You are on page 1of 22

Câu hỏi tự luận

1.Thực trạng sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp: Theo quy định tại Điều 200 Luật doanh
nghiệp 2020 thì Hợp nhất doanh nghiệp được hiểu như sau: “ Hai hoặc một số công ty
(sau đây gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi
là công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.Sáp nhập là
hoạt động xảy ra khi các doanh nghiệp, thường là các doanh nghiệp trong cùng một
ngành, đồng ý hợp lại thành một doanh nghiệp mới có quy mô lớn hơn và có sức cạnh
tranh cao hơn. Kết quả của việc sáp nhập là cho ra đời một công ty mới, khác biệt với
công ty trước khi hợp nhất. Công ty mới này có thể sử dụng một tên hoàn toàn khác so
với các công ty sáp nhập hoặc tên của công ty mới là sự kết hợp tên của các công ty sáp
nhập. Cho dù có thay đổi hoặc không thay đổi tên doanh nghiệp sau khi sáp nhập, nhưng
thương hiệu của doanh nghiệp cũ vẫn được duy trì và phát triển về sau

Mặc dù xu hướng M&A đã hình thành và bắt đầu phát triển ở Việt Nam, tuy nhiên, vẫn
còn nhiều yếu tố cản trở. Cản trở lớn nhất chính là sự yếu kém về năng lực cạnh tranh xét
trên cả 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Năm 2006, Diễn đàn Kinh tế Thế
giới (WEF) đánh giá và xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam là 77/125 quốc gia,
giảm 3 bậc so với năm 2005; năm 2007, con số này là 91/118. Ngoài ra, doanh nghiệp
Việt Nam chưa có nhiều thông tin, hiểu biết về các điều kiện, thủ tục M&A. Hơn nữa,
những quy định về hoạt động M&A tại Việt Nam còn chưa thực sự cụ thể. Bên cạnh đó,
mặc dù là một thị trường hết sức tiềm năng và nhu cầu M&A đang trở thành một xu thế
tất yếu, nhưng thực tế hiện nay, Việt Nam vẫn là thị trường mới mẻ và luôn tiềm ẩn
những bất lợi khi thực hiện các giao dịch M&A. Cho đến nay, ở Việt Nam chủ yếu mới
chỉ thực hiện mua lại hoặc sáp nhập đối với các doanh nghiệp nhà nước yếu kém, khó tồn
tại độc lập hoặc có nguy cơ phá sản…vào một doanh nghiệp nhà nước khác theo kiểu
mệnh lệnh hành chính, nên chưa thể phản ánh đầy đủ tính ưu việt của hoạt động này.
Nhìn chung, thực trạng hoạt động M&A ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát, số
lượng ít, thiếu hiểu biết, ít thông tin cũng như không có nhiều tổ chức uy tín đứng ra thực
hiện hoạt động này.

2,Thực tiễn thực hiện quy chế cổ đông của công ty cổ phần

Căn cứ tại Khoản 3 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định như sau : “Cổ đông là
cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Như vậy có thể thấy
cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức.

Căn cứ Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2020, cổ đông có các nghĩa vụ sau đây:

– Thanh toán đầy đủ và đúng thời hạn số cổ phần cam kết mua. Cổ đông phổ thông có
nghĩa vụ thanh toán đầy đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trừ trường hợp Điều lệ công ty
hay hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định tại một thời hạn khác ngắn hơn.
– Không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình
thức, trừ trương hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần. Trường hợp có cổ
đông rút rút một phần hoặc toàn bộ vốn cổ phần đã góp trái với quy định tại khoản này
thì cổ đông đó và người có lợi ích liên quan trong công ty phải cùng liên đới chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần
đã bị rút và các thiệt hại xảy ra.

– Tuân thủ Điều lệ công ty và quy chế quản lý nội bộ của công ty.

– Chấp hành nghị quyết, quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị.

– Bảo mật các thông tin được công ty cung cấp theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp
luật; chỉ sử dụng thông tin được cung cấp để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin được công ty cung cấp cho
tổ chức, cá nhân khác.

– Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.

trách nhiệm của cổ đông CTCP quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 110 Luật Doanh
nghiệp 2014: “c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp”.

Một công ty cổ phần sẽ có nhiều loại cổ phần. Người sở hữu cổ phần sẽ được xem là cổ
đông. Chính vì thế, quyền của cổ đông trong công ty cổ phần cũng sẽ khác nhau, tùy
thuộc vào loại cổ phần mà cá nhân, tổ chức đó sở hữu.

Cổ động phổ thông có quyền được tham dự và phát biểu ý kiến cũng như biểu quyết tại
cuộc họp cổ đông ,được chia sẻ cổ tức.Được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho
người khác .trừ trường hợp là cổ đông sáng lập thì sẻ có những ràng buộc nhất định khác.

Cổ đông ưu đãi thực hiện biểu quyết các vấn đề của ĐHĐCĐ.Có các quyền khác như cổ
đông phổ thông ,nhưng không được chuyển nhượng cổ phần.

