sát viên tinh vi và ý tứ. Chúng phát giác rất
mau chóng những nhược điểm của người lớn chúng ta và ghi nhớ một cách sâu xa
và sẵn sàng lên án nghiêm khắc chúng ta.
Một khi trẻ phạm lỗi điều tốt nhất là làm thế nào để chúng đến thú tội với mình
một cách ngay thật. Và một khi trẻ đã thú tội rồi thì chúng ta hay làm cho nó hiểu
rằng điều nó đã làm là không phải, với tất cả sự dịu dàng trìu mến cần thiết đối với
trẻ. Có như vậy trẻ mới không tái phạm lỗi một lần nữa và mới vâng theo lời giáo
huấn của chúng ta.
Đừng có bao giờ rầy la trẻ ngay sau khi trẻ vừa mới thú tội với chúng ta. Một lỗi đã
thú nhận phải luôn luôn được dung thứ, đừng bao giờ chúng ta để cho trẻ lo lắng sợ
hãi sẽ bị trừng phạt sau khi thú tội. Sợ hãi rất tai hại cho công cuộc giáo dục. Sợ
hãi xui khiến trẻ giấu diếm và nói dối. Chỉ có một tình âu yếm sáng suốt, cứng rắn
nghiêm khắc nhưng dịu hiền và một sự hiểu biết thực tế đầy đủ mới tạo ra những
sợi giây tín nhiệm cần yếu giúp chúng ta giáo dục hữu hiệu con cái chúng ta.
Chúng ta cũng không nên quên rằng luôn luôn chúng ta phải tự chủ để có thể làm
nổi nhiệm vụ của chúng ta và hoàn thành thực sự bổn phận của chúng ta đã sinh ra
một đứa con trên đời.

GIÁO DỤC XÁC THÂN


* Tu kỷ chi thân, kỳ đức nãi chân.
Xả thân nhi ngôn tu giả, giả dã (Lão Tử)
* Con người là tinh thần trong thể xác, nên phải sống đồng thời cả hai mặt (Hoành
Sơn)

