You are on page 1of 28

Chương 1:

TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP


********************
Giới thiệu về chương học
Đây là chương học nhập môn về tài chính doanh nghiệp, nhiệm vụ của chương học này là
cung cấp cho học viên những kiến thức nền tảng nhất về tài chính doanh nghiệp và các yếu tố
có liên quan. Nội dung chính của chương học xoay quanh các vấn đề về doanh nghiệp, tài
chính doanh nghiệp và công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Kết thúc chương học, đòi hỏi
học viên phải nắm được những nét khái quát nhất về doanh nghiệp và các loại hình doanh
nghiệp, hiểu được khái niệm tài chính doanh nghiệp, bên cạnh đó, còn phải trình bày và phân
tích được những vấn đề cơ bản của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, như nội dung, mục
tiêu, vai trò, các nguyên tắc và bộ máy quản lý tài chính doanh nghiệp.
Để học tốt chương học này, học viên nên tìm đọc các tài liệu sau:
1. Chương I, trang 05 – 24, sách “Tài chính doanh nghiệp”, PGS.TS Lưu Thị Hương và
PGS.TS Vũ Duy Hào đồng chủ biên, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, 2013.
2. Chương I, trang 7 – 40, sách “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp”, TS Bùi Văn Vần
và TS Vũ Văn Ninh đồng chủ biên, Nxb Tài chính, 2013.
3. Chương I, trang 8 – 40, sách “Quản trị Tài chính doanh nghiệp”, Nguyễn Hải Sản,
Nxb Thống kê, 2010.
4. Chương I, trang 19 – 55, sách “Tài chính doanh nghiệp căn bản”, TS Nguyễn Minh
Kiều, Nxb Thống kê, 2009.
Và một số tài liệu khác.

Mục tiêu
Sau khi học xong chương học này, học viên có thể:
• Trình bày được khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp nói chung và từng loại hình
doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam nói riêng.
• Phân tích được ưu, nhược điểm của từng hình thức pháp lý (theo luật doanh nghiệp
hiện hành ở Việt Nam) đối với quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
• Trình bày và lấy được các ví dụ thực tế về các quan hệ tài chính của doanh nghiệp.
• Trình bày được cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp.
• Trình bày được nội dung, mục tiêu, vai trò của công tác quản lý tài chính doanh
nghiệp.
• Phân tích được bảy nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp.
• Trình bày được nhiệm vụ và yêu cầu đối với bộ máy quản lý tài chính tại các doanh
nghiệp.

Tình huống dẫn nhập


Khai tử Vinashin thành lập doanh nghiệp mới
Ngày 31/10/2013, Bộ Giao thông vận tải đã ra Quyết định thành lập Tổng công ty Công
nghiệp Tàu thủy trên cơ sở tổ chức lại công ty mẹ và một số thành viên của Tập đoàn Công
nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Đây là kết cục có hậu của vụ án Vinashin – vụ án kinh
tế lớn nhất Việt Nam, liên quan tới số tiền thất thoát lên tới 86.700 tỷ đồng.
Sự đổ vỡ Tập đoàn Vinashin có một phần nguyên nhân tới từ sự chủ quan, lỏng lẻo trong
quản lý từ cấp trên, do khủng hoảng kinh tế năm 2008; nhưng nguyên nhân cơ bản nhất lại
đến từ chính sự yếu kém và thất bại trong công tác quản lý tài chính của Tập đoàn, biểu hiện:
Các lãnh đạo của Tập đoàn đã phát hành trái phiếu với lãi suất “khủng” 20%/năm; Đã đầu tư
vào hàng loạt dự án kém hiệu quả (như: Mua tàu Hoa Sen; Đóng nhiều tàu đóng mới có chất
lượng kém, không bán được, ví dụ tàu Lash Sông Gianh); Phân tán vốn ra gần 200 công ty
con; Đưa hàng loạt người nhà vào nắm giữ nhiều cương vị quan trọng, khiến nạn tham ô,
tham nhũng, tư lợi, bòn rút tài sản của tập đoàn tràn lan...
Biến cố Vinashin hoàn toàn có thể được ngăn chặn và loại trừ nếu như tập đoàn này thực hiện
tốt việc huy động, phân bổ và sử dụng vốn, hay nói cách khác là thực hiện bài bản các nội
dung của quản lý tài chính doanh nghiệp.

