You are on page 1of 45

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC UEH

KHOA KINH TẾ

DỰ ÁN NHÓM KHÔNG THUYẾT TRÌNH


MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ ỨNG DỤNG
Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2022

Giảng viên hướng dẫn: THS. Lâm Mạnh Hà

Nhóm sinh viên thực hiện:


Nguyễn Linh Đan AE001 31211025350
Huỳnh Ngọc Kiều Giang AE001 31211023965
Phan Thị Hòa AE001 31211023832
Trần Mai Khoa AE001 31211020196
Nguyễn Thị Thùy Linh AE001 31211024613

TP. Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 4 năm 2023


1
STT Họ và Tên MSSV Mức độ Nhiệm vụ
đóng góp

- Tìm hiểu và thống nhất outline dự án với các bạn


trong nhóm
- Tìm hiểu mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối và
lãi suất của CSTT
Nguyễn
1 31211025350 20% - Tìm hiểu công cụ hạn mức tín dụng, nghiệp vụ thị
Linh Đan
trường mở
- Đưa ra mục tiêu chung của CSTT ở Việt Nam
- Tìm hiểu việc điều hành CSTT ở Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2015

- Thống nhất outline dự án với các bạn trong nhóm,


phân công, kiểm tra và theo dõi quá trình các bạn
thực hiện dự án
- Tìm hiểu khái niệm chính sách tiền tệ, phân loại
chính sách tiền tệ
- Tìm hiểu mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm
mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội
đồng tiền và mục tiêu tạo việc làm, giảm thất
Huỳnh Ngọc nghiệp
Kiều Giang - Phân tích lý thuyết của công cụ tỷ lệ dự trữ bắt
2 31211023965 20%
(Nhóm buộc
trưởng) - Tìm hiểu thực trạng của chính sách tiền tệ giai
đoạn 2016-2020
- Rút ra những điểm tích cực và hạn chế của CSTT
giai đoạn 2000-2022
- Tổng hợp bài từ các bạn, thực hiện căn chỉnh,
thống nhất lại format chung của bài, check đạo văn.
- Tổng hợp danh mục từ viết tắt, bảng biểu, hình
ảnh, mục lục, tài liệu tham khảo

2
- Tìm hiểu, chỉnh sửa outline và thống nhất outline
dự án với các thành viên trong nhóm.
- Tìm hiểu mục tiêu của chính sách tiền tệ bao gồm
mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu ổn định
thị trường tài chính
Phan Thị
3 31211023832 20% - Phân tích lý thuyết về công cụ lãi suất chiết khấu
Hòa
và công cụ tỷ giá hối đoái
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng và ảnh hưởng của
chính sách tiền tệ giai đoạn 2000 – 2005
- Nêu ra tóm tắt nội dung nghiên cứu của đề tài
- Rút ra những đóng góp và hạn chế của bài
₋ Tìm hiểu và thống nhất outline dự án với các thành
viên trong nhóm
₋ Tìm hiểu và phân tích công cụ tái cấp vốn
₋ Tìm hiểu và nêu ra thực trạng và ảnh hưởng của
Trần Mai
4 31211020196 20% chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2021-2022
Khoa
₋ Nêu bài học rút ra của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam trong giai đoạn 2000-2022
₋ Tìm hiểu và nêu ra hướng phát triển của chính sách
tiền tệ ở Việt Nam trong tương lai
- Tìm hiểu, soạn outline và thống nhất outline dự án
nhóm với các thành viên.
- Tìm hiểu và thực hiện tổng quan đề tài nghiên cứu
bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp
Nguyễn Thị nghiên cứu.
5 31211024613 20%
Thùy Linh - Phân tích lý thuyết về công cụ trả lãi cho dự trữ.
- Tìm hiểu, phân tích quá trình phát triển và cải cách
chính sách tiền tệ.
- Tìm hiểu, phân tích thực trạng và ảnh hưởng của
chính sách tiền tệ giai đoạn 2006 - 2010.
- Hỗ trợ chỉnh sửa, tổng hợp bài.

3
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.............................................................................................Giang 5
DANH MỤC BẢNG BIỂU.................................................................................................Giang 5
DANH MỤC HÌNH ẢNH...................................................................................................Giang 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.......................................................Linh 7
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................................7
2. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................................8
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT..............................................................................................8
1. Tổng quan chính sách tiền tệ.................................................................................................8
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ.................................................................................Giang 8
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ........................................................................................8
1.2.1 Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đối nội đồng tiền..............Giang 8
1.2.2 Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.................................Giang 9
1.2.3 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế............................................................................Hòa 9
1.2.4 Mục tiêu ổn định thị trường tài chính..............................................................Hòa 9
1.2.5 Mục tiêu ổn định thị trường lãi suất...............................................................Đan 10
1.2.6 Mục tiêu ổn định thị trường hối đoái (ngoại tệ)............................................Đan 10
2. Các công cụ của chính sách tiền tệ......................................................................................11
2.1 Công cụ chủ yếu.......................................................................Giang, Đan, Hòa, Linh 11
2.2 Công cụ khác........................................................................................Khoa, Hòa, Đan12
CHƯƠNG 3:  THỰC TRẠNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2022...............................................................13
1. Khái quát về chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022....................................13
1.1 Quá trình phát trình và cải cách chính sách tiền tệ............................................Linh 13
1.2 Các định hướng và mục tiêu chính sách tiền tệ....................................................Đan 14
2. Thực trạng và ảnh hưởng của chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022.......15
2.1 Giai đoạn 2000-2005................................................................................................Hòa 15
2.2 Giai đoạn 2006-2010..............................................................................................Linh 21
2.3 Giai đoạn 2011-2015................................................................................................Đan 26
2.4 Giai đoạn 2016-2020............................................................................................Giang 30
2.5 Giai đoạn 2021-2022.............................................................................................Khoa 35
3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022...........................................38
4
3.1 Kết quả tích cực...................................................................................................Giang 38
3.2 Những hạn chế còn tồn tại..................................................................................Giang 39
3.3 Bài học rút ra.........................................................................................................Khoa 40
CHƯƠNG IV. TỔNG KẾT.........................................................................................................40
1. Tóm tắt nội dung nghiên cứu.......................................................................................Hòa 40
2. Những đóng góp và hạn chế của nghiên cứu..............................................................Hòa 41
3. Hướng phát triển của chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong tương lai...................Khoa 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................43

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt

CSTT Chính sách tiền tệ

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTW Ngân hàng Trung ương

NHTM Ngân hàng thương mại

TCTD Tổ chức tín dụng

FED  Federal Reserve System Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ)

TT NHNN Thông tư Ngân hàng Nhà nước

VNĐ Việt Nam đồng

USD Đồng đô la Mỹ

GDP Gross domestic product Tổng sản phẩm quốc nội

NVTTM Nghiệp vụ thị trường mở

GTCG Giấy tớ có giá

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Tóm tắt các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng trong giai đoạn 2000-2022
5
Bảng 2: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2000
Bảng 3: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2005
Biểu đồ 4: Biểu đồ thể hiện chỉ số CPI của Việt Nam giai đoạn 1997-2005
Bảng 5: Kết quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
Bảng 6: Diễn biến tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD
Bảng 7: Quy định về dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước
Bảng 8: Thay đổi lãi suất ở Việt Nam năm 2012
Bảng 9: Lãi suất cho vay tại các NHTM Việt Nam năm 2011 - 2015
Bảng 10: Quy định về dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước
Bảng 11: Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trên thị trường tự do ở Việt Nam (2011 - 2015)
Bảng 12: Doanh số giao dịch trên thị trường mở 2011 – 2015
Bảng 13: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam 2011 - 2015
Bảng 14: Tổng quát tỷ lệ DTBB áp dụng cho các tổ chức tín dụng (Theo Quyết định số
1158/QĐ-NHNN)
Bảng 15: Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN giai đoạn 2016-2020
Bảng 16: Kế hoạch tăng trưởng tín dụng và mức độ tăng trưởng tín dụng thực tế
giai đoạn 2016-2020
Biểu đồ 17: Diễn biến tỷ giá trên thị trường ngoại hối, tháng 1/2021- 12/2021
Biểu đồ 18: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam các quý năm 2021

DANH MỤC HÌNH ẢNH


Hình 1: Chính sách tiền tệ mở rộng
Hình 2: Chính sách tiền tệ thắt chặt
Hình 3: Chính sách tiền tệ mở rộng
Hình 4: Thay đổi trên thị trường ngoại tệ

6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Lý do chọn đề tài
Khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế trên thế giới hiện đang đối diện với nhiều thách thức, khó
khăn do đại dịch Covid-19, xung đột Nga-Ukraine và chính sách tiền tệ thắt chặt của nhiều quốc
gia. Điều này đặt ra nhiệm vụ cấp thiết đối với NHTW phải có những biện pháp, những chính
sách vĩ mô phù hợp, linh hoạt giúp nền kinh tế vượt qua tình trạng khủng hoảng.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, được thực hiện bởi
Ngân hàng trung ương để điều tiết kinh tế, tạo ổn định thị trường tài chính, kiểm soát lạm phát,
ổn định giá trị đồng tiền, hướng đến sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Để đạt được những
mục tiêu đặt ra này thì việc kết hợp linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ có vai trò quan
trọng.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng, đổi mới và phát triển chính sách tiền tệ cũng như các công
cụ của nó đang ngày một hoàn thiện hơn, qua quá trình cải cách và thay đổi đã có những tác động
tích cực và mang lại hiệu quả đối với kinh tế Việt Nam. Đối với đặc điểm kinh tế ở Việt Nam thì
việc chọn lựa chính sách gì, các công cụ nào, sử dụng có hợp lý hay không và những ảnh hưởng
cụ thể của chúng đối với nền kinh tế luôn là vấn đề được quan tâm, nhất là đối với những nhà
nghiên cứu kinh tế, nhà hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập, chuyển
đổi số, cùng những khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến từ khủng hoảng kinh tế thì việc nghiên cứu,
tìm hiểu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa lý luận, thực tiễn
lớn lao. Do đó, nhóm chúng em quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng của chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000 –
2022”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Từ khung lý thuyết và những nghiên cứu trước đó của các nhà kinh tế học về chính sách tiền tệ,
bài nghiên cứu nhằm đặt ra những vấn đề nghiên cứu sau:
(1) Làm rõ thực trạng và những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ, cụ thể là các công cụ của chính
sách tiền tệ đã ảnh hưởng đến kinh tế của Việt Nam như thế nào.
(2) Đánh giá tác dụng, hiệu quả của chính sách tiền tệ, đưa ra hạn chế và rút ra bài học về cách
thức điều hành và những công cụ đã sử dụng của chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn
2000-2022.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tiền tệ và nền kinh tế.