3.Thực tiễn tổ chức, quản lý trong công ty TNHH một thành viên.
Công ty TNHH một thành viên là loại hình doanh nghiệp mới ở nước ta. Loại hình doanh
nghiệp này đã thực sự đi vào các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, thỏa mãn phần nào
nhu cầu của một số chủ thể trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, góp phần vào việc đa
dạng hóa các quan hệ kinh tế trong điều kiện từng bước hoàn thiện cơ chế thị trường theo
thông lệ quốc tế cho nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng chế định pháp luật này, một số quy định liên quan đến
việc thành lập doanh nghiệp cũng như một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp đã thể hiện một số điểm bất hợp lý. Bên cạnh đó còn có một số quan điểm cho
rằng việc công nhận sự tồn tại của loại hình doanh nghiệp này, đặc biệt là trong trường
hợp luật cho phép một cá nhân cũng có quyền thành lập doanh nghiệp sẽ triệt tiêu loại
hình doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Nói cách khác, quy định này có thể làm thay đổi
tính chất pháp lý đặc thù của DNTN từ tính chất “chịu trách nhiệm vô hạn” thành tính
chất “chịu trách nhiệm hữu hạn”. Vì vậy, chế định pháp luật này có thể phá vỡ đặc điểm
truyền thống của DNTN cũng như làm thay đổi tính chất riêng của loại hình công ty
TNHH.
Khi bàn về tính chất pháp lý của loại hình công ty này, nhiều ý kiến cho rằng việc cho
phép một cá nhân cũng có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên  là một sự bất
hợp lý. Đó là việc một số cá nhân có quyền sở hữu riêng một công ty nhưng lại chỉ chịu
TNHH về các hoạt động của mình, trong khi đó một số cá nhân khác lại phải chịu trách
nhiệm vô hạn cho các hoạt động của cùng một hình thức sở hữu. Một số ý kiến khác lại
cho rằng: mặc dù về mặt hình thức, DNTN và công ty TNHH một thành viên (trong
trường hợp một cá nhân có quyền thành lập) đều do một người làm chủ sở hữu nhưng đây
là hai loại hình doanh nghiệp khác nhau với những ưu điểm và hạn chế riêng, do vậy
chúng vẫn có thể cùng tồn tại trong một nền kinh tế. Bên cạnh đó hai loại hình doanh
nghiệp này vẫn tồn tại những khác biệt về bản chất: DNTN là một đơn vị kinh doanh do
một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ, cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người
sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp, còn công
ty TNHH một thành viên là một doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu và chủ sở
hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn điều lệ của mình.
Việc thừa nhận một cá nhân có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên sẽ tạo
điều kiện cho các DNTN có thể chuyển thành công ty TNHH, hoặc các nhà đầu tư có thể
lựa chọn hình thức công ty TNHH một thành viên để kinh doanh ngay từ khi thành lập
doanh nghiệp. Có thể nói đây là một quy định phù hợp với thực tế, thể chế hóa kịp thời
các mối quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của một nền
kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của công ty, phát huy được thế mạnh của
loại hình doanh nghiệp này đồng thời vẫn bảo đảm được sự quản lý của các cơ quan quản
lý nhà nước. Quy định này có thể được xem là sự thể chế hóa “quyền tự do kinh doanh”
đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, vì quyền tự do lựa chọn hình thức kinh
doanh là một yếu tố quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Ngoài ra, quy định này còn
có ý nghĩa góp phần làm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, làm phong phú thêm các
nhân tố với tư cách là các chủ thể độc lập trong một nền kinh tế.
Trên thực tế, trong tổng số các doanh nghiệp được thành lập với mô hình công ty TNHH
có từ hai thành viên trở lên có không ít doanh nghiệp về thực chất là sự biến hóa của hình
thức công ty TNHH một thành viên. Điều này có nghĩa là ngay từ khi thành lập, công ty
chỉ có một thành viên đích thực, còn các thành viên khác và số vốn góp của họ hoàn toàn
chỉ mang tính hình thức. Để lý giải cho nguyên nhân của hành vi này có thể có nhiều ý
kiến khác nhau, tuy nhiên các quan điểm đều thống nhất rằng hiện tượng “ lách luật” này
xuất phát từ tâm lý chung của các nhà đầu tư. Đó là tâm lý muốn tự mình điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty, không muốn phân chia lợi nhuận nhưng lại muốn chỉ chịu
trách nhiệm về hoạt động của công ty trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, tức là chỉ
chịu trách nhiệm hữu hạn bằng số vốn họ đem vào hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh
tế thị trường với nhiều cơ hội kinh doanh phát triển nhưng cũng có không ít những rủi ro,
phức tạp, việc quy định hình thức công ty TNHH một thành viên với những lợi thế của nó
đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo nên động lực giúp
cho những người có tiềm năng về vốn, có khả năng về kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn, bỏ
công sức đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau từ đó góp phần tạo nên một môi trường
kinh doanh sống động, giải phóng lực lượng sản xuất, tạo đà phát triển cho một nền kinh
tế. Chính yếu tố chỉ “chịu trách nhiệm hữu hạn” đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh đã làm cho các nhà đầu tư cảm thấy an tâm hơn trên thương trường khi mà họ biết
các yếu tố rủi ro sẽ được phân tán, điều kiện này giúp các nhà đầu tư vẫn có khả năng giữ
lại một số vốn để làm lại từ đầu khi hoạt động kinh doanh của họ gặp thất bại.
Ngược lại nếu không quy định hình thức công ty TNHH một thành viên do một cá nhân
thành lập vì lo ngại hiện tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật, tiến hành xin thành lập công
ty, thực hiện các giao dịch như: ký hợp đồng, vay vốn và hậu quả cuối cùng là thua lỗ mà
chỉ chịu TNHH về các hoạt động này thì việc đó sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh
tế. Trên thực tế, như đã phân tích, vẫn tồn tại rất nhiều chủ thể về hình thức là công ty
TNHH có từ hai thành viên trở lên nhưng bản chất lại do một cá nhân làm chủ, hiện
tượng này hiện nay trở nên khá phổ biến và nó nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế. Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi giải quyết các hậu quả phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này,
bởi vì bản thân nó không có sự thống nhất về hình thức và nội dung pháp lý. Do vậy, việc
cho phép một cá nhân được thành lập công ty TNHH một thành viên là giải pháp tốt nhất
cho vấn đề này. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường hàng trăm năm qua đã chứng
minh rằng: một hoạt động kinh doanh đã tồn tại trên thực tế đáp ứng được nhu cầu của xã
hội, được xã hội thừa nhận thì phải được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, tức là nó phải
được luật định, ngược lại nếu như các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các biện pháp
ngăn cấm hoặc hạn chế thì các hoạt động này dễ có khuynh hướng đi vào hoạt động ngầm
và nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng những yếu
tố tích cực từ việc quy định hình thức công ty TNHH một thành viên đã vượt xa những
yếu tố tiêu cực có thể có phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định công ty TNHH một thành viên
Việc pháp luật bổ sung thêm loại hình công ty TNHH một thành viên vào hệ thống các
loại hình doanh nghiệp đã có ở Việt Nam là một bước phát triển mới trong quá trình từng
bước hoàn thiện pháp luật về luật công ty. Để loại hình doanh nghiệp này ngày càng phát
triển, phát huy được những ưu điểm của nó trong việc thu hút ngày càng nhiều các nhà
đầu tư vào các hoạtđộng kinh doanh, chế định này cần phải được hoàn thiện.
Thứ nhất: Nên cho phép một cá nhân có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên.
Thứ hai: Bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh trong trường hợp chủ sở
hữu công ty chuyển toàn   bộ vốn điều lệ cho một cá nhân.
Tóm lại, việc quy định một cá nhân có quyền thành lập và làm chủ một công ty TNHH
một thành viên là một yêu cầu khách quan và cần thiết trong việc xây dựng các chế định
về Luật kinh doanh hiện nay. Đây là một quy định không những có ý nghĩa trong việc
bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý
nhà nước trong họat động kinh doanh. Khi cả cá nhân và tổ chức đều có quyền thành lập
công ty TNHH một thành viên thì các ưu điểm của loại hình doanh nghiệp này sẽ được
các nhà đầu tư tận dụng một cách công khai hợp pháp, đồng thời các điểm tiêu cực của
nó cũng sẽ dễ dàng được nhận biết; từ đó góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh
lành mạnh, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh
tế. Đây là một nhân tố góp phần phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế kinh tế thị
trường phù hợp với thông lệ quốc tế; trong đó điều mấu chốt là thúc đẩy khu vực kinh tế
tư nhân phát triển, thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế,
xóa bỏ các đặc quyền (phi lý) của các doanh nghiệp nhà nước ,khuyến khích các doanh
nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và tri thức, hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật về kinh tế theo chuẩn mực của kinh tế thị trường.
4.Thực tiễn áp dụng Luật Doanh nghiệp về thành lập doanh nghiệp

Bước vào thời kỳ kinh tế hội nhập, cùng với đó các chính sách pháp luật mới của Nhà
nước góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc các doanh nghiệp được thành lập dễ dàng
và bùng nổ với số lượng ngày càng lớn. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2020, trên Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đã thông báo có hơn 60.000 doanh nghiệp
được thành lập mới trên cả nước, hơn 17.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động sau
tạm ngừng, và hơn 7.000 doanh nghiệp giải thể.