1.1. Doanh nghiệp


1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động sản xuất, cung
ứng hàng hoá cho người tiêu dùng thông qua thị trường nhằm mục đích sinh lời. Quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng chính là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào
như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu... và sức lao động để tạo ra yếu tố đầu ra là hàng hóa
và tiêu thụ hàng hóa đó để thu lợi nhuận.
Doanh nghiệp là chủ thể đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường, mỗi quốc gia
đều có luật doanh nghiệp riêng của mình để quản lý nhóm chủ thể này. Ở Việt Nam hiện nay,
Luật doanh nghiệp hiện hành là Luật doanh nghiệp năm 2005 (Số: 60/2005/QH11), ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Theo định nghĩa trong Luật doanh nghiệp năm 2005 ở nước ta, doanh nghiệp được hiểu
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (tức
là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi).
Luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam quy định 4 hình thức pháp lý cơ bản của
doanh nghiệp, bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần.
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến cách thức doanh nghiệp tổ
chức thực hiện các hoạt động tài chính trong kỳ của mình, ví dụ: Phương thức hình thành và
huy động vốn, việc tổ chức quản lý sử dụng vốn, vấn đề về phân phối lợi nhuận, việc chuyển
nhượng quyền sở hữu cũng như trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các khoản nợ của doanh
nghiệp... Từ thực tế đó, đặt ra yêu cầu đối với các nhà kinh tế, đó là phải nắm bắt thật rõ các
đặc điểm cụ thể về hình thức pháp lý tương ứng của doanh nghiệp mà mình đang đầu tư hoặc
đang quản lý.
• Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp
là người đầu tư bằng vốn của mình và cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài qua các
hình thức đi vay. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả các hoạt
động nói chung, cũng như hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp
2
có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp, có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người
khác, hoặc có quyền tạm ngừng các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau
thuế là tài sản hoàn toàn thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp
tư nhân không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
• Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp, trong đó: a) Phải có ít nhất hai thành viên hợp
danh là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung, ngoài các
thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn; b)Thành viên hợp danh phải là cá nhân,
họ có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; d) Trong công ty hợp danh,
các thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân
danh công ty, thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại
điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân
danh công ty. e) Công ty hợp danh không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
để huy động vốn.
• Công ty trách nhiệm hữu hạn: Ở Việt Nam hiện nay, có hai dạng công ty trách
nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và Công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên.
o Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc
một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều
lệ của công ty. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, phải xác định và tách biệt
tài sản của chủ sở hữu công ty và tài sản của công ty: Chủ sở hữu công ty là cá nhân phải tách
biệt các chi tiêu của cá nhân và gia đình mình với các chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch công
ty và Giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành
cổ phiếu.
o Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên: Là doanh nghiệp, trong đó:
Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm mươi. Thành
viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn góp của thành viên được chuyển nhượng
theo quy định của pháp luật. Thành viên của công ty có quyền biểu quyết tương ứng với phần
vốn góp. Lợi nhuận sau thuế thuộc về các thành viên của công ty, việc phân phối lợi nhuận
do các thành viên quyết định, số lợi nhuận mỗi thành viên được hưởng tương ứng với phần
vốn góp của họ trong công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không
được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
• Công ty cổ phần: Là doanh nghiệp, trong đó:
o Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
o Số vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được tạo lập và huy động tăng thêm thông
qua việc phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Người nắm giữ
cổ phiếu được gọi là cổ đông và là chủ sở hữu của công ty cổ phần.
o Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa.

3
o Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
o Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ một
số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
o Ngoài các phương thức huy động vốn thông thường, công ty cổ phần có thể phát
hành các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) để huy động tăng vốn nếu có đủ tiêu chuẩn
theo luật định.
o Việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền quyết định của Đại hội đồng cổ
đông.
Dưới đây là bảng tổng hợp các đặc điểm đáng chú ý về 4 loại hình doanh nghiệp vừa kể
trên.
Loại
hình Ưu điểm Nhược điểm Đặc điểm khác
DN
- Thủ tục thành lập doanh - Chủ sở hữu chịu trách - Chủ sở hữu chỉ có thể là
Doanh nghiệp đơn giản, ít tốn nhiệm bằng toàn bộ tài cá nhân.
nghiệp kém. sản của mình đối với các - Không có tư cách pháp
tư nhân - Ít chịu sự quản lí của hoạt động của doanh nhân.
nhà nước, không có nghiệp. Không có sự tách
những hạn chế pháp lý biệt giữa tài sản cá nhân
đặc biệt. của chủ sở hữu với tài
- Thu nhập của chủ sở sản của doanh nghiệp.
hữu không bị đánh thuế 2 - Khả năng huy động vốn
lần. hạn chế. Không được
- Không đòi hỏi nhiều phát hành chứng khoán
vốn khi thành lập. để huy động vốn.
- Năng động, dễ thích - Hạn chế về kỹ năng và
nghi. chuyên môn quản lý.
- Duy trì được sự bí mật - Thời gian hoạt động của
trong kinh doanh. doanh nghiệp bị ảnh
- Đặc biệt thích hợp với hưởng bởi tuổi thọ của
việc kinh doanh quy mô chủ sở hữu.
nhỏ.
- Thủ tục thành lập doanh - Chủ sở hữu chịu trách - Có tư cách pháp nhân.
Công ty nghiệp đơn giản, ít tốn nhiệm bằng toàn bộ tài - Chủ sở hữu chỉ có thể là
hợp kém. sản của mình đối với các cá nhân (Thành viên hợp
danh - Ít chịu sự quản lí của hoạt động của doanh danh).
nhà nước, không có nghiệp (Thành viên hợp - Chủ sở hữu có thể là cá
những hạn chế pháp lý danh). nhân hoặc tổ chức có tư
đặc biệt. - Chủ sở hữu gặp nhiều cách pháp nhân (Thành
- Không đòi hỏi nhiều khó khăn trong việc rút viên góp vốn).
vốn khi thành lập. vốn khỏi doanh nghiệp
- Năng động, dễ thích và trong việc chuyển
nghi. nhượng quyền sở hữu.
- Có khả năng huy động - Chứa đựng tiềm năng
được kỹ năng, chuyên mâu thuẫn cá nhân và
môn, tri thức của nhiều quyền lực giữa những
người. người chủ sở hữu.

