You are on page 1of 3

NHỚ RỪNG – KHỔ 3:  

Nhớ rừng không chỉ để lại trong lòng người đọc những tâm sự của chú hổ trong những
tháng ngày giam hãm, đầy căm hận và uất ức, Đó còn là bức tranh tranh thiên nhiên tuyệt sắc về núi rừng, được
tác giả khắc họa qua khổ 3 của bài thơ. Đó là những đêm trăng thơ mộng, huyền ảo giữa núi rừng. Ánh trăng
vàng trên bầu trời tự do tỏa ánh sáng chan hòa lên cảnh vật và thả bóng xuống dòng suối mát trong. Sau một
ngày kiếm mồi no nê, chú hổ như say đắm, ngất ngây trước trước ánh trăng đầy mơ mộng. Hổ ta đang đứng trên
bờ, say sưa ngắm nhìn cảnh vật đẹp đến say lòng ấy. Hay những ngày mưa giữa núi ngàn, trong tiếng mưa thét
gào, dữ dội, chú hổ lặng yên ngắm nhìn giang sơn đổi mới. Và trong ngày mới trong ánh bình minh tinh khôi,
muôn loài cỏ cây, chim ca thức giấc, âm thanh của ngày mới như bản hòa ca của núi rừng cho giấc ngủ của hổ
thêm “tưng bừng”. Bức tranh có màu, có sắc, có thanh thật sống động và vui tươi biết mất. Và bức tranh cuối
khép lại là ánh đỏ rực của máu và mặt trời sắp tắt. Hình tượng chú hổ hiện lên là một loài mãnh thú, là bá chủ
của của muôn loài chốn rừng xanh. Chẳng thế mà mặt trời trong đôi mắt của vị chúa sơn lâm cũng trở nên nhỏ
bé, chỉ còn là “mảnh mặt trời”. Chỉ bằng vài nét họa, tác giả đã vẽ lên được bức tranh thiên nhiên bao la, rộng
lớn, sống động với những nét đẹp tuyệt sắc dù ngày nắng hay mưa, dù khoảnh khắc bình minh hay đêm tối 
huyền bí. Và trong nỗi nhớ mong khôn nguôi đó, chú hổ càng thêm buồn bã, tuyệt vọng với hoàn cảnh thực tại
để rồi thốt lên tiếng than đau đớn:”Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”.  Phải chăng đó cũng là tiếng than của
nhà thơ trước thực tại đất nước, sống trong cảnh gôn cùm, mất tự do. Khổ thơ thứ ba là  đã vẽ lên bức tranh tứ
bình tuyệt sắc của núi rừng và qua đó cũng bộc lộ tâm trạng tiếc nuối của chúa sơn lâm về quá khức vàng son
của mình.
NHỚ RỪNG – KHỔ 4: Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú
để nói lên tâm sự thầm kín của mình. Nổi bật trong bài thơ là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, đó là
cảnh con hổ trong vườn bách thú (khổ 1 và khổ 4), cảnh con hổ ở nơi rừng xưa (khổ 2 và khổ 3). Tuy nhiên để
thấy được nỗi niềm da diết nhất trong tâm sự của vị chúa sơn lâm phải là khổ thơ cuối cùng.
Với giọng thơ da diết, nhà thơ đã đúc kết nỗi niềm của vị chúa tể rừng xanh bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối
cùng:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Từng câu từng chữ trong đoạn thơ đã phản ảnh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khát khao tự do
mãnh liệt của con hổ trước thực tại tù hãm, giam cầm ngột ngạt. Có thể nói, bút pháp khoa trương của nhà thơ
đã đạt tới mức thần diệu, ta cảm nhận con hổ chính là một con người thực thụ. Trong hoàn cảnh giam cầm, bế
tắc con hổ chỉ còn biết gửi hồn mình về với chốn núi rừng đại ngàn, gửi về chốn nước non hùng vĩ, nơi giang
sơn xưa kia của giống hùm thiêng ngự trị:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”
Tiếng than gửi tới núi rừng chính là lời nhắn nhủ cuối cùng, xác nhận một hiện thực phũ phàng rằng giang sơn
của nó cũng sẽ là nơi mà con hổ không bao giờ còn được nhìn thấy, trở về và “vùng vẫy ở trong đó nữa, còn gì
đau xót hơn khi bắt hổ phải lìa rừng, bắt cá phải lìa sông.
“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”
Mặc dù căm phẫn với thực tại nhưng không thể thoát khỏi sự giam cầm xiềng xích, trong những tháng ngày
nhạt nhẽo, vô vị và ngao ngán, vị chúa tể sơn lâm đành buông xuôi và tự an ủi mình, chỉ còn biết hồi tưởng về
những giấc mộng ngàn to lớn:
“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”
Nỗi buồn về thực tại đã làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê
gớm của ta ơi!”. Có thể thấy, tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt
Nam, đặc biệt là các thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Chúng ta đang phải sống trong cảnh nô lệ, tù
hãm, ôm trong lòng nỗi căm hờn mất nước, mất tự do và hoài niệm về thời oanh liệt của lịch sử nước nhà với
biết bao chiến công chống giặc ngoại xâm lừng danh khắp cõi.
Tác giả Thế Lữ đã mượn lời của con hổ, nói lên một cách đầy đủ và sâu sắc nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí
thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân, đồng thời là niềm bất mãn, khinh ghét với
thực tại nô lệ bất công. Đọc bài thơ và đặc biệt là khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và nỗi lòng của
người dân đau khổ trong thân phận nô lệ, cũng như một khát vọng to lớn được trở về với quá khứ, được sống tự
do và được là chính mình.
NHỚ RỪNG – KHỔ 5: Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú
để nói lên tâm sự thầm kín của mình. Nổi bật trong bài thơ là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, đó là
cảnh con hổ trong vườn bách thú (khổ 1 và khổ 4), cảnh con hổ ở nơi rừng xưa (khổ 2 và khổ 3). Tuy nhiên để
thấy được nỗi niềm da diết nhất trong tâm sự của vị chúa sơn lâm phải là khổ thơ cuối cùng.
Với giọng thơ da diết, nhà thơ đã đúc kết nỗi niềm của vị chúa tể rừng xanh bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối
cùng:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Từng câu từng chữ trong đoạn thơ đã phản ảnh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khát khao tự do
mãnh liệt của con hổ trước thực tại tù hãm, giam cầm ngột ngạt. Có thể nói, bút pháp khoa trương của nhà thơ
đã đạt tới mức thần diệu, ta cảm nhận con hổ chính là một con người thực thụ. Trong hoàn cảnh giam cầm, bế
tắc con hổ chỉ còn biết gửi hồn mình về với chốn núi rừng đại ngàn, gửi về chốn nước non hùng vĩ, nơi giang
sơn xưa kia của giống hùm thiêng ngự trị:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”
Tiếng than gửi tới núi rừng chính là lời nhắn nhủ cuối cùng, xác nhận một hiện thực phũ phàng rằng giang sơn
của nó cũng sẽ là nơi mà con hổ không bao giờ còn được nhìn thấy, trở về và “vùng vẫy ở trong đó nữa, còn gì
đau xót hơn khi bắt hổ phải lìa rừng, bắt cá phải lìa sông.
“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”
Mặc dù căm phẫn với thực tại nhưng không thể thoát khỏi sự giam cầm xiềng xích, trong những tháng ngày
nhạt nhẽo, vô vị và ngao ngán, vị chúa tể sơn lâm đành buông xuôi và tự an ủi mình, chỉ còn biết hồi tưởng về
những giấc mộng ngàn to lớn:
Nỗi buồn về thực tại đã làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê
gớm của ta ơi!”. Có thể thấy, tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt
Nam, đặc biệt là các thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Chúng ta đang phải sống trong cảnh nô lệ, tù
hãm, ôm trong lòng nỗi căm hờn mất nước, mất tự do và hoài niệm về thời oanh liệt của lịch sử nước nhà với
biết bao chiến công chống giặc ngoại xâm lừng danh khắp cõi.
Tác giả Thế Lữ đã mượn lời của con hổ, nói lên một cách đầy đủ và sâu sắc nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí
thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân, đồng thời là niềm bất mãn, khinh ghét với
thực tại nô lệ bất công. Đọc bài thơ và đặc biệt là khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và nỗi lòng của
người dân đau khổ trong thân phận nô lệ, cũng như một khát vọng to lớn được trở về với quá khứ, được sống tự
do và được là chính mình.
KHỔ CUỐI – QUÊ HƯƠNG: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Khổ thơ cuối của bài thơ "Quê hương" đã thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết quê hương của Tế Hanh.   Bài thơ
được sáng tác vào năm 1939, khi ấy Tế Hanh 18 tuổi, đang học tại Huế. Cụm từ luôn tưởng nhớ thể hiện rằng
quê hương vẫn luôn là niềm yêu đặc biệt trong tâm hồn thi sĩ. Dù xa quê nhưng thi sĩ vẫn không nguôi nỗi nhớ
quê nhà. Dẫu có xa cách, Tế Hanh vẫn luôn hướng về làng chài của mình. Làng chài trong tiềm thức của Tế
Hanh là nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi - những hình ảnh vừa quen thuộc vừa thân thương. Màu xanh, màu
bạc, màu vôi cứ in hằn trong tâm hồn người con vùng biển xa quê. Đó còn là nỗi nhớ con thuyền rẽ sóng chạy
ra khơi. Con thuyền vốn là hình ảnh gắn với làng chài, có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống ngư dân. Con
thuyền ấy còn là biểu tượng thiêng liêng cho quê hương mà Tế Hanh vẫn luôn khắc ghi. Đặc biệt, thi sĩ còn nhớ
tới cái mùi nồng mặn - mùi của biển, của cá, của muối, mùi đặc trưng của vùng biển. Liệu thi sĩ có thể cất lên
những vần thơ giàu cảm xúc như vậy nếu thiếu đi tình yêu quê hương nồng nàn? Qua khổ thơ cuối, chúng
ta cảm nhận được rằng quê hương luôn giữ vị trí quan trọng trong trái tim Tế Hanh. 

You might also like