Có thể thấy, một thực tế hiện nay là doanh nghiệp được thành lập ngày một nhiều và số
lượng doanh nghiệp quay trở lại là tương đối đáng kể. Các doanh nghiệp được thành lập
cũng không có sự phân bố đồng đều mà thành lập tập trung ở các thành phố lớn và các
khu công nghiệp như tại Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…

Các doanh nghiệp được thành lập ngày một dễ dàng hơn do thủ tục hành chính đang ngày
một tối giản. Nếu như trước đây, thủ tục thành lập doanh nghiệp khá rườm rà và phức tạp
theo quy trình:

– Khách hàng nộp bộ hồ sơ thành lập doanh nghiệp bản giấy tới trực tiếp Sở Kế hoạch &
Đầu tư;

– Chuyên viên tiến hành xử lý hồ sơ, sau 3 – 5 ngày làm việc khách hàng sẽ trực tiếp tới
Sở Kế hoạch & Đầu tư để nhận thông báo. Hồ sơ sai sót, khách hàng sẽ phải sửa lại, hồ
sơ hợp lệ sẽ được cấp đăng ký kinh doanh;
– Sau khi sửa hồ sơ, khách hàng trực tiếp mang hồ sơ tới Sở Kế hoạch & Đầu tư để nộp
lại, cho đến khi hồ sơ không còn sai sót sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh;

Nhận ra được những bất cập trong quy trình thành lập cũ, pháp luật doanh nghiệp đã điều
chỉnh lại quy trình thành lập kết hợp với hệ thống số hóa, công nghệ thông tin để việc
thành lập doanh nghiệp không còn tốn nhiều thời gian và công sức như trước.

Thay vì việc phải tốn thời gian nhiều lần đi lại lên Cơ quan Nhà nước, khách hàng chỉ cần
nộp hồ sơ online tại địa chỉ website http://dangkyquamang.dkkd.gov.vn. Khi hồ sơ qua
mạng hợp lệ, khách hàng phải nộp bộ hồ sơ bản giấy trực tiếp tới Sở Kế hoạch & Đầu tư.

Trường hợp hồ sơ của khách hàng sai sót sẽ được thông báo nhanh nhất và việc sửa hồ sơ
diễn ra nhanh chóng hơn.

Luật DN năm 2020 đã có những bước tiến mới, song việc hướng dẫn thi hành để bắt nhịp
và đáp ứng yêu cầu cuộc sống là vấn đề thiết thực cấp bách, đòi hỏi phải có những
phương hướng và giải pháp thiết thực. Sự thay đổi của hệ thống pháp luật cùng những
chính sách phù hợp từ phía các ban ngành như sự thay đổi về cơ quan đăng ký DN với
những chức năng, nhiệm vụ được cụ thể hóa sẽ tạo ra môi trường làm việc để tiếp nhận
các chủ thể đến đăng ký DN dễ dàng hơn. Đây thực sự là một cải cách rất tiến bộ trong
hoạt động cấp phép đăng ký DN, tạo ra môi trường thông thoáng trong hoạt động đầu tư.

5.Thực trạng của hoạt động khuyến mãi

Khuyến mại là một dạng hoạt động xúc tiến kinh doanh thông thường của các doanh
nghiệp, được triển khai nhằm kích thích việc tiêu dùng, khuyến khích người tiêu dùng
mua hàng hóa. Khuyến mại được tiến hành dưới nhiều hình thức và có thể thực hiện
nhiều lần trong năm, nhất là giai đoạn sức mua giảm sút, cạnh tranh với chương trình
khuyến mại của đối thủ hay để giải phóng sớm hàng tồn kho…Một mặt, khuyến mại khá
hữu ích với người tiêu dùng, giúp họ mua được hàng hóa giá rẻ hơn mức thông thường,
thứ mà họ khó tiếp cận nếu không có khuyến mại.