4
- Trách nhiệm của chủ sở - Khả năng huy động vốn
hữu đối với các nghĩa vụ hạn chế. Không được
tài chính (các khoản nợ) phát hành chứng khoán
của doanh nghiệp là hữu để huy động vốn. (Tuy
hạn (Thành viên góp nhiên, khả năng huy động
vốn). vốn vẫn tốt hơn so với
doanh nghiệp tư nhân vì
có sức mạnh của nhiều
chủ sở hữu).
- Thời gian hoạt động của
doanh nghiệp bị ảnh
hưởng bởi tuổi thọ của
chủ sở hữu.
- Thu nhập của chủ sở
hữu bị đánh thuế 2 lần.
- Trách nhiệm của chủ sở - Chứa đựng tiềm năng - Có tư cách pháp nhân.
Công ty hữu đối với các nghĩa vụ mâu thuẫn cá nhân và - Chủ sở hữu có thể là cá
trách tài chính (các khoản nợ) quyền lực giữa những nhân hoặc tổ chức có tư
nhiệm của doanh nghiệp là hữu người chủ sở hữu (Công cách pháp nhân.
hữu hạn hạn. ty TNHH 2 thành viên trở - Số lượng chủ sở hữu tối
- Chủ sở hữu có thể dễ lên). đa là 50.
dàng rút vốn khỏi doanh - Thu nhập của chủ sở
nghiệp hoặc chuyển hữu bị đánh thuế 2 lần.
nhượng quyền sở hữu - Thủ tục thành lập phức
doanh nghiệp. tạp và tốn kém.
- Có khả năng huy động - Bị chi phối bởi những
vốn lớn. Được phát hành quy định pháp lý và hành
trái phiếu để huy động chính nghiêm ngặt từ
vốn. phía nhà nước.
- Thời gian hoạt động - Không được phát hành
không bị giới hạn bởi cổ phiếu để huy động
tuổi thọ của chủ sở hữu. vốn.
- Trách nhiệm của chủ sở - Chứa đựng tiềm năng - Có tư cách pháp nhân.
Công ty hữu đối với các nghĩa vụ mâu thuẫn cá nhân và - Số lượng chủ sở hữu tối
cổ phần tài chính (các khoản nợ) quyền lực giữa những thiểu là 3.
của doanh nghiệp là hữu người chủ sở hữu. - Chủ sở hữu có thể là cá
hạn. - Những người chủ sở nhân hoặc tổ chức có tư
- Chủ sở hữu có thể dễ hữu sáng lập phải đối mặt cách pháp nhân.
dàng rút vốn khỏi doanh với nguy cơ mất khả
nghiệp hoặc chuyển năng kiểm soát và quản lí
nhượng quyền sở hữu doanh nghiệp.
doanh nghiệp. - Thủ tục thành lập phức
- Có khả năng huy động tạp và tốn kém.
vốn lớn. Có thể phát hành - Bị chi phối bởi những
chứng khoán (cổ phiếu, quy định pháp lý và hành
trái phiếu) để huy động chính nghiêm ngặt từ
vốn. phía nhà nước.
- Có khả năng huy động - Thu nhập của chủ sở
được kỹ năng, chuyên hữu bị đánh thuế 2 lần.
môn, tri thức của nhiều - Tốn kém chi phí trong

5
người. vận hành và tổ chức hơn
- Thời gian hoạt động so với các loại hình
không bị giới hạn bởi doanh nghiệp khác.
tuổi thọ của chủ sở hữu. - Khó duy trì được bí mật
trong kinh doanh.