Trong các lĩnh vực thân tâm, thức của con người, chỉ có xác thân là có thể được
giáo dục một cách hoàn bị nhất. Dĩ nhiên là sự giáo dục đó phải được thực hành
nghiêm chỉnh, chu đáo, có tiên kiến và có qui tắc.
Xác thân là một con vật có thói quen: nó phải được kiểm soát thường xuyên và
phải chịu kỷ luật. Một sự kiểm soát và một kỷ luật đồng thời sẽ giúp nó có tính
cách uyển chuyển, thích nghi với hoàn cảnh và nhu cầu phát triển của chính nó.
Sự giáo hóa xác thân phải được bắt đầu từ lúc lọt lòng mẹ, và kéo dài suốt cả đời.
Không bao giờ quá sớm để bắt đầu và cũng không bao giờ quá muộn để tiếp tục.
Sự giáo hóa xác thân gồm ba trạng thái chính:
1. Kiểm soát và huấn luyện những hoạt động của các bộ phận, cơ quan trong xác
thân;
2. Triển khai tận gốc, một cách có phương pháp và điều hòa, mọi thành phần, mọi
vận chuyển của xác thân;
3. Sửa chữa, điều chỉnh mọi sự lệch lạc, sai lầm của xác thân, nếu có.
Ta có thể nói được rằng ngay khi vừa mới sinh ra được vài ngày, gần như vài giờ,
đứa trẻ đã phải tuân theo những quy luật đầu tiên của một chương trình về cách bú,
cách ngủ và bài tiết… Nếu vừa mới sinh ra mà trẻ đã được tiêm nhiễm cho có
những thói quen tốt thì về sau nó sẽ tránh được nhiều sự phiền phức khó khăn của
đời sống, và những người có bổn phận chăm sóc, gìn giữ nó trong những năm đầu,
sẽ thấy trách nhiệm của mình được dễ dàng nhẹ nhõm hơn nhiều.
Thật ra, muốn cho sự giáo dục xác thân được hữu hiệu, cha mẹ hay những người
trực tiếp chăm nom trẻ cần phải có một căn bản hiểu biết tối thiểu về xác thân con
người, về sự cấu tạo và vận hành của nó. Dần dần, theo sự nẩy nở của đứa trẻ,
người ta phải tập cho nó cảm biết sự hoạt động của các cơ quan, bộ phận trong cơ
thể để cho nó biết tự kiểm soát chăm nom sự vận hành này. Điều quan hệ là tránh
những tật xấu vì những tật xấu thường lại có rất sớm, rất mau và rất dễ đem những
hậu quả khốc hại cho trọn đời.
Nhiều sách vở về giáo dục xác thân đã được xuất bản và sẽ còn được tiếp tục xuất
bản, chúng ta chỉ việc tìm những cuốn sách ấy mà nghiên cứu để đem những lời
chỉ dẫn ra thực hành. Ở đây chúng tôi không đề cập đến những chi tiết bởi vì mỗi
bài toán đều khác nhau và phải trả lời riêng cho từng trường hợp một, một cách
thích nghi.
Phép dưỡng sinh để giúp cho trẻ khỏe mạnh, mau lớn, hiện giờ những ai biết đọc
hầu như đều biết cả và có thể áp dụng một cách hữu ích. Nhưng điều cần ghi nhớ là
bản tính tự nhiên và xác thân, khi nó còn nguyên vẹn, còn chắc chắn hơn các lý
luận. Chúng ta hãy để cho con cái chúng ta nẩy nở một cách tự nhiên, đừng nên ép
chúng ăn những đồ ăn thức uống gì mà chúng không thích hay ghê sợ, bởi vì
thường thường, xác thân tự nhiên biết chắc chắn cái gì có hại cho nó, trừ phi đứa
trẻ có tính khi đặc biệt bất thường.
Trong trạng thái bình thường, nghĩa là khi không có sự can thiệp của trí óc (lý
luận) hay tình cảm (xung động), thì xác thân biết rất rõ ràng thức gì ngon lành và
bổ ích cho nó. Nhưng muốn cho điều này có hiệu lực thì phải dạy dỗ trẻ kỹ lưỡng,
phải tập cho nó biết phân biệt cái gì là dục vọng, cái gì là nhu cầu. Phải làm sao
cho trẻ ưa thích ăn uống đơn giản, bổ dưỡng, không phức tạp cầu kỳ.
Trong bữa cơm hàng ngày, nên tránh những đồ ăn nặng. Nhất là tập cho nó ăn vừa
đủ, đừng nhiều quá cũng đừng ít quá. Đừng làm cho bữa ăn trở thành một dịp để
thỏa mãn tính tham ăn, háo uống. Ăn là để cho có sức mạnh, mau lớn, thân thể
cường tráng, không phải là ăn cho thích khẩu, điều này phải cho trẻ ý thức được
ngay từ khi còn nhỏ. Ta cũng cần dạy cho trẻ biết những đồ ăn thức uống nào phù
hợp với bẩm tính của nó. Đồ ăn thức uống cần nhất phải sạch sẽ, phải có một mùi
vị ngon lành, và phải nấu một cách giản dị. Chúng cũng phải được lựa chọn và cân
lường theo nhu cầu tuổi tác và hoạt động thường xuyên của trẻ. Chúng phải có đủ
nguyên tố hóa học cần yếu cho sự nẩy nở quân bình của mọi thành phần xác thân.
Như vậy chúng ta sẽ chỉ cho trẻ ăn những gì hữu ích để giúp chúng có đủ sức khỏe
và nghị lực cần thiết mà thôi.
Tuyệt đối không bao giờ dùng đồ ăn làm hình phạt hay phương pháp cưỡng chế.
Đừng bao giờ dọa trẻ chẳng hạn như: “Con hư sẽ không được ăn tráng miệng..vv”,
vì đấy là một cách dạy trẻ rất tai hại. Làm như thế, chúng ta vô tình tạo ra trong
tâm thức bé nhỏ của trẻ cảm tưởng rằng đồ ăn mà chúng ta cho nó cốt để thỏa mãn
tính ham ăn của nó, chứ không phải là những chất bổ cần thiết để giúp cho xác
thân nó được khỏe mạnh.
Trước khi ăn, nên dạy cho trẻ tâm niệm (niệm thầm) cám ơn cha mẹ cám ơn gia
đình, cám ơn xã hội, cám ơn những người nông dân đã khổ cực làm cho có bữa
cơm ăn, và cám ơn cả những hạt thóc, rau cỏ, loài vật đã hy sinh mình để làm đồ
ăn nuôi dưỡng đứa trẻ. Cũng nên dạy cho nó hãy bắt đầu ăn ba miếng cơm không
trước, lạt, nhai thật kỹ, để thưởng thức hương vị ngọt ngào của một miếng cơm
không và để cho tâm được thanh tịnh.
3. Còn một điều khác cũng cần phải dạy trẻ ngay từ thuở còn thơ, là thói quen và
thú vị của sự sạch sẽ vệ sinh. Thói quen ở sạch sẽ giúp trẻ khỏe mạnh, nhưng cũng
đừng nhân danh sức khỏe mà đem bệnh tật ra dọa trẻ. Sợ hãi là một động lực xấu
của giáo dục; nó là phương cách chắc chắn nhất để thu về mình điều gì mình ngờ
vực nhất. Dĩ nhiên là ta dạy trẻ không sợ bệnh, nhưng cũng phải dạy cho chúng
biết đừng coi thường bệnh. Thường thường người ta hay tin rằng những linh hồn
siêu đẳng đều ở trong những xác thân gầy ốm. Đấy là một sự yên trí vô căn cứ, hão
huyền. Giá trị xác thân là ở chỗ cường tráng, khỏe mạnh, da thịt rắn chắc, hình
dáng cân đối, thẩm mỹ. Ta phải dạy cho trẻ biết:
1) Quý trọng sức khỏe,
2) Khen ngợi những người có thân hình tráng kiện, và
3) Biết cách chống lại bệnh tật.
Có những trẻ hay làm ra bộ đau yếu để khỏi phải làm một việc gì phiền phức mà
chúng không thích, hay để làm yếu lòng cha mẹ vòi vĩnh đòi cho được một cái gì
chúng muốn được có nhất thời. Phải tập cho trẻ ý thức được ngay từ khi còn nhỏ
rằng làm như thế không ích lợi gì cả: người đau yếu không trở thành kẻ đáng được
chú ý, trái lại. Những kẻ đau yếu thường hay nghĩ rằng tật bệnh của họ khiến cho
họ được đặc biệt chú ý, và họ có thể dùng đến sự suy nhược hay đau yếu của họ
được đặc biệt chú ý, và họ có thể dùng để thu hút cảm tình và sự chú tâm lưu ý của
những người chung sống với họ. Ta phải tuyệt đối diệt trừ khuynh hướng tinh thần
tai hại ấy. Muốn thế, nên tập cho trẻ biết rằng đau yếu là một triệu chứng bạc
nhược kém hèn, không phải là một đức tính hay một sự hy sinh.
4. Ngay khi trẻ vừa biết sử dụng tứ chi của nó, ta phải dành mỗi ngày một khoản
thời giờ để làm nẩy nở một cách có phương pháp tất cả thành phần xác thân của
nó. Tập từ 20 đến 30 phút mỗi ngày nếu có thể được và vào lúc thức giấc giậy buổi
sáng là tốt nhất. Như vậy các bắp thịt sẽ được nẩy nở cân đối, các bộ phận bên
trong cũng được linh hoạt đều, và đồng thời còn phòng ngừa được cho các khớp
xương và xương sống không bị khô cứng, vì sự khô cứng các khớp xương và
xương sống xảy đến sơm hơn là người ta tưởng nhiều.
Trong chương trình giáo dục tổng quát của trẻ, phải dành một phần quan trọng cho
thể dục và chơi đùa ngoài trời. Điều này cần thiết hơn tất cả các thuốc bổ dưỡng
trên thế giới vì nó đem lại sức khỏe một cách chắc chắn. Một giờ vận động ngoài
nắng chữa bệnh suy nhược và mất máu còn hiệu nghiệm hơn một kho thuốc bổ.
Dùng thuốc chỉ là một sự bần cùng bất đắc dĩ trong những trường hợp không thể
làm khác được. Nguyên tắc đó phải được coi là một nguyên tắc tuyệt đối.
Trong chương trình thể dục, có những đường lối tổng quát để làm cho xác thân nẩy
nở cân đối ai cũng biết, nhưng phải thích ứng đối với từng người một nếu muốn đạt
được kết quả mỹ mãn. Cần phải tìm những sách tốt mà đọc, nếu không gặp được
những thầy thể dục chuyên môn.
Nhưng trong tất cả mọi trường hợp và bất cứ làm công việc gì, trẻ cũng phải ngủ
đủ số giờ. Số giờ ngủ thay đổi tùy theo tuổi. Lúc còn nằm trong nôi, trẻ phải ngủ
nhiều hơn là thức. Dần dần trẻ lớn lên thì nhu cầu ngủ bớt đi. Nhưng đến lúc trẻ đã
trưởng thành thì số giờ ngủ không được dưới tám tiếng, và phải ngủ ở một chỗ yên
tĩnh và thoáng khí. Không bao giờ bắt trẻ thức đêm một cách vô ích. Ngủ trước 12
giờ đêm rất tốt cho hệ thống thần kinh. Dù trong khi thức, sự thoải mái gân cốt mà
bây giờ người ta bắt đầu quen gọi là sự nới dãn (relaxation) cũng rất cần để cho
thần kinh, nghĩa là tâm thần được quân bình. Biết làm cho gân cốt, bắp thịt và tâm
thần được thoải mái là một nghệ thuật cần phải dạy trẻ ngay từ nhỏ. Đáng lý ra thì
phải như thế, nhưng trên thực tế lại có nhiều bậc cha mẹ hối thúc con mình làm
việc không ngừng! Khi đứa trẻ lặng im, thì cha mẹ lại tưởng là có đau bệnh. Bộ
thần kinh của người ta không thể chống lại nổi sự căng thẳng thường trực; làm việc
không ngừng nghỉ, không xả hơi, cố gắng liên tiếp khiến cho thần kinh luôn luôn
bị căng thẳng. Không có gì hại cho thần kinh bằng sự căng thẳng thường xuyên đó,
nhất là bộ thần kinh non nớt của trẻ.
Trong hệ thống giáo dục xưa của ta, con cái phải báo hiếu cha mẹ, đấy là một
truyền thống tốt đẹp. Không may thay rất nhiều bậc cha mẹ đã lợi dụng truyền
thống tốt đẹp đó để bắt con cái phụng dưỡng mình quá sức. Thực ra con cái tự
chúng không chọn lựa để sinh ra đời. Vấn đề nghiệp quả, luân hồi tuy hữu lý
nhưng không phải là đã được toàn thể nhân loại chấp nhận. Thành thử, đứng về
phương diện bổn phận đối với con cái hơn là con cái đối với cha mẹ. Bắt buộc đứa
trẻ làm việc để phụng sự cha mẹ như là một bổn phận có thể đi đến chỗ bất công.
Chỉ khi nào đứa trẻ tự ý tự nguyện chọn lựa công việc đó một cách thích thú như
một trò chơi, thì bấy giờ cha mẹ mới nên chấp nhận sự giúp đỡ của nó. Ngay cả
trong trường hợp đó cha mẹ cũng phải xét lại xem việc trẻ làm có làm giảm bớt giờ
nghỉ ngơi cần thiết cho sự nẩy nở xác thân của nó hay không?
Như trên đã nói, ngay từ khi trẻ còn thơ, ta nên ghi vào tâm trí trẻ sự quý trọng sức
khỏe, sự ngợi khen những thân hình cường tráng, sự điều hòa xác thân để chống lại
tật bệnh. Có lẽ ta còn phải dạy trẻ biết chiêm ngưỡng vẻ đẹp nữa. Trẻ phải có khiếu
thẩm mỹ, phải biết yêu vẻ đẹp, không phải để làm vui lòng hay để thành công,
nhưng là yêu vẻ đẹp vì vẻ đẹp không thôi, bởi vì vẻ đẹp là ý niệm cần phải thực
hiện suốt cả đời sống dưới trần gian.
Trong mỗi người ai ai cũng có khả năng để đem lại sự điều hòa giữa các phần khác
nhau của xác thân cùng giữa những cơ năng của nó. Điều quan trọng là phải huấn
luyện xác thân ngay từ khi còn nhỏ, ngay từ khi mới sanh ra: dạy con từ thuở còn
thơ. Một xác thân có huấn luyện tự nhiên sẽ tự điều hòa lấy các cơ năng của mình.
Và nhân đó, nó sẽ biểu lộ vẻ đẹp của nó, một vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp của sức khỏe.
Khi chúng ta đề cập đến những trạng thái khác của một nền giáo dục hoàn toàn,
chúng ta sẽ có dịp nhận thấy những điều kiện nào phải thực hiện ở bên trong để
một ngày kia vẻ đẹp bên ngoài ấy mới có thể biểu lộ ra được một cách dễ dàng.
Cho tới giờ, chúng tôi nhấn mạnh vào sự giáo dục trẻ em, vì đấy mới thực là vấn
đề căn bản của giáo dục. Giáo dục xác thân một cách sáng suốt và sớm sủa, ta sẽ
tránh được cho trẻ nhiều tật xấu, nhiều sự lệch lạc. Nhưng nếu vì một lý do nào mà
sự giáo dục đó không thi hành được như ý vào thời gian thơ ấu hay ngay cả ở trong
tuổi thanh xuân, thì nó cũng vẫn có thể khởi sự bất cứ vào một tuổi tác nào, bởi vì
trong giáo dục dù trễ còn hơn không. Nhưng càng khởi sự trễ chừng nào thì công
cuộc giáo dục càng khó khăn vì phải sửa lại nhiều thói xấu đã tiêm nhiễm, uốn nắn
nhiều sự cứng rắn đã trở thành cố cự, điều chỉnh nhiều sự lệch lạc đã mắc phải.
Tuy nhiên với nhiều nhẫn nại và bền lòng bền chí cùng ý niệm về vẻ đẹp phải thực
hiện, thì sớm muộn ta cũng vẫn đạt được mục đích, một cách chắc chắn.
GIÁO DỤC TÌNH CẢM
 Người xưa nói: Cao hơn hết là quên tình. Thực ra không hẳn là quên tình,
nhưng là dẫn tình đem về tính vậy. Nho gọi là thu phóng tâm; Đạo gọi là
luyện hoàn đan, lâu ngày công phu già giặn tự nhiên đạt được như như bất
động, y như Phật vậy không khác (BẠCH TẪN LÃO NHÂN)
Trong tất cả các phần giáo dục, giáo dục tình cảm là quan trọng nhất, cần thiết
nhất. Nhưng trên thực tế người ta ít chú trọng đến và tìm hiểu nó một cách sáng
suốt và có phương pháp. Sự kiện này có nhiều lý do:
1.Lý do thứ nhất là vì tư tưởng con người còn đang bị xao xuyến xáo trộn nhiều về
vấn đề đặc biệt ấy;
2.Lý do thứ hai là sự thực hành rất khó, muốn thành công phải kiên nhẫn và có ý
chí.
Trong bản thể con người, tình cảm là một kẻ độc tài luôn luôn có những đòi hỏi.
Tình cảm còn là kẻ giữ uy quyền, có sức mạnh và hăng say. Nó là kẻ tích cực hành
động, cho nên phần đông người ta tuân theo nó và luôn luôn làm cho nó vui lòng.
Nhưng nó là một ông chủ khó tính, không biết điều, không ai thỏa mãn được. Hiện
tại có hai ý niệm được cổ võ, nhất là Tây phương, đồng lõa với nhau để gia tăng uy
quyền của nó:
1. Ý niệm thứ nhất là sống ở đời, mục đích chính cốt để được sung sướng
2. Ý niệm thứ hai là con người sinh ra với một số bẩm tính, khó mà sửa đổi.
Ý niệm thứ nhất là một chân lý uyên thâm đã bị bẻ queo đi một cách phiến diện
nông cạn. Nó hàm ý rằng căn bản của mọi cuộc sống là yên vui, hạnh phúc. Yên
vui vốn là đức tính của Trời cho nên ta đừng lầm lẫn mà tìm vui ở đời. Bởi vì sự
tìm vui này một phần lớn lệ thuộc vào hoàn cảnh. Nếu ta quan niệm rằng sống là
có quyền vui thì tự nhiên là ta sẽ có ý muốn chỉ sống đời sống mình, bất chấp hoàn
cảnh, bất chấp tha nhân. Tâm trạng đó, một tâm trạng thuần do lòng vị kỷ nhỏ mọn
tối tăm, xuẩn động sẽ tạo ra tất cả mọi tranh chấp, cơ cực và thất vọng. Và sau
cùng, nó có thể đưa dẫn đến nhiều sự khốc hại khôn lường.
Trong cõi đời hiện hữu, mục đích của đời sống không phải để tìm hạnh phúc cho
riêng cá nhân mình, nhưng là để thức tỉnh đến dần với chân lý, thức tỉnh mình,
thức tỉnh người.
Ý niệm thứ hai là muốn thay đổi tính tận gốc, thì phải tự chủ, tự chủ từ tiềm thức,
một cách trọn vẹn, và cần phải nghiêm khắc đối với tất cả mọi sự do vô thức mà
đến. Vô thức được biểu lộ bằng những kết quả của di truyền và của hoàn cảnh.
Cuộc sống của những người bẩm tính tầm thường bị chi phối bởi vô thức. Muốn
thay đổi cải thiện bẩm tính, ta cần phải làm nảy nở tâm thức và phải cầu nguyện để
Thiêng Liêng ban ân huệ thường xuyên xuống cho ta. Thay đổi bẩm tính như vậy
là một trách vụ phi thường của con người, cho nên ít có ai thử gánh lấy nó để thực
hiện; thậm chí có nhiều giáo sư nổi tiếng đã tuyên bố rằng đấy là một ảo mộng,
không thể nào làm được. Thực ra rất nhiều bậc đạo hạnh đã thay đổi được tính tình
một cách hiệu quả nhờ một kỷ luật sáng suốt và một ý chí dũng mãnh.
2. Việc phải làm ngay và đầu tiên là quan sát thực sáng suốt với đầy đủ chi tiết
(quán) bẩm tính nào xấu mà ta muốn thay đổi. Trong nhiều trường hợp, việc quan
xét này khó khăn có thể dẫn ta đi sai đường. May thay có một kim chỉ nam mà cổ
nhân đã truyền lại cho ta để định hướng việc quán xét nội tâm của ta, ấy là: trong
bẩm tính mỗi người đều có hai khuynh hướng trái nghịch với một tỷ lệ gần bằng
nhau, giống như ánh sáng và bóng tối của một vật vậy. Do đó mà một người đặc
biệt rộng lượng bất thình lình lại tỏ ra hà tiện keo bẩn, một người can đảm bỗng
thấy mình hèn nhát trong một trường hợp nào đó, hay một người tính nết hiền hòa
bỗng trở thành hung dữ khác thường. Giáo dục tình cảm phải chú trọng đặc biệt
đến sự kiện quan trọng này, xiển dương cái tốt và làm lu mờ cái xấu, và cần phải
có một kỷ luật hợp lý và sáng suốt. Nhờ ý thức và kỷ luật, phương pháp giáo dục
sẽ là một phương pháp chủ lý.
Giáo dục tình cảm nên sớm sủa, sớm chừng nào tốt chừng nấy, và nếu có thể ngay
khi trẻ sử dụng được giác quan của nó. Như thế nhiều thói xấu sẽ tránh được và
nhiều ảnh hưởng tai hại sẽ được ngăn chặn.
1/ Trạng thái thứ nhất liên quan đến sự phát triển và xử dụng giác quan, và
2/ trạng thái thứ hai liên quan đến tâm thúc và sự sửa đổi tính tình dần dần để đi
đến trạng thái biến tính.
3. Sự giáo dục giác quan cũng bao gồm nhiều trạng thái, chồng chất lên nhau, và
gia tăng theo sự trưởng thành của con người. Thật ra, sự giáo dục giác quan liên
tục, không bao giờ ngừng.
Giác quan được giáo dục thường xuyên, đều đặn sẽ đạt được mức độ điêu luyện và
có một sức mạnh cường tráng vượt lên trên tầm mong ước của người thường. Ngày
xưa, có những vị chân nhân được điểm đạo (initiation) đã xác nhận rằng số giác
quan mà con người có thể mở mang không phải là 5(ngũ quan) mà là 7, và trong
một vài trường hợp đặc biệt có thể là 12. Ở vào một thời kỳ nào đó trong quá khứ,
có vài sắc dân vì nhu cầu đối phó với hoàn cảnh đã khai mở được thêm một hoặc
hai giác quan phụ thuộc đó. Truyện Dương Tiễn có một mắt thứ ba trên trán và
một mắt thứ tư sau gáy là một truyện điển hình cho việc khai mở thêm giác quan
của người xưa. Sự khai mở giác quan phụ thuộc này vẫn ở vừa tầm khả năng của
những người thật tình lưu tâm đến việc tu dưỡng tinh-khí-thần, nếu biết ứng dụng
một kỷ luật thích nghi và kiên nhẫn. Trong những quan năng thường kề, có quan
năng dường như có thể mở rộng tâm thức, rồi phóng nó ra khỏi thân mình để tập
trung vào một điểm rõ rệt, hầu đạt được sự thấy, nghe, ngửi, nếm và sờ mó ở cách
xa mình.
Khi đã giáo dục tổng quát giác quan và sự vận hành của chúng trở nên điêu luyện,
biết phân biệt tinh vi, biết yêu sự đẹp và có khả năng lựa chọn cái tốt, cái đơn giản,
lành mạnh và trong sạch.
Ngoài sức khỏe của xác thân, còn có một sức khỏe tâm lý nữa. Trong cảm giác
cũng có một vẻ đẹp và một sự điều hòa giống như vẻ đẹp và sự vận hành ngoài xác
thân. Trong giáo dục, khi nào khả năng hiểu biết của trẻ nẩy nở vừa đủ, lập tức
phải dạy cho trẻ biết ưa chuộng vẻ đẹp, quý trọng vẻ thanh cao. Với khuynh hướng
tinh thần này trẻ sẽ như có được một bộ áo giáp gìn giữ nó khỏi bị những ảnh
hưởng xấu nhiễm độc.
Hậu quả khốc liệt của chiến trận giặc giã đang trải qua trên đất nước chúng ta triền
miên từ hơn một phần tư thế kỷ nay, kèm theo một sự căng thẳng thần kinh thường
xuyên của đa số đồng bào nạn nhân, là triệu chứng thoái hóa của nền văn minh cận
đại khiến cho xã hội bị băng hoại thảm thương.
Thô bạo đang xâm chiếm đời sống cá nhân và tập thể. Một nền giáo dục giác quan
có phương pháp và sáng suốt thực hết sức cần thiết vì nó có thể dập tắt dần những
gì thô bạo tầm thường đang nhiễm độc tâm hồn trẻ. Trẻ sẽ được bảo vệ chống lại
những gì xấu xa hèn kém, và sẽ hướng tâm về những sự cao quý và sẽ có lòng
khoan dung. Và điều này sẽ đưa ta đến trạng thái thứ hai của giáo dục tình cảm là
giáo dục tính tình nghĩa là sự giáo dục liên quan đến tâm thức và sự biến tính của
trẻ từ xấu sang tốt.
4. Thường thường mọi kỷ luật về tình cảm con người đều do ngăn cấm, cưỡng chế
bắt buộc. Phương pháp cưỡng chế là một phương pháp tương đối dễ và có thể có
những hiệu quả mau chóng hơn là một công cuộc nghiêm khắc tinh vi được phân
chia ra từng phần nhỏ một để thi hành. Phương pháp cưỡng chế còn bác bỏ mọi sự
hợp tác của tình cảm trong khi chính sự hợp tác này mới là điều quan trọng bậc
nhất trong giáo dục.
Ta phải dạy cho trẻ biết được trước tiên những mối vận hành khác nhau trong lòng
mình, biết được điều gì người ta làm và tại sao người ta làm. Phải tập cho trẻ quan
sát, phải ghi nhận mọi phản ứng, xung động của nó cùng những nguyên nhân gây
nên những phản ứng, xung động ấy. Phải tập cho trẻ biết phê phán khách quan
những dục vọng, cùng những cơn nóng nảy giận dữ của nó. Phải chỉ dạy cho nó
nhận ra những bản năng chiếm hữu, xâm lược, cưỡng chế cùng hậu tính kiêu hãnh
của những bản năng đó mà nó thường hay dựa vào để cư xử.
Đồng thời cũng phải làm nẩy nở ý chí tiến hóa và ý chí hoàn thiện của trẻ. Ý chí đó
phải được ghi vào tâm trí trẻ ngay khi nó vừa mới bày tỏ khả năng có ý chí, nghĩa
là ngay khi trẻ còn nhỏ, nhỏ hơn là chúng ta tưởng nhiều.
Có nhiều cách để đánh thức ý chí của trẻ. Tùy theo trẻ, ta có thể hoặc viện những
lý lẽ đúng đắn, hoặc tác động bằng tình cảm, hoặc khêu gợi lòng tự ái tự trọng của
trẻ, phương pháp hữu hiệu nhất vẫn là làm gương sáng cho trẻ soi một cách
nghiêm chỉnh và thành khẩn.
Một khi đã quyết định rồi thì phải tận tâm tận lực thi hành, và tuyệt đối không bao
giờ chấp nhận bất cứ một sự thất bại nào nơi chung kết của công cuộc giáo dục.
Muống tránh mọi sự chán nản, thoái chí cần nên nhớ một điều là ý chí có thể tập
dượt tăng cường y hệt như ta tập dượt tăng cường bắp thịt của ta vậy. Đừng sợ đòi
hỏi ở ý chí mình một sự cố gắng cao độ dù để làm việc xem ra có vẻ nhỏ mọn
không quan trọng, bởi vì chính sự cố gắng sẽ làm tăng cường ý chí và khiến cho nó
đủ sức mạnh để đương đầu với những việc khó khăn nhất trong tương lai.
Điều gì chúng ta đã tính làm thì phải làm cho bằng được, với bất cứ giá nào, dù
phải làm đi làm lại nhiều lần. Ý chí của chúng ta sẽ mạnh thêm lên nhờ sự quyết
tâm cố gắng không ngừng của chúng ta, và chúng ta chỉ còn có một việc phải làm
là tuyển chọn mục đích để tiến tới mà thôi. Và chúng ta sẽ tóm tắt như thế này:
1.Phải biết rõ bản tính mình, một cách hoàn toàn;
2.Rồi kiểm soát hành động của mình để đi đến một sự tự chủ hoàn toàn và một sự
biến đổi những tính nết nào cần phải biến đổi.
Bây giờ tất cả, đều tùy thuộc quan niệm sẽ tùy thuộc để đạt sự tự chủ và sự biến
đổi. Giá trị của quan niệm sẽ thuộc ở giá trị của cố gắng và ở hậu quả của nó. Đó là
đầu đề sẽ được tham luận trong phần “Giáo dục trí óc”
GIÁO DỤC TRÍ ÓC
 Mở rộng đường trí thức cốt ở xét tột lý sự vật (trí tri tại cách vật). Vậy học
rồi phải suy, suy rồi lại phải học, cho đến lúc trí được mở rộng hoát ra mà
suốt thông mọi lẽ, thì tức là biết tới nơi.
Hễ biết tới nơi rồi thì lần lần theo thứ tự sẽ được ý thành, tâm chính
DƯỠNG CHÂN TỬ