1. Thực trạng hoạt động khuyến mãi trong kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt
Nam a.Các chương trình khuyến mãi lớn Để giữ chân khách hàng, các mạng di
động liên tục tung ra khuyến mại lớn hoặc các chương trình chăm sóc khách hàng
đặc biệt. Tuy nhiên, một lý do quan trọng khác là các chương trình này cũng nhằm
tấn công đối thủ cạnh tranh Tháng 6/2009, ngay sau khi Viettel gặp rắc rối lớn với
chương trình khuyến mại tặng 150% giá trị thẻ nạp (dành cho thuê bao trả trước)
nhưng thông tin không rõ ràng cho khách hàng, VinaPhone và MobiFone lập tức
"tung chiêu". Trong khi Viettel đưa ra rất nhiều hạn chế đối với đợt khuyến mại
"khủng" của mình thì VinaPhone và MobiFone cho khách hàng thoải mái về thời
gian nghe gọi và cũng không phải quy đổi ra phút gọi hay nhắn tin mà tặng tiền
trực tiếp vào tài khoản. Về mức độ khuyến mại, tuy không "khủng" tới mức 150%
giá trị thẻ nạp nh ưng mức 130% cũng đủ làm cho các khách hàng dùng di động
đổ xô đi nạp thẻ. Cũng bởi nguyên nhân này, không ít khách hàng trước vốn đang
dùng Viettel đã chuyển sang dùng MobiFone và VinaPhone. Ngay sau khi bị các
mạng khác "phản đòn", Viettel cũng thay đổi với việc khuyến mại đối với thẻ nạp
tiền 130% giống hệt như MobiFone và VinaPhone. Liên tiếp các đợt khuyến mại
thẻ cào sau đó, nếu như MobiFone, VinaPhone khuyến mại bao nhiêu, Viettel
cũng khuyến mại từng đó. Mới đây nhất, khi Viettel tung ra chương trình chăm
sóc khách hàng đặt biệt có tên gọi "Tưng bừng trò chuyện". Điểm nhấn của
chương trình này là miễn phí cho khách hàng khi gọi nội mạng từ phút thứ 6 đến
phút thứ 10. Tuy nhiên, điều oái ăm là số lượng khách hàng có cuộc gọi dài quá 5
phút là cực ít. Hệ quả là số lượng khách hàng được chăm sóc ít mà chủ yếu là…
được nghe quảng cáo về việc được chăm sóc trong tháng 9. Ngay sau khi Viettel
tung ra chương trình chăm sóc khách hàng nói trên, từ 11/9, MobiFone cũng lập
tức tung ra một chương trình chăm sóc khách hàng dành cho thuê bao trả sau có
nguyên lý tương tự. Điểm khác biệt lớn nhất là MobiFone miễn phí 3 phút gọi cho
khách hàng nhưng từ phút thứ 3 trở đi (miễn phí từ phút thứ 3 đến phút thứ 5). Với
ưu đãi này, nếu khách hàng trả sau gọi nội mạng 5 phút sẽ chỉ phải trả tiền 2 phút,
được giảm tới 60% cước gọi. Theo ước tính của các nhà mạng, vào năm 2010, thị
trường di động Việt Nam có thể gần đạt mức bão hòa nên đây là thời điểm để các
mạng "tát vét" khách hàng. Mục tiêu mà MobiFone đặt ra trong 6 tháng cuối năm
2009 là sẽ có thêm 5 triệu khách hàng, đưa tổng số thuê bao trên mạng đạt 40 triệu
vào cuối năm 2009. VinaPhone cũng không giấu mục tiêu "sẽ thu hút thêm được
nhiều thuê bao hòa mạng mới bên cạnh việc đảm bảo lợi ích dài lâu cho hơn 20
triệu thuê bao thực đang hoạt động". Để đạt được mục tiêu này không phải dễ bởi
khi mà chất lượng dịch vụ giữa các mạng đã "sêm sêm" thì giá cước vẫn là "vũ
khí" lợi hại nhất để giành thị phần, bởi trong số hàng chục triệu người đang dùng
điện thoại di động hiện nay số đông là người có thu nhập thấp. Sau thời gian dài
thỏa hiệp giảm liều lượng khuyến mãi, bỗng 3 doanh nghiệp đi đầu làng viễn
thông quay sang soi xét nhau. Viettel và MobiFone cho rằng VinaPhone có biểu
hiện phá vỡ cấu trúc thị trường khi cứ "thả giàn" khuyến mãi. Mấy năm gần đây,
thị trường viễn thông VN chứng kiến cuộc đua sát nút giữa 3 ông lớn di động
Viettel, MobiFone và VinaPhone. Giá cước được coi là lợi thế cạnh tranh và khi
hôm nay Viettel giảm giá thì y như rằng ngày mai, anh em nhà VNPT VinaPhone
và MobiFone cũng ấn định mức cước tương tự. Không có một quy ước chung
nhưng cả 3 mạng di động đại gia đều "nhìn nhau" để đưa ra các gói cước và
chương trình khuyến mãi.
6. Thực tiễn thực hiện hoạt động quảng cáo tại doanh nghiệp
Quảng cáo là công cụ hữu hiệu để giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng. Một
quảng cáo thành công sẽ đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Nếu như cách đây
khoảng 10 năm, khi quan sát những động thái tiếp thị thương hiệu trên thị trường, người
tiêu dùng và ngay cả các chuyên gia trong ngành quảng cáo khó có thể nhận ra được hình
hài cụ thể của một chiến dịch quảng cáo nào đó, thì ngày nay khi một chương trình được
giới thiệu ra thị trường, có đến hơn 60% chiến dịch có thể được nhận biết một cách rõ
ràng và thậm chí nhà cung cấp còn nhận thức được rất nhiều ý kiến khách quan khen, chê
khác nhau từ phía người tiêu dùng. Đó là kết quả của một quá trình phát triển của các
công cụ truyền thông tại Việt Nam, ngày càng được sử dụng linh hoạt, sáng tạo hơn bởi
bàn tay của các Marketting trong nước. II. Phân tích, đánh giá thực trạng quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay: Trong 10 năm trở lại, quảng cáo ở nước ta đã trở nên phổ biến và
diễn ra rộng rãi dưới nhiều phương tiện quảng cáo khác nhau. Mỗi phương tiện quảng
cáo đem lại những hiệu quả riêng biệt. sự phong phú và đa dạng của các hoạt động quảng
cáo đem tới cho người tiêu dùng những góc nhìn khác nhau về thông tin sản phẩm mà họ
muốn biết. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu vào các hoạt động quảng cáo có ở Việt Nam. 2.1.
Thực trạng quảng cáo Việt Nam hiện nay: 2.1.1. Quảng cáo trên báo chí: Báo in là một
loại phương tiện thông tin đại chúng dễ dàng tiếp cận với khách hàng, hiện tại và mang
tính liên tục. Ưu thế của báo in là với lượng thông tin lớn, nội dung chuyên sâu, có thể
tăng số trang theo yêu cầu, lượng phát hành lớn, phạm vi tiếp xúc rộng và có thể chuyền
tay nhau đọc gấp hơn hai lần so với lượng phát hành chính thức. Ngoài ra ưu điểm của
báo in còn độ linh hoạt và tình thời hiệu cao, chi phí thấp, thuận tiện trong việc đọc và cất
giữ, các quảng cáo trên phương tiện nghe nhìn có độ tan biến rất nhanh thì báo in có thể
đọc đi đọc lại và có thể thu thập, cắt giảm, lưu giữ. Có thể nói, đây là hình thức phát triển
mạnh nhất tại Việt Nam, đi kèm theo đó là một số lượng lớn đầu báo ra đời phục vụ cả
nhu cầu thông tin lẫn mục tiêu nắm bắt cơ hội kinh doanh trong ngành quảng cáo. Hiện
nay, cả nước có khoảng hơn 700 đầu báo (vẫn bị xem 5 là số lượng rất nhỏ so với thế