1.1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp


Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong một môi trường hoạt động nhất định. Môi
trường hoạt động của doanh nghiệp có thể hiểu là một tập hợp bao gồm tất cả các nhân tố
hoặc yếu tố khách quan có ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường
hoạt động của doanh nghiệp có cấu trúc rất phức tạp (nó không chỉ gồm các điều kiện kinh tế,
mà còn bao gồm cả những điều kiện về tự nhiên, văn hóa – xã hội, chính trị, công nghệ,…) và
đặc biệt, các nhà quản trị cần phải ý thức được rằng môi trường hoạt động của doanh nghiệp
luôn luôn thay đổi, nhiều khi biến động rất khó lường.
Ứng với các trạng thái khác nhau của môi trường hoạt động, doanh nghiệp có thể có
các thuận lợi và khó khăn khác nhau liên quan đến các vấn đề về lựa chọn và quyết định đầu
tư, huy động vốn, việc tạo dựng các mối quan hệ kinh tế tốt đẹp với các nhà cung cấp và với
các khách hàng, việc tìm kiếm nguồn lao động… Trong quá trình quản trị doanh nghiệp, việc
nhận thức và phân tích được các nhân tố thuộc về môi trường hoạt động sẽ tạo điều kiện cho
các nhà quản trị tổ chức và điều hành các hoạt động nói chung và hoạt động tài chính nói
riêng của doanh nghiệp được tốt hơn, phù hợp hơn với từng giai đoạn phát triển của nền kinh
tế – xã hội.
Dưới đây là một số nhân tố môi trường có ảnh hưởng rõ rệt tới sự hoạt động của
doanh nghiệp:
• Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế (như hệ thống giao thông, bến bãi kho tàng, thông tin
liên lạc, điện, nước…): Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế tạo nên nền móng cho mọi hoạt động
của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng. Nếu cơ sở hạ tầng tốt thì sẽ
giảm bớt được nhu cầu về vốn đầu tư cho doanh nghiệp trong việc xây dựng và ổn định cơ sở
vật chất, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được các chi phí về vận tải, lưu
kho lưu bãi, liên lạc…, tránh được các tổn thất do thiếu điện, mất nước hoặc chậm trễ trong quá
trình chuyển hàng…
• Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ: Để hoạt động thuận lợi, doanh
nghiệp cần phải có các trang thiết bị hiện đại và phù hợp, kèm theo đó là các công nghệ tiên
tiến. Do đó, có thể nói, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sẽ tạo ra hoặc củng cố tiền đề
vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ là
yếu tố quan trọng góp phần làm thay đổi phương hướng sản xuất, làm xuất hiện thêm nhiều
các chủng loại máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ thuật mới… từ đó, tạo ra những thay đổi
mạnh mẽ trong quá trình sản xuất cũng như bán hàng, đồng thời cũng gây ra các ảnh hưởng
nhất định đến các quyết định tài chính mà đặc biệt là quyết định về đầu tư của doanh nghiệp.
• Chính sách của Nhà nước: Doanh nghiệp là đối tượng quản lý của Nhà nước, là “tế
bào” của nền kinh tế xã hội. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải chịu sự điều tiết
đến từ rất nhiều các chính sách kinh tế và tài chính khác nhau mà Nhà nước ban hành (ví dụ
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thuế, chính sách tỷ giá, chính sách khuyến
khích đầu tư...). Việc Nhà nước ban hành mới hoặc điều chỉnh các chính sách sẵn có, bên

6
cạnh việc ảnh hưởng tới chất lượng các mặt hoạt động hiện tại của doanh nghiệp (hoạt động
sản xuất, hoạt động bán hàng, hoạt động xuất nhập khẩu...), nó còn làm xuất hiện những thời
cơ và chướng ngại mới, “thử thách” khả năng “thay đổi để thích nghi” của doanh nghiệp. Do
đó, việc nắm bắt nhanh nhạy các chính sách quản lý của Nhà nước là một trong các tiền đề
quan trọng góp phần định hướng đúng đắn cho sự phát triển của doanh nghiệp.
• Tình trạng của nền kinh tế: Đây chính là bối cảnh hoạt động cụ thể doanh nghiệp.
Một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng sẽ có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư
phát triển. Ngược lại, trong nền kinh tế suy thoái, không những khó có thể tìm được cơ hội tốt
để đầu tư, doanh nhiệp còn phải đối mặt với rất nhiều áp lực tới từ việc tiêu thụ đình đốn, giảm
quy mô kinh doanh, thu nợ khó khăn.
• Lãi suất thị trường: Một mặt, lãi suất thị trường ảnh hưởng tới chi phí vốn, từ đó,
tác động đến khả năng huy động vốn cũng như khả năng tiếp cận các cơ hội đầu tư mới của
doanh nghiệp. Mặt khác, lãi suất thị trường còn ảnh hưởng đến tình hình doanh nghiệp thực
hiện các dự án sẵn có của mình, cụ thể: Khi lãi suất thị trường tăng cao, ngoài việc chi phí lãi
vay tăng lên làm giảm lợi nhuận, người ta còn có xu hướng tiêu dùng ít đi và tiết kiệm nhiều
hơn, điều đó tác động tiêu cực đến việc doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
• Lạm phát: Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao, giá cả yếu tố đầu vào và đầu
ra đều tăng, gây khó khăn cho cả hai khâu mua sắm vật tư và tiêu thụ sản phẩm, khiến tình
hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xấu đi. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát cao còn đẩy
nhu cầu vốn kinh doanh tăng lên, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư ban đầu của doanh nghiệp.
• Mức độ cạnh tranh trong ngành: Doanh nghiệp, với sức ép của thị trường cạnh
tranh, phải chuyển dần từ chiến lược trọng cung cổ điển sang chiến lược trọng cầu hiện đại.
Ngày nay, trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải thường xuyên cân nhắc đến các đòi
hỏi ngày càng cao của khách hàng về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch
vụ… nhằm kịp thời đưa ra các cải cách, đổi mới trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
nhằm đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả và chất lượng cao… Thực tế đã
chỉ ra rằng: Càng những ngành, những lĩnh vực có mức độ cạnh tranh cao, doanh nghiệp càng
cần phải đầu tư nhiều hơn và thường xuyên hơn cho việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ
(giúp nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm), cho việc quảng cáo, tiếp thị (giúp thúc
đẩy tiêu thụ hàng hóa)...
• Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Hoạt động của doanh
nghiệp gắn liền với thị trường tài chính và các trung gian tài chính. Sự phát triển của thị
trường tài chính làm đa dạng hóa không chỉ các công cụ và các phương thức huy động vốn,
mà còn cả các tài sản tài chính để doanh nghiệp có thể tạm thời đầu tư số tiền nhàn rỗi với hy
vọng gia tăng mức sinh lời của đồng vốn. Sự lớn mạnh của các trung gian tài chính sẽ cung
cấp các dịch vụ tài chính ngày càng chất lượng và phong phú hơn cho doanh nghiệp. Ngoài
ra, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trung gian tài chính còn tạo điều kiện tốt hơn cho doanh
nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng các nguồn vốn tín dụng với chi phí rẻ.
Tóm lại, môi trường hoạt động của doanh nghiệp là một môi trường cực kỳ phức tạp và
luôn luôn biến động, nên, khi xem xét các tác động của môi trường hoạt động, cần phải có
quan điểm “động”– tức là phải thấy được xu thế vận động của từng nhân tố cụ thể (như: sự
phát triển của công nghệ trong tương lai, các chính sách kinh tế và tài chính sắp tới, các thay
đổi về cơ sở hạ tầng, xu thế phát triển của nền kinh tế, chiều hướng biến động của lãi suất thị