1. Trong tất cả mọi phần giáo dục, ngày nay người ta chú trọng đến phần giáo dục
trí óc nhiều nhất. Tuy chú trọng, mà chú trọng đặc biệt, nhưng xét vẫn thấy nhiều
sơ hở khiếm khuyết, thành thử ngay về phương diện giáo dục trí óc cũng không có
sự kiện toàn hợp lý.
Về tổng quát, sự học hỏi ở nhà trường được coi như là một phương pháp trí dục
khẩn cấp. Sau khi đã dồn đẩy vào trí óc trẻ những kiến thức đủ loại trong nhiều
năm, người ta có cảm tưởng là đã có giáo dục và đã hết sức mở mang trí óc của nó
rồi! Sự thực đấy không phải là giáo dục. Nhiều lắm đấy chỉ là một tập dượt trí óc
để tăng cường một phần sự uyển chuyển của nó mà thôi. Về phương diện đó người
ta có thể tập dượt trí óc tùy theo mỗi ngành hiểu biết của loài người và trí óc sẽ
được phát triển từng phần một.
Giáo dục trí óc là chuẩn bị cho con người sống một đời sống cao thượng qua năm
giai đoạn trọng yếu. Thường thường thì năm giai đoạn ấy kế tiếp nhau, nhưng đối
với những người đặc biệt, phi thường, thì chúng có thể xen kẽ và sinh hoạt hòa hợp
với nhau. Năm giai đoạn ấy là:
1) Mở mang khả năng, tập trung tư tưởng và phát triển sự chú tâm.
2) Khả năng được tiếp tục mở mang thêm cho phong phú.
3) Gây ý thức chung quanh một ý niệm chính, được coi như ý niệm hướng đạo
của đời sống.
4) Kiểm soát tư tưởng: vứt bỏ những tư tưởng xấu, và chỉ suy nghĩ đến điều
nào mình muốn vào một thời gian nhất định nào đó.
5) Tập cho trí óc quán tịnh, vắng lặng, yên ổn hoàn toàn để cho có khả năng
tiếp nhận những linh cảm thuộc về phần tuệ của con người.
Phương cách áp dụng mỗi giai đoạn phải tùy vào bẩm tính cảu từng trẻ một, cho
nên thục khó mà đề cập đến một phương cách giáo dục chung cho tất cả với đầy đủ
chi tiết, vì giáo dục trước hết là thích nghi, thích nghi với từng người được giáo
dục. Tuy nhiên cũng có một vài chi tiết ta có thể giải thích được. Thí dụ như tính
lãng trí.
Lãng trí là chướng ngại bậc nhất đối với sự tiến triển trí óc của trẻ. Ý nghĩ của trẻ
luôn luôn thay đổi như bướm bay hay vượn nhảy. Muốn cho trẻ định trí lại phải
mất nhiều công phu huấn luyện. Nhưng cũng may là khả năng định trí vốn tiềm
tàng bên trong trẻ, vấn đề là làm thế nào cho trẻ thấy có hứng trong việc tập luyện
định trí. Và đây chính là tất cả nghệ thuật của nhà giáo dục.
Muốn mở mang quan năng định trí thì bất cứ phương pháp nào cũng đều tốt cả, tùy
phương tiện, tùy hoàn cảnh, từ một trò chơi đến một phần thưởng. Nhưng phương
pháp hiệu nghiệm và tốt nhất là tác động tâm lý. Ta phải làm sao cho trẻ biết thích
thú điều ta muốn dạy nó, làm sao cho nó vui với việc làm và có ý chí muốn tiến
hóa.
Ưa học hỏi là một tặng phẩm quý nhất mà ta có thể hiến cho trẻ. Học hỏi luôn luôn
và bất cứ ở nơi nào. Mọi hoàn cảnh, mọi biến cố ở đời phải là những cơ hội để học
hỏi thêm và nhiều hơn nữa.
Muốn vậy, phải lấy quan năng định trí tập trung tư tưởng vào sự quan sát (định
quán). Quan năng định quán này có thể mở mang thêm mãi được nhờ tập luyện
hồn nhiên, lợi dụng mọi cơ hội xảy đến để giữ tư tưởng của trẻ được linh động,
minh mẫn.
Phải cố gắng nhiều để mở mang sự hiểu biết hơn là trí nhớ. Vì người ta chỉ biết rõ
điều gì đã hiểu. Những chuyện học thuộc lòng lâu dần sẽ phai mờ rồi tiêu đi mất,
còn điều gì mình đã hiểu thì sẽ nằm lòng không bao giờ quên được. Muốn cho trẻ
hiểu, thì trong tất cả mọi trường hợp ta phải cố gắng giải nghĩa cho nó cái lý và cái
pháp của vạn vật. Nếu không thể tự mình trả lời trẻ thì phải học trong sách hay nhờ
người am tường giải thích giúp mình. Làm như vậy, ta sẽ đánh thức dần dần trong
trẻ sự ưa thích học hỏi những điều đứng đắn, và gây cho nó có thói quen nhẫn nại
cố gắng để hiểu biết. Điều này mặc nhiên sẽ đưa đến giai đoạn mở mang thứ hai là
mở rộng và làm phong phú cái trí của trẻ.
2. Với thời gian, dần dần, trẻ sẽ ý thức được rằng tất cả mọi sự đều có thể trở thành
một đề tài học hỏi đầy lý thú nếu ta có sẵn thiện chí. Đời sống là một trường học
tốt nhất luôn luôn biến hóa và đủ phức tạp để đem đến cho ta rất nhiều kinh
nghiệm bất ngờ và quý giá. Đời sống luôn thiết thực vì bao gồm những bài toán
cần được giải quyết, những gương mẫu để noi theo. Nếu chúng ta biết trả lời đa số
những câu hỏi của trẻ thì chúng ta có thể đánh thức tính tò mò tìm hiểu của chúng
một cách dễ dàng. Với một câu trả lời lý thú làm trẻ mãn nguyện, ta có thể thúc
giục trẻ tiếp tục đặt thêm câu hỏi. Mỗi lần đặt câu hỏi, là mỗi lần trẻ vận dụng đến
trí thông minh của nó, tập dượt cho thêm sắc bén sáng suốt. Như thế trẻ học mà
không nhọc sức, học mà như là chơi, và chẳng bao lâu sẽ giỏi hơn là học ở trường
học nhiều.
Ta cũng còn cần phải làm cho trẻ thích đọc sách, dĩ nhiên là những sách tốt, vừa
hấp dẫn đối với trẻ vừa có công dụng mở mang trí óc cho trẻ. Như vậy, cần phải
lựa chọn sách cho trẻ đọc thật sáng suốt và thận trọng. Đừng sợ những sách đánh
thức trí tưởng tượng của trẻ. Vì chính nhờ tưởng tượng mà quan năng sáng tác của
trẻ được mở mang và sự học hỏi trở thành linh động, trí thức được nảy nở trong
niềm vui và hứng thú.
Muốn tăng cường sự uyển chuyển và sự hiểu biết của trí tưởng tượng, những đề tài
học hỏi phải có tính cách dị biệt đối với nhau. Lại cũng cần đến những đề tài tương
tự giống nhau để cho trẻ hiểu rằng cùng một bài toán mà có thể nhiều phương pháp
xét đoán và giải quyết. Điều này làm cho trí óc trẻ uyển chuyển, không cứng chắc
và giúp cho những ý nghĩ, tư tưởng của nó được linh động, phong phú, cùng chuẩn
bị cho nó biết làm một sự tổng hợp tuy có phức tạp hơn nhưng lại dễ hiểu hơn.
Như thế, dần dà trẻ sẽ ý thức được mối tương quan giữa những điều hiểu biết và trẻ
sẽ có được mối hoài bão một ngày kia sẽ lý hội được Chân Lý.
Nhờ học hành, tiến bộ rồi trưởng thành mà trí óc của trẻ sẽ lĩnh hội được những
kiến thức chính xác, vững chãi để làm nền tảng xây dựng trí tuệ mai hậu. Trẻ sẽ
biết tự tổ chức lấy và sắp xếp lại cho thứ tự những cương yếu rải rác và có thể dị
đồng, trái nghịch với nhau chồng chất trong trí óc. Sự sắp xếp này hết sức cần thiết
để cho tư tưởng được mạch lạc, không rối loạn. Tất cả những điều thoạt thấy mâu
thuẫn với nhau có thể đổi thành bổ khuyết lẫn nhau. Nhưng muốn thế cần phải có
một ý niệm đủ cao cả để có uy lực kết hợp với nhau những điều bổ khuyết đó một
cách hòa hợp. Ý niệm đó phải giúp ta quán xét tất cả mọi vấn đề trong tất cả mọi
trường hợp một cách toàn diện, không thiên lệch và không độc đoán. Tuy nhiên,
nếu ta muốn cho tư tưởng của ta linh động và giữ phần chủ động sáng tạo, thì trong
mỗi trường hợp nó phải là một sự tổng hợp tự nhiên và thuận lý của tất cả mọi
phương diện. Và nếu ta muốn dùng trọn tư tưởng của mình để làm một sức mạnh
sáng tạo tích cực, thì ta phải tuyển lựa thật kỹ ý niệm chủ yếu là trung tâm cho tất
cả các ý niệm khác hợp thành cái vốn trí thức chung của ta, bởi vì giá trị của cái
vốn trí thức chung của ta tùy thuộc vào ý niệm chủ yếu trung tâm đó. Nếu ý niệm
trung tâm khoáng đạt, cao thượng thì nó có thể có được một giá trị phổ quát đại
đồng, và càng khoáng đạt cao thượng nó càng phổ quát đại đồng, đến mực có thể
vượt khỏi không gian và thời gian. Ý niệm trung tâm càng cao thì những lập luận
tư tưởng xây dựng quanh nó càng có khả năng điều chỉnh và hòa hợp, và những ý
niệm hậu quả càng phong phú, vĩ đại hơn.
Dĩ nhiên hệ thống tư tưởng này không thể cố định. Để giúp cho trí óc ta luôn luôn
cường tráng trẻ trung, ta phải giúp cho nó luôn luôn tiến hóa, luôn luôn quán xét
những lập luận dưới những ánh sáng hiểu biết mới mẻ, để mở rộng khuôn khổ và
chấp nhận những lập luận mới chính xác hơn. Trí óc phải luôn luôn chỉnh đốn sắp
xếp lại tư tưởng của mình để cho mỗi tư tưởng ở vào đúng vị trí của nó đối chiếu
với những tư tưởng khác, hầu cho tất cả đều được hòa hợp với nhau trong trật tự.
Tất cả những điều vừa được trình bày ở trên thuộc về cái trí thuần lý, cái trí học
hỏi. Nhưng học hỏi mới chỉ là một trạng thái hoạt động của cái trí mà thôi. Ngoài
trạng thái hoạt động, cái trí còn có quan năng xây dựng sáng tạo, và chính quan
năng này mới thật sự chuẩn bị, sửa soạn hành động. Vì tư tưởng chỉ huy hành động
cho nên ta phải đặc biệt kiểm soát những ý niệm nào có thể là nguồn gốc cho hành
động. Nói một cách khác, trước khi hành động ta phải xét xem tư tưởng thôi thúc
ta hành động có chính đáng không, xem nó có hòa hợp với khuynh hướng chung
của ý niệm đã được lựa chọn là ý niệm trung tâm không, cái ý niệm trung tâm vốn
là nền tảng của toàn thể trí thức của ta. Có như vậy, khi hành động ta mới khả dĩ có
được một sự tự chủ hoàn toàn cần thiết để hành động sáng suốt.
5. Muốn được như vậy, mọi ngày nên dành một ít thời giờ an tĩnh – tốt nhất là buổi
tối, trước khi đi ngủ - để kiểm điểm, kiểm soát lại tư tưởng, hành vi của minmhf
troang ngày, tự phê bình và tinh lọc lại hệ thống tư tưởng hành động của mình. Khi
sự kiềm thảo quán xét đã thành một thói quen rồi thì ngay trong lúc hành động ta
vẫn có thể vừa hành động vừa quán xét tư tưởng của mình được và chỉ giữ lại tư
tưởng nào trong sáng nhất, tốt lành nhất, thực hữu ích cho công việc của mình mà
thôi.
Định quán lâu ngày có thể đạt tới trạng thái không suy nghĩ khiến cho mọi rung
động của trí óc ngưng chỉ và đầu óc được vắng lặng hoàn toàn. Chính trong sự
vắng lặng đó mà dần dần ta sẽ tự mở được lòng mình vào những cảnh vực thanh
cao của cái trí và tập ghi nhớ những linh cảm từ các cảnh vực ấy xuống.
Nhưng trước khi đại được mực độ đó, sự vắng lặng của trí óc tự nó đã là một điều
tối thượng rồi. Bởi vì, đối với đa số người có cái trí ít mở mang và ít linh hoạt, thì
nó làm việc không ngừng, không biết nghỉ ngơi là gì. Ban ngày sự hoạt động của
nó còn có thể được kiểm soát, nhưng ban đêm, khi xác thân ngủ, thì sự kiểm soát
ban ngày không còn nữa, khiến cho nó tiếp tục làm việc trong rối loạn và vô trật tự
gây mộng mị thảng thốt làm suy yếu sức khỏe.
Trí óc, cũng như toàn thể xác thân người ta, cần phải được nghỉ ngơi. Nhưng chính
sự nghỉ ngơi đó trí óc tự nó lại không được: nó phải nhờ ta cống hiến cho nó thì nó
mới nghỉ ngơi được.
Làm cho trí óc nghỉ ngơi là một nghệ thuật mà tất cả mọi người đều phải đạt được.
Nghệ thuật đó có một phương pháp: đó là làm thay đổi sự hoạt động của trí óc.
Nhưng cần phải biết rằng sự nghỉ ngơi quan trọng nhất của trí óc vẫn là sự vắng
lặng. Trí não vắng lặng được vài phút có giá trị bằng giấc ngủ nhiều giờ.
Khi ta đã tự ý làm cho trí óc vắng lặng được rồi và đã thành công trong thiền định
thụ cảm thì khi đó sẽ không còn có bài toán nào của cuộc sống, dù khó đến đâu, mà
ta không giải quyết được. Trong thiền định ánh sáng có thể hiện lên, mở một chân
trời mới cho những khả năng tiềm ẩn của con người.
GIÁO DỤC TÂM THẦN
 Vân hà hàng phục kỳ tâm?
(Làm sao làm chủ được cái tâm?)
KINH KIM CƯƠNG
 Tâm tử thần hoạt
(Tâm hồn có thể chết, tinh thần không chết)
ĐẠO LÃO
CHƯƠNG I – MỘT CÕI GIỚI TRONG MỘT CÕI GIỚI
I. TRỜI Ở ĐÂU?
Thế giới trong đó chúng ta hiện đang sống chẳng qua chỉ là một căn phòng nhỏ của
một tòa nhà vĩ đại. Điều ấy linh tính bất diệt của ta luôn luôn khiến cho ta tin tưởng
như vậy. Khoa thần học chính thống từ ngàn xưa cho đến thuyết duy vật của thế kỷ
vừa qua cũng không sao hủy diệt được niềm tin đó hay khiến cho con người lầm
tưởng rằng Trời chỉ là một chuyện thần thoại huyền hoặc hay xa vời. Bởi vậy cho
nên, khi các thi nhân ước mơ và ca tụng cõi thiên quốc đó, và khi các triết gia hay
các nhà khoa học luận bàn hay phủ nhận nó thì các nhà huyền môn đã tìm ra được
nó cùng diễn tả phân loại các sinh vật và các hiện tượng của nó. Nhưng trong lúc
sự hiểu biết về cõi vô hình này và các thành phần của nó mỗi ngày mỗi chính xác
sâu rộng thêm, thì một đám mây mờ, vô minh và sai lầm, còn bao phủ nhiều người
khiến cho họ còn hoài nghi đối với Thiên Cơ sáng suốt và nhân từ, và, vì còn hoài
nghi, cho nên còn khắc khoải khổ đau.
Nếu ta hỏi một người gặp ở ngoài đường “Trời ở đâu?” chắc chắn người ấy sẽ hết
sức ngạc nhiên và phá lên cười. Nếu người đó có đọc những sách thuộc loại “Tư
tưởng Mới” thì có thể họ sẽ trả lời ta rằng : Trời ở tâm ta. Câu trả lời này đúng,
đúng nhưng rất sáo và có lẽ người trả lời cũng không hiểu được ý nghĩa thực của
nó. Thường thường thì người ta cho rằng Trời ở trên cao, có lẽ ở chỗ mà Hỏa tinh
đang vận chuyển. Nếu sau này con người có được đưa lên Hỏa tinh và như trên đó
câu hỏi lại được đặt ra thì câu trả lời cũng lại sẽ tương tự như vậy; có khác họa
chăng là Trời không còn ở quỹ đạo Hỏa tinh nữa mà ở chỗ địa cầu đang quay trên
vòm trời đầy sao.
Có điều lạ là tại sao ta cứ nói mãi trời ở chỗ này chỗ khác, mà không nói “Trời ở
ngày đây”?
2. CÕI VÔ HÌNH
Người học huyền học, khi tìm hiểu các định luật tiềm ẩn của tạo vật, biết rằng một
cõi giới mênh mông tuy vô hình đang bao quanh địa cầu, và muốn tìm cõi ấy, ta
phải sáng qua các hành tinh khác hay du hành trên không trung. Chúng ta hiện
đang sống trên một hành tinh vật chất, giữ một cõi giới nhẹ hơn, thanh hơn nó, bao
quanh chúng ta như một khí quyển rộng lớn. Bất luận chúng ta ở đâu trên trái đất
này, cõi giới ấy vẫn thâm nhập vào tâm trí ta, thân thể ta, cũng như thâm nhập vào
trái đất chân chúng ta đang dẫm lên. Chúng ta không cần đi xa để tìm nó, vì hiện
chúng ta đã trú ngụ ở trong nó, là dân cư của nó, tuy rằng chúng ta không ý thức
được sự hiện diện của nó cũng như không ý thức được thực tại của hằng hà sa số
sinh linh và nhân vật đang sống trong nó.
Khi một linh hồn ở cõi đó khoác một thể vật chất sang cõi trần để thu thập kinh
nghiệm, thì đó là sự sinh. Đến khi thể chất ấy già đi, trở nên tiều tụy sau khi làm
xong nhiệm vụ của nó, con người sẽ bỏ nó lại ở cõi trần: đó là sự chết.
Cõi vô hình đó, thanh trong hơn cõi trần, quê hương thật của chúng ta, còn cõi trần
chỉ là một xứ xa lạ, thỉnh thoảng ta đến thăm viếng như một lữ khách du lịch đến
một xứ xa tìm kiếm vật liệu dùng để dệt một tấm thảm huy hoàng mà thôi.
Chúng ta thường không ý thức được thực tại của cõi vô hình này, vì một số giác
quan của chúng ta chưa được khai mở. Cũng ví như một người bị cảm nghẹt mũi
bước vào một gian phòng bát ngát mùi hương hoa hồng, ta không biết có mùi
hương này. Hay như một người mắc bệnh loạn sắc dạo chơi trong khu rừng rậm
rạp hay trên một bụi cỏ xanh tươi, ta không thưởng thức được màu sắc phong phú
vì tất cả chỉ là màu xám dưới đôi mắt bệnh hoạn của ta.
Chúng ta không giống như vậy đối với cõi vô hình vô cùng thanh trong và đẹp đẽ
đang bao quanh chúng ta: chúng ta không ý thức được nó không phải vì không có,
mà vì ở giai đoạn tiến hóa hiện tại của chúng ta, những giác quan cần thiết để tri
cảm nó chưa được khai mở. Nhưng ngày những giác quan đó được khai mở không
còn xa.
3. NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ THỰC TẠI CỦA CÕI VÔ HÌNH
Nếu chúng ta có thể nhờ một cơ quan thông tấn sưu tầm và tập trung tất cả các
kinh nghiệm cá nhân rải rác trên thế giới về cõi vô hình, thì chúng ta sẽ tin ngay
rằng cõi vô hình là có thật. Các kinh nghiệm các nhân đều rất ít và cũng thiếu căn
bản vững chãi, nhưng một khi chúng đã được gom góp tập trung lại thì chúng sẽ là
những bằng chứng rất hùng biện. Đôi khi chúng ta thấy được một điềm lạ hay nằm
chiêm bao được một điều lý thú, chúng ta nhớ nó trong một thời gian, đem thuật lại
cho bạn bè nghe hoặc đem thảo luận về ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, nhưng
không bao lâu chúng ta sẽ quên nó đi. Dĩ nhiên, thường thì nó không có giá trị bao
nhiêu và cũng không dạy bảo ta được nhiều. Nhưng nếu chúng ta đã có dịp đọc qua
các sự kiện mà các hội thần linh học đã thu thập được, chúng ta sẽ nhận định được
rõ ràng rằng toàn thể nhân loại đang tiếp xúc với một cõi tâm linh mênh mông và
phức tạp, (mà Teilhard de Chardin gọi là một tấm thảm tâm linh, une nappe
spirituelle)
Sự diễn tả các hiện tượng xa xôi nhờ huệ nhãn đột phát trong khoảnh khắc; những
lời tiên tri về các nguy tai sắp đến; việc các vong linh hiện lên ở những ngôi nhà
xưa; những điểm chiêm bao báo đúng những việc xảy ra; những cảm hứng bất ngời
đến với những bậc thiên tài; các việc ấy và nhiều việc khác nữa cho ta biết rằng
con người vĩ đại hơn chúng ta tưởng rất nhiều và thế giới của chúng ta được lồng
vào trong một cõi giới thanh cao, tuy vô hình mà có thật.
4. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÕI VÔ HÌNH
Từng giây, từng phút chúng ta chịu ảnh hưởng của cõi vô hình. Bất cứ lúc nào, tư
tưởng và tình cảm của những người khác tác động vào tâm hồn chúng ta khiến cho
chúng ta suy tư, cảm xúc và hành động trái với chân tính của chúng ta – Thường
thường, chúng ta không ý thức căn nguyên của các tư tưởng đó và cho rằng chúng
xuất phát tự lòng chúng ta. Điều này được chứng minh trong một việc sau đây:
Cách đây vài chục năm, trên con tàu chạy ngang qua vịnh Cựu Kim Sơn (San
Francisco, Mỹ), một người đàn ông đang ngồi đọc sách. Bỗng nhiên ông ta cảm
thấy tâm trí mình rung động xao xuyến, rồi ông ta hốt hoảng sợ hãi vô duyên cớ.
Ông ta rất ngạc nhiên vì cuốn sách ông ta đang đọc không có tính cách kích thích
gì. Ông ta gập sách lại, nhìn lên, thì thấy một bà mẹ hốt hoảng chạy theo lan can
tàu để níu lấy đứa con của bà ta đang leo lên lan can và sắp rớt xuống biển. Sự hốt
hoảng đã đến với người đàn ông do sự truyền cảm vô hình của bà mẹ đang lo sợ
cho đứa con mình.
Thực ra, những người suy tư bằng tư tưởng của riêng mình rất ít. Ý nghĩ, tư tưởng
của đa số người ta là ý nghĩ và tư tưởng chung của tất cả mọi người bao quanh: cái
tấm thảm tâm linh của Chardin có nghĩa là như vậy. Ngược lại, các ý nghĩ, tư
tưởng của chúng ta không phải chỉ liên quan đến riêng chúng ta mà thôi, chúng còn
gia nhập vào khối tư tưởng chung của nhân loại nữa. Nếu chúng ta khôn ngoan,
biết điều hòa tâm tưởng mình với những ý nghĩ thanh cao, với những tình cảm
trong sạch, thì chúng ta chỉ thu nhận có chúng mà thôi, và mặc nhiên tránh cho tâm
tưởng chúng ta không bị những ý nghĩ, những tình cảm ô trược, thấp hèn nhiễm
độc. Con người ta thực ra là một cái máy lọc tự chủ, phân biệt được cái thanh cao
với cái thấp hèn, và chỉ giữ lại cái phần nào mình muốn giữ lại mà thôi.
5. SỰ HIỆN DIỆN CỦA CÕI VÔ HÌNH
Chúng ta hiện đang chìm đắm trong đời sống vật chất, cho nên khó mà ý thức được
sự hiện diện của cõi vô hình mà chúng ta không nghe, không thấy, không nếm,
không ngửi được với các giác quan phàm tục của chúng ta. Nhưng cõi ấy còn thật
hơn cõi trần nhiều, mặc dù những ba động tế vi của nó không lưu lại một dấu vết gì
trên vật chất thô kệch của giác quan chúng ta.
Chúng ta biết rằng mỗi tháng, trong một thời gian nào đó, mặt trăng có thể thấy
được ban ngày. Chúng ta thấy mặt trăng ấy hình lưỡi liềm mà không ngờ đến ánh
sáng của nó đang bao trùm chúng ta cùng với ánh sáng mặt trời. Chúng ta chỉ thấy
có ánh mặt trời, nhưng khi mặt trời lặn, thì cảnh vật hiện ra dưới ánh trăng êm ái,
dịu dàng. Thật sự thì trong suốt thời gian ấy, ánh trăng lúc nào cũng có, nhưng về
ban ngày, nó không được tỏ nên chúng ta không trông thấy nó được.
Cõi vô hình cũng giống như vậy. Lúc nào nó cũng hiện diện, nhưng chúng ta
không ý thức được nó vì chúng ta hoàn toàn chìm đắm trong ngoại cảnh. Khi nào
chúng ta trấn an được giác quan phàm tục và tâm thần hỗn loạn của chúng ta, thì
khi đó chúng ta sẽ ghi nhận được những ba động tế vi của cõi vô hình và sẽ ý thức
được nó một cách rõ ràng.
6. BẢN CHẤT CỦA GIẤC NGỦ VÀ GIẤC MỘNG
Thực ra chúng ta biết về cõi vô hình hơn là chúng ta tưởng, vì mỗi đêm, khi thể
xác chúng ta ngủ, thì chúng ta đều sang qua cõi đó và di chuyển giữa các quang
cảnh của nó bằng một đối thể tế nhị của xác thân. Đối thể ấy của xác thân là thể
tình cảm hay thể vía, được cấu tạo bằng thanh chất của cõi vô hình. Cũng như thể
xác, thể vía là một dụng cụ của tâm thức và nó có thể dùng riêng biệt với thể xác.
Giấc ngủ đối với nhà huyền môn là một hiện tượng dễ hiểu, nhưng đối với những
người thường đồng hóa mình với thể xác và cho rằng trí tuệ là một thứ hóa phẩm
của khối óc, thì nó là một sự kiện hết sức lạ lùng. Bản chất của giấc ngủ rất đơn
giản. Trong giấc ngủ, chúng ta rời bỏ xác thân và bộ óc chúng ta trở nên vô thức,
ngoại trừ một thứ ý thức mù mờ, tăm tối, máy móc còn lưu lại trong thần kinh hệ.
Tâm thức của chúng ta vẫn như trước, nhưng cái thể chúng ta dùng trong giấc ngủ
là thể vía thay vì thể xác trong khi chúng ta thức.
Trong lúc chúng ta ngủ, sự sống thiên nhiên vẫn tác động trong thể xác để bồi
dưỡng các tế bào mệt nhọc, nuôi dưỡng các tế bào mới sinh cùng bài tiết các chất
thừa trong cơ thể. Chúng ta là chủ xác thân chúng ta trong khi thức; khi xác thân
ngủ là chúng ta (với tư cách là chủ nhân của nó), chúng ta đi vắng, và trong khi đó
xác thân có dịp nghỉ ngơi và phục hồi sức lực cho đến lúc chúng ta trở về là lúc xác
thân tỉnh giấc để các tế bào hoạt động trở lại đáp ứng với tư tưởng, cảm xúc và ý
chí của chúng ta. VÌ khi chúng ta thức thể xác hoạt động như vậy, cho nên thể xác
mới mỏi mệt và cần nghỉ ngơi trong lúc ngủ. Và sở dĩ giấc ngủ khỏe là vì chúng ta
vắng mặt.
Đôi khi, lúc tỉnh giấc, chúng ta có thể bắt trí óc chúng ta nhớ lại một kinh nghiệm
hay một sự việc xảy ra trong lúc ngủ. Khi chúng ta nhớ lại được, đó là một giấc
mộng hợp lý dù cho đó chỉ là một sự nhớ lại.
Nếu chúng ta liên kết được tâm thức lúc thức và tâm thức lúc ngủ, thì chúng ta trở
thành một con người năng linh, nghĩa là một con người đã được mở một ít quan
năng linh cảm khả dĩ giúp mình tiếp xúc với cõi vô hình như nhãn thông, nhĩ
thông… (Trong truyện Phong Thần của Trung Hoa, ta thấy đầy rẫy những nhân vật
năng linh như Khương Tử Nha, Dương Tiễn, Na Tra…) Sự phát triển tâm linh là
sự nới rộng giới hạn tâm thức lúc thức (mà chúng ta gọi là giác thức) bằng sự khai
mở một vài quyền năng ẩn tàng trong con người.