giới). Tuy nhiên, số đầu báo được các nhà quảng cáo quan tâm chỉ chiếm một con số rất
khiêm tốn trong số này, khoảng 7% = 40 đầu báo (Marketting VN 28: 16-17). Vị trí trên
báo hay các ấn phẩm in thường được các doanh nghiệp lựa chọn để đặt quảng cáo là bìa 4
(45,2%), trang đặc biệt cạnh bìa (41,9%) và 2 trang ruột liền nhau (38,7%). Chỉ có 6,5%
các doanh nghiệp chọn 2 trang ruột không liền nhau trên báo hoặc các ấn phẩm để in
quảng cáo. Kích cỡ quảng cáo trên báo hay các ấn phẩm in được các doanh nghiệp lựa
chọn thường là khổ lớn. Hầu hết các doanh nghiệp đã từng quảng cáo trên báo hay các ấn
phẩm in đều lựa chọn kích cỡ quảng cáo trên cả trang (96,7%). Tỷ lệ các doanh nghiệp
lựa chọn kích cỡ quảng cáo trên 1/8 trang hoặc nhỏ hơn rất thấp, chỉ chiếm 3,3% số
doanh nghiệp được hỏi. Trong số các doanh nhiệp được điều tra, không có doanh nghiệp
nào lựa chọn kích cỡ quảng cáo trên 1/8 trang báo hoặc các ấn phẩm in. Như vậy, hình
thức quảng cáo sử dụng hình thức quảng cáo này với mức độ nhiều lần (45,2%) hoặc
thường xuyên (54,8%). Khoảng 3/4 các doanh nghiệp được hỏi đã từng đăng quảng của
mình trên các báo Thanh niên, Thời báo Kinh tế, báo Lao động và các báo/ tạp chí của
các địa phương. Tỷ lệ các doanh nghiệp chọn các báo/ tạp chí chuyên về thể thao hay các
báo của ngành Công an để đăng quảng cáo thấp hơn, chỉ dưới 30%. Hầu hết quảng cáo
của các doanh nghiệp được đặt ở bìa 4 (45,2%), trang đặc biệt cạnh bìa (41,9%) hoặc 2
trang ruột liền nhau (38,7%) và kích cỡ chủ yếu mà các doanh nghiệp lựa chọn là cả trang
(96,7%). 2.1.2. Quảng cáo trên truyền hình, truyền thanh: Quảng cáo trên truyền hình là
một loại hình quảng cáo phổ biến từ những năm 50 của thế kỷ 20. Do là loại hình quảng
cáo hiệu quả nên quảng cáo trên truyền hình ngày càng phát triển. Cùng với sự thành
công trong ngành công nghiệp truyền hình, các chương trình quảng cáo đã trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của mọt người. Khi đời sống xã hội ngày
càng phát triển, thì nhu cầu về thông tin, giải trí ngày càng lớn. Quảng cáo là chiến lược
không thể thiếu trong các hoạt động xúc tiến của các doanh nghiệp. nhờ vậy mà các
doanh nghiệp đưa đến người tiêu dùng những thông tin về sản phẩm của mình một cách
sinh động. Chỉ trong khoảng 10 năm quảng cáo nước ta đã có những bước phát triển
nhanh chóng với những thành quả đáng kể và có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống.
Tuy nhiên, quảng cáo nước ta còn nghèo nàn lạc hậu so với Thế giới, nguồn nhân lực còn
thiếu, trình độ còn kém, không xác định được hướng phát triển đúng đắn. Vì đây là một
nghành khá mới mẻ cho nên chưa có bước phát triển vững chắc ở hiện tại và tương lai
gần. Để hoạt động quảng cáo được phát triển giảm dần những nhược điểm của doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo. Hiệp hội quảng cáo Việt Nam nên có các
chính sách khuyến khích sự phát triển của quảng cáo trong nước, nới lỏng một số quy
định để thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành quảng cáo trong nước. Một tương lai mở ra
cho ngành quảng cáo Việt Nam sẽ có những bước phất triển vượt bậc, đem lại sự hiệu
quả nhất cho các doanh nghiệp trong việc truyền đạt thông tin sản pẩm dịch vụ mà họ
mong muốn.
7.Thực tiễn hoạt động môi giới thương mại tại Việt Nam.
Khái niệm môi giới thương mại: Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó
một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới .
Pháp luật về môi giới thương mại hiện nay được quy định khá đầy đủ. Tuy nhiên, khi áp
dụng vào thực tiễn đã nảy sinh một số hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
hơn như: Chủ thể khi tham gia hoạt động môi giới thương mại không đáp ứng đúng quy
định, thù lao môi giới và chi phí hợp lý liên quan đến hợp đồng môi giới, hình thức của
hợp đồng môi giới không có quy định rõ ràng, không có sự thống nhất giữa khái niệm
thương nhân và nghĩa vụ đăng ký kinh doanh, khái niệm các hoạt động trung gian thương
mại và môi giơi thương mại. Việc không có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật
gây khó khăn cho các bên tham gia hoạt động môi giới thương mại và cơ quan quản lý
nhà nước. Do đó, các nhà làm luật cần xem xét, cân nhắc sửa đổi, bổ sung thêm các quy
định còn thiếu, hạn chế để tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thống nhất cho các bên
khi tham gia quan hệ môi giới. Các quy định về môi giới thương mại trong Luật thương
mại năm 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019) cần được quy định cụ thể về hình thức
hợp đồng môi giới, về chế độ thanh toán thù lao môi giới và chi phí phát sinh hợp lý liên
quan. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng sâu rộng, vấn đề rủi ro
trong các hoạt động thương mại ngày càng gia tăng là quy luật khách quan. Hoạt động
môi giới thương mại là hoạt động thương mại nên cũng phải phù hợp với cơ chế thị
trường, đảm bảo tính công khai, minh bạch, công bằng.
Thứ nhất, so với các hoạt động trung gian thương mại khác, hoạt động môi giới thương
mại có đặc điểm khác biệt là chủ thể thực hiện môi giới thương mại hoàn toàn không
tham gia vào hợp đồng, giao dịch giữa các bên, không đại diện cho quyền lợi của bên
nào. Chính vì không tham gia vào giao dịch giữa các bên nên bên môi giới không chịu
trách nhiệm về khả năng thanh toán của bên được môi giới, không có quyền được quyết
định giá bán, giá cung ứng dịch vụ giữa các bên. Họ đơn thuần chỉ là cầu nối, con thoi
giúp gắn kết người mua gặp người bán để hưởng thù lao.
Thứ hai, chúng ta thấy rằng các loại hình hoạt động trung gian thương mại khác được
pháp luật quy định hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương thì Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp
luật liên quan lại không quy định rõ ràng hợp đồng môi giới không nhất thiết phải lập
thành văn bản hay hình thức tương đương khác hay không. Điều này tạo điều kiện cho
các hoạt động môi giới có thể tiến hành nhanh chóng, thuận tiện, giúp bên môi giới dễ
dàng triển khai ngay công việc sau khi thỏa thuận giữa các bên đạt được.
Hạn chế của hoạt động môi giới thương mại