7
trường, tỷ lệ lạm phát, sự gia tăng mức độ cạnh tranh…). Hơn nữa, còn phải xem xét chúng
trên quan điểm “mở”, tức là, phải xem xét các vấn đề này ở cả quy mô khu vực và quốc tế.
Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, những biến động lớn về kinh tế trong
khu vực và trên thế giới sẽ rất mau lẹ ảnh hưởng đến nền kinh tế và hoạt động kinh doanh tại
một quốc gia.
Có thể nói, tất cả các thay đổi ở môi trường kinh doanh đều nhanh chóng ảnh hưởng tới
các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Vì vậy để phát triển, từng doanh nghiệp phải dự đoán
được các thay đổi của môi trường, làm chủ được tình thế, từ đó có các hướng đầu tư mới; có
các cách tiếp cận và huy động vốn mới; chi thỏa đáng hơn cho đổi mới công nghệ, quảng cáo,
tư vấn, mở rộng thị trường…; và trên hết là tổ chức được các hoạt động tài chính phù hợp,
khai thác tốt nhất các điều kiện hiện có, cũng như tận dụng tối đa các vận hội mới trong
tương lai. Có như vậy mới thực sự tạo ra một doanh nghiệp vững mạnh, làm ăn luôn đạt hiệu
quả cao và phát triển không ngừng.

1.2. Khái niệm tài chính doanh nghiệp


Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với
các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu bao gồm:
• Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Thể hiện rõ nhất ở chỗ mọi doanh nghiệp đều phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính
đối với Nhà nước, như nộp các khoản thuế, phí, lệ phí vào ngân sách… Đây là phần lợi ích cơ
bản doanh nghiệp mang lại cho nhà nước, là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước, tuy
nhiên, các khoản tiền này lại làm tăng gánh nặng tài chính của doanh nghiệp. Bù lại, nhà
nước thực hiện các hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô; hỗ trợ và tạo điều kiện cho sự tồn tại và
phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.
Đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp
công ích, nhà nước còn là người đầu tư vốn ban đầu, hoặc cấp vốn bổ sung cho doanh
nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau.
• Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
Trọng tâm của mối quan hệ này tập trung ở phương diện doanh nghiệp tìm kiếm các
nguồn tài trợ. Thông qua thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng
các nhu cầu vốn tạm thời; nhưng cũng có thể nhờ thị trường này để vay dài hạn, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu để đáp ứng các nhu cầu vốn thường xuyên. Có thể nói, mối quan hệ này ảnh
hưởng trực tiếp tới việc tạo vốn và bổ sung vốn đáp ứng các nhu cầu đầu tư khác nhau của
doanh nghiệp, và đây chính là mối quan hệ tài chính cơ sở nhất, đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển của rất nhiều mối quan hệ tài chính doanh nghiệp khác (như quan hệ tài
chính về thanh toán tiền hàng giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp hoặc với khách hàng, quan
hệ về thuế với Nhà nước...). Biểu hiện chủ yếu của quan hệ này là các dòng tiền đi vào doanh
nghiệp khi doanh nghiệp chuẩn bị triển khai đầu tư hoặc mở rộng, nâng cấp các dự án của
mình; nhưng sau đó, đến từng thời điểm nhất định, doanh nghiệp phải hoàn trả gốc vay và lãi
vay cho ngân hàng; thanh toán trái tức và mệnh giá trái phiếu cho trái chủ; trả lãi cổ phần cho
các cổ đông. Chính các dòng tiền đi ra tại các thời điểm sau này này đã buộc doanh nghiệp
phải sử dụng có hiệu quả và thật tiết kiệm các dòng tiền vào lúc trước huy động được từ thị
trường tài chính.