 Vân hà hàng phục kỳ tâm?


 Tâm tử thần hoạt.
CHƯƠNG 2 – TẠI SAO TA KHÔNG NĂNG LINH?
I. Tấm màn u minh
Chúng ta đã nhận thức rằng có một cõi vô hình bao quanh chúng ta; ban đêm
chúng ta không nhớ lại được các hành động này bởi vì thần kinh hệ của chúng ta
không có cái cảm lực cần thiết; những sự kiện trên khiến chúng ta linh cảm thấy có
một bức màn u minh bưng bít chúng ta và chúng ta thấy nẩy ra ý muốn vén hay xé
bỏ bức màn ấy đi. Nhưng chúng ta hay thận trọng, đừng để cho sự thèm khái hiểu
biết làm hại chúng ta. Nếu toàn thể nhân loại không trở thành năng linh là vì có
những lý do quan trọng, những quy luật sáng suốt do Ơn Trên sắp đặt. Một người
làm công đem biếu chủ một bông hoa sen còn đọng sương đêm vừa hé nhụy.
Người chủ cám ơn và bảo anh ta đem ngâm bông hoa vào trong bình nước. Muốn
làm đẹp lòng chủ, anh ta mở cánh hoa mịn màng để lộ gương sen tươi thắm. Sau
đó vài giờ, cánh sen trở nên úa tím mặc dù bông sen vẫn được ngâm trong nước.
Nếu chúng ta khai mở quyền năng của chúng ta sớm quá, chúng ta sẽ trở nên suy
nhược và sớm tàn úa như vậy. Chúng ta không nên đem những phương pháp này
phương pháp nọ thí nghiệm với khối óc chúng ta vì làm như thế rất có thể chúng ta
làm hư hỏng bộ thần kinh hệ tế nhị của chúng ta. Một công phu sai lạc, một cố
gắng quá sức có thể gây thương tích trong cơ cấu phức tạp của bộ thần kinh khiến
cho ta mang bệnh suốt đời. Trước khi làm thức tỉnh quyền năng tiềm tàng của
chúng thì chúng ta cần phải hiểu thật rõ những điều ta phải làm; chúng ta phải hiểu
rõ phương pháp khai mở cùng những kết quả của nó; nếu không hiểu rõ mà cứ làm
thì chắc chắn tinh thần chúng ta sẽ bị nguy hại.
2. Những lời khuyên nguy hiểm
Chúng ta không nên nhắm mắt nghe theo những lời chỉ bảo khuyên nhủ đầy rẫy
trong hàng ngàn cuốn sách xuất bản khắp nơi, vì lời khuyên bảo đó thường sai lầm
và có hại. Khoa tâm linh học hiện giờ được rất nhiều người chú ý đến cho nên
những sách vở về khoa này cũng xuất hiện rất nhiều để đáp ứng với nhu cầu nhưng
những sách thực có giá trị thì không được bao nhiêu. Rất nhiều cuốn sách được
viết ra không phải để hướng dẫn người đọc một cách hữu ích, nhưng chỉ để thỏa
mãn tính hiếu kỳ của họ mà thôi. Tác giả những cuốn sách đó không nghĩ đến tai
hại của những điều họ chỉ dẫn, vì mục đích chính của họ là viết sách để kiếm tiền.
Phần nhiều những sách họ sưu tầm là những sách Ấn Độ nói về bùa chú, phép phù,
không được các bậc tu sĩ chân chính tín nhiệm. Họ hấp tấp đọc qua rồi rút ra các
cách tu luyện thân thể nhằm mục đích đánh thức các quyền năng tâm linh thấp kém
rồi trình bầy lại cho các độc giả dễ tin dưới những lời tựa huyền bí hấp dẫn. Họ
thường tự giới thiệu là những nhóm huyền môn, và rất nhiều người tin theo những
lời chỉ dẫn của họ đem ra thực hành cho đến khi tai hại xảy ra.
Sự chế tạo chất nổ rất nguy hiểm, cho nên không ai bắt tay vào công việc này mà
không tìm hiểu cặn kẽ hay tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn. Về sự tu luyện
tâm linh, tuy công việc không kém phần nguy hiểm, nhưng nhiều người chủ quan
rất tự tin và cho rằng mình đã hiểu biết tất cả, không sai lầm và nhất quyết tu
luyện. Có lẽ chính vì lẽ đó mà nhiều người tu luyện, sau một thời gian đã mắc bệnh
loạn trí, nhất là ở Tây phương.
3. Phải sáng suốt và hãy tự biết mình
Nghiên cứu tâm linh, chúng ta phải tận dụng khả năng quán xét cho hợp lý, phải
sáng suốt y như khi chúng ta giải quyết những việc thiết yếu của đời sống mình.
Trước một tin tức tâm linh, chúng ta phải phân biện, đắn đo thận trọng như đối với
một bức thư quan trọng. Ta không cần phải nhắm mắt tin tưởng, ngưỡng mộ hay
tôn sùng. Trái lại, ta phải vận dụng tất cả khả năng xét đoán của ta.
Có những người thông minh, khi sang qua lĩnh vực tâm linh dường như mất hết
quan năng suy luận. Họ dễ dàng tán dương những điềm thấy trong chiêm bao và
cho ngay rằng những cuộc tiếp xúc của họ với các bậc siêu phàm; họ cho những
phản ứng xấu của óc tưởng tượng hỗn loạn là những hoạt động quỉ quái của bọn
phù thủy, và gán cho một chân sư linh hiển những lời mộc mạc tầm thường nổi lên
trong tâm họ. Phải đợi nhiều năm họ mới trở lại bình thường, cho nên một thái độ
hoài nghi chân chính còn hơn là sự tin nhảm của một số người.
Trên phương diện huyền môn, có rất nhiều phương pháp, đúng cũng có mà sai
cũng nhiều, cho nên ai muốn thành công cần áp dụng lời khuyên của Socrate và
của Khổng Tử là “Hãy tự biết mình”.
Sự tự biết mình đòi hỏi nhiều năm tu tịnh, thiền quán; nó cũng đòi hỏi lòng vị tha
phụng sự những người khác: tu tịnh và phụng sự có đặc tính mở mang các quan
năng tâm linh tiềm ẩn trong ta.
Trong tâm chúng ta, có những quyền năng vi diệu mà chúng ta chưa thăm dò tới,
có những năng lực mà chúng ta chưa biết đến, những nguồn khí lực mà chúng ta
chưa ý thức được sự hùng hậu. Có những cõi rất cao ở tâm ta mà ta không ngờ đến,
nhưng ta có thể đạt tới được do đó người chỉ nguyện quyết tâm tu luyện sẽ không
lui bước trước bất cứ một trở ngại nào. Đó mới thực là mục đích của các kiếp sống
chúng ta ở cõi trần.
4. Sự năng linh quá sớm
Có những lý do quan trọng khiến cho các quan năng tâm linh của chúng ta không
được khai mở sớm. Một khi những quan năng tâm linh được khai mở thì người ta
cảm xúc được ảnh hưởng và năng lực của cõi vô hình, nhưng nếu khai mở sớm và
con người chưa được chuẩn bị đầy đủ thì việc tiếp xúc với cõi vô hình lại có hại
nhiều hơn là có lợi. Tạo Hóa rất sáng suốt, và nếu các định luật thiên nhiên (hay
thiên luật) được tôn trọng thì không bao giờ một quan năng tâm linh lại được khai
mở trong khi con người chưa sử dụng được nó. Chúng ta không nên ao ước một sự
phát triển tâm linh quá sớm vì lý do đó.
Trước khi muốn tâm linh được khai mở, chúng ta cần phải tu tâm dưỡng tính, vì
đây mới thực sự là căn bản của sự khai mở tâm linh. Chúng ta hãy tập sống thanh
thản, bình dị, sống yêu thương, vị tha, bền tâm vững chí kiên quyết trên đường tu
đạo, thì rồi sẽ đến một ngày nào đó tâm linh chúng ta tự nhiên được khai mở, cho
phép chúng ta thám hiểm cõi bên kia rất khác so sánh với cõi trần chúng ta đang
hiện sống để thu thập kinh nghiệm. Chúng ta phải kiên nhẫn, đừng nóng lòng sốt
ruột, phải chuẩn bị đầy đủ như một nhà thám hiểm rừng sâu bên Phi Châu phải
mang theo mình lương khô và khí giới trước khi lên đường. Chúng ta nên thành
khẩn nhìn nhận rằng chúng ta chưa sẵn sàng để nhận sự khai mở tâm linh hơn là để
thất bại vì chưa chuẩn bị.
5. Các loại ảnh hưởng tâm linh
Một trong những ảnh hưởng khủng khiếp nhất mà ta phải chịu và không sao thoát
khỏi được vì đã mở quan năng tâm linh quá sớm là ảnh hưởng do một vong linh
hung dữ gây ra cho ta. Người ta thường đinh ninh khi hành quyết một kẻ sát nhân
là hành động tàn ác của hắn đã được chấm dứt. Nhưng sau khi chết, con người
không bỗng nhiên trở nên thánh thiện và cũng không đi đâu xa, và vẫn còn lẩn
quẩn quanh những người sống. Chỉ có những người đạo hạnh, sau khi từ trần, mới
được lên trên các tầng cao của cõi vô hình. Còn những người thấp kém, đã từng
gây án mạng, hay đam mê dục lạc lúc sinh tiền thì phải lẩn quất trong các tầng thấp
nhất gần trái đất. Với mục đích thỏa mãn những dục vọng thấp hèn đang dày vò họ,
họ ám ảnh những người sống, nhất là những người nghiện rượu và xui giục nhưng
người đó làm những điều xấu xa, tội lỗi. Những người năng linh quá sớm sẽ chịu
ảnh hưởng khốc hại này mà không thể chống đỡ được vì non nớt, chưa có những
kinh nghiệm cần thiết.
Một lý do khác khiến Tạo Hóa từ chối khai mở quan năng tâm linh cho những
người chưa được chuẩn bị là sự hiện diện ở chung quanh chúng ta những sinh linh
kém tiến hóa hơn nhân loại. Các sinh linh này chống đối với nhân loại nhưng
không thể làm hại nhân loại được vì lẽ chúng thuộc cõi vô hình. Nếu loài người
khai mở quan năng quá sớm, thiếu chuẩn bị, thì mặc nhiên tự đặt mình dưới ảnh
hưởng của những sinh linh ấy, và sẽ rút ra một bài học rất đau khổ.
Hơn nữa, khi quan năng tâm linh chúng ta thức động, chúng ta sẽ cảm xúc được
những tư tưởng, tình cảm, dục vọng phóng ra trong cõi vô hình dưới hình thức
những ba động do hàng triệu con người sống tụ tập ở các đô thị. Chúng ta sống
trong một biển hình ảnh xuất phát liên tiếp từ trí óc linh động của loài người;
những hình ảnh đó sẽ xâm chiếm tâm trí chúng ta để gây nhiều tai hại nếu chúng ta
không kiểm soát và chủ trị được quan năng trí tuệ của chúng ta. Sự xâm chiếm này
sẽ trở nên một ác mộng đối với những ai tu tập sai đường, vì những tư tưởng, tình
cảm quay cuồng trong một thành phố thường xấu xa, vị kỷ và duy vật, chỉ thỉnh
thoảng, họa hoằn lắm, mới thấy có màu sắc tươi đẹp, trong sáng của tình thương và
của hoài vọng tinh thần.
6. Màn bảo vệ
Đến đây, chúng ta đề cập đến một trong những phát minh quan trọng nhất của
huyền môn học: đó là phương pháp giản dị và hữu hiệu nhờ đó Tạo Hóa ngăn cản
sự khai mở quá sớm các quan năng tâm linh (còn được gọi là sự mở huệ).
Ai đã học qua về điện đều biết rằng nếu ta bao hai đầu một sợi dây dẫn điện bằng
sáp và ráp hai đầu dây lại thì luồng điện không chạy qua được, Nhưng nếu ta gỡ
sáp đó ra, dù chỉ một ít thôi, thì điện sẽ xẹt ra ngay được. Cơ cấu tâm linh của con
người cũng giống như thế. Trong thể vía và thể và thể phách của chúng ta, có
những trung tâm được đặt để khiến chúng gần như đụng các trung tâm tương ứng
của thể xác. Nếu các sinh lực của cõi vô hình có thể đi xuyên qua các trung tâm
của thể vía và thể phách để ảnh hưởng các trung tâm của thể xác thì cơ quan năng
linh sẽ thức động.
Tạo Hóa sáng suốt tránh sự thức động ấy bằng cách đặt một màn lưới mỏng phân
cách các loại trung tâm để ngăn cản luồng sinh lực chạy xuyên qua các thể. Màn
lưới ấy được tạo nên bằng một lớp nguyên tử hồng trần ép chặt (une couche
d’atomes ultimes physiques). Nó để cho các sinh lực nuôi dưỡng các thể lưu không
dễ dàng qua nó và chặn đứng các loại ảnh hưởng khác trừ khi nào nó bị tách ra.
Sự năng linh đã được nghiên cứu từ thời cổ xưa bên Ấn Độ, cũng như ở các trường
huyền môn chân chính khác, và lần lần, đã trở thành một khoa học chính xác.
Những ai biết sự năng linh là một sự thật vô cùng hệ trọng bao giờ cũng hết sức
thận trọng trong việc tu tập. Muốn cho năng linh được khai mở, người tu tập phải
chuẩn bị mình thật đầy đủ phải tu tâm dưỡng tính chuyên cần và kiên nhẫn, và
đừng bao giờ chờ đợi ngày năng linh khai mở (ngày mở huệ): và khi nào ta hội đủ
được những đức tính cần thiết thì tự nhiên năng linh sẽ khai mở.
Một nhà huyền môn chân chính không khi nào dạy cách Phát triển tâm linh cho
những người ích kỷ, tục tằn, vì dạy như thế không khác gì đưa chất nổ cho trẻ em,
giống như trường hợp những người Triệt giáo trong truyện Phong thần khi nhà
Châu của Võ Vương mở nước. Trong truyện Phong thần, Thông Thiên giáo chủ,
vào hành sư đệ của Lão Tử đã không lựa chọn kỹ lưỡng các môn đệ và cho phép
họ phát triển tâm linh một cách bừa bãi, khiến cho lũ học trò đó trở thành tà dạo, tự
ngăn chặn sự tiến hóa của mình trong nhiều kiếp và gây đau khổ cho những người
khác, khiến cho Thần Linh phải ghi tên họ vào bảng Phong thần cho họ chết đi để
khỏi tác hại.
Khai mở năng linh là một bước tiến cao trên đường tu đạo. Cho đến khi nào ta
chưa sử dụng được các khả năng sẵn có của ta vào những mục đích vị tha thì ta
không nên đòi hỏi được khai mở, vì chắc chắn cái hại sẽ đến với ta nhiều hơn là
những điều lợi lạc.
CHƯƠNG 3 – SỰ GIAO CẢM NĂNG LINH(I)
1. Sự truyền cảm của đời sống
Các tư tưởng đến với chúng ta, dù từ trí não chúng ta hay từ trí não của người
khác, đều do cõi vô hình chuyển đến, vì tư tưởng và tình cảm phát sinh tại cõi này.
Những ý và tình nảy ra trong tâm trí chúng ta chẳng qua là những sự phóng tác
vụng về trong khối óc vật chất, những ba động trí thức và tình cảm tương tự các
làn sóng phát thanh, của một trí tuệ vô cùng linh động.
Mỗi khối óc là một máy thu thanh. Tư tưởng và tình cảm có thể truyền từ trí óc
người này đến trí óc người khác trong chớp nhoáng (theo một tốc độ tức khắc), mà
không cần đến lời nói. Thực tế là như thế, nhưng chúng ta chưa ý thức được rằng
các cảm nghĩ mà chúng ta cho là của riêng của chúng ta chỉ một mình chúng ta mới
có, chỉ là những tư tưởng, cảm tình của nhiều kẻ khác được phóng tác lại trong tâm
trí chúng ta mà thôi.
Các ấn tượng cách cảm ấy được truyền liên tiếp từ người này đến người khác, từ
đám đông này đến đám đông kia, cho nên tạo ra giữa dân cư một thành phố hay
quần chúng một quốc gia, một lối suy luận riêng, một thái độ riêng. Cái thái đọ này
gây một áp lực mạnh mẽ như áp lực của bầu khí quyển chúng ta hô hấp. Chúng ta
không cảm thấy áp lực đó, nhưng không ai thoát khỏi ảnh hưởng của nó. Sự vui vẻ
quá độ ở hí viện; sự bồng bột khiến ta la lối reo hò trong một trận túc cầu; sự say
mê âm nhạc hay hội họa đột nhiên nổi lên trong lòng ta khi ta trò chuyện với nghệ
sĩ; sự thích thú một quyển sách được nhiều người khen ngợi; sự sầu não trong một
đám tang; sự chán nản ở một buổi tiệc khi có mặt một người khách buồn rầu; sự
nóng tính nơi một buổi họp khi có một người giận dỗi: các tình cảm hỉ, nộ, ai, lạc
này không phải của ta mà chính là của những người khác truyền sang tâm trí ta và
ảnh hưởng mạnh mẽ đến ta khiến ta cũng bày tỏ một thái độ tương tự.
Thái độ của chúng ta phải như thế nào, khi chúng ta biết rằng sự buồn rầu hay phấn
khởi của chúng ta đều tùy thuộc vào hoàn cảnh hay tùy thuộc những người xa gần
với chúng ta ? – chúng ta phải tích cực, phải chống cự lại những tư tưởng và tình
cảm xấu của những kẻ khác đang lăm le xâm chiếm tâm trí chúng ta khiến cho
chúng ta cư xử không được đẹp. Sự tich cực chống lại những ảnh hưởng xấu này
không khó, chúng ta hãy tự nhủ “Các ý nghĩ, tư tưởng xấu này không khó, chúng
ta hãy tự nhủ mà buồn rầu hay chán nản. Mình không nên để cho các tư tưởng ấy
xâm nhập tâm trí mình; chúng phải đi nơi khác. Mình muốn vui vẻ, lạc quan và
yêu đời. Mình là ánh sáng hóa thân, và là một điểm linh quang của Thượng Đế”.
Một thái độ như thế rất kiến hiệu trên đường tiến hóa tâm linh.
2. Sự truyền cảm của người chết
Không những người sống mà cả những người chết cũng truyền tư tưởng và tình
cảm đến tâm trí chúng ta, vì sự chết của xác thân không ảnh hưởng đến trí tuệ của
con người.
Nếu chúng ta muốn hiểu cách thức truyền cảm, thì chúng ta cần ý thức rằng người
chết không cách biệt với các người thân của mình trong một thời gian sau khi từ
trần. Tuy chúng ta không trông thấy họ vì chúng ta không ghi nhận được những ba
động của cõi vô hình, nhưng họ vẫn thấy chúng ta trong khung cảnh hàng ngày,
trong một thời gian vài ba năm là thời gian họ chưa được siêu thoát, tiêu diêu lên
cõi trên, và họ vẫn thiết tha với hạnh phúc của chúng ta như khi còn sinh tiền.
Ban đêm, khi thể xác chúng ta nghỉ ngơi, vía chúng ta gặp các người thân meen đã
quá vãng ở cõi vô hình và chuyện trò với họ như khi còn sống. Ban ngày, tuy
người sống không thấy được người chết nhưng cũng có thể chuyển cho họ những ý
nghĩ thương yêu, và ngược lại, một tư tưởng mạnh mẽ của vong linh cũng có thể
xâm nhập tâm trí ta như tư tưởng của một người sống gần chúng ta. Nhiều tư tưởng
đến với chúng ta như vậy dù chúng ta không ngờ sự truyền cảm từ cõi giới bên kia.
3. Những ảnh hưởng từ cõi vô hình
a) Cảm hứng: Đôi khi, trước một số đông thính giả, một diễn giả được một nhân
vật đang hoạt động giúp đời ở cõi vô hình lưu ý và chuyển cho ông ta những tư
tưởng mạnh mẽ. Trong trường hợp này, diễn giả đột nhiên thấy mình cảm hứng.
Những tư tưởng rõ ràng, những ý niệm sáng sủa mạch lạc hiện ra trong tâm trí ông
ta một cách dồn dập, và lời nói của ông ta trở nên chọn lọc lưu loát thanh tao, hùng
biện và truyền cảm, khiến cho cử tọa mê say và tán thưởng. Đó là một cách di
chuyển tư tưởng quý báu nhất.
b) Viết và vẽ tự động: Ảnh hưởng của các nhân vật ở cõi vô hình có thể biểu hiện
một cách khác hơn là sự di chuyển tư tưởng. Trong nhiều trường hợp, nhân vật ấy
có thể chiếm lấy cánh tay hay bàn tay người sống xuyên qua các trung tâm thần
kinh của người đó để vẽ hay viết. Đó là hiện tượng viết hay vẽ tự động (như cầu
cơ) thường thấy trong những buổi họp thần linh. Trong các trường hợp này, cánh
tay hay bàn tay không còn tùy người sống kiểm soát mà do nhân vật nói trên sử
dụng.
c) Lời nói trong trạng thái xuất thần: Nhân vật ấy cũng có thể dùng cuống họng
của người sống để phát âm nói chuyện với các người hiện diện. Người ngồi “đồng”
có thể không xuất hồn ra hoàn toàn; trong trường hợp ấy, họ vẫn tỉnh táo, biết hết
mọi việc đang xảy ra, nhưng không cưỡng lại được những lời nói bộc phát từ
cuống họng mình. Trái lại, nếu đồng tử xuất hồn ra hoàn toàn để thể xác mình bị
chiếm trọn vẹn, thì cũng ít khi ý thức được những việc xảy ra, và sau buổi nhập
đồng, không nhớ lại được một điều gì, từ lời nói đến cử chỉ. Trong trường hợp này,
nét mặt đồng tử có thể thay đổi.
Chúng ta biết rằng thân thể phản ứng nhanh hay chậm tùy theo tình cảm của chúng
ta. Sắc diện chúng ta thay đổi mỗi lần chúng ta buồn, giận hay vui. Vì vậy, khi một
nhân vật ở cõi vô hình nhập vào thể xác đồng từ, thì lời nói, cách nói của đồng tử
thay đổi đi để giống nhân vật này.
d) Sự hiện hình: Một người ở cõi vô hình còn có thể tiếp xúc với người trần bằng
một cách khác hơn là qua sự trung gian của đồng tử. Họ có thể lấy chất dĩ thái
(ether) (nhưng không phải là chất ether hóa học) trong các thể người sống để tạo ra
một cánh tay dùng xê dịch đồ đạc hay để bao quanh thể vía của mình và hiện ra.
Họ có thể nói năng với hình dạng mới tạo này. Các hiện tượng này được gọi là sự
hiện hình.
Vì những đồ vật hữu hình chỉ có thể bị xê dịch bởi những động lực tác động xuyên
qua một cơ thể hữu hình nên một vong linh chỉ có thể tạo ra một hiện tượng vật
chất khi nào vong linh ấy nhập vào xác người sống hay tự mình hiện ra bằng chất
dĩ thái.
Không phải bất cứ sự hiện hình nào cũng có thể trông thấy được. Có nhiều cách
tạo hình: có hình được tạo bằng chất đặc nhưng không thể trông thấy được, có hình
trông thấy được mặc dù phảng phất giống sương mù, có hình vừa đặc vừa trông
thấy được. Nhưng muốn xê dịch đồ đạc thì hình phải hiện ra bằng chất đặc.
Sau khi chết hình dang con người vẫn giống như lúc sống, có khác chăng là thể của
người đã chết bây giờ không phải làm bằng vật chất hồng trần mà bằng một chất
thanh hơn. Vì vậy cho nên, khi người chết bao quanh thể của họ bằng một lớp dĩ
thái vừa đủ để phản chiếu ánh sáng, thì họ hiện ra giống in hệt lúc còn sinh tiền.
Trong một buổi nhập đồng, một vong linh có thể lấy tên một vị không có mặt tại
đó. Nếu vong linh tưởng tượng giống vị ấy, thì vía của vong linh cũng giống như
vậy theo tư tưởng của mình. Vì vậy, việc mạo danh thường xảy ra trong các buổi
đồng cốt. Lão Tử, Lý Thái Bạch (tiên ông), Victor Hugo (cầu cơ bên Cao Đài giáo)
và các nhân vật cao cả khác mà nhiều người trưởng hiện diện thực trong các buổi
nhập đồng có nhiều công việc quan trọng hơn là đến thốt những lời vô vị, nhất là
những câu thơ lỗi vận, vụng về, cho nên những người sáng suốt không thể tin
được.
đ) Viết trên đá: Sự viết trên đá cũng là một sự hiện hình. Sự kiện xảy ra như sau:
một cây viết được để giữa hai tấm bảng và tất cả được niêm phong cẩn thận. Khi
được vong linh về và muốn viết thì dùng chất dĩ thái của người đồng sử dụng cây
viết và viết. Vì chất dĩ thái có thể đi xuyên qua các chất đặc,(nghĩa là sử dụng được
kích thước thứ tư), một cách dễ dàng nên cái bàn tay bằng chất dĩ thái thọc tay vào
gói, băng ngang qua bảng đá và viết cũng như ta đưa bàn tay ngang qua một làn
khói vậy.
e) Khi nhà huyền môn hiện hình: Đôi khi, một nhà huyền môn hoạt động ở cõi vô
hình cần hiện hình để giúp đỡ một người lâm nạn ở cõi trần. Khi hiện hình như
vậy, nhà huyền môn đó không lấy chất dĩ thái ở đồng cốt mà vận dụng ý chí rút dĩ
thái ở không trung bao quanh thể vía để tạo ra một hình thể có thể nói lên tiếng và
hoạt động như người trần. Khi làm xong việc, ý chí của nhà huyền môn không tập
trung nữa và chất dĩ thái trở về trạng thái cũ, và sự hiện hình chấm dứt; nhà huyền
môn biến đi.
CHƯƠNG 4 – ĐỒNG CỐT VÀ SỰ TRUYỀN CẢM THỤ ĐỘNG
1. Một đặc điểm vật chất
Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất hồn ra khỏi sác. Thể xác của
người đó lại còn phải có một đặc điểm khác: đó là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các
phần tử dĩ thái và các phần khác trong thể xác.
Đặc điểm trên thường có từ lúc mới sinh, nhưng nó cũng có thể được khai mở ở
những nơi tụ tập đặc biệt. Nó không phải là một bằng chứng rằng người có nó tiến
hóa cao hơn mọi người khác, trái lại là đằng khác; khả năng lên đồng là một dấu
hiệu của một linh hồn kém tiến hóa, mặc dù một vài ngoại lệ. Lý do là khả năng
xuất hồn không vượt quá phạm vi thể xác: khi thể xác có một vài đặc điểm cần
thiết thì người ta có thể ngồi đồng. Nó không đòi hỏi một tâm tính thanh cao hay
một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần, nghĩa là bắt buộc phải tu tâm dưỡng
tĩnh.
Nhưng thông thường thì người ta cứ tin rằng những người ngồi đồng được là
những người tâm linh đã phát triển đến một mực độ khá cao. Sự thực không phải
như vậy khả năng ngồi đồng là một khả năng vật chất, nó không tương quan, hay
tương quan rất ít, với những khả tinh thần, gia dĩ những nhà tu hành chân chính
không để ý đến hiện tượng này và coi việc tu xuất hồn có hại nhiều hơn có lợi cho
sự tinh tấn của tinh thần.
2. Thái độ nên có đối với hiện tượng lên đồng
Nhiều người, nhất là ở xứ ta coi sự lên đồng như một tôn giáo và kính trọng lời lẽ
của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lý cao siêu. Thái độ
này không hợp lý.
Lời lẽ của vong linh do đồng cốt chuyển lại thực ra không khác gì lời lẽ ta nghe
được của những người xướng ngôn đài phát thanh. Trong cả hai trường hợp, lời lẽ
vẫn phát xuất từ một người thường, có khác họa chăng là một đằng nó được
chuyển qua máy phát thanh, còn một đàng thì do xác đồng tử. Người ta không tôn
sùng những lời nói của người xướng ngôn đài phát thanh thì thuận lý ra cũng
không thể tôn sùng những lời nói của vong linh truyền cho người ngồi đồng được.
Việc một người chết dùng xác người đồng cũng giống như việc ta dùng điện thoại:
Sự kiện đó không có tính cách tâm linh gì hết. Nhưng chúng ta có thói quen gọi
người vừa bỏ xác, nghĩa là người chết là “vong linh” hay “anh linh”. Thói quen
này gây ra nhiều sự hiểu lầm khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết thái quá.
Điều cần biết là, ngay bây giờ, chúng ta cũng là nhưng linh hồn, và sau khi từ trần,
chúng ta chỉ mất thể xác thôi chứ còn về phương diện tâm linh chúng ta vẫn y như
trước. Nếu trong lúc sinh tiền, anh Ất ăn nói dông dài thì khi chết anh ta cũng vẫn
thế; anh ta có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo thuyết pháp đi chăng nữa, thì
lời lẽ của anh ta cũng không giá trị gì hơn lúc anh ta còn sống.
Chúng ta quen bao trùm cái chết và những điều xảy ra bên kia thế giới bằng một
bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích lợi gì cả. Khi
một người đồng thốt ra một điều gì, chúng ta nên đón nhận như lời một người bạn
quen, thế thôi, không hơn không kém, và vẫn phải vận dụng trí khôn của chúng ta
mà xét đoán về giá trị của những lời nói ấy.
3. Tìm hiểu hiện tượng đồng cốt
a) Trinh nữ dâng hương (les vierges vestales)

Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cõi trần và cõi vô
hình. Lịch sử và các công trình nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đã có
trên hai ngàn năm nay. Trong các đền thờ vĩ đại thời xưa ở Châu Ắt Lăng
(Atlantide, hiện bị chôn vùi dưới lòng biển cả Đại Tây Dương). Bên Ai Cập hay
Hy Lạp, khi các tu sĩ đạo hạnh có huệ nhãn quan sát quá khứ, thì có những trinh nữ
dâng hương, những vũ nữ và đồng nữ đến phụ lễ, để chuyển lại những lời lẽ quý
báu của các bậc Thần Linh cho các tín đồ kính cẩn và yên lặng nghe.
Các trinh nữ đó đều thuộc những gia đình quý phái và được nuôi dưỡng trong các
đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc, tinh khiết và được
giáo dục ngăn ngừa những tư tưởng xấu tiêm nhiễm. Được chăm nom và giáo dục
cẩn mật như vậy họ mới tránh được những ảnh hưởng tai hại và mới được sửa soạn
chuẩn bị để làm phương tiện thanh khiết phát ngôn những giáo lý cao siêu do các
vị chân nhân chưởng giáo nhập vào họ truyền dạy.
Việc rời bỏ xác thân để một vị cao cả thiêng liêng sử dụng không phải là một điều
nguy hại. Có nhiều nhà huyền môn và những bậc điểm đạo (inities) làm như vậy
khi họ biết rõ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ, và trong lúc họ rời khỏi xác thân,
họ vẫn ý thức được những điều xảy ra. Họ còn có dịp đứng bên vị chưởng giáo để
được nghe lời chỉ dạy.
b) Sự nguy hại của đồng cốt:

Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyên
nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống uế tạp của đồng cốt.
Họ không được tiến hóa đến mức có thể lựa chọn những vị cao cả để mời nhập vào
thân xác mình. Khi họ xuất hồn rời thể xác, họ mê và không còn hoạt động được.
Vì không được tu luyện nên tâm thức họ phất phơ như trong giấc mộng với những
tư tưởng quen thuộc hàng ngày. Trong khi đó, một vong linh nhập vào cái xác
trống (không có hồn) của họ và thuyết giảng trước một cử tọa kính cẩn. Vong linh
này một đôi khi cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, vong linh ấy cũng tầm
thường như người trần tục chứ không phải toàn năng, toàn trí gì để có thể che chở
hữu hiệu và không sai lầm.
Nếu chúng ta biết rằng ở cõi vô hình, nhất là ở các tầng thấp mà đồng cốt thường
tiếp xúc, có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, thì chúng ta đừng ngạc
nhiên khi thấy những vong linh ấy tỏ ý định rõ rệt muốn chiếm đoạt thể xác của
người đồng. Kết quả là thể xác người đồng bị vong linh hành hạ và trở nên uế tạp.
c) Những nơi ô uế

Chúng ta ai nấy chắc cũng đã có lần tham dự một buổi lên đồng. Trong số những
người hiện diện, ta thấy không mấy người có học và nét mặt hiện hòa: phần đông
đến vì tò mò hay để thỏa mãn một dục vọng cá nhân. Họ thường ăn thịt, uống rượu
và nhiều khi không được sạch sẽ nên phát ra những mùi hôi hám khó chịu.
Người đồng nhiều khi cũng không kiêng cữ rượu cho nên từ điện của họ cũng dơ
bẩn và xấu. Trong các điều kiện ấy, thử hỏi làm sao mà các bậc tiên thánh có thể
bằng lòng sử dụng thân xác của họ? Thể xác của họ ví như một bộ quần áo bẩn,
một người sạch sẽ làm sao mà mặc nó vào được?
Do đó, những giáo lý đồng cốt thốt ra không có giá trị, vì các nhân vật quan trọng
trên cõi vô hình không đến nhập vào họ, dù cho nơi đó có mặt thân nhân của các vị
ấy. Thay cho những vị ấy là những vong linh tầm thường đến nhập vào người đồng
rồi, để cho uy tín, mạo danh vị này, đấng nọ truyền dạy những điều vô vị.
d) Những điều kiện lý tưởng

Nếu các điều kiện nói trên được thay đổi đi, nếu những người đến dự gồm những
người trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, và nếu những người đồng là
những người có tu luyện, ăn chay giữ giới cẩn trọng, tư tưởng thanh cao và xác
thân trong sạch, thì những kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Khoa thần linh học, nếu
muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học, nhất thiết phải tạo
ra những điều kiện trên và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ, đừng để cho họ bị lợi
dùng bởi những bọn người dốt nát, buôn thần bán thánh, khai thác tính hiếu kỳ dị
đoan của người đời để mưu sinh như bất cứ với một nghề tầm thường nào khác.
đ) Sự hiện hình làm suy yếu thần kinh

Sự hiện hình bao giờ cũng làm hại sức khỏe đồng cốt, và một đôi khi, còn làm
nguy đến tính mạng của họ nữa. Lý do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác
để hiện hình thì luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác (sinh khí) bị bớt đi nhiều làm
cho thể xác kiệt sức. Các bộ phận trong người đều bị xáo trộn, nhất là tim, bộ phận
thần kinh và bộ tiêu hóa. Thần kinh bị căng thẳng và suy yếu bắt buộc người đồng
phải dùng những chất kích thích; do đó, nhiều người đồng trở nên nghiện rượu.
Mặt khác, khi chất dĩ thái của thể xác được một vong linh dùng để hiện hình, chất
ấy sẽ thu hút một phần từ khí và thu nhận ít nhiều những ba động của vong linh đó.
Nếu vong linh thuộc loại dâm dật, xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm và khi nó được
hoàn lại cho người đồng, nó vẫn giữ ảnh hưởng tiêm nhiễm và khiến cho người
đồng cũng trở nên dâm dật xảo trả. Những người đến dự những buổi hiện hình này
cũng bị rút một ít chất dĩ thái của mình để phụ với một ít chất dĩ thái của mình để
phụ với đồng cốt và vì thế họ cũng bị ô nhiễm một phần. Bởi vậy cho nên, những
nhà huyền môn chân chính không bao giờ khuyến khích sự hiện hình.
e) Sự ám ảnh