7
Phạm vi nghiên cứu:
● Phạm vi không gian: Việt Nam.
● Phạm vi thời gian: giai đoạn 2000 - 2022.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dự án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết, so sánh để hệ thống hóa những vấn đề
lý luận, đối chiếu với thực tiễn; phân tích có hệ thống các thông tin liên quan để lượng hoá các tác
động một cách logic nhằm đánh giá chính sách ở Việt Nam.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Tổng quan chính sách tiền tệ
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ
CSTT là một trong các chính sách được ngân hàng trung ương (NHTW) áp dụng để quản lý nền
kinh tế vĩ mô bằng việc sử dụng các công cụ vĩ mô khác nhau tác động đến lượng tiền lưu thông
hoặc lãi suất trong nền kinh tế. Ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm là những
mục tiêu chính của CSTT cùng với một số mục tiêu khác.
CSTT được hoạch định theo hai hướng
● CSTT mở rộng: là chính sách mà NHTW tác động làm tăng mức cung tiền trong nền kinh
tế dẫn đến giảm lãi suất, tăng đầu tư, tiêu dung, từ đó tổng cầu và sản lượng tăng; giúp
tăng thu nhập và giảm thất nghiệp, mở rộng quy mô nền kinh tế.
● CSTT thu hẹp: là chính sách mà NHTW tác động làm giảm mức cung tiền trong nền kinh
tế dẫn đến tăng lãi suất, giảm đầu tư, tiêu dung, từ đó tổng cầu giảm và mức giá chung
cũng giảm (hay lạm phát giảm).
Tùy vào tình hình nền kinh tế đang như thế nào mà chúng ta sẽ thực hiện CSTT khác nhau. CSTT
mở rộng được sử dụng để kích cầu nền kinh tế tăng trưởng  nếu kinh tế đang trong thời kỳ suy
thoái. Và ngược lại, khi nền kinh tế có nguy cơ bùng nổ lạm phát thì CSTT thu hẹp được sử dụng
nhằm ngăn chặn tình trạng này.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.2.1 Mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đối nội đồng tiền
Ổn định giá cả trên cơ sở kiểm soát lạm phát là mục tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài hạn ở hầu
hết các quốc gia. Chúng ta phải chấp nhận nền kinh tế có lạm phát, ở một mức độ cần thiết, nhất
định để từ đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đầu tư. Ổn định giá cả có tầm quan trọng trong việc
định hướng và phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Ổn định giá cả sẽ cho phép một hệ thống
tài chính hoạt động trơn tru và hiệu quả hơn, hướng dẫn các nguồn lực tìm đến với khu vực mang
8
lại lợi nhuận tốt, và nhờ đó tăng tiềm năng sản xuất của nền kinh tế. Ngày càng có nhiều quốc gia
thừa nhận: Để đạt được mục tiêu cuối cùng là có một nền kinh tế phồn thịnh trong tương lai thì
mục tiêu duy nhất của CSTT phải là ổn định giá cả trong dài hạn, và chiếc neo tốt nhất để neo giữ
giá cả ổn định chính là bằng mọi cách đạt được mức lạm phát mục tiêu hợp lý
1.2.2 Mục tiêu tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp
Tạo ra công ăn việc làm là một đòi hỏi quan trọng, cấp thiết và thường trực của xã hội. NHTW đã
sử dụng các công cụ của CSTT mở rộng tác động đối với nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và ổn
định kinh tế, chống suy thoái theo chu kỳ, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp xuống gần ngang mức tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên và ổn định các điều kiện của nền kinh tế vĩ mô. Khi một nền kinh tế phát
triển, các doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và kinh doanh, thu hút nhiều lao động hơn, từ đó
tăng việc làm cho người dân, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế cao, tỷ
lệ thất nghiệp giảm cũng là khi mối nguy cơ do lạm phát gia tăng. Vì vậy, tùy theo tình hình của
nền kinh tế, NHTW cần sử dụng CSTT một cách hiệu quả, phù hợp để đạt được các mục tiêu
trọng tâm và dung hòa được các vấn đề mâu thuẫn.
1.2.3 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách
kinh tế vĩ mô. Vì CSTT có ảnh hưởng tới của cải và chi tiêu của xã hội nên có thể sử dụng CSTT
để làm đòn bẩy, kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi NHTW tăng cung tiền tệ, lãi suất giảm, các
khoản vay trở nên dễ dàng hơn, thúc đẩy chi tiêu dùng và đầu tư, vì lúc này người dân và doanh
nghiệp có thể vay tiền với mức lãi suất thấp hơn để chi tiêu và đầu tư, dẫn đến GDP cũng tăng
lên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoặc khi NHTW tăng giá trị tiền tệ thông qua việc tăng lãi suất
hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông. Việc tăng giá trị tiền tệ sẽ giảm giá trị của hàng hóa nhập
khẩu, tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước và thúc đẩy sản xuất, góp phần tăng
trưởng kinh tế. CSTT phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực và đảm bảo cơ cấu kinh tế cân đối,
nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá trong nước.
1.2.4 Mục tiêu ổn định thị trường tài chính
Mục tiêu ổn định thị trường tài chính là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách tiền
tệ. Theo quan điểm của Schinasi (2004), Ổn định tài chính có thể được coi là khả năng của hệ
thống tài chính: (a) tạo điều kiện thuận lợi cho cả việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực kinh tế - cả
về mặt không gian và đặc biệt là về mặt thời gian - và tạo điều kiện thuận lợi  hiệu quả của các
quá trình kinh tế khác (như tích lũy của cải, tăng trưởng kinh tế và cuối cùng là sự thịnh vượng xã
hội); (b) đánh giá, định giá, phân bổ và quản lý rủi ro tài chính; và (c) để duy trì khả năng thực

9
hiện các chức năng chính này - ngay cả khi bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài hoặc do sự mất
cân bằng tích tụ - chủ yếu thông qua các cơ chế tự điều chỉnh.
Cho nên khi khủng hoảng tài chính xảy ra sẽ ảnh hưởng đến chức năng phân bổ nguồn lực của thị
trường tài chính, dẫn đến sự sụt giảm mạnh trong thị trường tài chính. Vì vậy, sự ổn định của thị
trường tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế các quốc gia.Với vai trò như vậy,
NHTW bằng việc áp dụng CSTT, làm tác động tới khối lượng tín dụng và lãi suất, đem lại sự ổn
định cho thị trường tài chính.
1.2.5 Mục tiêu ổn định thị trường lãi suất
Lãi suất là yếu tố quan trọng trong thị trường tiền tệ, nó tác động đến việc ra quyết định kinh
doanh, sản xuất hay đầu tư. Đối với nhà quản lý có nhiệm vụ ổn định các yếu tố vĩ mô thì lãi suất
là một công cụ không thể thiếu để giải quyết vấn đề lạm phát bằng cách tăng hoặc giảm lãi suất
một cách phù hợp.

NHTW nếu muốn “lãi suất” giảm, NHTW sẽ sử dụng CSTT mở rộng, bơm tiền ra thị trường, lúc
này cung lớn hơn cầu tiền, do đó lãi suất giảm để “cân bằng cung cầu” trên thị trường tiền tệ
(Hình 1) và ngược lại với CSTT thắt chặt (Hình 2).

Hình 1: Chính sách tiền tệ mở rộng Hình 2: Chính sách tiền tệ thắt chặt

1.2.6 Mục tiêu ổn định thị trường hối đoái (ngoại tệ)
NHTW không thể dùng CSTT trực tiếp tạo ra tác động đến thị trường ngoại tệ, nhưng có thể ảnh
hưởng thông qua việc dùng CSTT để điều chỉnh lãi suất và tỷ giá. Nếu như NHTW nhận thấy tỷ
giá đang giảm xuống thấp gây “ảnh hưởng tiêu cực” đến thị trường ngoại tệ hay thị trường xuất
nhập khẩu, NHTW có thể bơm một lượng tiền (đã tính toán hợp lý) vào thị trường làm cho lãi
suất giảm (Hình 3), mà lãi suất giảm thì lợi ích việc nắm giữ đồng nội tệ của người dân giảm do

10
đó tăng nhu cầu ngoại tệ, lúc này cầu lớn hơn cung ngoại tệ, tỷ giá tăng để cân bằng cung cầu
ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ (Hình 4).

Hình 3: Chính sách tiền tệ mở rộng Hình 4: Thay đổi trên thị trường ngoại tệ

2. Các công cụ của chính sách tiền tệ


2.1 Công cụ chủ yếu
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tiền gửi mà một ngân hàng thương mại phải giữ lại tại ngân hàng
trung ương. Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ này để điều tiết lượng tiền lưu thông trong
nền kinh tế và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính. Khi các ngân hàng thương mại giảm tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, họ có thể cho vay nhiều hơn, làm tăng khả năng tiêu dùng và đầu tư của khách
hàng.
Mục đích của việc thiết lập tỷ lệ dự trữ bắt buộc là đảm bảo rằng các ngân hàng thương mại có đủ
tiền để chi trả các khoản vay và rút tiền của khách hàng mà không ảnh hưởng đến sự ổn định của
hệ thống tài chính. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được sử dụng để kiểm soát lạm phát trong nền kinh
tế. Khi ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các ngân hàng thương mại sẽ phải giữ lại
nhiều tiền hơn và cho vay ít hơn, giảm lượng tiền được phát hành ra thị trường. Trên thế giới, các
quốc gia có các tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau và các tỷ lệ này thường được quy định bởi ngân
hàng trung ương và được điều chỉnh theo thời gian.
- Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ liên quan tới việc mua
bán các giấy tờ có giá để tăng hoặc giảm lượng tiền cung ra thị trường, NHTW có thể điều tiết
lượng tiền cung ứng ra thị trường, kiểm soát lạm phát hay điều chỉnh tỷ giá một cách hiệu quả
bằng cách sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở thường gồm hai loại là mua
11
bán giấy tờ có giá dài hạn và ngắn hạn. Trong đó, một số loại giấy tờ có giá được phép mua bán
trên thị trường mở là: tín phiếu của ngân hàng nhà nước, trái phiếu chính phủ ( tín phiếu kho bạc,
trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương,...). Ví dụ như muốn cung một lượng tiền vào
thị trường, NHTW có thể quyết định mua vào trái phiếu chính phủ của NHTM và công chúng,
điều này làm tăng lượng tiền dự trữ của NHTM và công chúng. Lượng dự trữ tăng thêm giúp cho
NHTW tăng cường hoạt động cho vay, do đó một lượng tiền được đưa vào thị trường (cung tiền
tăng đúng theo định hướng của NHTW).
Ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu với các loại giấy tờ
có giá thông qua thực hiện đấu thầu. 
- Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW áp dụng vào các khoản tiền mà các NHTM vay để đáp
ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các NHTM. Khi mà tỷ lệ tiền mặt dự trữ của
NHTM không thể đảm bảo an toàn thì lúc đó NHTM sẽ xem xét vay tiền tránh xảy ra tình huống
khách hàng rút tiền. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ của CSTT nhằm
điều tiết lượng cung tiền. Nếu NHTW điều chỉnh lãi suất chiết khấu tăng, NHTM sẽ phải dè
chừng khoản vay này, chủ động dự trữ nhiều hơn, từ đó cung tiền trong nền kinh tế giảm. Ngược
lại, nếu NHTW điều chỉnh giảm lãi suất chiết khấu, các NHTM vay nhiều hơn, cung tiền tăng
lên.
- Trả lãi cho dự trữ
Trả lãi cho dự trữ là một trong những công cụ để Fed thực hiện chính sách tiền tệ, được áp dụng
từ năm 2008. Ngân hàng Trung ương sẽ trả lãi cho dự trữ gửi vào Ngân hàng Trung ương. Trong
trường hợp Ngân hàng Trung ương muốn khuyến khích Ngân hàng Thương mại dự trữ nhiều hơn
để siết chặt chính sách tiền tệ thì Ngân hàng Trung ương sẽ tăng trả lãi cho dự trữ dư của Ngân
hàng Thương mại. Ngược lại, trường hợp Ngân hàng Trung ương muốn khuyến khích Ngân hàng
Thương mại cho vay ra nền kinh tế thay vì gửi tại Ngân hàng Thương mại, tức làm tăng cung tiền
(khi các yếu tố khác không đổi) nhằm nới lỏng chính sách tiền tệ thì Ngân hàng Trung ương sẽ
giảm trả lãi cho dự trữ dư của Ngân hàng Thương mại.
2.2 Công cụ khác
- Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức NHTW mua các giấy tờ có giá trị để cung cấp vốn cho các tổ chức tín
dụng. Xem xét mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng, NHTW sẽ điều chỉnh

12
tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn để kiểm soát lượng tiền trong lưu thông. Bên cạnh đó, NHTW
còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để kiểm soát lượng dự trữ của các ngân hàng thương mại.
- Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai đồng tiền, có thể hiểu
là giá cả của một đơn vị tiền tệ của nước này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền của nước khác.
NHTW ấn định tỷ giá đối hoái qua chế độ:
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do dựa trên quy luật
cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTW.
Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá, trong đó, NHTW công bố cam kết can thiệp để duy trì tỷ
giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước (thường từ 2% –
5%). Khi khi tỷ giá đối hoái giảm, đồng nội tệ tăng giá, để ngăn chặn sự sụt giảm của tỷ giá hối
đoái, NHTW sẽ bơm tiền vào nền kinh tế bằng cách mua đồng nội tệ và bán ra đồng ngoại tệ, làm
cung tiền giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đối hoái tăng, đồng nội tệ giảm giá, để kìm hãm tỷ giá hối
đoái tăng, NHTW sẽ mua đồng ngoại tệ và bán ra đồng nội tệ, làm cung tiền tăng. Để làm được
điều đó, NHTW buộc phải đảm bảo có nguồn dự trữ ngoại hối đủ lớn.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết dựa theo quan hệ cung cầu trên thị trường và NHTW có tiến
hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ giá cố định
hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Hiện nay, đa số các quốc gia trên thế giới
áp dụng chế độ tỷ giá này.
- Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức vay nhiều nhất mà các tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân có thể vay từ
NHTM dựa trên quy định của NHTW và NHTM có nhiệm vụ phải chấp hành khi cấp tín dụng
cho nền kinh tế. NHTW sử dụng hạn mức tín dụng để thực hiện chính sách tiền tệ với mục đích
hạn chế số dư nợ tín dụng tối đa đối với nền kinh tế của tổ chức tín dụng. Nếu NHTW tăng hạn
mức tín dụng đồng nghĩa với việc NHTM có thể cho vay nhiều hơn, khoản cho vay nhiều hơn sẽ
làm tăng một lượng tiền tương ứng lưu thông vào thị trường và ngược lại.