8
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể gửi các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng,
có thể tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu bằng các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng – từ đó
giúp tiết kiệm chi phí cơ hội của tiền mặt tồn quỹ, nâng cao suất sinh lợi của đồng vốn.
• Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường khác
Ngoài thị trường tài chính, quá trình hoạt động của doanh nghiệp còn gắn bó chặt
chẽ với các thị trường khác như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đó
chính là những thị trường mà tại đó, doanh nghiệp tiến hành mua sắm nguyên nhiên vật liệu,
máy móc, thiết bị, thuê dịch vụ tư vấn, tìm kiếm lao động… hoặc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Đặc biệt, thông qua thị trường sản phẩm, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng
hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư,
kế hoạch sản xuất, tiêu thụ nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường.
Các quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các thị trường này được thể hiện trong
việc thanh toán, thưởng phạt vật chất khi doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác cung cấp
hàng hóa, dịch vụ cho nhau. Một điểm cần lưu ý là thông thường, đi kèm với các quan hệ tài
chính này là sự hình thành của các dòng vật chất và dòng tiền đối trọng.
• Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ thanh toán giữa các bộ phận nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động
kinh doanh, trong việc hình thành và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp, cũng như khi phân
phối kết quả kinh doanh và thực hiện hạch toán nội bộ doanh nghiệp.

1.3. Cơ sở tài chính doanh nghiệp và các dòng tiền


Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp về bản chất chính là quá trình kết
hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu... và sức lao động để tạo ra
yếu tố đầu ra là hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa đó để thu lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, để có được các yếu tố đầu vào, doanh nghiệp tìm đến các
nhà cung cấp tương ứng, khi ấy, các hoạt động trao đổi sẽ diễn ra, doanh nghiệp trả tiền cho
nhà cung cấp để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ đầu vào (đây chính là những hàng hóa, dịch vụ
được doanh nghiệp mua sắm để sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh). Khi đã có đầy
đủ tổ hợp cần thiết các yếu tố đầu vào, doanh nghiệp sẽ thực hiện bước tiếp theo là tiến hành
sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các hàng hóa, dịch vụ đầu vào sẽ được kết hợp lại với
nhau, để tạo ra các hàng hóa, dịch vụ đầu ra (đó chính là các hàng hóa, dịch vụ có ích mà có
thể được tiêu dùng hoặc được sử dụng cho một quá trình sản xuất kinh doanh khác). Khi các
yếu tố đầu ra được hình thành, doanh nghiệp sẽ tiến hành tiêu thụ các sản phẩm đầu ra ấy.
Một hoạt động tiêu thụ diễn ra, kết quả là doanh nghiệp thu về một lượng tiền đồng thời với
việc doanh nghiệp chuyển giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ cho người mua.
Như vậy, có thể thấy, mọi hoạt động trao đổi của doanh nghiệp đều được thực hiện
thông qua trung gian là tiền, và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó. ‘Dòng’
(bao gồm dòng vật chất và dòng tiền) được hiểu là sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ (dòng
vật chất) và sự dịch chuyển tiền (dòng tiền) giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Thông thường, ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hóa, dịch vụ đầu vào) là dòng tiền đi
ra, và ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hóa, dịch vụ đầu ra) là dòng tiền đi
vào. Quy trình này được mô tả qua sơ đồ sau:

9
Dòng vật chất Dòng tiền đi ra
Nhà cung cấp
đi vào (xuất quỹ)

Doanh nghiệp
SẢN XUẤT- CHUYỂN HÓA

Dòng tiền đi vào


Dòng vật chất đi ra Khách hàng
(nhập quỹ)