- Thứ nhất, so với các hoạt động trung gian thương mại khác được quy định trong Luật
thương mại năm 2005, có thể thấy đối với môi giới thương mại luật không quy định về
hình thức của hợp đồng, trong khi đó các hoạt động trung gian thương mại khác đều có
quy định về hình thức của hợp đồng phát sinh giữa bên thực hiện dịch vụ và bên nhận
dịch vụ. Luật thương mại năm 2005 không đề cập tới vấn đề hình thức của hợp đồng môi
giới thương mại, điều này tạo điều kiện cho các hoạt động môi giới có thể tiến hành
nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên việc không quy định như vậy cũng có mặt trái, đó là
làm phát sinh những vấn đề tiềm ẩn về tranh chấp giữa các bên thực hiện dịch vụ môi
giới và bên được môi giới. Trên thực tế có những hợp đồng môi giới được giao kết với
giá trị lớn như môi giới bất động sản, môi giới chứng khoán, môi giới đưa người lao động
ra nước ngoài làm việc… việc không quy định về hình thức của hợp đồng rất dễ gây rủi
ro cho các bên  đặc biệt là những hợp đồng có giá trị lớn như trên. Để tránh những vướng
mắc này xảy ra giữa các bên, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể về hợp đồng môi giới
thương mại sao cho có sự phù hợp, thống nhất với các hoạt động môi giới chuyên ngành
khác.
- Thứ hai, một vướng mắc khác mà hoạt động môi giới thương mại trong thực tế gặp
phải, đó là vấn đề về chế độ thanh toán chi phí, thù lao. Thù lao trong hoạt động thương
mại là khoản tiền mà bên được môi giới phải trả cho bên môi giới khi bên môi giới giúp
bên được môi giới làm việc với bên thứ ba. Thù lao có thể bao gồm cả những chi phí mà
bên môi giới bỏ ra khi thực hiện công việc giao dịch, được gọi là chi phí môi giới. Luật
thương mại năm 2005 chưa có quy định về trường hợp khi các bên không có thỏa thuận
thì khi nào bên môi giới được hưởng thù lao môi giới, khi nào được hưởng chi phí môi
giới. Hay trường hợp bên môi giới ký hợp đồng môi giới với cả hai bên được môi giới thì
thù lao tính như thế nào. 
8. Thực tiễn thực hiện các quy định điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp bất chính
ở Việt Nam.
Bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh đã tồn tại trên thế giới từ rất lâu và
chính thức xuất hiện ở Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ XX. Tuy nhiên, kinh
doanh đa cấp từ một mô hình tiên tiến đã dần bị biến tướng thành “bán hàng đa cấp bất
chính” gây rối loạn trật tự xã hội. Bài viết này bàn về thực trạng điều chỉnh hành vi bán
hàng đa cấp bất chính theo pháp luật cạnh tranh và đề xuất một số kiến nghị.
Thời gian vừa qua, công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp bao
gồm xử lý các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính được đặc biệt chú trọng và đẩy
mạnh. Cục Quản lý cạnh tranh đã điều tra, xử phạt 05 doanh nghiệp về hành vi bán hàng
đa cấp bất chính với số tiền phạt 590 triệu đồng, tuy nhiên, việc phát hiện và xử lý hành
vi bán hàng đa cấp bất chính vẫn chưa thật sự hiệu quả. Hành vi “yêu cầu người muốn
tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một khoản tiền nhất định” chỉ phát hiện
được 01 trường hợp; hành vi “cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoa hồng,
tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác” cũng chỉ phát hiện được 01
trường hợp; hành vi “cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia”
phát hiện được 03 trường hợp trên tổng số 41 trường hợp vi phạm pháp luật về bán hàng
đa cấp[3]… Điều này cho thấy, khả năng giám sát từ phía Nhà nước trong lĩnh vực này là
rất kém hiệu quả. Đơn cử như trong vụ án của Công ty đa cấp Liên Kết Việt, khi vụ việc
được công khai vào đầu năm 2016, số người bị hại đã lên tới gần 60.000 người với hơn
1.900 tỷ đồng bị chiếm đoạt. Mặc dù những sự việc tương tự như trên diễn ra khá phổ
biến trong thời gian qua, nhưng việc xử lý về bán hàng đa cấp bất chính còn gặp nhiều
khó khăn. Hoạt động kinh doanh đa cấp hiện nay có rất nhiều hình thức biến tướng, gọi là
hành vi bán hàng đa cấp bất chính. Pháp luật Việt Nam đã đề cập đến hình thức biến
tướng này dưới dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp. Tuy những
quy định đã cố gắng cụ thể hóa dưới dạng liệt kê những hành vi bán hàng đa cấp bị cấm
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến bỏ sót hành vi. Hy vọng trong thời gian tới, các
quy định pháp luật điều chỉnh về bán hàng đa cấp và hành vi bán hàng đa cấp bất chính sẽ
ngày càng hoàn thiện, góp phần hạn chế và loại trừ hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
9.Thực tiễn thu hồi tài sản và quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở
thủ tục phá sản.
Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, theo đó Luật đã mở
nghề mới là Quản tài viên và Quản tài viên sẽ thực hiện quản lý, thanh lý tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản thay
cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản trước đây. Quản tài viên sẽ thực hiện viện công việc
trong suốt quá trình từ khi Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản cho đến khi thanh
lý xong tài sản thi hành án hoặc hết thời hạn 02 năm kể từ ngày nhận được văn bản của
Chấp hành viên yêu cầu thanh lý tài sản.mà chưa thanh lý xong tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã đã bị tuyên bố phá sản.
doanh nghiệp, hợp tác xã được coi là mất khả năng thanh toán khi không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán (theo
khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản).
Đồng thời, doanh nghiệp không thể tự tuyên bố phá sản mà phải làm thủ tục phá sản để
Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thì mới được bị coi là phá sản. Cụ thể, Điều 8 Luật
Phá sản quy định về thẩm quyền giải quyết phá sản như sau:
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết phá
sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán tại tỉnh đó và thuộc một
trong các trường hợp:
+ Vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc là người tham gia thủ tục phá sản ở nước
ngoài; 
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc các tỉnh khác nhau;
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
các tỉnh khác nhau;
+ Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh mà được Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết do tính chất phức tạp
của vụ việc.
- TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có
trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó và không thuộc một trong
các trường hợp do TAND cấp tỉnh giải quyết.
Ngoài ra, Luật Phá sản không quy định cụ thể mất khả năng thanh toán một khoản nợ bao
nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản, bởi tình hình tài chính của các doanh nghiệp
rất khác nhau.
Có những doanh nghiệp nợ vài chục triệu nhưng không có cách gì để trả, trong khi cũng
có doanh nghiệp nợ tới vài trăm triệu hoặc vài tỉ vẫn có khả năng thanh toán bình thường.
Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, những người có quyền và nghĩa vụ quy
định tại Điều 5 Luật Phá sản 2014 sẽ nộp đơn để yêu cầu mở thủ tục phá sản. Và Tòa án
sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản nếu thỏa các điều kiện cần thiết.
Khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có được tiếp tục hoạt động
kinh doanh không?
Căn cứ Điều 47 Luật Phá sản 2014, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản được quy định như sau:
- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục hoạt
động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của Thẩm phán và Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
- Trường hợp xét thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã không
có khả năng điều hành, doanh nghiệp, hợp tác xã có dấu hiệu vi phạm khoản 1 Điều 48
của Luật này thì Thẩm phán ra quyết định thay đổi người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Theo đó, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong trường hợp này vẫn có quyền được
tiếp tục hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để tránh phát sinh lỗ hoặc kinh doanh phi pháp
nhằm tẩu tán tài sản thì mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp này phải chịu sự
giám sát của Thẩm phán và quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Theo Điều 49 Luật Phá sản 2014  quy định về việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp,
hợp tác xã sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản
- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo Quản
tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện các hoạt động sau:
+ Hoạt động liên quan đến việc vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán, chuyển
nhượng, cho thuê tài sản; bán, chuyển đổi cổ phần; chuyển quyền sở hữu tài sản;
+ Chấm dứt thực hiện hợp đồng có hiệu lực;
+ Thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản; trả lương cho người lao
động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Hình thức báo cáo gồm báo cáo trực tiếp, thư bảo đảm, thư thường, thư điện tử, fax,
telex.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, hợp
tác xã thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm trả lời cho
doanh nghiệp, hợp tác xã việc được thực hiện hoặc không được thực hiện các hoạt động
quy định tại khoản 1 Điều này và phải chịu trách nhiệm về việc trả lời của mình. Quản tài
viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải báo cáo Thẩm phán về nội dung trả lời
của mình.
- Các hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện mà không có sự đồng ý
của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản thì bị đình chỉ thực hiện, khôi
phục lại tình trạng ban đầu và giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp bị cấm thực hiện những hoạt động nào khi có quyết định mở thủ tục
phá sản
Căn cứ Điều 48 Luật Phá sản 2014 quy định về những hoạt động của doanh nghiệp bị
cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cụ thể:
- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
sau:
+ Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản;
+ Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau
khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 49 của Luật này;
+ Từ bỏ quyền đòi nợ;
+ Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Giao dịch quy định tại khoản 1 Điều này là vô hiệu và xử lý theo quy định tại Điều 60
của Luật này.
Tóm lại, doanh nghiệp vẫn được thực hiện kinh doanh dưới sự giám sát chặt chẽ từ phía
cơ quan, người có thẩm quyền sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản.
10. Các vấn đề pháp lý liên quan đến áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng
thương mại tại doanh nghiệp.
Chế tài phạt vi phạm được quy định trong các văn bản “Bộ luật dân sự 2015” (BLDS)
và Luật thương mại 2005 đây được coi là một chế định quan trọng để bảo vệ các bên
trong quan hệ thương mại. Mục đích của chế tài phạt vi phạm nhằm ngăn ngừa những
hành vi vi phạm có thể xảy ra, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong
quan hệ hợp đồng thương mại.
Các bên có thể áp dụng chế tài khác theo sự thỏa thuận của các bên;Tuy nhiên việc áp
dụng các chế tài theo thỏa thuận không được trái quy định của pháp luật Việt Nam.Hơn
nữa không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và không trái các tập
quán thương mại quốc tế.

Căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại? Luật thương mại
2005 quy định hành vi vi phạm hợp đồng thương mại; và yếu tố lỗi (suy đoán) của bên vi
phạm hợp đồng; và có sự thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng; là ba căn cứ để
áp dụng chế tài phạt vi phạm.

Thứ nhất, Hành vi vi phạm hợp đồng được hiểu: “là việc một bên không; thực hiện, thực
hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên; hoặc
theo quy định của luật này” (Khoản 12 Điều 3 Luật thương mại 2005). Tuy nhiên, với tư
cách là căn cứ; để áp dụng chế tài phạt vi phạm nói chung và các chế tài thương mại;
khác thì cần phải xem xét ;;vấn đề hành vi vi phạm hợp đồng là vi phạm cơ bản hay
không cơ bản. Khoản 3 Điều 13 Luật Thương mại 2005 đưa ra khái niệm: “Vi phạm cơ
bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại; cho bên kia đến mức làm cho bên
kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” .

Để chế định phạt vi phạm có thể phát huy hết khả năng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp trong hợp đồng thì khi soạn thảo các thỏa thuận trong hợp đồng, các bên cần có quy
định về các trường hợp phạt vi phạm cũng như điều kiện để tiến hành phạt vi phạm một
cách chi tiết và cụ thể nhất.
Để khi có vi phạm xảy ra, các bên không phải lúng túng trong việc xác định tính đúng sai
của sự việc, cũng như xảy ra các tranh chấp không đáng có trong quan hệ hợp tác, dẫn
đến những hậu quả không mong muốn trong quan hệ làm ăn hiện tại cũng như trong
tương lai. Trong thực tế đã có những sự việc đáng tiếc dẫn đến tranh chấp không đáng có
giữa các bên do sự không am hiểu về pháp luật thương mại nói chung cũng như chế tài
phạt vi phạm nói riêng.

Căn cứ theo khoản 1 Điều 297 Luật Thương mại 2005 quy định buộc thực hiện đúng hợp
đồng:

Việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện
pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Theo quy định này, bên vi phạm sẽ phải thực hiện đúng theo các điều khoản đã cam kết
trong hợp đồng; dùng các biện khác để khắc phục và thực hiện hợp đồng.

Chi phí thực hiện các biện pháp khắc phục này sẽ do bên vi phạm chịu.

Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng này được dùng trong trường hợp giao thiếu hàng
hóa; cung ứng dịch vụ không đúng theo như sự thỏa thuận trong hợp đồng. 
Trường hợp giao hàng kém chất lượng; cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì bên bị vi
phạm có thể yêu cầu bên vi phạm cung ứng dịch vụ và hàng hóa theo đúng chất lượng
như đã thỏa thuận.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng

Cụ thể tại khoản 2 của Điều 297 quy định như sau:

Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng
thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng.
Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại
trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng
dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng
loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm.

Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì
bên bị vi phạm có quyền mua hàng; nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế
theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền
chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá,
thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.

Vấn đề cụ thể đối với chế tài buộc thực hiện hợp đồng

 Thực tế, khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi cho mình; bên bị
vi phạm không phải lúc nào cũng yêu cầu bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ như giao hàng
thêm; hay tìm biện pháp khắc phục khuyết tật của hàng hóa hoặc thay thế bằng hàng hóa
khác (nếu giao hàng kém chất lượng); nhất là trong trường hợp bên vi phạm gặp nhiều
khó khăn, chi phí để làm được như vậy và thậm chí bên bị vi phạm cũng có thể bị thiệt
hại hơn.