CHƯƠNG 3:  THỰC TRẠNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2022
1. Khái quát về chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022
1.1 Quá trình phát trình và cải cách chính sách tiền tệ
Việt Nam đã trải qua hàng chục năm xây dựng, đổi mới và phát triển, hệ thống NHNN đã phát
triển và đạt được thành tựu đáng kể, đóng góp sâu sắc vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Giai
13
đoạn từ 2000 – 2022, tình hình kinh tế Việt Nam ta đã trải qua đủ mọi thăng trầm, quá trình phát
triển, cải cách CSTT cũng biến động và thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể:
Giai đoạn 2000 – 2005: Đây là giai đoạn bị ảnh hưởng rất nhiều từ cuộc khủng hoảng châu Á năm
1997 – 1998, vậy nên NHNN đã thực hiện CSTT với mục đích phục hồi và giảm thiểu những tác
động xấu từ cuộc khủng hoảng. Hệ thống các TCTD được củng cố, chấn chỉnh, xử lý nợ tồn đọng.
Từ tháng 5/2002, công nghệ ở ngân hàng cũng lớn mạnh hơn, hệ thống thanh toán như là điện tử
liên ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động. NHNN cũng tích cực tham gia đàm phán gia nhập WTO
và tích cực tham gia hội nhập kinh tế thế giới.
Giai đoạn 2006 – 2010: Tình hình thế giới diễn biến phức tạp do khủng hoảng tài chính giai đoạn
2008 – 2009. Năm 2007 sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hệ thống tài chính – tiền tệ Việt Nam
gặp khó khăn. CSTT được tiến hành chủ động, thích ứng linh động theo từng thời kỳ. Vào kỳ họp
thứ 7 “Quốc hội khóa XII” đã thông qua “Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” và “Luật các tổ
chức tín dụng” ngày 16/6/2010 tạo ra nền tảng pháp lý mới, nâng cao chỗ đứng, trách nhiệm,
cũng như quyền hạn trong việc hoạch định, tiến hành thực thi các CSTT của NHNN, đảm bảo
minh bạch an toàn cho hệ thống của ngân hàng và TCTD; phù hợp với các điều ước theo quy
định, chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giai đoạn 2011 – 2015: Trong giai đoạn này, hoạt động tiền tệ của ngân hàng được dự báo, thống
kê một cách hiệu quả, linh động hơn, nên cơ chế trong việc điều hành CSTT ở Việt Nam đã có sự
cải cách, đổi mới vượt bậc. Các hoạt động như thanh tra, kiểm soát, giám sát được củng cố;
NHNN cũng tăng cường kỷ cương, kỷ luật đối với thị trường tiền tệ. Hiệu lực, tác dụng của việc
quản lý, điều hành của NHNN trên các lĩnh vực đều được củng cố, nâng cao.
Giai đoạn 2016 – 2020: NHNN Việt Nam đã điều hành, chỉ đạo các công cụ của CSTT để “ổn
định thị trường”, “đảm bảo thanh khoản thông suốt”, thực hiện thành công mục tiêu “kiểm soát
lạm phát”, “ổn định kinh tế vĩ mô”. Do tác động của Covid-19, NHNN đã điều hành tỷ giá một
cách linh hoạt, điều tiết thanh khoản hợp lý; chủ động can thiệp, sẵn sàng bán ngoại tệ để bình ổn
thị trường. Giai đoạn có nhiều bước tiến trong dịch vụ thanh toán của ngân hàng với sự hiện đại,
đa tiện ích hơn dựa trên những ứng dụng của công nghệ thông tin.
Giai đoạn 2021 – 2022: Giai đoạn này, CSTT của NHNN Việt Nam chủ yếu tập trung nhiều vào
phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid – 19. NHNN sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tích cực
bơm thanh khoản cho toàn hệ thống, nhưng áp lực thanh khoản của toàn hệ thống NHNN vẫn
chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn nhưng CSTT của
NHNN Việt Nam nhìn chung khá hiệu quả, bám sát diễn biến thị trường.

14
1.2 Các định hướng và mục tiêu chính sách tiền tệ
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã xác định chính sách tiền tệ là tập trung giải quyết các vấn
đề ngắn hạn, tránh đề ra để giải quyết các vấn đề trung dài hạn. Do đó, mỗi năm NHNN Việt Nam
đều đề ra định hướng và mục tiêu cụ thể cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Có ba mục tiêu
xuyên suốt mà NHNN hướng tới dù cho diễn biến nền kinh tế qua từng năm có thay đổi như thế
nào là: “kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế” nhưng vẫn phải
linh hoạt, uyển chuyển biết lấy mục tiêu nào làm trọng tâm ưu tiên để có thể thực hiện chính sách
tiền tệ một cách “tốt nhất”, “hiệu quả nhất” và đặc biệt là “phù hợp nhất” trong từng giai đoạn.
Điển hình từ trường hợp thực tế, vào tháng 10 khi sự cố ngân hàng SCB xảy ra tác động mạnh tới
thanh khoản hệ thống và thị trường, NHNN đã ưu tiên cao nhất và tập trung thực hiện các giải
pháp bảo đảm an toàn hệ thống và ổn định thị trường ngoại hối.
2. Thực trạng và ảnh hưởng của chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022
Bảng 1: Tóm tắt các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng trong giai đoạn 2000-2022

Giai đoạn
2000-2005 2006-2010 2011-2015 2016-2020 2021-2022
Công cụ

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc X X X X

Nghiệp vụ thị trường mở


X X X X X

Lãi suất chiết khấu X

Tái cấp vốn X X X X

Tỷ giá hối đoái X X X X X

Hạn mức tín dụng X X X X

Lãi suất X X X X

Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp từ NHNN Việt Nam

2.1 Giai đoạn 2000-2005


Giai đoạn 2001 – 2005 là giai đoạn mà thế giới trải qua một thời kỳ phát triển đầy biến động bởi
các tác động như giá dầu tăng nhanh chưa từng có, nền kinh tế Mỹ thâm hụt kép, sự mất giá của
đồng USD gây ra những xáo trộn lớn trên thị trường ngoại hối toàn cầu và trong khu vực chịu

15
ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Việt Nam trước bối cảnh đó, Chính phủ
đã chủ trương thực hiện “chính sách nới lỏng tài chính công và CSTT” nhằm phục hồi kinh tế và
kích thích khu vực tư nhân đầu tư phát triển. Về cơ bản, mục tiêu của CSTT giai đoạn 2000 -
2005 bao gồm 3 mục tiêu: “đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.” Trong đó, về các mục tiêu hoạt động thì giai đoạn 2000 -
2003 NHNN áp dụng CSTT nới lỏng, và CSTT thu hẹp từ 2004 - 2005.

Về công cụ lãi suất, giai đoạn 2000 - 2005, NHNN Việt Nam quy định lãi suất cho vay thông
qua 3 lần điều chỉnh: Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000); Lãi
suất cơ bản cộng với biên độ giao động (từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002); Lãi suất thỏa thuận (từ
ngày 01/6/2002 – 19/5/2008). Cụ thể, trước năm 2000, NHNN ấn định mức giá trần cho vay.
Nhưng thời điểm năm 1999, khi NHNN giảm mức lãi suất trần xuống cho phù hợp với tình hình
lạm phát thì các NHTM không điều chỉnh kịp dẫn đến việc lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân
vượt trần lãi suất. Do đó tháng 8/2000, NHNN đổi sang cơ chế mới - cơ chế lãi suất cơ bản. Qua
đó, “NHTM không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản cộng biên độ 0,3%/ tháng
đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/ tháng đối với vốn trung và dài hạn.” Cũng trong thời gian này lãi
suất tiền gửi tăng lên, chính sự cạnh tranh của các ngân hàng đã giảm sự chênh lệch giữa lãi suất
huy động và lãi suất cho vay. NHNN duy trì ở mức rất thấp lãi suất tái cấp vốn so với lãi suất trên
thị trường để cung ứng vốn cho các NHTM. NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
tái chiết khấu vào tháng 3/2000 và tháng 7/2000 khuyến khích mở rộng tín dụng của các TCTD.
Tuy vậy ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và tăng lãi suất tái chiết
khấu để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết
khấu từ NHNN và đồng thời khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường mở để tạo tín hiệu cho
các TCTD tăng lãi suất huy động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường mở.

Bảng 2: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm 2000

Đơn vị: %/tháng

Thời gian 31/3/2000 31/7/2000 2/11/2000

Lãi suất tái cấp vốn 0,45 0,44 0,5

Lãi suất tái chiết khấu 0,4 0,35 0,45

16
Nguồn: Thư viện pháp luật

Tháng 6/2001, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá, tháng 6/2002, lãi suất đồng Việt Nam
cũng được tự do hóa. Ngay khi áp dụng chính sách lãi suất mới này, NHTM tăng lãi suất huy
động và mức lãi suất cho vay cũng nhích dần lên. Thời điểm này, lãi suất cơ bản của NHNN chỉ
mang tính chất tham khảo. Nguyên tắc điều hành lãi suất của ngân hàng là lãi suất do thị trường
quyết định. NHNN chỉ tác động nhất định để thị trường không có biến động đột biến. Tình hình
giá cả đầu năm 2002 đã tăng tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả tăng 2,9%. Trước tình hình
đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trường một cách hợp lý, từ
01/08/2002 NHNN “tăng lãi suất cơ bản từ 7,2%/năm lên 7,44%/năm.”

Giai đoạn 2004 - 2005, tình hình có diễn biến khác lạm phát là tình trạng chung đối với toàn bộ
thế giới. Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất do sức ép của việc FED tăng lãi suất đồng ngoại
tệ. Trái với tình hình trên, NHNN chủ trương giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất chiết khấu, mặc dù về mặt nào đó lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu có tác động
nhất định đến cung cầu trên thị trường. Công cụ tác động chỉ là dự trữ bắt buộc. Đây là bước đi
được xem là thận trọng của NHNN đạt được mục tiêu tăng trưởng lại không ảnh hưởng đến chính
sách kích cầu của Chính phủ.

Bảng 3: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu trong năm  2005

Đơn vị: %/năm

Thời gian 15/1/2005 01/04/2005 01/12/2005

Lãi suất tái cấp vốn 5,5 6,0 6,5

Lãi suất tái chiết khấu 3,5 4,0 4,5

Nguồn: Thư viện pháp luật

Đối với dự trữ bắt buộc, đặc điểm nổi bật của CSTT của giai đoạn 2000 - 2005 là để chống lại
tình trạng giảm phát của nền kinh tế (tỷ lệ lạm phát năm 2000 là -1,7% theo World Bank). Trước
tình hình đó, NHNN tiến hành nới lỏng tiền tệ thông qua công cụ dự trữ bắt buộc. Cụ thể, NHNN
đã liên tiếp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong những năm 2000 - 2003. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với tiền gửi bằng đồng Việt Nam là 3% (5/2001) và giảm xuống còn 2% (8/2003) và tăng trở lại

17
5% vào 7/2004, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ là 10% (12/2001) đã được
điều chỉnh giảm xuống 8% (4/2002) rồi xuống 5% (tháng 12/2002), và là 4% (8/2003) và tăng trở
lại mức 8% vào 7/2004. Tất cả giúp lãi suất ngoại tệ giảm một cách nhanh chóng, gia tăng các
hoạt động tín dụng của NHTM đồng thời làm giảm chi phí huy động vốn của các cơ sở kinh
doanh cũng như các TCTD song mặt trái của điều này là khiến lạm phát quay trở lại.

Biểu đồ 4

Biểu đồ thể hiện chỉ số CPI củ a Việt Nam


% giai đoạn 1997-2005
(Đơn vị: % so vớ i năm trướ c)
10
8.3
7.8
8 7.3

6
4.1 3.8
4 3.2 3.2

2
-0.4
0
-1.7
-2

-4
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Nguồn: World Bank

Theo báo Dân Trí (dantri.com), có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lạm phát gia tăng
một cách đột biến vào năm 2004 là chi phí đẩy và sự mất cân đối của nền kinh tế vĩ mô. Thứ
nhất, việc NHNN điều chỉnh giảm giá VND so với USD đã kích thích xuất khẩu và giúp ổn định
nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên việc đồng USD mất giá so với các dòng tiền chủ chốt khác trên thế
giới trong khi VND lại gắn chặt với USD đã làm cho giá cả các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu
như sắt thép, phân bón, ... tăng lên. Mặt khác, nguồn cung giảm nghiêm trọng do dịch cúm gia
cầm và sự biến đổi khí hậu đã làm giá thực phẩm tăng lên. Thứ hai, vẫn còn tồn tại một sự mất
cân đối lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Bởi trong khi xuất đi nguyên vật liệu hay các sản phẩm
chưa qua chế biến có giá trị thấp như nông sản, khoáng sản thì phải nhập về các sản phẩm có giá
trị cao như xăng, hàng công nghiệp, ...