Những người có thần nhãn, khi quan sát một buổi lên đồng, thuật lại rằng các vong
linh cũng đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, còn những
vong linh khác thì tìm cách ảnh hưởng cử tọa. Một đôi khi, có vong linh xé rách
được tấm màn bảo vệ đã được nói tới trong một chương trước và có thể lộng hành
đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh và gây cho nạn nhân đủ thứ đau buồn, tai họa.
Vong linh đó muốn trở lại cõi trần sống lại đời sống vật chất mà họ vẫn còn thèm
khát, và nếu không được thỏa mãn, có thể hành xác người bị ám một cách tàn nhẫn
ác độc.
Trong trường hợp màn bảo vệ không bị rách, một vong linh cũng vẫn có thể để ý
đến một người nào, rồi theo người đó về nhà để phá phách đủ cách. Trẻ con nhỏ rất
dễ bị ám ảnh như thế bởi vong linh.
Các buổi họp riêng thường ít nguy hiểm hơn, vì cử tọa được chọn lọc, mặc dù
những sự nguy hiểm vẫn còn nguyên vẹn. Cho nên các nhà huyền môn không bao
giờ khuyến khích những buổi lên đồng, trừ những trường hợp trong đó có thể thực
hiện được những điều kiện của thời trinh nữ dâng hương.
CHƯƠNG 5 – TÂM THỨC SIÊU ĐẲNG (La Supraconscience)
De carnali spiritualem eficit.
Từ nhục thể biến cải thành tinh thần
1- KHẢ NĂNG GIỚI HẠN CỦA KHỐI ÓC
Tính năng linh không phải là siêu nhiên, nó chỉ đòi hỏi sự khai mở những đường
liên lạc mới giữa khối óc và tâm thức siêu đẳng (la supraconscience). Khối óc, tự
nó, không phát sinh tư tưởng, mà chỉ phỏng họa những ba động của trí tuệ. Vì hoạt
động trí tuệ phát xuất từ chân ngã bên trong, luôn luôn hiện hữu dù có khối óc hay
không có khối óc, chúng ta có thể quả quyết rằng mỗi tư tưởng, mỗi tình cảm của
chúng ta, ngoại trừ trường hợp chúng được tiếp nhận do truyền cảm – đều do tâm
thức siêu đẳng của chúng ta chuyển đến.
Có một điều chúng ta cần hiểu rõ, là: cái mà chúng ta quen gọi là tâm thức sự thực
chỉ là một phần của tâm thức mà thôi.
Khối óc của chúng ta là một cơ quan; nó đáp ứng rất khéo léo đối với những hoạt
động trí thức, nhưng nó bị hạn chế và kém khả năng phỏng họa, nhất là đối với
những rung động tế nhị của những tình cảm và tư tưởng cao siêu.
Khả năng đó thay đổi tùy người. Khối óc của kẻ quê mùa chất phác có thể phát
biểu tất cả mọi ý nghĩ của họ vì những ý nghĩ này đơn giản, chỉ liên hệ đến công ăn
việc làm, những kiến thức phong phú của một người học rộng chỉ có thể phát biểu
một ít xuyên qua loại óc hiện tại của con người.
2 – SỰ ĐIỀU HÀNH CỦA TÂM THỨC
Về tâm thức của con người, nhà huyền môn có thần nhãn hiểu nó ra sao? Tâm thức
là một, nhưng khi nó biểu hiện xuyên qua một thể chất, cách biểu hiện của nó thay
đổi tùy theo thể chất này.
Nếu chúng ta cho một sợi dây điện chạy qua một ống thủy tinh đựng hơi thủy
ngân, rồi chạy qua bô-bin Ruhmkorff vá sau cùng chạy vào một sợi dây xoắn từ
khí, sợi dây điện sẽ tạo ra ba hiện tượng khác nhau tùy theo thể chất nó xuyên qua.
Hơi thủy ngân sẽ chiếu xanh, dây bô bin sẽ nóng, còn sợi dây xoắn sẽ phát ra từ
khí. Tâm thức con người cũng giống như thể. Khi nó tác động ở cõi vô hình, nghĩa
là ở tầng cao, nó tạo ra tư tưởng, ở tầng thấp hơn, nó phát sinh ra tình cảm, dục
vọng; còn ở vật chất, nghĩa là tầng thấp nhất, thì nó tạo ra tâm thức tự động được
biểu hiện ở các thói quen.
Tâm thức tự động này khác với tâm thức thông thường của chúng ta khi chúng ta
tỉnh thức, thường được gọi là giác thức. Tâm thức tự động là tiềm thức, chỉ thỉnh
thoảng mới hiện ra trong các tư tưởng hằng ngày. Khi chúng ta tự nhiên né sang
một bên để tránh một cái đánh thình lình thì đó là do tác động của tiềm thức. Giác
thức là phần của tâm thức phát biểu qua khối óc. Còn phần tâm thức không phát
biểu được vì qua cao thì được gọi là siêu thức.
Bởi thế nhà huyền học phân tâm thức ra làm ba: tiềm thức hay tâm thức tự động
(subconscience), giác thức hay tâm thức bình thường khi tỉnh thức (conscience) và
siêu thức hay tâm thức siêu đẳng (supraconscience)
3-TIỀM THỨC
Tiềm thức hay tâm thức tự động phát biểu xuyên qua bộ thần kinh giao cảm
(systeme nerveux sympathique) và các trung tâm phản ứng của hệ thống não tủy
(centres reflexes du systeme cerebrospinal). Tiềm thức kiểm soát sự sinh hoạt của
các tế bào xác thân, điều hòa hoạt động của các bộ phận và lưu giữ ở trí óc chúng
ta những hành động mà chúng ta thường làm nhưng không ý thức đến hay nghĩ
đến. Đó là lĩnh vực của bản năng và của thói quen.
Tác động viết là một thí dụ. Khi chúng ta tập viết, chúng ta thường gặp nhiều khó
khăn. Mỗi lúc tâm thức ta phải tác động xuyên qua khối óc và ta phải suy nghĩ
nhiều về mỗi chữ viết ra. Sau đó quen đi, ta không còn suy nghĩ hay cố gắng gì nữa
vì công việc đã thuộc về lĩnh vực tâm thức tự động. Nhờ vậy, khối óc được rảnh
rang để suy tư những việc khác.
Khi chúng ta tập xe đạp cũng thế. Lúc đầu tâm thức chúng ta phải hoạt động nhiều
để xe đừng chạy xuống hố hay đâm vào cây. Nhưng khi đã chạy được rồi, chúng ta
không còn phải suy nghĩ gì nữa, ta lên xe là tay lái, chân đạp một cách tự nhiên
như khi ta đi bộ vậy, trí óc ta không còn kiểm soát những cử động nữa nhường lại
quyền kiểm soát này cho tiềm thức.
Khi tâm thức tự động quen điều khiển một vài cử động nào rồi nếu muốn sửa lại
cái thói quen ấy ta phải mất một thời gian mới có thể tạo một thói quen khác. Việc
này không khó miễn là ta chịu tập lại cho đến khi nào thói quen mới nhập vào lĩnh
vực tiềm thức thì thôi. Nhà huyền môn khai thác cách thức này để tạo cho mình
những tập quán tốt đẹp.
4-SIÊU THỨC
Siêu thức gồm những tư tưởng và tình cảm mà khối óc không phát biểu được vì bị
hạn chế trong cơ cấu và quá thô sơ. Tư tưởng và tình cảm đó rất nhiều. Chính nhờ
chúng mà đời sống tinh thần của chúng ta được phong phú. Không có chúng,
chúng ta sẽ không còn là người mà chỉ là một kết hợp những tế bào và khối óc
chúng ta sẽ mất khả năng suy tư.
Thỉnh thoảng, một tình cảm, một tư tưởng từ cõi siêu thức chuyển xuống khối óc.
Đó là một âm điệu thiêng liêng thoạt đến tai nhạc sĩ, một ý thơ tuyệt diệu làm cảm
hứng thi nhân; đó cũng là sự hào hùng làm phấn khởi chí nam nhi, một ý niệm tân
kỳ soi sáng bậc thiên tài, một lòng dũng cảm bồng bột thúc dục binh sĩ chiến đấu
ngoài mặt trận.
5 – SỰ NHỚ LẠI NHỮNG KINH NGHIỆ SIÊU HÌNH
Trong một giấc ngủ êm ái, siêu thức có thể giữ lại ở khối óc một vài kiến thức,
nhưng việc này ít khi xảy ra vì khối óc ta đầy rẫy những hình ảnh lộn xộn của các
việc đã xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Khối óc tự nó, không có một sự khôn
ngoan nào. Nó chỉ là cơ quan thụ cảm, chỉ biết ghi nhận một cách máy móc những
rung động đã quen thuộc.
Khi thiếu một sự điều khiển thông minh nó chỉ lập lại những hình ảnh mù mờ thiếu
sót, nối tiếp nhau một cách ngờ nghệch không có mạch lạc ý nghĩa gì. Tuy nhiên,
nếu chúng ta cố gắng tinh luyện, chúng ta có thể giữ lại trong khối óc những ấn
tượng rõ ràng, chính xác của những sự việc xảy ra trong cõi vô hình khi chúng ta
sang qua đó. Những ấn tượng này tạo nên những giấc mộng hợp lý, có diễn tiến và
kết cấu mạch lạc.
6- TIÊN TRI
Do một phương pháp mà giác thức chúng ta chưa giải thích được chúng ta có thể
thấy được trước những sự việc xảy ra trong tương lai khi chúng ta ngủ và chuyển
các sự việc ấy sang giác thức.
Khi chúng ta đứng trên một ngọn đồi nhìn hai chiếc xe lửa chạy ngược chiều nhau
cùng trên một đường ray, chúng ta có thể biết trước chúng đụng nhau vào giờ phút
nào đó, trong khi những hành khách trên xe tuyệt nhiên không hề hay biết gì về tai
nạn sắp xảy ra.
Trong cõi vô hình, chúng ta có thể ở trong một vị trí tương tự để quan sát các sự
việc và biết trước được sự diễn tiến của chúng.
7 – LIÊN LẠC VỚI SIÊU THỨC
Khi chúng ta thanh lọc thân thể, khối óc và bộ thần kinh của chúng ta đến mức
thông cảm được với siêu thức, một năng khiếu đặc biệt sẽ phát sinh: đó là nhãn
thông. Năng khiếu tâm linh này kết quả của những khả năng cá nhân. Đó là một
quyền năng của con người mà ta không nên lầm lẫn với đồng bóng.
Một người đồng bóng chỉ chuyển tư tưởng của kẻ khác, còn người nhãn thông vận
dụng được một khả năng riêng của mình.
Có hai phương pháp khai mở nhãn thông. Một phương pháp được gọi ở Ấn Độ là
hatha-yoga có nghĩa là “hợp nhất thần lực” (union par esprit). Với phương pháp
này, nhờ những động tác thích hợp, xác thân trở nên an tĩnh đến độ các giác quan
bị suy nhược và bất động. Phương thức này chỉ chú trọng xác thân mà không chú
trọng đến việc tu tâm dưỡng tính cho nên chỉ khai mở được nhãn thông cổ sơ mà
thôi (clairyoyance primitive).
Phương thức thứ haia là Raja Yoga có nghĩa là “hợp nhất vương giả”(union
royale). Phương pháp này tinh luyện trí tuệ, tình cảm và bản chất tâm linh. Khi sự
tinh luyện đạt tới một mức độ đủ cao thì nhờ một sự tập trung hùng dũng, người ta
có thể rút tâm thức ra khỏi khối óc để đưa vào cõi vô hình.
Phương thức này khai mở được nhãn thông siêu đẳng (claivoyance superieure)
CHƯƠNG 6 – CƠ CẤU CỦA NHÃN THÔNG CỔ SƠ (Claivoyance
primitive)
1-NHÃN THÔNG Ở CHÂU ATLANTIDE
Theo niên giám huyền môn, trước đây nhiều ngàn năm, có một lục địa rất lớn tại
Đại Tây Dương: đó là Châu Ắt Lăng Tích(Atlantide). Châu này rất phồn thịnh với
những cánh đồng phì nhiêu mênh mông, những vườn nho xanh mát và những đô
thị trù phú đông đúc. Nhưng tất cả đều đã bị tiêu hủy và cho vùi sâu dưới lòng đại
dương, vì lòng tham ô tàn bạo của đa số người lãnh đạo và dân chúng.
Theo sử liệu, nhân loại thời ấy rất năng linh (psycho telepathique) và liên lạc được
với những cõi vô hình một cách mật thiết đến nỗi đối với họ những cõi vô hình và
cõi trần chỉ là một. Nhưng bản năng của họ còn nặng, trí óc của họ chưa phát triển
được đúng mức để duy trì sự quân bình giữa tình cảm và lý trí, cho nên sự suy tư
và lý luận của họ còn kém cỏi.
Dân tộc Ắt Lăng đã năng linh như thế nào và đã hành động xử thế như thế nào?
2 – NHỮNG TRUNG TÂM NĂNG LINH Ở XÁC THÂN
Chúng ta biết xác thân con người có hai thần kinh hệ:
1-Hệ não tủy(systeme cerebro spinal) gồm não bộ, tủy sống và các dây thần kinh,

2-Hệ giao cảm(systeme sympathique) cũng còn được gọi là hệ dinh dưỡng
(systeme neuro-vegetatif) gồm nhiều sợi thần kinh và nhất là hai sợ dây thần kinh
có nhiều hạch nằm hai bên cột xương sống, là sợ (hệ thống) thần kinh trực cảm
(orthosympathique) và sợi(hệ thống) thần kinh song giao (para-sympathique). Hệ
thần kinh giao cảm có nhiều tùng (plexus) do các dây thần kinh rất nhỏ kết thành.
Trong các tùng có tùng thái dương (plexus solaire) là được người ta biết nhiều hơn
cả.
Điều mà các nhà giải phẫu không biết đến là các tùng thần kinh này trước kia là
giao điểm liên lạc giữa thể xác và thể tình cảm hay thể vía của người ta. Người Ắt
Lăng có những tùng thần kinh thuộc hệ giao cảm rất phát triển, vì thế cho nên họ
nhận được các rung động của cõi vô hình và có được tính năng linh.
Tâm thức của người Ắt Lăng được tập trung vào hệ giao cảm và khối óc cục mịch
của họ, cho nên không những họ năng linh mà còn giác thức được cả những điều
thuộc về tiềm thức của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, những cảm giác của họ về
cõi hữu hình hay vô hình còn mập mờ, trì độn chứ không sáng suốt như một người
có nhãn thông ngày nay, có thể thấy rõ ràng nhờ sử dụng được nhiều trung tâm
khác cũng liên hệ đến nhãn thông và não tủy.
3- SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA TRÍ NĂNG
Từ thời Ắt Lăng đến nay, nhiều thế kỷ đã trôi qua, khối óc con người đã lớn hơn và
vi diệu hơn, trong khi nhiều hoạt động của hệ giao cảm đã dần dần trở nên tự động
và chuyển sang lĩnh vực tiềm thức. Sự thay thế các cảm xúc năng linh mơ hồ bằng
trí lực (puissance intellectuelle) là một bước tiến hóa và một diễn tiến trong một
thời gian rất dài. Cho đến nay, một thời gian gần một triệu năm sau thời cực thịnh
của văn minh Ắt Lăng đã trôi qua, mà một số đông người vẫn còn chưa mở được
trí lực khả quan và những dấu vết của sự năng linh xưa vẫn còn.
Vì thế cho nên, hiện nay có một số người có nhãn thông nhưng trí hóa của họ vẫn
còn thấp kém. Ở họ tình cảm mạnh hơn trí năng. Họ chưa tiến hóa được nhiều hơn
các dân tộc Ắt Lăng, nhưng sau vài trăm kiếp luân hồi, trí tuệ của họ sẽ ưu thế và
những tình cảm trì độn cũng sẽ được thay thế bằng những quan năng trí thức.
Ngoài số người này, đa số nhân loại tiến hóa đều đặn và không còn liên lạc với cõi
vô hình nữa do sự tăng trưởng của trí tuệ từ kiếp này sang kiếp khác. Việc này giải
thích vì sao hiện nay số người năng linh rất ít tuy thỉnh thoảng chúng ta còn nghe
nói có người biết trước được những tai nạn hay việc đau buồn sắp xảy ra.
4-THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP
Chúng ta đang ở vào một thời kỳ chuyển tiếp, một buổi giao thời. Trong thời kỳ
này, sự khai mở trí thức (l’intellect) chiếm ưu thế và chúng ta không chấp nhận
nhãn thông cổ sơ nữa (ngoại trừ một vài trường hợp rất hiếm hoi), nhưng chúng ta
vẫn còn chưa mở được nhãn thông siêu đẳng. Tuy nhiên thời gian khai mở nhãn
thông siêu đẳng cũng sắp đến cho một số đông người vì khối óc và tủy sống đã
được phát triển đến một mức khá cao. Trí tuệ và sự tự chủ của họ cũng đã đầy đủ
vững vàng để giúp họ giải quyết những vấn đề sẽ được đặt ra trong giai đoạn tiến
hóa mới mai sau.
Chúng ta có thể tiến, nhưng chúng ta cũng có thể lùi. Chúng ta tiến khi nào chúng
ta cố gắng khai mở các năng khiếu tâm linh siêu đẳng; trái lại, chúng ta sẽ lùi nếu
chúng ta đánh thức trở lại nhãn thông cổ sơ. Thường người ta tự hỏi những người
lăn xả vào các công phu luyện tập một cách nhiệt thành và tin tưởng, họ có biết
chăng là hầu hết những phương pháp được phổ biến, nhất là những phương pháp
phổ biến bên Tây Phương nói là của Đông Phương rồi lại được chính người Đông
Phương mua sách đọc rồi ứng dụng trở lại, đều có tính cách sai lầm làm ngăn cản
bước tiến của chúng ta? Lẽ tất nhiên là những công phu luyện tập xác thân có phần
dễ dàng và có kết quả nhanh chóng hơn là các phương pháp khai mở nhãn thông
siêu đẳng. Nhưng đây không phải là vấn đề dễ dàng hay nhanh chóng, mà là vấn đề
tiến hóa thật sự.
5-CÁC TRUNG TÂM KHÁC
Ngoài những trung tâm của hệ giao cảm, còn có những trung tâm khác nữa đôi khi
cũng được dùng để mở nhãn thông cổ sơ. Học khoa sinh lý, chúng ta biết rằng mỗi
giác quan của chúng ta như mắt, tai… được một hay nhiều dây thần kinh liên kết
với một trung tâm tương ứng ở trong óc. Điều người ta ít biết hơn là các trung tâm
ấy có một đôi phần ở thể vía, thường được gọi là thể cảm xúc hay thể tình cảm.
Khi một tia sáng lọt vào võng mạc của mắt chẳng hạn, thì những rung động liền
phát sinh và được dây thần kinh thị giác chuyển mau như chớp vào óc; nơi đây
chúng kích thích một số tế bào xám. Sự diễn tiến không ngưng tại đây vì các rung
động gây ở não bộ sẽ tạo ra những rung động khác ở các trung tâm tương ứng của
thể vía, nhờ đó ta mới cảm xúc được ánh sáng và màu sắc. Mọi cảm xúc đều nhận
trước tiên ở thể vía rồi mới chuyển sang thể xác, và sự ý thức các cảm xúc này
trong não bộ tùy thuộc khả năng đáp ứng của nó với các rung động của thể vía. Lẽ
tất nhiên là sự truyền dạy này xảy ra rất nhanh, chỉ trong một chớp nhoáng mà thôi.
Như vậy, mỗi giác quan có một trung tâm tiếp nhận ở khối óc và một trung tâm
cảm xúc tương ứng ở thể vía, nhưng các trung tâm này không phải là giác quan của
thể vía mà chỉ là những trung tâm trung gian giữa não bộ và tâm thức. Tuy nhiên
với công phu luyện tập (mà chúng ta sẽ đề cập đến ở chương sau), người ta có thể
dùng chúng như những giác quan thô sơ trong thể vía để thu nhận một ít rung động
của cõi vô hình. Nếu các rung động này được chuyển vào não bộ với cách bất
thường này thì một ít nhãn thông cổ xưa sẽ phát hiện.
6-NHÃN QUANG THỨ HAI
Điều này giải thích nhãn quan thứ hai của dân sơn cước miền Ê-Cốt(Ecosse) và
một vài dân tộc Sen-Tơ(Celtes) khác. Ở thể vía của những người này, các trung
tâm cảm xúc tương ứng với miền thị giác của óc, phát triển mạnh đến nỗi chúng
được dùng chẳng những làm cơ quan trung gian giữa não bộ và thể vía mà còn để
nhận ở thể này những rung động của cõi vô hình và chuyển sang não bộ dưới hình
thức hình ảnh.
Vì các biến cố sắp xảy ra có thể thấy ở cõi vô hình cả tuần hay cả tháng trước, cho
nên người nhãn thông khi nhận được một hình ảnh liên hệ thì giữ ấn tượng ở não
bộ và biết được tương lai.
7-NHỮNG GIÁO LÝ LỖI THỜI
Những cách thức kích thức kích thích các trung tâm giao cảm và giác quan để khai
mở nhãn thông cổ xưa được nghiên cứu rất tỉ mỉ ở Ấn Độ và được gọi là Hatha-
Yoga. Có thể những cách thức này là di sản của châu Ắt Lăng Tích bởi vì người
Đờ-Ra-Vi-Điêng(Dravidiens) ở Ấn Độ thuộc gốc Ắt Lăng. Dù giáo lý ấy bắt
nguồn từ đâu cũng vậy, nó được truyền đi xuyên qua nhiều thế kỷ ở một nước mà
phong tục không bao giờ thay đổi và không hợp với dòng tiến hóa. Người nào theo
cách thức ấy là quay về dĩ vãng lỗi thời hay vì hướng về tương lai, một tương lai
có thể huy hoàng đòi hỏi sự chuẩn bị, sửa soạn của tất cả mọi người.
8-SỰ CẨN THẬN CỦA CỔ NHÂN
Nhưng dù sao thì ngày xưa cách thức này cũng được thầy dạy cho từng đệ tử một
và chính thầy đích thân theo dõi công phu luyện tập chặt chẽ để tránh mọi sự sai
lệch. Đệ tử luôn luôn ở bên cạnh thầy để được thầy dìu dắt từ bước một. Ngày nay,
nhất là ở bên Tây phương, không thấy còn sự cẩn thận đó nữa. Người thời nay,
thường thường chỉ mua một cuốn sách rồi tập luyện theo đó và tự cho là đủ, như
vậy tránh sao được những tai hại bất ngờ?
Về công phu tu luyện, cách tập thì nhiều và không phải ai muốn tập cách nào cũng
được. Ngày xưa, ông thầy chọn những điều thích hợp với tính tình và sức khỏe của
đệ tử để tránh sự hư hoại các cơ năng rất tế nhị của xác thân. Hơn nữa, người Ấn
Độ còn có truyền thống và một thứ từ điện riêng về xác thân mà người Âu Mỹ
không có. Trải qua nhiều thời đại và thế kỷ, hạng thượng lưu Ấn Độ không dùng
thịt, và không uống rượu. Vì vậy có nhiều cách thức công phu thích hợp với họ
nhưng hết sức nguy hiểm đối với những xác thân ô trược được nuôi dưỡng bằng
rượu thịt. Điều này hiện nay không mấy người biết đến nữa, nhất là ở Tây Phương,
cho nên có nhiều trường hợp suy nhược thần kinh, điên cuồng hay mạng vong.
9-VÀI TRƯỜNG HỢP NGUY HIỂM
Một nhà huyền môn giảng đạo ở Mỹ đã cho biết rằng trong thời gian chu du thuyết
pháp của ông, ông đã ghi nhận được trường hợp 22 người lâm bệnh vì tập luyện
theo những cách thức tai hại mà chúng tôi sẽ nói đến ở chương sau.
Một số người tập thở theo những quyển sách phổ thông thiếu căn bản nên đã bị đau
phổi hay thổ huyết. Nhiều người bị suy nhược thần kinh vĩnh viễn sau một thời
gian tập luyện làm hệ thần kinh bị căng thẳng quá mức. Trong vài trường hợp, trí
não bị suy nhược và các bắp thịt mất hết sức dẻo dai chịu đựng. Trong nhiều
trường hợp khác, màn lưới bảo vệ bị rách khiến cho nạn nhân bị ám ảnh hay bị
quấy nhiễu bởi các vong linh dữ tợn.
Đây là tất cả những hậu quả của những người háo hức nóng nảy muốn trở thành
năng linh quá sớm. Điều nên cố gắng là kiên nhẫn mất nhiều thời giờ, nhiều công
phu để nhằm đạt tới nhãn thông siêu đẳng chứ không phải là nhãn thông cổ xưa.
Kiên nhẫn tu luyện, đừng hối hả, nôn nóng sẽ không bị đau yếu, trái lại sẽ được
khỏe mạnh và tinh thần sẽ tinh tấn trong sáng. Hơn nữa, dù cho người ta có mở
được nhiều quyền năng đi chăng nữa, các quyền năng ấy quá lắm cũng chỉ kéo dài
trong một đời người mà thôi, vì cách tập luyện để nhằm đạt nhãn thông cổ xưa
không vượt ra khỏi phạm vi của thể xác. Trái lại, nhãn thông siêu đẳng của con
người bên trong không sao mất đi được. Minh triết xây dựng tương lai, còn vô
minh thì tự mãn với những căn nhà bằng cát.
SỰ KHAI MỞ NHÃN THÔNG CỔ SƠ
1-Xuất thần
Muốn nhận thức những rung động vi tế của cõi vô hình, ta phải ngưng chú ý đến
các tiếng động và các cảnh tượng chung quanh ta. Một âm điệu êm ái và xa xôi
không thể nhận thấy được trong một thành phố ồn ào; trong một cuộc hòa tấu tưng
bừng, chỉ có những tai tinh luyện mới theo dõi được tiếng đàn của một vĩ cầm; ánh
sáng các vì sao chỉ hiện ra trong đêm thanh vắng. Cũng thế, cõi vô hình chỉ hiện ra
khi nào tâm ta không còn vương vấn đến các rung động hồng trần.
Tóm lại, muốn nhận thức được những rung động của cõi vô hình, những rung động
cực kỳ vi tế, ta phải đạt tới một trạng thái vô giác. Trạng thái này thật cần thiết; nó
chỉ phát sinh một khi các giác quan xác thịt và khối óc của ta ngưng hoạt động, và
tâm thần ta xuất ra khỏi thân xác. Đấy là trạng thái xuất thần.
2. Tập thở:
Phương pháp thường dùng ở Phương Đông và cũng được phổ biến bên Phương
Tây là tập thở. Người tập có thể nằm hoặc ngồi trong những tư thế khó khăn.
Thường thì họ hít hơi vào, giữ một thời gian rồi thở ra. Tuy nhiên, có nhiều
phương pháp thở. Có phương pháp dạy hít vào bằng lỗ mũi rồi thở ra bằng lỗ kia.
Theo một phương pháp khác thì người tập thở phải tưởng tượng là hơi thở đi xuyên
vào một vài bộ phận của cơ thể.
Ấn Độ là nơi có nhiều phương pháp dậy thở nhất. Đặt ra những phương pháp này,
người Ấn Độ thời xưa nhằm những mục tiêu sau đây:
-a) trấn an tư tưởng,
-b) tạo trạng thái vô giác trong óc,
-c) kích thích một vài luồng sinh lực trong cơ thể.
Từ xưa, người ta đã quan sát nhận thấy rằng trong khi suy nghĩ, trầm tư thì nhịp
thở chậm lại và có thể ngừng hẳn. Từ đó đã phát sinh ra thuyết sau đây: khi con
người ngưng thở trong một thời gian nào đó, tư tưởng sẽ được tập trung và trở nên
trong sáng. Sự kiện này có tính cách tương đối vì trí tuệ và xác thân liên quan với
nhau và chịu ảnh hưởng lẫn của nhau.
Các tu sĩ bên Ấn Độ tập luyện lâu ngày có thể giữ hơi thở rất lâu. Nhưng trong
những lúc ngưng thở đó, máu vẫn lưu thông trong huyết quản và chứa nhiều chất
oxit các bon khiến cho khối óc bị nhiễm độc gây nên trạng thái xuất thần (extase).
Với công phu luyện tập, khi hơi thở đã được đều đặn nhịp nhàng thì có kích thích
các luồng sinh lực luôn luôn lưu chuyển trong thể phách hay nhị xác thân (corps
astral, một thể được cấu tạo bằng chất dĩ thái đặc biệt, thường xuyên liên kết với
thể xác để chuyển sinh lực cho thể này), nhất là khi ta tưởng tượng đưa hơi thở đến
bộ phận này hay bộ phận khác trong thân thể. Lẽ dĩ nhiên là hơi thở không đi đâu
cả mà chính là các luồng sinh lực hay sinh khí nói trên. Các luồng này bắt buộc
phải theo những con đường mới và kích thích một ít trung tâm thần kinh nào đó để
chúng có thể truyền đạt những rung động của cõi vô hình.
Khổ nỗi là khi các trung tâm thần kinh hoạt động trở lại thì các rung động vô hình
tràn vào giác thức dưới hình thức hiện tượng hay âm thanh, mà con người thì
không đủ khả năng kiểm soát để ngăn ngừa chúng. Nếu các hiện tượng hay âm
thanh này đẹp đẽ thì cũng không đến nỗi nào, nhưng thường thì chúng rất xấu xa.
Vì vậy người hành giả bắt buộc phải chứng kiến những cảnh tượng não nề nhất và
nghe những lời xúi giục đê tiện nhất, vì chỉ liên lạc được với các tầng thấp đầy dẫy
những ảnh hưởng tồi tệ của cõi vô hình.
Khi một người chú ý hết sức vào sự tinh luyện các giác quan thân xác để nhận các
rung động tế vi của cõi vô hình, họ không dè rằng mình sẽ là nạn nhân chứ không
phải là chủ nhân các quyền lực tạo nên, trừ phi tâm thức đã được tinh luyện. Sự mở
mang tinh thần luôn luôn phải đi đôi với sự mở mang thân xác, nếu không con
người sẽ bị lôi cuốn do các sinh lực được khai mở mà mình không sao kiểm soát
được.
Dĩ nhiên là có những cách thở rất tốt (như cách thường dạy ở vận động trường) và
rất hạp với sức khỏe, nhưng tác động và mục đích của nó khác với lối thở mà
chúng ta vừa đề cập đến ở trên.
Cách thở thông thường này không đem lại nhãn thông cổ sơ, nhưng cũng không
làm hại phổi. Cách thở đúng cách rất tốt vì nó bồi dưỡng sức khỏe và tránh cho ta
khỏi bị cảm mạo vì thời tiết.
3. Tập trung tư tưởng vào tùng thái dương
Một cách khác để khai mở sự năng linh là tập trung tư tưởng vào tùng thái dương
(plexus solaire) để chuyển đến nó một luồng sinh lực mới. Do sự tập trung tư
tưởng này, trung tâm cảm giác với tùng thái dương đôi khi được kích thích và khai
mở nhãn thông cổ sơ khiến cho người tập có thể có được một ít cảm xúc mơ hồ của
cõi vô hình.
Nhưng thường thì luồng sinh lực khiến cho tùng thái dương bị sung huyết. Tùng
này rất quan trọng vì nó kiểm soát và có nhiều liên hệ với bộ máy tiêu hóa. Nếu nó
sưng lên, sự tiêu hóa sẽ bị ngưng trệ và có thể làm đau thận. Hơn nữa, người tập
trung tư tưởng vào tùng thái dương cùng một lúc cũng chú ý luôn đến các cơ quan
khác, vì không thông hiểu vị trí các bộ phận trong cơ thể, do đó trọn bộ tiêu hóa có
thể bị đau.
Vì thần kinh hệ giao cảm thuộc phạm vi tiềm thức do nhên khi chúng ta quấy rối
sự điều hành của nó, chúng ta có thể gây ra những bệnh thần kinh trầm trọng dưới
hình thức một tâm trạng buồn rầu hay chán nản trầm trọng. Nếu sự luyện tập tăng
gia, nó có thể gây tê liệt cho một bộ phận của thân thể. Đây chính là trường hợp
“tầu hỏa nhập ma”.
4. Dùng viên thủy tinh
Một phương pháp nữa là chăm chú nhìn vào một viên thủy tinh, đầu mũi hay một
tấm phông đen. Phương pháp này nhằm hai mục đích: 1) một là đặt khối óc vào
một tình trạng gần như tê liệt để tạo sự xuất thần, 2) hai là kích thích trung tâm
cảm xúc liên hệ ở thể vía để nó có thể làm một giác quan tạm cho thể vía.
Khi chúng ta chăm chú nhìn một điểm trắng mà không chớp mắt, các tế bào của
vòng mạc rất mệt và sau cùng trở nên vô giác khiến cho ta không còn nhìn thấy
được điểm trắng nữa. Nếu chúng ta tập luyện lâu ngày, sự mỏi mệt sẽ gia tăng và
dây thần kinh thị giác cũng trở nên vô giác. Sau đó, miền thị giác trong óc cũng bị
tê liệt. Do đó, chúng ta sẽ tự thôi miên mình và, trong trạng thái đó, khi khối óc trở
nên vô giác, thì hiện tượng này nọ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, thường thì không có một
kết quả nào.
Cách tập luyện này nhằm kích thích các trung tâm tương ứng với mắt để chúng có
thể nhận được các rung động tế nhị và chuyển sáng khối óc. Các hiện tượng thấy
bằng cách này không được xác thực vì cơ quan truyền đạt chúng không được dùng
đúng chỗ.
Dù sao, chúng ta cũng cần phải tránh luyện tập theo cách này, vì sự tê liệt óc do nó
gây ra có thể trở nên vĩnh viễn. Hơn nữa, vì mắt cố gắng quá sức nên nó yếu đi và
có thể trở nên mù, nếu không loạn thị.
5. Công phu vô ích
Như đã trình bày, có nhiều cách luyện tập gây tê liệt cho khối óc để tạo ra trạng
thái xuất thần. Khi xuất thần cũng như trong khi ngủ, con người xuất ra khỏi thể
xác để sang thể vía và trong thể này, con người có thể ý thức được ít nhiều. Nếu là
một người hoàn toàn sáng suốt và linh hoạt trong cõi vô hình, người đó có thể biết
nhiều việc quan trọng và giữ ấn tượng ở khối óc để khi tỉnh dậy, có thể nhớ lại
được tất cả.
Nhưng trường hợp này ít khi xảy ra vì chúng ta chỉ nghĩ đến sự tập luyện cho thân
xác mà không lo trau luyện tinh thần. Vì vậy khi vừa xuất thần là con người trôi
dạt phất phơ ở cõi vô hình mà không ý thức được gì cả nên khi thức tỉnh lại, cũng
không biết được gì thêm.
Như vậy, tại sao có nhiều người luyện tập rất công phu để rốt cuộc lại chỉ có cái
nhãn thông cổ sơ không ích lợi gì cho sự thăng tiến tinh thần? Sở dĩ họ luyện tập
như thế bởi vì họ bị lừa gạt bởi những quảng cáo hấp dẫn, những lời hứa hão
huyền; nhưng nếu họ biết được rằng luyện tập như vậy chẳng những là hoàn toàn
vô ích mà còn gây ra nhiều nguy hại và đau khổ thì họ chắc sẽ không còn liều lĩnh
nữa.
CHƯƠNG 8. SỰ PHÁT TRIỂN NHÃN THÔNG SIÊU ÐẲNG