Trong trường hợp này, tức là khi bên vi phạm không thực hiện theo các quy định nói trên;
tại Điều 297, Khoản 2 và 3 của Luật thương mại cũng thể hiện sự linh hoạt khi quy định
cụ thể rằng:

Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền mua hàng hay nhận cung ứng dich vụ của người
khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng. Khi đó, bên vi
phạm phải bù chênh lệch nếu có.

Nếu bên có quyền lợi bị vi phạm tự sửa chữa, thiếu sót của hàng hóa, dịch vụ thì bên vi
phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Theo quy định này, bên vi phạm phải trả “các
chi phí thực tế hợp lý”.
Nói cách khác, nếu bên bị vi phạm viện cớ sửa chữa khuyết tật của hàng hóa để đòi bên
kia các chi phí không liên quan đến việc sửa chữa khuyết tật đó hoặc đòi các chi phí vô lý
quá cao so với thực tế thì bên vi phạm sẽ không phải trả các chi phí đó.

Câu 11:Vai trò điều hành của giám đốc công ty cổ phần trong hệ thống bộ máy
quản lý nội bộ của công ty cổ phần

Công ty cổ phần là một trong các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, trong công ty cổ
phần ngoài các chức danh như hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị sẽ có các
giám đốc, tổng giám đốc để điều hành các công việc của công ty.

Giám đốc và tổng giám đốc của công ty cổ phần là người điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của doanh nghiệp và chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị công ty, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.

 Theo quy định tại điều 162 Luật Doanh nghiệp 2020 về giám đốc, tổng giám đốc công
ty:

1. Hội đồng quản trị bổ nhiệm một thành viên Hội đồng quản trị hoặc thuê người khác
làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
2. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của
công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị; chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị
và trước pháp luật về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ được giao.
Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm
lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
3. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà
không thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;
b) Tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị;
c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
d) Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty;
đ) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức
danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;
e) Quyết định tiền lương và lợi ích khác đối với người lao động trong công ty, kể cả
người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
g) Tuyển dụng lao động;
h) Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
i) Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị quyết,
quyết định của Hội đồng quản trị.
4. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của
công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với
công ty và nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị. Trường hợp điều hành
trái với quy định tại khoản này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
5. Đối với công ty đại chúng, doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 88 của Luật này và công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản
1 Điều 88 của Luật này thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải đáp ứng các tiêu chuẩn,
điều kiện sau đây:
a) Không thuộc đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này;
b) Không được là người có quan hệ gia đình của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát
viên của công ty và công ty mẹ; người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần
vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ;
c) Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản trị kinh doanh của công ty.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công
ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty
và nghịquyết, quyết địnhcủa Hội đồng quản trị. Trường hợp điều hành trái với quy định
tại khoản này mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
12. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của hội đồng quản trị trong công ty cổ phần.

Cơ sở pháp lý: Luật Doanh nghiệp năm 2020 Căn cứ Điều 153 Luật Doanh nghiệp 2020

Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình thành, tồn
tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ phần, số vốn điều
lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay
tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông”.Từ khái niệm về công ty cổ phần được nêu
ra ở trên thì có thể thấy vốn điều lệ của công ty cổ phần sẽ được chia đều thành nhiều
phần bằng nhau và được gọi là cổ phần. Những cá nhân, tổ chức mua lại các cổ phần này
sẽ trở thành cổ đông của công ty. Đại hội đồng cổ đông của công ty có quyền bầu ra hội
đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh
công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, không thuộc thẩm
quyền của đại hội đồng cổ đông.

Trên cơ sở quy định tại Điều 153, Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định về hội đồng
quản trị, từ đó thì tác giả đã rút ra đucợ một số đặc điểm của hội đồng quản trị với nội
dung như sau:– Thứ nhất, thì Hội đồng quản trị được biết đến với đặc điểm đầu tiên đó
chính là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ các quyền và nghĩa vụ thuộc thẩm quyền của Đại
hội đồng cổ đông.

– Thứ hai, theo như tên gọi, vốn điều lệ của công ty cổ phần sẽ được chia đều thành nhiều
phần bằng nhau (cổ phần). Những cá nhân, tổ chức mua lại các cổ phần này sẽ trở thành
cổ đông của công ty. Đại hội đồng cổ đông của công ty có quyền bầu ra hội đồng quản
trị. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, không thuộc thẩm quyền của
đại hội đồng cổ đông.

Thứ ba, đó là đặc điểm về số lượng thành viên của hội đồng quản trị. Do đó, theo như
quy định của pháp luật hiện hành thì số lượng thành viên của một hội đồng quản trị dao
động từ ba đến mười một người, bao gồm thành viên hội đồng quản trị và thành viên độc
lập hội đồng quản trị.

Như vậy, trong hệ thống tổ chức bộ máy hoạt động của công ty cổ phần thì theo thứ tự từ
trên xuống dưới: Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quản lý có vai trò quyết định các vấn
đề của công ty cổ phần ở vị trí cao nhất; tiếp đó ở vị trí thứ hai mới chính là Hội đồng
quản trị. Nhiệm kỳ trong ban Hội đồng quản trị của thành viên mới này không phải là
năm năm như những thành viên Hội đồng quản trị khác mà là thời gian còn lại trong
nhiệm kỳ Hội đồng quản trị đó.

Nhìn chung, hội đồng quản trị của công ty cổ phần sẽ đóng vai trò giống như người giám
sát. Với nhiệm vụ giảm bớt nguy cơ lạm dụng quyền hạn của những người quản lý, điều
hành. Đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng cho cổ đông, đặc biệt là những cổ đông nhỏ.

Theo như qy định của pháp luật hiện hành thì Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước
Đại hội đồng cổ đông của công ty cổ phần và chịu sự kiểm soát của Đại hội đồng cổ đông
về toàn bộ hoạt động quản lý của mình. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công
ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty. Hội đồng
quản trị là cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý công ty cổ phần, thực hiện chức năng
quản lý công ty thay cho Đại hội đồng cổ đông khi Đại hội đồng cổ đông không họp.

Hội đồng cổ đông có quyền thông qua định hướng phát triển công ty mà định hướng phát
triển công ty có thể là chiến lược phát triển công ty, định hướng thay đổi, mở rộng hay
thu hẹp ngành nghề kinh doanh, thay đổi mục tiêu kinh doanh… Trong khi đó, Hội đồng
quản trị cũng có quyền quyết định chiến lược phát triển công ty. Vì vậy, quyền này cần
được quy định cụ thể trong Điều lệ công ty nhằm tránh xảy ra tranh chấp, chồng chéo quy
định về thẩm quyền giữa Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị.
SO SÁNH CÔNG TY HỢP DANH VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN

You might also like