18
Về nghiệp vụ thị trường mở, tháng 7/2000 công cụ thị trường mở đã chính thức được đưa vào
hoạt động. Về cơ bản, công cụ thị trường mở được xác định là công cụ điều hành CSTT chủ yếu
của NHNN nên liên tục được hoàn thiện. Chứng minh cho điều đó, là các phiên giao dịch được
tăng lên, số lượng NHTM tham gia ngày càng đông, hệ thống thanh toán ngày càng được cải tiến,
cũng như quy trình thủ tục tham gia cũng được đơn giản hóa, …

Bảng 5: Kết quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở (Từ năm 2000 đến năm 2005)

Đơn vị: Tỷ đồng

Thời Số Khối KHỐI LƯỢNG TRÚNG THẦU % năm Lãi suất


gian phiên lượng so với trúng
chào Tổng số Trong đó năm thầu
thầu trước (%/năm)
Mua Mua có Bán Bán
hẳn kỳ hạn hẳn có kỳ
hạn

2000 17 2,450 1,904 480 874 550 4,5-4,9

2001 48 5,770 3,934 60 3,254 570 50 206,6 3,4-5,15

2002 85 22,400 9,146 7,246 1,900 232,5 4,5-5,1

2003 107 37,500 21,184 9,844 11,340 231,6 1,58-5

2004 123 93,760 61,936 60,986 950 292,4 3,25-5,45

2005 158 138,787 102,479 100,679 1,100 700 165,5 3,7-7,4

Tổng số 538 300,667 200,583 540 182,883 15,460 1,700

Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam

Nhìn vào số liệu ở Bảng cho thấy, kết quả hoạt động hết sức ấn tượng, cả về sự đa dạng trong
phương thức giao dịch cũng như khối lượng trúng thầu gia tăng mạnh mẽ qua từng năm. Nhìn
19
vào số liệu, ta thấy năm 2000, khối lượng trúng thầu mới chỉ là 1,904 tỷ đồng, thì đến năm 2005,
khối lượng trúng thầu đạt 102,479 tỷ đồng. Trong 5 năm, (2000 - 2005), NHNN đã bơm tiền ra
lưu thông qua việc mua kỳ hạn và mua hẳn GTCG là 183,423 tỷ đồng, hút tiền về lưu thông qua
việc bán kỳ hạn và bán hẳn GTCG là 17,160 tỷ đồng.

Giai đoạn 2004 - 2005, lạm phát gia tăng, NHNN thực hiện chào bán GTCG qua nghiệp vụ thị
trường mở, thông qua phương thức chủ yếu là bán hẳn. Để từ đó điều tiết kịp thời vốn khả dụng
dư thừa và thu hút bớt một lượng tiền VND khá lớn được cung ứng qua các kênh - nhất là kênh
mua ngoại tệ từ các TCTD. Song, trong một vài thời điểm, điển hình là vào tháng 4 - 7/2003,
NHNN vẫn liên tục chào mua GTCG trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường với lãi suất
thấp (bên cạnh các biện pháp điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn; lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc...) nhằm mục đích phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn với chi phí thấp, thúc đẩy
các TCTD chủ động cân đối vốn hợp lý. Bởi, các TCTD có xu hướng liên tục tăng lãi suất huy
động VND trong khi vốn khả dụng vẫn dư thừa khá lớn.

Đối với công cụ tỷ giá hối đoái, trong thời kỳ này, thị trường ngoại hối Việt Nam đã trải qua một
bước ngoặt quan trọng khi NHNN thay đổi cơ chế xác định tỷ giá. “Từ cơ chế tỷ giá cố định
chuyển sang cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết”, cho phép tỷ giá được xác định dựa trên cung cầu
thị trường và linh hoạt hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hòa nhập
của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Kể từ ngày 26/2/1999, NHNN đã quyết định sử dụng tỷ
giá bình quân giao dịch thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để công bố. Các TCTD tự
xác định tỷ giá kinh doanh, với mức giới hạn so với tỷ giá bình quân do NHNN công bố là 0,1%.
Tuy nhiên, cơ chế này đã bộc lộ một số nhược điểm, như biên độ giao động hẹp, dẫn đến mức tỷ
giá bị ép xuống và không phản ánh đúng mức tỷ giá cân bằng trên thị trường bán lẻ ngoại tệ. Nên
ngày 1/7/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định “mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch từ
+-0,1% lên +- 0,25%”. Kết quả đạt được là tỷ giá mua bán ngoại tệ của ngân hàng bắt đầu có
tương quan với thị trường hơn, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường mua bán
ngoại tệ được rút ngắn lại chỉ còn khoảng 10-20đ/USD so với trước là 35-50đ/USD. Song, việc
áp dụng quyết định này cũng gặp phải một số vấn đề: việc nâng biên độ tỷ giá giao dịch cũng
đồng nghĩa với việc tăng khả năng rủi ro cho các TCTD khi mà thị trường ngoại tệ liên tục biến
động; Thị trường tự do biến động khiến cho tỷ giá mua bán ngoại tệ của ngân hàng có thể không
ổn định dẫn đến khó khăn trong việc dự trữ ngoại hối. Bà Vũ Phương Liên - vụ trưởng vụ quản lý
ngoại hối NHNN khẳng định: “Mục đích của việc điều chỉnh biên độ tỷ giá lần này nhằm mở
rộng điều hành gián tiếp và giảm bớt tính hành chính trong điều hành tỷ giá để từng bước đưa thị
20
trường ngoại tệ của VN phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện cho NHTM thực sự
chủ động linh hoạt trong kinh doanh ngoại tệ, thỏa thuận giá cả phù hợp với nhu cầu của thị
trường, tiếp cận với cách thức hoạt động trong nền kinh tế thị trường, chuẩn bị tốt và nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập nền kinh tế.”

Cuối cùng, việc NHNN vận dụng các công cụ của CSTT một cách tất yếu, phù hợp. Điều này đưa
đến kết quả rất đáng khích lệ. Theo Vietstock.vn, “Năm 2005 tăng trưởng GDP đạt 8,43%, cao
nhất so với 9 năm trước đó và là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao hàng đầu ở châu Á
và thế giới. Mức tăng trưởng cao của năm 2005 đã góp phần quyết định hoàn thành mục tiêu tăng
trưởng GDP trung bình 7,5%/năm được đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2001 - 2005. Tại kỳ họp thượng đỉnh Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tháng 9/2005, Việt Nam được
đánh giá là một trong những nước điển hình thực hiện tốt các mục tiêu phát triển của thiên niên
kỷ.”

2.2 Giai đoạn 2006-2010


Năm 2006
NHNN Việt Nam điều hành CSTT theo hướng thắt chặt. Đây là năm mà Việt Nam bắt đầu hội
nhập nhiều hơn vào kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng cả năm là 8,2%. Nhằm đạt mục tiêu tăng
trưởng, phát triển kinh tế, NHNN đã điều hành các công cụ của CSTT như sau:
Lãi suất: Các mức lãi suất như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu công bố
không thay đổi so với tháng trước và so với cuối năm 2006, cụ thể lần lượt là 8,25% (theo quy
định 1714/QĐ-NHNN), 6,5% và 4,5%.
Tỷ giá hối đoái: Đây cũng là năm đầu tiên mà NHNN thử nghiệm “cơ chế tỷ giá thả nổi” một
cách thận trọng và quản lý hiệu quả hơn; dựa trên mục tiêu đề ra NHNN tiến hành can thiệp mua
bán ngoại tệ trên thị trường; dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục tăng.
Nghiệp vụ thị trường mở: công cụ này tiếp tục được hoàn thiện và điều hành một cách linh hoạt,
phát huy vai trò “điều tiết vốn khả dụng” của các TCTD, tăng cường thực hiện chào bán giấy tờ
có giá với lãi suất thấp, kỳ hạn ngắn. Trên thị trường, số phiên giao dịch gia tăng mạnh (133
phiên chào bán giấy tờ có giá), doanh số giao dịch bán ra là 87400 tỷ đồng, xu hướng bán hai
chiều thể hiện ngày một rõ nét hơn.
*Tác động: Xuất khẩu tăng mạnh 22,1%, cán cân thương mại cải thiện mạnh mẽ. Các công cụ
CSTT, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở đã phần nào duy trì ổn định của thị trường tiền tệ. Mặt
khác, vì mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh tế nên đầu tư tăng mạnh, nhưng hiệu quả sử dụng
không cao đã làm tăng lạm phát, TCTD gặp trở ngại trong việc chủ động nguồn vốn, tốc độ tăng
21
cung tiền khá cao. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã phải cung ứng tiền đồng Việt Nam để mua lại
ngoại tệ làm tăng khối lượng dự trữ ngoại hối, ngược lại để rút bớt lượng tiền trong lưu thông khi
can thiệp ổn định tỷ giá thì Ngân hàng đã bán tín phiếu lãi suất cao tuy nhiên không đạt được
mức độ như mong muốn.

Năm 2007
NHNN Việt Nam điều hành CSTT theo hướng thắt chặt. Năm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập
WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư mạnh vào Việt Nam. Lúc này kinh tế của Việt Nam
còn hạn chế, chưa sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Cung tiền gia tăng làm lạm phát tăng cao, tổng
phương tiện thanh toán là 46,12%. Để làm giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư
nợ cho nền kinh tế, từ nửa đầu năm 2007, NHNN đã thực hiện các công cụ như sau:
Lãi suất: Lãi suất cơ bản giữ ổn định là 8,25%/năm, giữ nguyên lãi suất chiết khấu, lãi suất tái
cấp vốn.
Tỷ giá hối đoái: Điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, can thiệp mua ngoại tệ ở mức độ thích hợp nhằm ổn
định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại hối.
Bảng 6: Diễn biến tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD
từ tháng 1, cuối tháng 10 và cuối tháng 12 năm 2007

Loại ngoại tệ Tỷ giá bán đầu tháng Tỷ giá bán cuối tháng Tỷ giá bán
1/ 2007 10/ 2007 31/12/2007

US DOLLAR - 16051 16083 16030


VND/USD

Nguồn: https://portal.vietcombank.com.vn

Dự trữ bắt buộc: Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 1,5 – 2 lần (áp dụng từ tháng 6/2007).
Nghiệp vụ thị trường mở: Thực hiện với tần suất quy mô lớn, cố định phiên mua, thay đổi trong
phương thức đấu thầu.
Hạn mức tín dụng: Theo chỉ thị 03/CT, khống chế mức cho vay thế chấp chứng khoán 3% (hiệu
lực từ 1/7/2007) nhằm khống chế dư nợ cho vay chứng khoán theo hướng tiếp tục thắt chặt.
*Tác động: Các công cụ này đã góp phần kiềm chế lạm phát; dự trữ ngoại hối nhà nước tăng liên
tục và được quản lý an toàn hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế đối với ngoại
tế; hệ thống ngân hàng tiếp tục mở rộng cho vay nhằm đáp ứng có hiệu quả, hợp lý hoá nhu cầu
22
vốn của công ty, doanh nghiệp. Mặt khác, lượng vốn ngoại tệ đổ vào nền kinh tế khá nhiều đã
gây ra sức ép lớn, lạm phát cao một phần do NHNN còn hạn chế, lúng túng trong cách xử lý các
dòng vốn từ nước ngoài. Để ổn định tỷ giá, NHNN đã phải cung ứng tiền đồng Việt Nam để mua
lại ngoại tệ. Việc này làm tăng khối lượng dự trữ ngoại hối song để rút bớt lượng tiền trong lưu
thông.