CON ĐƯỜNG CỦA NHÀ HUYỀN MÔN

Những phương pháp chúng tôi trình bày ở phần trên nhằm mục đích luyện tập thể
xác để cho nó đáp ứng lại các rung động của cõi vô hình. Nhưng chúng ta đã thấy,
các sự luyện tập ấy nguy hiểm và vô hiệu. Ðiều nguy hại hơn là hành giả không
lưu ý trau luyện tánh tình và trí tuệ. Y có thể trở nên năng linh ít nhiều, nhưng trên
phương diện con người, y không hơn lúc trước. Trái lại, y có thể sút kém hơn vì
không thể chủ trị được những cám dỗ mới phát sinh.

Nhà huyền môn thấy xa hơn. Người nhận định rằng "con đường dài là con đường
dẫn mau nhứt đến mục đích". Người nhất định thành công bất kỳ với giá nào, và sự
thành công mà người cố tìm không phải chỉ hạn chế trong một đời ngắn ngủi mà
phải dài suốt thời gian luân hồi ở cõi trần.
Vì đã học đạo, người ý thức được bản chất thiêng liêng của mình và mục đích cao
cả của sự tiến hóa. Vì ý thức rõ ràng như vậy, người không chạy theo những dục
vọng riêng tư, ích kỷ và quyết dùng tất cả khả năng của mình để hợp tác với những
động lực đang giúp nhân loại tiến lên đỉnh núi huy hoàng.

Khi đạt mục đích đó, nhân loại chẳng những phải có sự can đảm tinh thần mà phải
tự trau giồi như thế nào để tình cảm được tốt đẹp, trí tuệ được mở mang hầu thực
hiện sự mẫn cảm tâm linh. Một người tận lực trau giồi các đức hạnh đó ở kẻ khác
và ở mình và nếm được cái lạc thú quên hẳn sự tiến hóa riêng của mình trong công
việc phụng sự, người đó chắc chắn nay mai sẽ được nhãn thông siêu đẳng. Là vì
nhân loại ngày mai sẽ năng linh và ai cố gắng trau luyện tánh tình sẽ được chuyển
biến theo hình ảnh của con người tương lai.

TIẾN TRƯỚC

Ðể cố gắng trau giồi như vậy, nhà huyền môn tiến mau hơn là được dự định. Trong
nhiều thế kỷ nữa, dòng tiến hóa chậm chạp sẽ đưa nhân loại đến một thời kỳ mà
khối óc sẽ phát triển và mẫn cảm đến mức có thể linh hoạt trong một sân trường
rung động lớn hơn nay rất nhiều. Ðến giai đoạn đó, con người sẽ có nhãn thông và
ý thức rõ ràng cõi vô hình đang bao bọc y. Ngay bây giờ, đã có một ít trẻ con được
nhãn thông đến lối sáu bảy tuổi và sau đó lại mất đi vì cha mẹ không lưu ý phát
triển và cũng do giáo hóa khiếm khuyết.

Cái năng khiếu nhãn thông này sẽ đạt được không phải do các sự tập luyện thể xác
nói ở chương trước mà do sự phát triển bình thường của hệ thần kinh một ngày
càng trở nên tinh vi nhờ năng lực của tình cảm, trí tuệ và ý chí được tinh luyện. Sự
phát triển tâm linh sẽ gia tăng khả năng của khối óc, và khi nhân loại trải qua nhiều
ngàn năm, rèn luyện được cho mình những đức hạnh tốt đẹp thì khối óc đương
nhiên sẽ trở nên mẫn cảm hơn.

Chúng ta có thể tiến nhọc nhằn với đa số nhân loại cho đến một kiếp kia chúng ta
sẽ có một hệ thần kinh tinh vi và nhãn thông như tất cả mọi người. Nhưng chúng ta
cũng có thể, ngay bây giờ, cố gắng tiến trước nhân loại bằng cách đào luyện ở kiếp
này những đức hạnh của con người ngày mai.

Sự tiến hóa này là một vấn đề tăng trưởng tâm linh, chứ không phải là một vấn đề
thời gian. Nếu chúng ta quyết tiến và vượt khỏi các bạn đồng hành – họ đi rất chậm
chạp – chắc chắn nhãn thông siêu đẳng sẽ đến với chúng ta. Chính vì ta thiếu can
đảm và bền chí, ta mới không thành công.

TRÍ TUỆ XÂY DỰNG

Ðịnh luật căn bản chi phối sự khai mở nhãn thông siêu đẳng có thể tóm tắt trong
câu này: "Sự phát triển thể xác [23] thoả mãn các nhu cầu tâm thức". Lý do khiến
chúng ta chưa có nhãn thông ngay bây giờ là tâm thức của chúng ta chỉ mở mang
có một phần và không đồng đều nên không kích thích được khối óc và thần kinh
hệ. Vả lai, phần đông không sử dụng khả năng trí thức của mình và cũng không
tìm cách mở mang nó.

Cho đến nay, chúng ta chưa ý thức được khả năng hùng hậu của trí tuệ trong việc
tinh luyện cơ cấu thần kinh. Lý do có lẽ tại tư tưởng của chúng ta lờ mờ, hỗn độn
nên không tạo được một ảnh hưởng đáng kể đối với khối óc vật chất. Nhưng nếu
chúng ta có thể quan sát tác động của một trí tuệ tinh luyện, chúng ta sẽ thấy những
dòng năng lực tuôn xuống khối óc và nhận thức được sức cải biến của tư tưởng đối
với khối óc. Nếu chúng ta tìm hiểu các tế bào của khối óc theo sách sinh lý học,
chúng ta biết mỗi tế bào tủa ra vô số dây thần kinh nhỏ chằng chịt như một màn
lưới ở chất xám của não bộ. Các sợi dây thần kinh này có tác dụng như những sợi
dây điện được cách điện và khi các mối liên giao giữa các tế bào gia tăng thì khả
năng suy tư của khối óc cũng gia tăng.

Khi các luồng năng lực phát sinh do một trí tuệ linh động, tuôn vào khối óc, các tế
bào não bộ được kích động và tủa thêm dây thần kinh, nhờ đó, khả năng suy tư của
khối óc cũng tăng thêm. (Vấn đề tế bào có gia tăng không thì chưa được biết rõ
nhưng có thể là gia tăng). Như vậy, trí tuệ linh hoạt, khả năng của khối óc sẽ mở
mang, nhờ đó, chúng ta tiến lần đến sự nhãn thông siêu đẳng.

Sách sinh lý học còn dạy thêm rằng mỗi quan năng trí thức đều liên hệ đến một
nhóm tế bào xám tụ tập chung một "miền" ở khối óc, và nhờ nhóm tế bào đó mà
quan năng mới phát hiện. Ví dụ, khi chúng ta biết hai thứ tiếng thì các nhóm tế bào
ở óc dành cho quan năng đọc viết và nói tăng gấp đôi, trước là ba, nay là sáu. Về
quan năng khác như hát, đàn, vẽ, tính, v.v . . . cũng thế. Khi ta rèn luyện một quan
năng, một số tế bào của khối óc chịu ảnh hưởng và được chuyển về quan năng này.
Sự học tập một đề tài mới luôn luôn cải biến một số tế bào của khối óc. Nếu không
có cố gắng trí thức, chúng ta không tạo được quan năng mới, do đó, các tế bào xám
của khối óc cũng không thay đổi.

Như vậy, trí tuệ có một sức cấu tạo kiến hiệu. Khi ta mở mang tâm thức, khối óc ta
cũng được tinh luyện theo.
LUẬT LẶP LẠI

Sự tập luyện của nhà huyền môn rất khoa học và rất hữu hiệu nếu hành giả siêng
cần bền chí. Nó được căn cứ trên định luật này: một hành vi được lặp lại thường sẽ
trở thành một thói quen, một tư tưởng được nghĩ đến mãi sẽ trở nên một đặc tính.
Ðó là luật lặp lại.

Các Thánh kinh xưa dạy: con người suy tưởng điều chi thì trở thành điều đó. Giáo
lý này cũng được các triết gia đời nay xác nhận. Ðịa vị cao sang, áo quần lòe loẹt
học vấn uyên thâm, các điều này không đào luyện chúng ta thành người. Cái nó
đào tạo tánh tình ta là tư tưởng và tình cảm của ta.

Nhà huyền môn không thuộc hạng người chỉ bằng lòng đọc một giáo lý và gật đầu
tán thưởng, mà cố áp dụng các điều hiểu biết vào đời sống mình. Ðặc tính của một
người nhất quyết tiến là thế: những điều kẻ khác chỉ đọc qua, người đem ra thực
hành.

Nhà huyền môn sử dụng luật lặp lại một cách khoa học, trong công việc tinh luyện
thể xác, tình cảm và trí tuệ. Chúng ta sẽ xem qua một ít chi tiết về sự tinh luyện
này để biết cách sử dụng luật đó.

NHỮNG BƯỚC ĐẦU

Xác thân là một con vật cổ hủ. Bấy lâu nó đã quen dùng các thức ăn nào đó, ăn một
ngày ba hay bốn lần, mặc thứ quần áo nào và làm những công vệc gì.

Một người chí quyết phát triển tâm linh phải suy xét kỹ càng về các tập quán và
khuynh hướng hằng ngày của nó để loại trừ những điều không hợp với lẽ phải và
các định luật thiên nhiên ẩn tàng.

Một điều mà sinh viên huyền môn phải làm trước tiên là áp dụng một sự dinh
dưỡng tinh khiết và hợp lý. Nếu chúng ta gạt một bên các thành kiến và quan sát sự
kiện cẩn thận [24], chúng ta sẽ thấy rằng sự dinh dưỡng bằng thịt các con vật bị
giết không phải là một sự dinh dưỡng tốt nhất. Thịt thường cung cấp bởi những
con vật bệnh hoạn và chứa đựng các chất dơ dáy như niệu toan [25]; đôi khi, nó
hôi thúi và chứa những rung động của dục vọng và sợ hãi của con thú. Dùng các
thức ăn đó mà ước mong xác thân của ta mẫn cảm đối với các rung động tế nhị của
cõi vô hình, là một điều vô lý.

Trên thực tế, kinh nghiệm nghìn năm của các nhà huyền môn chỉ rằng một thể xác
được nuôi dưỡng bằng thịt cá không sao chịu đựng nỗi một sự phát triển tâm linh
cao. Nhiều người đã thử và thất bại vì xác thân và nhất là bộ thần kinh được dinh
dưỡng bằng thịt cá đều hư hoại, khi tâm thức siêu đẳng phản chiếu ở khối óc.

Vì vậy từ xưa đến nay, các nhà huyền môn đều ăn chay. Ðây không phải là vấn đề
tình cảm mà là kết quả của kinh nghiệm và minh triết của các bậc chơn tu.