Nhận xét: Dòng chính là hệ quả phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp. Trên
thực tế, để tiến hành được các hoạt động trong kỳ của mình, mọi doanh nghiệp đều phải có
trước đó một lượng tài sản dự trữ (ví dụ: để mua sắm thì phải có tiền, để tiến hành sản xuất
thì phải có vật tư, máy móc, thiết bị, để bán hàng thì phải có sản phẩm hàng hóa). Một khối
lượng tài sản (hàng hóa hoặc tiền) được đo tại một thời điểm, gọi là một khoản dự trữ. Dự
trữ chính là tiền đề để doanh nghiệp tổ chức nên các hoạt động trong kỳ của mình, trong đó,
có các hoạt động trao đổi (mua hoặc bán hàng hóa, dịch vụ), và khi các hoạt động trao đổi
diễn ra, tất yếu sẽ xuất hiện các dòng (dòng vật chất và dòng tiền).
Do đó, có thể thấy, dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích lũy ban đầu những hàng hóa hoặc
tiền trong mỗi doanh nghiệp, và nó sẽ làm thay đổi khối lượng tích lũy của loại tài sản ấy (ví
dụ: dòng tiền đi ra làm giảm quy mô tiền tích lũy của doanh nghiệp, trong khi, dòng vật tư đi
vào lại làm tăng quy mô dự trữ vật tư...). Mối quan hệ nói trên chính là cơ sở của tài chính
doanh nghiệp.
Cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp chính là mối quan hệ giữa dòng (dòng
vật chất, dòng tiền) và dự trữ.
Trong quá trình nghiên cứu học thuật và quản lý thực tiễn, dựa trên tiêu chí về bản chất,
người ta tiến hành phân chia dòng tiền ra thành hai loại cơ bản là: dòng tiền đối trọng và
dòng tiền độc lập.
• Dòng tiền đối trọng: là dòng tiền mà sự xuất hiện của nó luôn luôn kéo theo sự hình
thành của ít nhất một dòng vật chất khác vận động theo chiều ngược lại. Dòng tiền đối trọng
bao gồm các loại cơ bản sau:
o Dòng tiền đối trọng trực tiếp: là dòng tiền mà sự xuất hiện của nó diễn ra đồng thời
với sự xuất hiện của một dòng hàng hóa, dịch vụ khác vận động theo chiều ngược lại. Đây là
trường hợp đơn giản nhất trong hoạt động trao đổi của doanh nghiệp – thanh toán ngay.
Chẳng hạn, tại thời điểm T0, doanh nghiệp A bán hàng cho khách hàng B, việc thanh toán
tiền hàng được thực hiện gần như cùng lúc với hoạt động giao hàng. Như vậy, khi hoạt động
trao đổi trên diễn ra, một dòng tiền đi từ khách hàng B sang doanh nghiệp A được hình thành
đồng thời với một dòng vật chất vận động theo chiều ngược lại (đi từ doanh nghiệp A sang
khách hàng B). Dòng tiền đi từ B sang A như thế được gọi là dòng tiền đối trọng trực tiếp.
o Dòng tiền đối trọng có kỳ hạn: là dòng tiền mà thời điểm xuất hiện của nó bị lệch
pha một kỳ hạn nhất định so với thời điểm xuất hiện của dòng vật chất đối trọng tương ứng.

10
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các hoạt động trao đổi của doanh nghiệp. Chẳng hạn,
doanh nghiệp A bán hàng cho khách hàng B, việc giao hàng được thực hiện ở thời điểm T1.
Nhưng, khách hàng B không trả tiền ngay cho doanh nghiệp A ở thời điểm T1 đó, việc thanh
toán lại được diễn ra ở thời điểm T2 sau đấy. Dòng tiền xuất hiện tại thời điểm T2 đi từ khách
hàng B sang doanh nghiệp A tương ứng với dòng hàng hóa, dịch vụ đi từ doanh nghiệp A đến
khách hàng B ở thời điểm T1, dòng tiền ấy được gọi là dòng tiền đối trọng có kỳ hạn. Trong
khoảng thời gian từ thời điểm T1 đến thời điểm T2, trạng thái cân bằng dự trữ của doanh
nghiệp A và khách hàng B đều bị phá vỡ. Trạng thái cân bằng được lập lại thông qua việc tạo
ra một trái quyền (hay quyền đòi nợ) hoặc một khoản nợ. Trong ví dụ này, dự trữ hàng hóa
của doanh nghiệp A bị giảm đi, nhưng bù lại, họ có một trái quyền (quyền đòi nợ) đối với
khách hàng B trong suốt quãng thời gian từ T1 đến T2, và trái quyền này sẽ biến mất khi
dòng tiền thanh toán đi từ khách hàng B về doanh nghiệp A xuất hiện tại thời điểm T2. Đối
với khách hàng B, việc nhận được hàng hóa từ doanh nghiệp A đã làm phát sinh một khoản
nợ; tương tự như trái quyền ở doanh nghiệp A, khoản nợ này của khách hàng B chỉ mất đi khi
khách hàng B chuyển tiền thanh toán cho doanh nghiệp A tại thời điểm T2.
o Dòng tiển đối trọng đa dạng: là những dòng tiền xuất hiện trong các trường hợp
doanh nghiệp bán chịu, rồi sử dụng các trái quyền (quyền đòi nợ) tạo ra để chiết khấu,
nhượng bán cho một tổ chức tài chính trung gian, hoặc thế chấp cho một món vay. Đây là
một hiện trượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường, và có vai trò quan trọng trong việc
giúp doanh nghiệp khắc phục được sự mất cân đối ngân quỹ, đảm bảo khả năng chi trả của
doanh nghiệp.
• Dòng tiền độc lập: là dòng tiền mà sự xuất hiện của nó không trực tiếp kéo theo sự
hình thành của dòng vật chất khác. Đây chính là dòng tiền phát sinh từ các nghiệp vụ tài
chính thuần túy của doanh nghiệp như: vay vốn ngân hàng, đầu tư chứng khoán, góp vốn liên
doanh liên kết.
Có thể nói, sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tất yếu sẽ làm phát sinh một
hệ thống các dòng hàng hóa, dịch vụ và các dòng tiền. Các dòng này khi hình thành sẽ làm
thay đổi quy mô và cơ cấu của các tài sản thực (hàng hóa và tiền) cũng như tài sản tài chính
(trái quyền) và nợ của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở nền tảng của tài chính doanh nghiệp.