Năm 2008
Đầu năm 2008, NHNN Việt Nam sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, cuối 2008 là nới lỏng tiền
tệ. Trong năm này, giá xăng dầu tăng cao làm lạm phát tăng cao. Chỉ tính trong 6 tháng đầu sức
ép lạm phát gia tăng trên toàn thế giới đã ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, CPI tăng bình quân
15,03%, thâm hụt thương mại hơn 14% GDP - một con số thấp kỷ lục trong các năm.
*6 tháng đầu năm 2008
Đầu tiên, với mục tiêu kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng
trưởng tín dụng. NHNN đã sử dụng công cụ như sau:
Lãi suất: 2 lần thay đổi theo hướng tăng lên (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu). Trong đó: lãi suất cơ bản tăng lần lượt là 12%/năm và 14%/năm, với lãi suất tái cấp vốn là
13%/năm và 15%/năm, với lãi suất chiết khấu là 11%/năm và 13%/năm.
Dự trữ bắt buộc: Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1%/năm, áp dụng cho hầu hết các TCTD.
Nghiệp vụ thị trường mở: Chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đấu thầu khối lượng, các hoạt động
giám sát, thanh tra đối với các ngân hàng thương mại được tăng cường. Thực hiện các phiên chào
mua giấy tờ có giá và kỳ hạn ngắn.
Hạn mức tín dụng: Ngày 1/2/2008, NHNN quy định “tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có
giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20%” (03/2008/QĐ-NHNN).
Thứ hai, với mục tiêu bình ổn thị trường ngoại hối: NHNN đã thực hiện một loạt các công cụ
như:
Tỷ giá hối đoái: Nới rộng biên độ tỷ giá, thực hiện mở rộng bán ngoại tệ cho các ngân hàng
thương mại. Tuỳ vào trạng thái ngoại tệ trong ngày của các NHTM mà có cách can thiệp phù
hợp. Đối với các thông tin về dự trữ ngoại hối phải minh bạch, rõ ràng.
*6 tháng cuối năm 2008
NHNN chủ động ngăn chặn việc suy giảm kinh tế bằng cách chuyển CSTT thắt chặt sang nới
lỏng một cách thận trọng. NHNN thực hiện các biện pháp “kiềm chế lạm phát”, “đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô” qua các công cụ sau:
23
Lãi suất: 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống chỉ còn 8,5%/năm; lãi suất tái
cấp vốn từ 15%/năm xuống chỉ còn 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuống chỉ còn
7,5%/năm.
Tỷ giá hối đoái: Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN Việt Nam ra chỉ thị “cho phép các TCTD
được phép ấn định tỷ giá mua bán giữa VND và USD trong biên độ +-3% so với tỷ giá bình quân
liên ngân hàng trong hoạt động ngoại hối, tăng 1% so với mức 2 % được áp dụng ban đầu, có
hiệu lực từ 7/11/2008.”
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 4 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Bảng 7: Quy định về dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước

VND USD

Tên quy định Ngày


<12 tháng >12 tháng <12 tháng >12 tháng

187/QĐ-NHNN 16/1 11% 5% 11% 5%

2560/QĐ-NHNN 3/11 10% 4% 9% 3%

2811/QĐ-NHNN 20/11 8% 2% 8% 3%

2951/QĐ-NHNN 3/12 6% 1% 7% 3%

3158/QĐ-NHNN 19/12 5% 1% 7% 3%

Nguồn: Tổng hợp từ Thư viện pháp luật các quy định số 187, 2560, 2811, 2951, 3158

*Tác động của CSTT đến nền kinh tế như sau: Từ việc kiểm soát chặt chẽ các mục tiêu chủ yếu
này, NHNN đã rút về một lượng lớn tiền mặt khỏi lưu thông tạo ra thành công trong việc kiềm
chế lạm phát; các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại có sự cải thiện; điều hành linh động
24
các công cụ CSTT. Đặc biệt là thông qua việc điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt
buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được khó khăn. Mặt khác thị trường chứng khoán còn
chưa ổn định, thị trường tiền tệ còn rắc rối phức tạp, giá cả vẫn tăng cao; thị trường ngoại hối bất
ổn; giấy tờ giao dịch trên thị trường tiền tệ bị giới hạn, hệ thống môi giới thiếu minh bạch.

Năm 2009
NHNN Việt Nam đã nới lỏng CSTT do tác động bất lợi đến từ khủng hoảng tài chính và suy
thoái nền kinh tế thế giới mang tính toàn cầu. Việt Nam chuyển sang mục tiêu “ngăn chặn suy
giảm kinh tế giữ ổn định kinh tế vĩ mô”. Các công cụ được sử dụng như sau:
Lãi suất: Hạ lãi suất các khoản vay về mức tối đa 10,5% (hiệu lực từ 16/04/2009). Các lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn được giữ ở mức 7%/năm trong liên tiếp 10 tháng đầu năm và chỉ đạo
nâng lên thêm 1% vào cuối tháng 11/2009 để thích ứng với tình hình thực tế và ổn định thị
trường ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái: Biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND được mở rộng, cụ thể từ +-3 lên +-
5% do tác động phụ đến từ chính sách hỗ trợ lãi suất. Sau đó vào 26/11, NHNN đã điều chỉnh tỷ
giá tăng thêm 5,4%, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +-5 xuống +-3%.
Dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm từ 11% xuống 5%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Can thiệp hợp lý vào vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại.
NHNN thực hiện chào mua các GTCG trong kỳ hạn 7 đến 14 ngày đáp ứng khối lượng và lãi suất
mà NHNN công bố.
*Tác động: Góp phần nâng cao kỷ luật trên thị trường tiền tệ; những biện pháp giảm áp lực giá
VND cùng với nâng tỷ giá lên 5,4% (so với giá công bố) làm cho thị trường thích ứng và ổn định
hơn, thêm vào đó là việc mở rộng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất bằng các biện pháp cải thiện
chất lượng tín dụng. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp, tình trạng thâm hụt cán cân
thanh toán và nhập siêu cải thiện tương đối chậm, mức thâm hụt ngân sách cao, lạm phát có xu
hướng tăng, một số NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, tín dụng tăng trưởng nóng (vượt xa tốc
độ tăng trưởng GDP), vẫn còn xuất hiện tình trạng khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá ngoại tệ còn phức
tạp.

Năm 2010
NHNN Việt Nam sử dụng CSTT thắt chặt. Năm 2010, kinh tế đã phục hồi sau khủng hoảng tài
chính, tăng trưởng kinh tế đạt 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Theo đánh giá của chính phủ, kinh
25
tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Năm 2010, NHNN sử dụng CSTT chủ động, linh hoạt và thận
trọng.
Lãi suất: Trước sức ép của lạm phát, NHNN duy trì ổn định lãi suất cơ bản trong suốt 10 tháng
đầu năm ở mức 8%, sau đó điều chỉnh lãi suất lên 9% trong hai tháng cuối năm 2010.
Tỷ giá hối đoái: Trong hơn 9 tháng đầu năm, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định; tỷ
giá thị trường bắt đầu tăng nhẹ từ tháng 10 nhưng vẫn phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô. Theo
chỉ thị 02/CT-NHNN năm 2010, NHNN chỉ thị các tổ chức tín dụng cho vay ngoại tệ theo hướng
tập trung ngoại tệ cho vay đối với những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất mà trong nước chưa tự
sản xuất được.
Nghiệp vụ thị trường mở: Kho bạc Nhà nước tổ chức thành công 3 phiên phát hành trái phiếu
chính phủ với kỳ hạn 3 – 5 năm, huy động được 8125 tỷ đồng và đối tượng mua chủ yếu là
TCTD, giúp cho các TCTD cân đối được nguồn vốn.
*Tác động: Đối với yêu cầu và diễn biến của kinh tế xã hội, thị trường tiền tệ tín dụng phát triển
khá ổn định. 28/12/2010, theo ông Nguyễn Văn Giàu - thống đốc NHNN tổng kết “Tính đến
31/12, tăng trưởng tín dụng đạt 29,81%, tổng dư nợ tăng 27,6%, tổng phương tiện thanh toán
tăng 25,3% so với cuối năm 2009.” Các ngân hàng cùng thực hiện đồng thuận công cụ về lãi suất
góp phần làm thị trường ngoại tệ và thị trường vàng đi vào ổn định. Mặt khác, do hướng đến
cùng lúc hai mục tiêu là “ổn định kinh tế vĩ mô” và “tăng trưởng kinh tế” nên NHNN chưa linh
hoạt để đảm bảo hài hoà hai mục tiêu; kỷ cương, kỷ luật trên thị trường còn hạn chế; thị trường
tiền tệ và ngoại hối thiếu ổn định; tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực chứng khoán, phi sản xuất,
và tiêu dùng giảm chậm, tín dụng tăng gây áp lực lớn đến ngân hàng do vậy cần chủ động kiểm
soát chặt chẽ, sát sao nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến giảm phát và cán cân thanh toán quốc tế;
thêm vào đó, năng lực quản trị tài chính và sự cạnh tranh giữa các TCTD còn nhiều trở ngại, sự
tương trợ và hỗ trợ trong cộng đồng còn yếu kém; tính liên kết của các hệ thống tín dụng chưa
cao, nợ xấu tăng.
2.3 Giai đoạn 2011-2015
Giai đoạn Việt Nam đứng trước nhiều thử thách song cũng có nhiều cơ hội để phát triển nền kinh
tế. Trên thế giới, nhiều nước vẫn còn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ
2007-2008 trong đó có các nước là đối tác của Việt Nam. Trong nước, các yếu tố vĩ mô có biểu
hiện bất ổn như lạm phát cao, lãi suất leo thang, tăng trưởng kinh tế chậm, thâm hụt cán cân
thương mại, tỷ giá biến động, nhiều tổ chức tín dụng gặp thiếu hụt thanh khoản,.. Đặc biệt, trong
năm 2011, trước khi tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng, lạm phát đang ở mức rất cao, lãi suất cho

26
vay lên tới 26%, lãi suất liên Ngân hàng có thời điểm chạm mốc 35%. Mặc khác, ngoài những
thách thức, Việt Nam cũng có cơ hội hội nhập quốc tế, đẩy mạnh giao thương với các nước trên
thế giới nhờ vào việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Kết hợp các công cụ “lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ giá hối đoái và tái cấp vốn”:
NHNN đổi mới việc điều hành công cụ lãi suất theo cách linh động, phù hợp. Năm 2011 là năm
có nhiều biến cố, để đảm bảo thị trường tiền tệ ổn định, NHNN công bố Chỉ thị số 02/CT-NHNN,
áp trần lãi suất huy động với mọi hình thức không cao hơn 14%/năm. Đến năm 2012, sau khi
tình hình lạm phát dần ổn định, NHNN giảm dần lãi suất điều hành để các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm 2012, 9 lần giảm các mức lãi suất điều
hành và tổng mức giảm khoảng 8,5%/năm.

Bảng 8: Thay đổi lãi suất ở Việt Nam năm 2012

(2012) Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất cho vay qua đêm
(%/năm) (%/ năm) trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng (%/năm)

Lãi suất cũ 15% 13% 16%

Lãi suất mới 6,5% 4,5% 7,5%

Nguồn: “Chính sách tiền tệ: 5 năm nhìn lại”


(https://www.quangninh.gov.vn/pInChiTiet.aspx?nid=63950)

Đồng thời áp trần lãi suất cho vay bằng VND thấp hơn khoảng 2-3%/năm so với lãi suất cho vay
thông thường ở các lĩnh vực ưu tiên và điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 7%/năm theo quy định
NHNN; trần lãi suất huy động bằng VND từ 14%/năm giảm còn 5,5%/năm; Nhà nước giảm lãi
suất cho vay trung và dài hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên tối đa 10%/năm; thực hiện miễn, giảm
lãi vốn vay để chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và hộ dân. Nhờ vào việc điều chỉnh thường
xuyên, linh hoạt, mặt bằng lãi suất trong giai đoạn này giảm đáng kể. Được thể hiện qua biểu đồ
sau:

Bảng 9: “Lãi suất cho vay bình quân ở Việt Nam năm 2011 – 2015”

27
Nguồn: “World Bank”

Song song với việc điều hành lãi suất giảm phù hợp, NHNN còn mở rộng hạn mức tín dụng đảm
bảo an toàn thanh khoản ở các TCTD, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận
nguồn vốn. Đặc biệt, NHNN hỗ trợ cung cấp vốn cho doanh nghiệp thông qua giảm lãi suất tái
cấp vốn liên tục qua các năm giảm từ 11% năm 2011 còn 9% (2012) và giảm còn 6,5% vào năm
2014 ( Theo quyết định của NHNN), nhờ đó nước ta đạt được tăng trưởng ấn tưởng trong giai
đoạn này. Mặc dù trong các năm 2011- 2012, tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giảm từ 6,4%
xuống còn 5,5% nhưng bước sang các năm sau từ 2012 - 2015 liên tục tăng từ 5,6% năm 2013
đến 7% năm 2015 (Số liệu từ Ngân hàng thế giới).

Bảng 10: “Quy định về dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước”

Nguồn:World Bank

28
Ngoài ra, trong giai đoạn này, NHNN cũng thành công trong việc ổn định giá nội tệ, ổn định thị
trường ngoại hối. Kết hợp với điều hành lãi suất, NHNN kiểm soát tỷ giá bình quân liên ngân
hàng với biến động nhỏ từ 1% - 3%; điều hành tăng tỷ giá mua vào USD của NHNN thúc đẩy các
TCTD bán ngoại tệ cho NHNN ( tỷ giá mua 2011 là 20.850 VND/USD cao hơn so với mức tỷ giá
bình quân liên ngân hàng); tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngoại tệ tăng từ 2% lên 6%; nhờ hành động một
cách quyết liệt, đưa ra những quyết định điều hành hợp lý, tỷ lệ dự trữ ngoại tệ tăng, đảm bảo đáp
ứng đủ các nhu cầu ngoại tệ phù hợp.