Cơ thể xác thân phản ứng mạnh mẽ khi chúng ta bắt đầu ăn chay. Chúng ta không
nên thối chí vì lẽ đó, chúng ta hãy từ từ thay món ăn này bằng một món ăn khác và
thể xác sẽ lần lần quen với các dinh dưỡng mới.

Rượu, dưới mọi hình thức, cần được loại trừ, cả các thứ thuốc có chứa rượu.
Chúng tôi xin thêm rằng nếu chúng ta sống một cách lành mạnh như các nhà huyền
môn, sau một thời gian, các y sĩ sẽ không còn hữu ích. Ảnh hưởng của rượu đối
với các tế bào thần kinh và khối óc rất rõ ràng, và nếu chúng ta uống rượu thường
dù là uống ít, các quan năng siêu đẳng không sao khai mở, vì khi chất xám của
khối óc không còn nhạy cảm, chúng ta trở nên lười và nhãn thông không sao có
được.

Nhà thần linh lưu ý đến mọi việc nhỏ nhặt hằng ngày. Người tự kiểm soát mình và
tránh mọi tư tưởng xấu xa không cho vào trí óc. Thân thể người luôn luôn được
tắm rữa sạch sẽ để giữ từ điện được thanh khiết. Người tập thể dục hằng ngày để
bắp thịt được nở nang và các cơ quan được mạnh khoẻ. Người không mặc quần áo
chật hẹp để con người được thư thới.

Ðó là một vài điều nhà huyền môn áp dụng trong đời sống vật chất để tuân giữ các
định luật thiên nhiên một cách chặt chẽ, tỉ mỉ. Tuy nhiên, người tránh không đi quá
mức và cố sống một đời thăng bằng, thanh khiết và vui tươi.

SỰ LUYỆN TẬP HẰNG NGÀY

Nhà huyền môn không trốn tránh xã hội loài người và không rút vào rừng sâu hay
sa mạc. Người biết đức hạnh được rèn luyện dễ hơn giữa xã hội, trong các công
việc hằng ngày và khi chiến đấu với các nỗi khó khăn của đời sống.

Trong các đức hạnh người muốn trau luyện, đức quí nhứt là lòng vị tha. Người ta
đã nói biết bao lần và nói rất đúng là lòng ích kỷ chính là nguồn gốc của mọi tội
lỗi, và nếu ta quan sát đời sống hằng ngày, ta sẽ thấy nó gây biết bao cảnh hung
tàn, nghèo đói.

Không nhiều thì ít, chúng ta ai ai cũng nhuộm màu ích kỷ, và cách đơn giản hơn
hết để trừ tật xấu này là không trách móc, thở than mà là phụng sự đồng loại chúng
ta trong sự quên mình. Hãy luôn luôn nghĩ đến người khác, hãy tính cách này, tìm
phương nọ, hãy nắm mọi cơ hội để giúp đỡ họ trong các công việc lớn nhỏ. Tầm
quan trọng của việc giúp đỡ và sự lưu ý của kẻ khác không quan trọng gì, quan
trọng là thái độ của chúng ta. Hãy nhìn chung quanh quí vị để tìm những gương
mặt âu sầu và gởi đến họ những tư tưởng phấn khởi; hãy lưu ý đến những đôi mắt
buồn rầu và chuyển cho chúng sự bình an; khi một người yếu đuối sắp sa ngã, hãy
nâng đỡ y bằng những nghị lực mới. Như thế trọn ngày chúng ta luôn luôn có dịp
phụng sự. Và khi phụng sự, chúng ta hãy tỏ ra vui vẻ, chúng ta xem đó không phải
là một phận sự buồn phiền mà là một công việc thích hợp với bản thể chúng ta.

Và khi chúng ta thi hành phận sự của chúng ta như vậy, nghĩa là tận tâm giúp đỡ
kẻ khác và cố nhìn một cách ưu ái mọi sự vật theo quan điểm của họ, lần lần tình
thương thật sự và thấm thía sẽ nẩy nở trong lòng ta, một tình thương cố nêu những
đức tốt hơn là vạch những nết xấu, một tình thương giúp chúng ta thông cảm với
mọi nguyện vọng chớm nở, dù nguyện vọng đó biểu lộ một cách vụng về.

Sự cố gắng nhân từ, sự giúp đỡ vị tha, lòng yêu thương, sự thiện cảm sẽ phát sinh
trực giác để dắt dẫn người chí nguyện đến sự sáng suốt hoàn toàn. Là vì người học
một bài học đầu tiên và quan trọng nhứt là nhìn thấy Thượng Ðế trong mọi sinh
vật.

Sự tri giác của nhà huyền môn còn phải sắc bén để có thể nhìn xem mọi vật xuyên
qua màn che và ảo ảnh của cõi vô hình; vì vậy, người phải tuyệt đối chân thật, vì
một lời dối trá là một bóng tối rọi vào sự sáng suốt nội tâm. Các tư tưởng của
người phải đi sát với sự việc và không được để thành kiến làm sai lệch; người cố
gắng tìm hiểu mọi ý kiến để khám phá chơn lý, dù ý kiến này phát sinh từ đâu. Lời
nói của người phải chân xác và chừng mực, hành động của người phải cương quyết
và đắn đo.

Còn nhiều đức tánh khác mà người chí nguyện phải có, như sự thanh khiết, sự dịu
dàng, sự khiêm tốn, sự bền chí, sự cương quyết, sự ngay thật, lòng sùng tín, sự tự
chủ, và trên tất cả là một ý chí sắt đá.

Nếu các đức hạnh này luôn luôn được nghĩ đến, nếu chúng ta quí trọng và ước
mong chúng, nếu chúng ta cố rèn luyện và thực hành chúng thì ở thế gian này
không có một mãnh lực nào có thể ngăn cản chúng ta tiến đến sự hoàn thiện.

SỰ TẬP TRUNG

Chúng ta sẽ tiến mau, nếu chúng ta tập chú ý vào công việc hằng ngày. Nếu chúng
ta đừng để trí xao lãng bởi những tư tưởng không liên hệ đến các công việc chúng
ta làm, đến các ý kiến chúng ta nghĩ, ấy là chúng ta tập trung tư tưởng. Ðó là một
quyền năng thuộc vào loại quí báu nhứt mà con người có thể tập luyện, dầu y là
sinh viên huyền môn hay không.

Trong mọi phạm vi, nếu chúng ta có thể tập trung tất cả trí lực vào một việc nhứt
định, đó là một điều cực kỳ quí báu. Những người thành công nhứt trong cuộc đời
là những người đã thực hiện được sự tập trung ấy. Chỉ có một biện pháp duy nhứt
để tiến đến mục đích đó: sự luyện tập hằng ngày.

Cái đức tánh vô giá ấy không ai cho ta được, mỗi người trong chúng ta phải tự cố
gắng rèn luyện lấy. Một phương thức rèn luyện hay nhứt là chú ý vào mỗi công
việc của chúng ta trong ngày, là cố gắng làm tròn nó một cách khéo léo, minh bạch
và đắn đo tột bực. Chúng ta không vội vàng nhưng cũng không lười biếng, không
cẩu thả. Mỗi hành vi phải được thực hiện một cách cương quyết, với tất cả sự cố
gắng để nó được hoàn toàn.

Ðó là một sự luyện tập rất quan trọng đối với nhà kinh doanh, giáo sư, kỹ sư, nội
trợ và cả với nhà huyền môn. Luyện tập như thế và chủ trị cái trí luôn luôn xao
xuyến của chúng ta để ý thức được như thế nào là sự tự chủ và trí lực của con
người. Cái trí hỗn loạn của chúng ta trước kia đã gây cho ta nhiều tai hại bây giờ
trở nên một dụng cụ chính xác và nhiệm mầu.

SỰ SUY GẪM

Nhà huyền môn dùng luật lặp lại chẳng những để chủ trị cái trí nhờ các cố gắng
thường xuyên mà còn để đào luyện tánh tình. Suy gẫm là tập trung cái trí vào một
đức hạnh mà chúng ta muốn có hay vào một vấn đề tâm linh mà chúng ta muốn
hiểu rõ ràng.

Về việc tham thiền, chúng ta phải chọn một chỗ an tĩnh và mỗi sớm mai khi tắm
rửa xong, thì đến đó ngồi yên, lưng thẳng, hai bàn tay để trên đầu gối và chú tâm
vào một tư tưởng, một lời nói cao siêu hay một bài kệ trong kinh. Trong lúc tham
thiền, chúng ta phải loại các tư tưởng và hình ảnh không liên hệ đến đề tài suy
gẫm. Sự tập trung này rất khó khăn và đòi hỏi một sự cố gắng lâu dài.

Chúng ta phải nhất quyết chú ý vào tư tưởng được chọn, xem xét nó dưới mọi khía
cạnh và tìm hiểu tinh hoa của nó để lãnh hội trọn vẹn ý nghĩa.

Trước khi tham thiền, chúng ta không sao nhận thức được mức độ sáng suốt mà ta
có thể hoạch đắc trong vài khoảnh khắc tập trung mạnh mẽ và liên tục. Nhiều chơn
trời mới cực kỳ xinh đẹp sẽ khai mở ở tâm trí ta. Những mối tương giao mới cũng
hiện lên giữa các quan niệm khác nhau, nhờ đó chúng ta phát giác được nhiều ý
nghĩa thâm thúy mà trước kia không ngờ. Các điều này không sao có thể đến với
chúng ta giữa muôn ngàn quyền lợi và ấn tượng lộn xộn trong ngày. Chúng ta chỉ
có thể có một sự hiểu biết thật sự trong phút giây vắng lặng hoàn toàn.

Một đức tánh có thể được chọn để làm đề tài tham thiền. Chúng ta có thể lấy đức
tánh dịu dàng chẳng hạn để suy gẫm trong một tháng. Mỗi buổi sớm mai, khi tĩnh
tọa trong sự vắng lặng, chúng ta suy gẫm về tánh dịu dàng, thùy mị và dễ yêu mà
ai cũng muốn có từ người đàn ông mạnh khoẻ đến một cô gái mỹ miều. Chúng ta
tưởng tượng lúc nào ta cũng dịu dàng trong hành động, lời nói và tư tưởng hằng
ngày.

Sau buổi tham thiền, chúng ta đặt mình trong đời sống quay cuồng, chúng ta hãy
nhớ các tư tưởng ban mai và cố gắng thực hành.

Ðối với các đức tánh khác cũng vậy. Chúng ta cần suy gẫm đức tánh này xong đến
đức tánh khác mà ta muốn có. Sự áp dụng luật lặp lại sẽ lần lượt cho ta những đức
hạnh quí báu để tô điểm tánh tình. Và nhờ thế từ bước một, ta tiến đến năng khiếu
nhãn thông siêu đẳng.

Lý do là khi ta trau luyện tánh tình và mở mang trí tuệ, khối óc chúng ta cũng từ từ
cải tiến để trở nên mẫn cảm hơn, nhờ các luồng sinh lực tuôn xuống liên tiếp để gia
tăng số tế bào não bộ.

SỰ CHIÊM NGƯỠNG [26]

Một giai đoạn khác của sự tham thiền là sự chiêm ngưỡng, chính sự chiêm ngưỡng
này giúp chúng ta thực hiện các nguyện vọng tâm linh. Muốn chiêm ngưỡng,
chúng ta đặt ở tâm trí một lý tưởng tâm linh mà chúng ta quí mến như Ðức Chúa,
Ðức Phật, Ðức Krishna hoặc một Chơn Sư. Sau đó chúng ta tưởng nhớ đến các đức
tánh cao siêu của các Ngài như tình thương bao trùm vạn vật, lòng trắc ẩn bao la,
sự bình an tuyệt đối, sự minh triết thiêng liêng, sự phân biện sáng suốt, quyền lực
kỳ diệu, ý chí bất khuất, hay một sự hiểu biết toàn vẹn các nhu cầu và nguyện vọng
của mỗi sinh linh. Ðồng thời, chúng ta mở rộng lòng ta để đón tiếp Ngài với
nguyện vọng tha thiết phản chiếu phần nào sự vinh quang của Ngài để được giống
Ngài. Khi chúng ta chiêm ngưỡng lý tưởng cao nhất mà chúng ta có thể ý niệm
được, chúng ta sẽ được "cải biến theo hình ảnh Ngài từ vinh quang này sang vinh
quang khác".

Chúng ta đừng quên rằng năng linh [27] không phải là tâm linh [28]. Năng linh là
sự cảm giác mạnh mẽ của tâm thức xuyên qua khối óc, còn tâm linh là sự thực hiện
khuôn mẫu thiêng liêng và sự sống duy nhứt, nó liên kết mỗi đời sống riêng rẽ vào
các đời sống khác.

SỰ KHAI MỞ NHÃN THÔNG

Mục đích tập trung, sự suy gẫm và chiêm ngưỡng không phải khai mở sự năng linh
mà đào tạo một mẫu người thanh cao và hữu ích. Tuy nhiên, khi chúng ta công phu
đến mức nào, các quyền năng đương nhiên sẽ khai mở. Ðó không phải là kết quả
của sự luyện tập mà là của tánh tình thanh cao của con người.

Khi chúng ta trì chí trong công phu suy gẫm, chúng ta có thể loại trừ các tư tưởng
không liên hệ đến tư tưởng chiêm ngưỡng. Sau đó một thời gian lâu nữa, ta sẽ loại
luôn tư tưởng này mà vẫn giữ cái trí trong trạng thái tập trung tích cực và dũng
mãnh. Nếu sự trống rỗng này [29] được thực hiện dù chỉ trong ít phút mà không bị
xâm chiếm bởi ấn tượng ngoại cảnh hay tư tưởng cá nhân, tâm thức sẽ thoát nhẹ
nhàng khỏi khối óc và hành giả đột nhiên thấy được cõi vô hình. Ðó là buổi bình
minh của một tâm thức bao la, là sự khai mở nhãn thông siêu đẳng hằng mong ước,
nó hiện ra khi siêu thức và khối óc làm một.

MỘT PHƯƠNG THỨC ĐẶC BIỆT

Còn có một phương thức khác để khai mở năng linh siêu đẳng, nhưng chúng ta
không thể nói nhiều về vấn đề này. Các chi tiết của phương thức này không bao
giờ được truyền bá và chúng tôi sở dĩ nói đến là để bổ sung quyển sách và cũng để
nêu rõ các tai hại của sự luyện tập nó. Nó được truyền dạy do ngay sư phụ cho đệ
tử và nếu đệ tử chưa được chuẩn bị tới mức nào đó thì sư phụ không bao giờ đến
dạy.

Sở dĩ phương thức này được giữ bí mật không phải do sự ích kỷ mà để bảo vệ nhân
loại. Khi nhờ một phương tiện nào, một người biết được nó và luyện tập nó mà
không chuẩn bị xác thân, trí thức và tinh thần trước thì người đó sẽ tự giết mình
hoặc

sẽ loạn óc suốt đời hay trở thành một con quỉ dâm dục vì khí lực phát khởi không
được dùng vào những mục đích thanh cao.

Phương thức này phát triển những quyền năng tâm linh siêu đẳng nhờ một năng
lực vô cùng dũng mãnh được gọi là hỏa xà hay Kundalini, nó nằm ở đoạn cuối
cùng của xương sống. Nếu nó được đánh thức và được điều khiển một cách sáng
suốt, nó sẽ tiến theo xương sống để khai mở một số trung tâm [30] nằm trong xác
thân.
Các trung tâm ấy giống như luồng trốt nhỏ, hình tròn lối năm phân bề kính và ở
trong trạng thái yên tĩnh, chúng nó nằm ở bên ngoài thể phách gần phần cuối cùng
của xương sống, và cạnh lá lách, rún, tim, cuống họng, đỉnh đầu và giữa hai chơn
mày.

Khi luồng hỏa xà đi xuyên qua chúng nó theo một trật tự nào đó tùy hạng người,
chúng nó được phát động và cảm xúc được cõi vô hình. Nhờ vậy, con người được
nhãn thông siêu đẳng.

Muốn luyện tập phương thức này, sự tham dục từ lâu phải được tiêu diệt hoàn
toàn, nếu không, sự đánh thức hỏa hậu sẽ vô cùng nguy hiểm, thay vì hướng lên,
nó có thể bò xuống để kích thích tột độ tính dâm dật. Phương thức này rút ngắn
con đường tu tập, nhưng chúng ta nên tránh nó vì có mấy người trong chúng ta đã
dập tắt hoàn toàn dục tính ? Những người đinh ninh mình đã sẵn sàng để tập luyện
chính là những người chưa sẵn sàng chút nào. Như vậy, không vì lý do gì và bất kỳ
trong hoàn cảnh nào, chúng ta lại đánh thức hỏa xà, trừ khi có một Chơn Sư (theo
đúng nghĩa Thông Thiên Học) hay một vị đệ tử của Ngài đến dạy. Phương thức ta
nên theo là đào tạo cho ta một tánh tình cao thượng bằng cách tham thiền hằng
ngày.

MỘT XÁC NHẬN

Không có ngọn núi nào quá cao đối với một người quyết tiến, vì ở trong mỗi chúng
ta, đều có một nguyên lý thiêng liêng giúp chúng ta thành tựu trong mọi công việc.
Sự yếu đuối, sự vô minh, sự hèn nhát đều phát sinh từ các thể của chúng ta vì
chúng nó chưa được huấn luyện thuần thục.

Nhưng trong các kiếp luân hồi liên tục, chúng ta luôn luôn tinh luyện chúng nó
đồng thời tập chủ trị vật chất. Ở một quá khứ xa xăm, chúng ta là người dã man ăn
rễ cây trong rừng. Một ngày kia, như Saint Graal, chúng ta sẽ phát huy ánh sáng.

Tuy nhiên, chúng ta không thay đổi. Nếu có thay đổi chăng là các thể chúng ta. Sự
phát triển tâm linh được thực hiện không phải bằng cách thu thập cái chi ở ngoại
cảnh mà bằng cách đánh thức những khả năng tiềm tàng ở trong lòng. Lúc đầu khi
kinh nghiệm đánh thức chúng nó bằng các khó khăn của đời sống vật chất, chúng
nó biểu hiện một cách thô lậu dưới hình thức ích kỷ, những thèm muốn tục tằn và
hành động tàn bạo, y như các ánh sáng lóe xuyên qua cửa kính đầy khói đen.
Nhưng lần hồi, nhờ các công phu luyện tập, ánh sáng bên trong dần dần hiện ra rực
rỡ xuyên qua các thể được tinh luyện, và tâm thức ta được cải biến theo hình ảnh
của Thượng Ðế. Mỗi đức tánh ta hoạch đắc, mỗi khả năng trí thức ta phát triển,
mỗi nguyện vọng tâm linh ta khêu lên đều đưa chúng ta lần đến sự vinh quang. Và
tất cả sự huy hoàng tâm linh của Chơn Nhơn bên trong một ngày kia, sẽ phát huy
xuyên qua thể xác tinh anh như một Thánh Ðiện.

Như thế, chúng ta hãy can đảm tiến lên. Thượng Ðế luôn luôn ngự trong lòng ta dù
chúng ta nhỏ, già, khôn, dại, thanh cao hay ô uế. Khi ta ngã, ta hãy đứng lên vì
không có một hố sâu nào mà ta không thể vượt qua. Nếu ta yếu đuối, ta hãy tìm
sức mạnh và sức mạnh sẽ đến; nếu ta thất bại, ta hãy cố gắng thêm, vì thất bại
không có, trừ khi nào ta nản chí. Nếu ta dại khờ, chúng ta phải bền chí, vì kinh
nghiệm sẽ mở mang trí khôn. Hy vọng phải là ngọn đèn dắt dẫn ta. Nếu buồn khổ
xảy ra, ta phải chịu đựng và rút kinh nghiệm, nếu hạnh phúc đến, ta hãy chia sớt
cho mọi người.

Khi chúng ta tin rằng thế giới của chúng ta được đặt dưới sự điều khiển của một
Ðấng Thiêng Liêng nhân từ vô cùng sáng suốt vô biên, chúng ta sẽ không còn sợ
hãi buồn rầu, chán nản. Chúng ta hãy ngước mắt chiêm ngưỡng cái Ánh sáng
thiêng liêng bất diệt ấy và để lòng tràn ngập một "sự an lạc ngoài trí tưởng tượng
của con người".

H Ế T

You might also like