Bảng 11: “Tỷ giá bình quân liên ngân hàng trên thị trường tự do ở Việt Nam” (2011 - 2015)

Năm 2011 2012 2013 2014 2015

VND/USD 20.828 20.828 21.180 - 21.200 21.246 21.673

Nguồn: NHNN Việt Nam

Về lãi suất điều hành và huy động VND, NHNN điều chỉnh giảm và giữ cho chênh lệch lợi ích
thiên về nắm giữ VND để tránh mất giá nội tệ, ổn định thị trường ngoại hối.
“Nghiệp vụ thị trường mở”
Nhận thấy lạm phát đang ở mức báo động, NHNN thực hiện CSTT một cách thận trọng theo
hướng chào bán tín phiếu với kỳ hạn từ 14 - 364 ngày cho mục tiêu hút tiền; kỳ hạn chào mua
GTCG từ “28 ngày còn 7 ngày”, lãi suất chào mua được điều chỉnh lên 15% để đảm bảo thanh
khoản, nguồn tiền hỗ trợ đầu tư nhất là các thời điểm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các mức lãi
suất nhưng không để tình trạng lạm phát tăng cao. Từ cuối tháng 9/2011, tín dụng dần ổn định,
lạm phát có dấu hiệu tích cực nên NHNN đã bổ sung: “kỳ hạn chào mua 14 ngày và điều chỉnh
giảm lãi suất từ 15%/năm xuống 14%/năm” để hỗ trợ tình hình thanh khoản.

Bảng 12: “Doanh số giao dịch trên thị trường mở 2011 – 2015”

Đơn vị: tỷ đồng

Năm Tổng doanh số mua Tổng doanh số bán Số phiên giao dịch

29
2011 2.801.253 0 431

2012 499.922 174.000 378

2013 179.386 254.863 418

2014 101.200 353.616 484

2015 403.490 233.350 388

Nguồn: NHNN Việt Nam

Giai đoạn 2012 - 2015, NHNN chào bán GTCT để ra tín hiệu thị trường ổn định, tạo tâm lý ổn
định cho người dân yên tâm phát triển kinh tế. Tín phiếu NHNN chào bán giai đoạn này đem lại
doanh thu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh số giao dịch đạt “ khối lượng trúng thầu bình
quân/phiên đạt mức cao nhất 2.203 tỷ đồng/phiên”. NVTTM lúc này đóng vai trò đảm bảo “ an
toàn thanh khoản, an toàn tăng trưởng tín dụng”.

NHNN đã thành công trong việc sử dụng CSTT thận trọng, điều chỉnh linh hoạt mua/bán các
GTCG một cách hợp lý, lạm phát được giảm xuống hơn 2,5 lần, còn 6,81% năm 2012, và giảm 3
lần còn 5,92% trong 10 tháng năm 2013 và còn khoàng 2% năm 2015 ( theo CPI - Số liệu từ
World Bank).

Mặt dù lãi suất không phải là nguyên nhân trực tiếp để kiềm chế lạm phát tăng cao nhưng lãi suất
ổn định là yếu tố thiết yếu giúp đạt được mục tiêu đề ra.

30
Bảng 13: “Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam 2011 – 2015”

Nguồn: World Bank

2.4 Giai đoạn 2016-2020


Trong giai đoạn 2016-2020, nền kinh tế thị trường Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều ảnh hưởng
tiêu cực liên quan đến cung và cầu do biến động không ổn định trên thị trường toàn cầu, vấn đề
thiên tai và dịch bệnh ngày càng trầm trọng. Để thích ứng với những sự thay đổi này, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đã đưa ra những giải pháp linh hoạt và phù hợp để đảm bảo thanh khoản thông
suốt và ổn định thị trường. Những nỗ lực này đã giúp NHNN đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát
ở mức dưới 4%, đồng thời ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế, ổn định thị
trường tiền tệ và ngoại hối. Đại dịch Covid-19 đã bùng phát lên vào đầu năm 2020, tuy nhiên Việt
Nam đã ứng phó thành công và đã duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP tích cực so với tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2020 đạt mức 2,91%. Trong khi đó, môi trường vĩ mô tiếp tục ổn định, với mức
lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 là 2,31%, đóng góp vào việc kiểm soát lạm phát chung ở mức
3,23%. Nền kinh tế nói chung đã phần nào ổn định.
Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, theo thông tư số 19/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD là 3%. Tỷ lệ này được áp dụng từ ngày 1/1/2017. Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn 2016-2020 là 3%. Tuy nhiên, sau
gần thập kỷ, Việt Nam tính giảm dự trữ bắt buộc cho lượng tiền lớn và hiện tại mức lãi suất áp
dụng đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của tổ chức tín dụng là 0.5%.
Một chính sách mới đáng chú ý đã được NHNN thông qua, đó là Quyết định số 1158/QĐ-NHNN
đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB áp dụng cho các tổ chức tài chính tín dụng. Quyết định này bao gồm
nhiều thay đổi đáng kể, như giảm tỷ lệ DTBB đối với các loại tiền gửi bằng đồng Việt Nam và tiền
gửi bằng ngoại tệ của quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô xuống mức 0%. Ngoài ra, tỷ
lệ DTBB của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và Ngân hàng

31
Hợp tác xã được tăng lên 3% đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam không kỳ hạn dưới 12 tháng, so
với mức cũ là 1%. Các tỷ lệ DTBB khác của Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ vẫn được tiếp tục quy
định bởi Chính phủ, và không có sự thay đổi đối với các loại hình tổ chức tín dụng khác. Quyết
định này sẽ có hiệu lực bắt đầu từ tháng 6/2018. (Bảng 14)
Trong giai đoạn từ năm 2016-2020, Việt Nam sẽ áp dụng tỷ lệ DTBB để ổn định hệ thống tài chính
và điều chỉnh tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng linh hoạt để tăng cường cho
vay và hỗ trợ phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính, theo báo cáo
của NHNN Việt Nam.

Bảng 14: Tổng quát tỷ lệ DTBB áp dụng cho các tổ chức tín dụng
(Theo Quyết định số 1158/QĐ-NHNN)

32
Nguồn: Số liệu từ NHNN Việt Nam

Về lãi suất, từ tháng 3/2017 đến tháng 7/2020, lãi suất tái cấp vốn được giữ ổn định ở mức
6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu ở mức 4,5%/năm và lãi suất cơ bản từ ngày 5/11/2013 được giữ
ổn định ở mức 9%/năm. Vào ngày 7/7/2020, với Quyết định số 1424/QĐ-NHNN, lãi suất tái cấp
vốn giảm từ 6,5%/năm xuống còn 6,25%/năm và lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%/năm xuống còn
4,25%/năm (Bảng 15). Lãi suất cho vay qua đêm đối với các ngân hàng giảm từ 7,5%/năm xuống
còn 7,25%/năm. Việc giảm lãi suất điều hành đã hỗ trợ giảm chi phí cho các tổ chức tín dụng và
giúp giảm lãi suất cho vay trên thị trường. Các giải pháp tiền tệ và tín dụng ngân hàng đã giúp kiểm
soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo thanh khoản của các tổ
chức tín dụng và nền kinh tế.
Bảng 15: Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN giai đoạn 2016-2020

Lãi suất tái chiết


Thời điểm áp dụng Lãi suất cơ bản Lãi suất tái cấp vốn
khấu

26/03/2016 9.0 8.0 6.0

13/05/2016 9.0 7.0 5.0

18/03/2017 9.0 6.5 4.5

10/7/2020 9.0 6.25 4.25


33
Nguồn: Tổng hợp từ NHNN Việt Nam

Trước tình hình phức tạp của đại dịch Covid-19 vào năm 2020, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã
tiến hành 03 lần điều chỉnh giảm mức lãi suất với quy mô giảm lớn hơn nhiều so với các năm
trước, tổng mức giảm từ 1,5 - 2% mỗi năm. Các quyết định này đã gửi tín hiệu mạnh mẽ về chủ
trương tiếp tục giảm lãi suất, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Kết hợp với các
giải pháp chính sách tiền tệ đồng bộ và linh hoạt, giảm lãi suất đã giúp giải quyết khó khăn cho nền
kinh tế. Mức lãi suất đã có xu hướng giảm và lãi suất cho vay ưu tiên hiện đang ở mức 5%/năm,
giảm khoảng 2% so với năm 2016.
Về nghiệp vụ thị trường mở (OMO), với sự tập trung ngày càng cao, quy mô của Nghiệp vụ thị
trường mở ngày càng mở rộng và đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa kinh tế vĩ mô, hỗ trợ
các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại duy trì nguồn vốn và giải quyết các khó khăn do đại
dịch gây ra. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổng giá trị giao dịch nghiệp vụ thị trường mở
trong năm 2020 đạt hơn 7,7 tỷ USD, tăng hơn 30% so với năm 2019. Trong đó, giao dịch trái phiếu
doanh nghiệp tăng mạnh nhất với mức tăng trưởng gần 60% so với năm 2019. Theo Báo cáo tài
chính năm 2020 của SSI Securities Corporation, tỷ lệ thanh khoản trên thị trường trái phiếu doanh
nghiệp trong năm 2020 đã tăng từ 4,24 lần lượt về cuối năm 2019 lên 6,46 lần, cho thấy sự cải
thiện đáng kể về tính thanh khoản của thị trường mở. Theo Bộ Tài chính Việt Nam, tính đến tháng
10 năm 2020, đã có hơn 400 doanh nghiệp tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt
Nam, tăng gần gấp đôi so với năm 2017. Trong giai đoạn 2018-2019, tổng khối lượng phát hành
trái phiếu Chính phủ trong giai đoạn này là 196.797 tỷ đồng, trong đó 171.797 tỷ đồng được phát
hành thông qua đấu thầu và 25.000 tỷ đồng phát hành cho Bảo hiểm xã hội. Số liệu này giảm
19,35% so với năm 2017. Ngoài ra, theo báo cáo của Bảo Việt, thông qua tín phiếu và OMO Chính
Phủ đã hút ròng 388.271,6 tỷ đồng và bơm ra thị trường 427.552,7 tỷ đồng. NHNN cũng đã giảm
lãi suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống 4,75%/năm và điều tiết thanh khoản của các TCTD để
hỗ trợ ổn định mặt bằng lãi suất. Trong khoảng thời gian từ năm 2018 đến 2019, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) đã sử dụng công cụ Nghiệp vụ thị trường mở với tư cách là một phương
tiện hiệu quả để giải quyết tình trạng suy giảm thanh khoản và duy trì sự ổn định cho thị trường tiền
tệ. Chính phủ đã phải hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy nền kinh tế bằng cách cung cấp một khoản
tiền cần thiết để giảm lãi suất.

34
Về hạn mức tín dụng, NHNN đã xây dựng và định hướng rõ ràng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và
điều chỉnh linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế. Ngoài ra, NHNN cũng đã chỉ đạo các TCTD
kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản và chứng
khoán. Chỉ thị số 01/CT-NHNN ban hành ngày 31/01/2016 về việc thực hiện CSTT và đảm bảo
hoạt động an toàn, hiệu quả của các ngân hàng trong năm 2016 đã quy định rằng, mức tăng trưởng
tín dụng không được vượt quá 12% so với năm trước. Mức tăng trưởng tín dụng năm 2016 đạt
12,52%. Năm 2017, trong Chỉ thị 01/CT-NHNN về việc tổ chức thực hiện CSTT và đảm bảo hoạt
động an toàn, hiệu quả, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong khoảng 12-14%, và đạt
mức tổng dư nợ tín dụng thực tế năm 2017 là 14,16%. Trong những năm tiếp theo, mục tiêu tăng
trưởng tín dụng được đặt trong khoảng từ 15-20%, và thực tế đạt được các mức tăng trưởng tín
dụng tương ứng với 17,26% (năm 2018), 18,71% (năm 2019) và dự kiến đạt 18,17% (năm 2020).
Tổng số tiền được cho vay trong nền kinh tế trong năm 2016 đạt mức 12,52%. (Bảng 16)
Bảng 16: Kế hoạch tăng trưởng tín dụng và mức độ tăng trưởng tín dụng thực tế

giai đoạn 2016-2020

2016 2017 2018 2019 2020

Kế hoạch tăng trưởng tín


≤12% 12-14% 15-17% 18-20% 18%
dụng (%)

Tốc độ tăng trưởng tín


dụng thực tế so với năm 12,52% 14,16% 17,26% 18,71% 18,71%
trước (%)

Nguồn: Tổng hợp từ NHNN Việt Nam

Trong năm 2020, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN vào ngày 13/3/2020, tạo
điều kiện để TCTD có thể giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn về vốn vay thông qua cơ cấu lại nợ
gốc và lãi, không chuyển nợ xấu, không tính lãi phạt, miễn giảm lãi và phí. NHNN đã khảo sát thực
địa và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của người dân và doanh nghiệp, tổ chức liên tục
Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên toàn quốc. Nhờ những nỗ lực này, đến tháng
12/2020, tín dụng đã tăng 11,08% so với cuối năm trước và tăng 11,65% so với cùng kỳ 2019,
đóng góp tích cực cho sự phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch.
Về tỷ giá hối đoái, kể từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã bắt đầu điều hành
tỷ giá bằng cách áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày để theo dõi diễn biến thị
35
trường và mục tiêu CSTT của chính phủ, nhằm đảm bảo ổn định kinh tế toàn cầu, tăng cường niềm
tin vào đồng tiền Việt Nam đồng, và thực hiện chính sách chống đô-la hóa nền kinh tế. Tỷ giá trung
tâm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được điều chỉnh 7 lần trong giai đoạn 2016-2020, bao
gồm: 1 lần tăng, 2 lần giảm và 4 lần điều chỉnh không đổi. Tỷ giá VND/USD đã được duy trì ở
mức ổn định mặc dù thị trường tiền tệ thế giới có những biến động mạnh. Giá đô la Mỹ tăng từ
22.275 đồng vào đầu năm 2016 lên mức cao nhất là 23.175 đồng vào cuối năm 2016, trước khi
giảm xuống 22.725 đồng vào cuối năm 2020. Điều này đã giúp người dân giảm mạnh việc nắm giữ
ngoại tệ và chuyển đổi nguồn lực ngoại tệ thành VND để phát triển kinh tế, đồng thời phù hợp với
chủ trương chống đô-la hóa. Tại hệ thống ngân hàng, tiền gửi ngoại tệ của dân cư vào ngày
28/12/2020 giảm gần 40% so với cuối năm 2015. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng đã
được củng cố đáng kể, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và uy tín quốc gia. Theo báo cáo của
NHNN Việt Nam, tổng dư nợ ngoại tệ của ngân hàng thương mại tăng từ 147,3 tỷ USD vào cuối
năm 2015 lên 196,5 tỷ USD vào cuối năm 2020. Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của NHNN Việt Nam trong
giai đoạn này dao động từ 25% đến 30%. Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn
2016-2020 đạt 794,6 tỷ USD, trong đó, các mặt hàng chủ lực như điện thoại di động, máy tính,
thiết bị điện tử và dệt may chiếm tỷ lệ lớn.
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thực hiện các biện pháp điều tiết tỷ giá hối đoái, bao gồm hạn
chế bán USD, tăng thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng tiêu dùng, giảm thuế xuất khẩu đối với các
mặt hàng xuất khẩu chính, và điều chỉnh tỷ giá trung tâm.
Về công cụ tái cấp vốn, trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã áp dụng nhiều chính sách để
khuyến khích sử dụng công cụ tái cấp vốn, bao gồm các gói hỗ trợ tài chính và giải pháp tái cơ cấu
doanh nghiệp. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổng khối lượng tái cấp vốn bằng
cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp lên đến 177.368 tỷ đồng trong giai đoạn 2016-2020.
Trong đó, khối lượng tái cấp vốn bằng cổ phiếu đạt 71.434 tỷ đồng và tái cấp vốn bằng trái phiếu
đạt 105.934 tỷ đồng. Năm 2019, có khoảng 40 doanh nghiệp đã sử dụng công cụ tái cấp vốn bằng
cổ phiếu và trái phiếu để huy động vốn. Trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã áp dụng nhiều
giải pháp để tăng tính hiệu quả của công cụ tái cấp vốn, bao gồm cải cách chính sách, tăng cường
quản lý và giám sát. Tuy nhiên, còn nhiều thách thức đối với việc sử dụng công cụ này như khó
khăn trong việc huy động vốn, tính pháp lý của các giao dịch tái cấp vốn, và sự không đồng nhất
trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tái cơ cấu doanh nghiệp.
2.5 Giai đoạn 2021-2022
Đại dịch covid-19 trong hai năm 2021-2022 đã có những ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế Việt

36
Nam, trong đó có ba tác động chính là làm giảm tiêu dùng, dịch vụ và ngành du lịch; gián đoạn
chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa; ảnh hưởng xấu đến đầu tư và thương mại. Là mạch máu của
nền kinh tế, NHNN cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực của đại dịch. Vì vậy, NHNN đã
sử dụng rất nhiều chính sách, đặc biệt là các công cụ của chính sách tiền tệ để khắc phục vấn đề
này.
Về lãi suất chiết khấu
Năm 2021, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất điều hành ở mức thấp nhằm giảm chi phí tiếp
cận vốn từ NHNN cho TCTD. Đồng thời, để giúp giảm chi phí vay của người dân “NHNN cũng
điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD đối với khách
hàng với tổng mức giảm là 1,5%/năm (hiện mức là 5%/năm); giảm 0,6-1%/năm trần lãi suất tiền
gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng”(theo tapchitaichinh.vn). Thực hiện Nghị quyết 63/ NQ-CP, 16 TCTD
lớn nhất cam kết qua Hiệp hội Ngân hàng từ 15/07/2021 đến cuối năm 2021 tiếp tục giảm lãi suất
cho vay đến 1%/năm đối với dư nợ chịu ảnh hưởng bởi dịch, 4 Ngân hàng Thương mại dành thêm
4.000 tỷ đồng để giảm lãi suất, phí dịch vụ trong thời gian giãn cách tại các nơi áp dụng Chỉ thị 16.
Sau những điều chỉnh lãi suất ở trên, nền kinh tế đã có các chuyển biến tốt, tăng trưởng GDP 6
tháng năm 2021 đạt 5,64%, lạm phát được kiểm soát mức bình quân 6 tháng tăng 1,62% so với
12/2020 (theo Tổng cục thống kê).
Về hạn mức tín dụng
Thông tư số 01/2020/TT NHNN ngày 13/03/2020 đã được Ngân hàng Nhà nước chỉnh sửa và bổ
sung hai lần trong năm 2021 để hỗ trợ các khoản nợ lớn hơn do tình hình càng ngày càng phức tạp
của đại dịch, hỗ trợ này kéo dài đến 30/06/2022 (tại Thông tư số 03/2021/TT NHNN và Thông tư
số 14/2021/TT NHNN). Từ 23/01/2020 đến 27/09/2021, thời hạn trả nợ của các TCTD đã được cơ
cấu lại “giữ nguyên nhóm nợ với dư nợ khoảng 531.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 1,7
triệu đối tượng với dư nợ 2,5 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất thấp hơn trước đại dịch với doanh
số đạt trên 5,2 triệu tỷ đồng cho trên 800.000 khách hàng.”
Về tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở
NHNN tiếp tục dùng tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở bằng cách mua các giấy tờ có giá để
cung cấp thanh khoản cho các TCTD. “NHNN đã cung cấp vốn 462 tỷ đồng để Ngân hàng Chính
sách xã hội cho vay 918 khách hàng vay vốn trả lương cho 130.741 người lao động”(theo Nghị
quyết 68/ NQ-CP ngày 01/07/2021). Chính sách trên giúp doanh nghiệp duy trì nguồn lực lao động
để hoạt động tiếp tục.
Về tỷ giá hối đoái

37
Do đại dịch tác động tiêu cực đến tâm lý người dân nên tỷ giá trên thị trường chính thức giảm thì
giá USD ở thị trường tự do lại tăng “tính đến thời điểm 31/12/2021, trong khi giá USD tại NHNN
giảm tương ứng 0,02%, và 1,33% thì giá USD tại thị trường tự do Hà Nội tăng tới 1,35%”. Tỷ giá
vào quý 1 năm 2021 trên thị trường tự do tăng khá mạnh lên 24.000 vì người dân bị ảnh hưởng khi
có thông tin Việt Nam bị Mỹ “thao túng tiền tệ” (tháng 12/2020). Để điều chỉnh giảm tỷ giá, NHNN
đã bán ngoại tệ, sau đó truyền thông chính sách để làm tâm lý người dân ổn định hơn. Kết quả là tỷ
giá giảm và quay về mức ổn định trong những tháng còn lại.
Biểu đồ 17: Diễn biến tỷ giá trên thị trường ngoại hối, tháng 1/2021- 12/2021

Nguồn: Investing.com

Biểu đồ 18 cho thấy, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng gấp 1,03 lần so với đầu năm 2021,
đạt con số kỷ lục khoảng 13 tỷ USD vào quý IV năm 2021. Dự trữ ngoại hối tăng đã giúp ổn định
thanh toán, tiền tệ và tài chính.

Biểu đồ 18: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam các quý năm 2021

38
Nguồn: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ

Về tỷ giá hối đoái kết hợp với lãi suất


Năm 2022, mặc dù đã giảm nhưng đại dịch covid-19 vẫn còn, cùng với chiến sự tại Nga-Ukraine
đã làm giá hàng hóa bắt đầu tăng lên kéo theo lạm phát tăng. Trước tình hình đó, Fed tăng lãi suất
và điều này làm cho người dân ở các nước bao gồm cả Việt Nam rút vốn ồ ạt và chuyển qua Mỹ
làm đồng tiền Mỹ lên giá; NHNN phải bán ra USD để ổn định tỷ giá và lần đầu tiên dự trữ ngoại
hối của Việt Nam xuống mức 12 tuần nhập khẩu sau khoảng 10 năm. Kèm với đó, NHNN phải
tăng lãi suất lên 2% để làm hấp dẫn đồng tiền nội tệ (theo baodautu.vn).
Về hạn mức tín dụng
Trong tháng 3/2022, trước sự lên xuống của giá của xăng dầu, NHNN đã có công văn gửi các Tổ
chức tín dụng xem xét tăng thêm hạn mức tín dụng cấp cho các đầu mối kinh doanh xăng dầu.
Tổng hợp nhanh số liệu từ các ngân hàng cho thấy, tổng hạn mức cấp cho 16 doanh nghiệp xăng
dầu hiện nay là 103 nghìn tỷ đồng, mới sử dụng đến khoảng 58 nghìn tỷ đồng, và hạn mức chưa
sử dụng còn 44 nghìn tỷ đồng.
Sang tháng 10/2022, thị trường tiền tệ và ngoại hối biến động rất mạnh. NHNN đã đánh giá và
xác định trọng tâm, trọng điểm trong thời gian này, đó là phải làm thế nào đảm bảo ổn định được
hoạt động của các ngân hàng và sẵn sàng cung ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Tâm lý,
sự kỳ vọng và sự ưa thích thanh khoản của người dân đã bị ảnh hưởng tiêu cực vì sự cố xảy ra ở
ngân hàng SCB. Giao dịch thị trường dường như đóng băng, tâm lý người dân muốn nắm giữ
đồng ngoại tệ cao. Lúc này, NHNN tập trung giải quyết thanh khoản, nâng hạn mức tín dụng
thêm 1,5-2% (theo baodautu.vn).
Kết quả
Sau khi thực hiện các công cụ để giải quyết những khó khăn gặp trong giai đoạn 2021-2022 thì
lạm phát được kiểm soát trong mục tiêu 4%, tăng trưởng kinh tế dự kiến ở mức khoảng 8%. Nhờ
ổn định thị trường tiền tệ, ổn định nền kinh tế vĩ mô đã giúp Việt Nam có được sự tín nhiệm của
các quốc gia khác. (Theo Báo Quân đội nhân dân, qdnd.vn)
NHNN Việt Nam đã nâng tăng trưởng tín dụng thêm từ 1,5 - 2% (theo baodautu.vn) cho toàn hệ
thống các tổ chức tín dụng. Chính sách này cho phép các ngân hàng thương mại có khả năng mở
rộng việc cho vay vốn đối với các tổ chức, các cá nhân cần vay vốn.
Thị trường ngoại hối trong nước tương đối ổn định, các chính sách của NHNN giúp ổn định thị
trường khi các đồng tiền khác mất giá mạnh so với USD, qua đó tạo niềm tin của người dân và
39
doanh nghiệp đối với VND. Sự linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc áp dụng
chính sách tiền tệ và ngoại hối đã làm chậm quá trình giảm giá của VND.

3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000-2022
3.1 Kết quả tích cực
 Chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2000-2020 đã đạt được tỷ lệ lạm phát thấp. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, từ năm 2000 đến năm 2020, mức lạm phát trung bình của
Việt Nam là 5,8227%, thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Bằng cách duy trì môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định và thúc đẩy đầu tư, Việt Nam đã có thể đạt được mức tăng
trưởng kinh tế ấn tượng, với GDP tăng từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6
lần, đạt gần 3.700 USD.
 Từ năm 2000 đến năm 2020, đồng Việt Nam đã tăng giá trị đáng kể so với USD và nhiều
đồng tiền khác, giúp tăng tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
 Thông qua sự kết hợp giữa chính sách thắt chặt tiền tệ, can thiệp thị trường ngoại hối và
quản lý tài khoản vốn, Việt Nam đã có thể duy trì tỷ giá hối đoái tương đối ổn định, điều
này có lợi cho thương mại và đầu tư.
 Phát triển ngành ngân hàng: Chính phủ đã thực hiện một số cải cách nhằm củng cố ngành
và cải thiện sự ổn định tài chính, bao gồm việc thành lập ngân hàng trung ương, tái cơ cấu
các ngân hàng quốc doanh và ban hành các quy định mới để thúc đẩy tính minh bạch và
trách nhiệm giải trình.
3.2 Những hạn chế còn tồn tại
 Một hạn chế của chính sách tiền tệ của Việt Nam là tình trạng đô la hóa phổ biến trong
nền kinh tế. Cụ thể, Đô la hóa làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm giảm vị thế độc tôn của
đồng bản tệ, làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng
ngoại tệ lấn át các quan hệ mua - bán ngoại tệ. Khi đó, các ngân hàng thương mại khó mua
được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán và ngân hàng trung ương cũng khó tăng
được dự trữ ngoại hối.
 Chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng bị hạn chế bởi mức dự trữ ngoại hối tương đối thấp
của đất nước. Điều này đã gây khó khăn hơn cho việc quản lý tỷ giá hối đoái và duy trì sự
ổn định tài chính trong thời kỳ căng thẳng kinh tế. Đặc biệt ở đợt dịch covid vừa rồi và
theo ước tính dự trữ ngoại hối trong năm 2020 của các thị trường mới nổi có thể giảm đến
150 tỷ USD. Đây được xem là mức suy giảm sâu nhất trong vòng 2 thập kỷ qua.
40
 Các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) của Việt Nam cũng là một hạn chế đối với chính sách
tiền tệ. Nhiều doanh nghiệp trong số này được quản lý kém và nợ nần chồng chất, điều
này đã gây áp lực lên khu vực ngân hàng và hạn chế khả năng của ngân hàng trung ương
trong việc thực hiện một số biện pháp chính sách tiền tệ.
3.3 Bài học rút ra
Sau sự việc đồng VND trở nên bị định giá quá cao làm cho hàng Việt nam trở nên đắt đỏ đối với
các nước bên ngoài và nhập siêu tăng vọt trong hai năm 2007 và 2008, NHNN cần có sự điều
chỉnh tỷ giá theo hướng linh hoạt từ những năm trước đó.
Cũng vào năm 2007-2008, NHNN ra thông báo cho các ngân hàng thương mại triệt để áp dụng
trần lãi suất huy động 12%, rồi lại hạ tiếp xuống 11%,…, trong khi mức lạm phát cùng thời điểm
là 16% (theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Kết quả là ngân hàng không huy động đủ tiền mặt
cần thiết để cho vay, các nhân viên tín dụng phải chơi dài trong nhiều tháng. Vì vậy khi lạm phát
cao, việc tăng lãi suất làm tăng tiền gửi và sử dụng tiết kiệm các khoản vay,… Tuy nhiên lãi suất
quá cao sẽ thu hẹp đầu tư xã hội, gia tăng lượng cung tiền từ nước ngoài, làm tăng áp lực lạm phát
tiền tệ ngoại nhập. Bài học rút ra ở đây là NHNN lựa chọn mức trần lãi suất sao cho phù hợp với
mục tiêu vĩ mô kinh tế-xã hội của mình; luôn tính đến các biện pháp khắc phục hậu quả mặt trái
của việc nâng hay hạ lãi suất.
Nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế mở vì vậy những tác động từ bên ngoài sẽ có ảnh hưởng
đến kinh tế, tiền tệ như đại dịch covid-19 hay chiến tranh Nga-Ukraine. Vì vậy, ngân hàng Nhà
nước phải chuẩn bị tâm thế để đưa ra các quyết định phù hợp để ứng phó với những biến động.
NHNN luôn kiên định mục tiêu điều hành CSTT nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng tùy theo diễn biến tình hình để xác định trọng tâm
trong từng thời điểm. Thực tế, từ tháng 10/2022 khi sự cố ngân hàng SCB xảy ra tác động mạnh
tới thanh khoản hệ thống và thị trường, NHNN đã ưu tiên cao nhất và tập trung thực hiện các giải
pháp đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường ngoại hối.
CHƯƠNG IV. TỔNG KẾT
1. Tóm tắt nội dung nghiên cứu
Bằng việc tìm hiểu, vận dụng cơ sở lý thuyết của CSTT, nhóm đã nghiên cứu và phân tích được
thực trạng và ảnh hưởng của CSTT đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000 - 2022. Qua đó đánh
giá những điểm tích cực, hạn chế và bài học rút ra từ CSTT của NHNN Việt Nam. Trong suốt giai
đoạn 2000 - 2022, CSTT của Việt Nam dần hoàn thiện và phát triển. NHNN đã áp dụng CSTT
trong từng giai đoạn cụ thể, “linh hoạt theo diễn biến thực tế, chứ không cố định vào những cam

41
kết hay định hướng đặt ra ban đầu” - quan điểm mà NHTW lớn nhất thế giới FED đã nhiều lần
đưa ra. Tuy nhiên, CSTT vẫn luôn tập trung vào mục tiêu chính là đảm bảo ổn định thị trường và
kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. CSTT đã thực sự mang lại những kết quả tích cực là giúp
kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực cạnh tranh của đồng Việt Nam, ổn định tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, CSTT vẫn còn tồn tại một số hạn chế bởi tình trạng đô la hóa phổ biến, mức dự trữ
ngoại hối tương đối thấp và tình trạng nợ công, nợ nước ngoài. Vì vậy, cần có sự cố gắng, rút ra
bài học kinh nghiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, các nhà quản lý và người dân để thực hiện
các biện pháp cải cách và nâng cao chất lượng CSTT, đảm bảo sự ổn định và tăng trưởng bền
vững của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai. Cùng với hệ thống NHNN Việt Nam tiếp tục
không ngừng phát triển và ngày càng vững mạnh. Hoạt động ngân hàng hoàn thiện dần theo
hướng thông thoáng, minh bạch hơn về phương thức quản lý, điều hành và khung khổ pháp lý.
Đây là nền tảng quan trọng cho sự phát triển lành mạnh, bền vững và hiệu quả hơn của hệ thống
ngân hàng trong tương lai.
2. Những đóng góp và hạn chế của nghiên cứu
Bài nghiên cứu với chủ đề “Ảnh hưởng của CSTT của NHNN Việt Nam đến nền kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2022”, mang lại những đóng góp cũng như có ý nghĩa lý luận, thực tiễn to
lớn đối với người đọc:
- Bài nghiên cứu đưa ra hệ thống cơ sở lý thuyết CSTT giúp người đọc hiểu được cơ bản về
CSTT.
- Việc trình bày thực trạng, phân tích chi tiết các công cụ của CSTT đã được áp dụng trong
nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000 - 2022 và đánh giá ảnh hưởng, tính hiệu quả của
chúng sẽ cung cấp cho người đọc một bức tranh toàn diện về cách mà CSTT ảnh hưởng
đến nền kinh tế của Việt Nam.
- Bài nghiên cứu có đóng góp, ý nghĩa thực tiễn bởi đây là bài nghiên cứu đầu tiên về ảnh
hưởng của CSTT của NHNN Việt Nam đến nền kinh tế Việt Nam trong khoảng thời gian
dài - 22 năm, mà chưa một bài nghiên cứu nào đã từng đề cập đến khoảng thời gian dài
như vậy. Qua đó, giúp cho người đọc tổng hợp được nhiều nhất, nắm bắt một cách nhanh
nhất về việc sử dụng CSTT của NHNN Việt Nam.
Bên cạnh những đóng góp đó, bài nghiên cứu không thể tránh khỏi những mặt còn hạn chế, đó là:
- Bài nghiên cứu chỉ tập trung vào CSTT của Việt Nam mà không đề cập đến những chính
sách khác (chính sách tài khóa, chính sách thuế, …), điều này có thể giới hạn độ toàn diện

42
của bài nghiên cứu. Hơn nữa, chưa có sự so sánh và phân tích đối chiếu với các nền kinh
tế khác trong khu vực và trên thế giới nên còn khá cục bộ, tầm nhìn của đề tài còn hạn chế.
- Vì sử dụng dữ liệu lịch sử và phân tích trên cơ sở đó nên việc áp dụng các kết quả vào
thực tế hiện tại và tương lai có thể gặp phải một số thách thức. Hơn nữa, bài nghiên cứu
dựa trên các tài liệu và số liệu có sẵn, không có phần nghiên cứu mới hoặc tạo ra những
phát hiện mới, điều này làm giới hạn giá trị của bài nghiên cứu.
- Bài nghiên cứu không thể tránh khỏi những điểm sai, điểm thiếu sót do kiến thức còn hạn
hẹp và có thể do sự bất cẩn của chúng em trong quá trình thực hiện. 
Với những hạn chế trên, chúng em mong muốn những bài nghiên cứu trong tương lai có thể khắc
phục được những hạn chế này, từ đó cung cấp một công trình nghiên cứu hoàn hảo hơn.
3. Hướng phát triển của chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong tương lai
Nền kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục đối mặt với khó khăn, thách thức vào năm 2023. Nên ngân
hàng Nhà nước quyết định bám sát vào các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, đồng thời NHNN
tiếp tục theo dõi tình hình kinh tế thế giới lẫn trong nước để sử dụng linh hoạt các chính sách tiền
tệ cũng như các chính sách khác.

Ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh các nhiệm vụ của Ngành tại Chương trình phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia. Trong đó, chú trọng triển khai chương
trình hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP, các chương trình tín dụng chính sách
thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội.

Chính phủ định hướng tiếp tục kiên định “mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
phấn đấu tốc độ tăng trưởng bình quân từ 6,5 - 7,0%/năm để có thể vượt ra khỏi nhóm nước đang
phát triển thu nhập trung bình thấp vào 2025.” (Theo Tạp chí Ngân hàng)

43
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Đức Long (2021). Nhìn lại 35 năm đổi mới chính sách tiền tệ và hoạt động của hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng.

[2] Lê Lam Phong (2014). Nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ tại Việt Nam. Luận án
Thạc sĩ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.

[3] TS. Nguyễn Kim Anh, Ths. Nguyễn Hồng Thắng (2015). Nhìn lại lộ trình tự do hóa lãi suất
của Việt Nam. Học viện Ngân hàng.

[4] TS. Nguyễn Thị Hiền. (2022). Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh mới.

[5] Phạm Thị Hoàng Anh, Hoàng Ngọc Phượng. (2022). Điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh đại dịch COVID-19.

[6] Hồng Anh. (2022). Nhìn lại năm 2022: Ổn định chính sách tiền tệ trong môi trường nhiều
biến động.

[7] PGS. TS. Phan Huy Đường. (2009). Những bài học trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt
Nam.

[8] Hoàng Thị Ái. (2022). Nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đến kinh tế vĩ mô Việt Nam

[9] Phạm Thanh Hà. (2021). Bức tranh kinh tế vĩ mô, điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam:
Dấu ấn giai đoạn 2016 – 2020 và triển vọng, dự báo, định hướng giai đoạn 2021 - 2025

[10] Nguyễn Thị Như Quỳnh. (2020). Tác động của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ
mô đối với ổn định ngân hàng tại Việt Nam.

[11]Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. (2015). Chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô.

[12] Vũ Xuân Thanh (2015). Một số kết quả nội bật về điều hành chính sách tiền tệ 2011 - 2015

[13] Chính sách tiền tệ: 5 năm nhìn lại

[14]Phương Lan (2016). Kinh tế 2011 - 2015 - Những bước tiến vượt bậc

44
[15] Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. (2013). Thống đốc ngân hàng nhà nước trả lời chất vấn
của đại biểu quốc hội

[16] Động thái và thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam 2011 - 2015

[17] ThS.Vũ Xuân Thanh (2017). Những kết quả về điều hành tỷ giá giai đoạn 2011 - 2015

[18]TS Nguyễn Thị Thư. (2010). Chính sách tiền tệ của Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới.

[19]Nguyễn Thành Nam. (2017). Hệ thống mục tiêu chính sách tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2006 -
2015

45

You might also like