1.4. Các nội dung cơ bản về quản lý tài chính doanh nghiệp
Như đã phân tích lúc trước, tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị
giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Trong thực tiễn hoạt động của doanh
nghiệp, các mối quan hệ này phát sinh rất đa dạng và phức tạp. Nếu như doanh nghiệp của
chúng ta bỏ mặc hoặc không quan tâm đầy đủ đến các mối quan hệ tài chính ấy, để cho chúng
tự do hình thành, tự do phát triển, điều này sẽ gây ra những ảnh hưởng rất tiêu cực đến sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là trong dài hạn. Doanh nghiệp muốn phát triển
bền vững, và thỏa mãn được yêu cầu của các chủ sở hữu, nhất thiết phải quản lý được thật tốt
các mối quan hệ tài chính doanh nghiệp của mình, định hướng cho sự hình thành và phát triển
của chúng phù hợp với từng điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Từ đấy, nảy sinh ra công tác
“Quản lý tài chính”.
Quản lý tài chính được hiểu là sự tác động có chủ đích của nhà quản lý tới các quan
hệ tài chính của doanh nghiệp. Quản lý tài chính được thực hiện thông qua một cơ chế. Đó
là cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp được hiểu là
11
tổng thể các phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng để quản lý các quan hệ
tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm: cơ chế quản lý
tài sản; cơ chế huy động vốn; cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận; cơ chế kiểm
soát tài chính của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua
việc giải quyết ba vấn đề quan trọng sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại
hình sản xuất kinh doanh của mình?
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư mà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào?
Thứ ba, doanh nghiệp nên quản lý các hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào (ví
dụ: việc thu tiền từ khách hàng và trả tiền cho nhà cung cấp)?
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp, nhưng chúng
chính là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Việc nghiên cứu tài chính doanh nghiệp chính
là để tìm ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Vấn đề thứ nhất liên quan đến công tác quản lý đầu tư dài hạn trong tổng thể các hoạt
động quản lý tài chính của doanh nghiệp. Hệ quả của việc giải quyết vấn đề thứ nhất chính là
các quyết định được đưa ra liên quan tới việc lựa chọn các dự án đầu tư, việc mua sắm mới
máy móc, thiết bị, thay thế dây chuyền sản xuất cũ bằng dây chuyền sản xuất mới, đầu tư nhà
xưởng... Từ đó, có thể thấy, vấn đề thứ nhất này liên quan đến sự hoạt động của doanh nghiệp
trong dài hạn. Việc giải quyết tốt vấn đề ấy sẽ góp phần tạo ra nền móng vững chắc cho sự
phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
Vấn đề thứ hai liên quan đến công tác quản lý về huy động vốn. Thực chất của vấn đề
này chính là việc doanh nghiệp nghiên cứu tìm hiểu xem: để có đủ số vốn cần thiết đáp ứng
các nhu cầu đầu tư của mình, doanh nghiệp nên tìm đến các nguồn tài trợ nào, sử dụng
phương thức và công cụ huy động vốn gì, cụ thể như: vay nợ ngân hàng hay huy động chủ sở
hữu góp thêm vốn, phát hành trái phiếu hay phát hành cổ phiếu, mua hay thuê tài sản, quan
hệ cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu như thế nào là hợp lý... Yêu cầu đối với việc giải quyết
vấn đề thứ hai, hay nói cách khác là yêu cầu đối với công tác quản lý về huy động vốn của
doanh nghiệp, đó là phải tạo lập được cho doanh nghiệp một lượng vốn vừa đủ để đáp ứng nhu
cầu đầu tư, đồng thời, số vốn ấy lại phải có chi phí rẻ nhất có thể, cùng với các điều khoản đi
kèm có lợi cho doanh nghiệp.
Vấn đề thứ ba liên quan đến công tác quản lý tài sản lưu động. Giải quyết vấn đề thứ
ba này đòi hỏi doanh nghiệp phải làm rõ được các vấn đề cụ thể sau: Doanh nghiệp nên nắm
giữ bao nhiêu tiền và dự trữ (vật tư, hàng hóa)? Doanh nghiệp có nên bán chịu không? Nếu
bán chịu thì nên bán với thời hạn ra sao? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay? Nếu
vay ngắn hạn thì doanh nghiệp nên vay ở đâu và nên vay như thế nào?... Trên thực tế, vấn đề
thứ ba này gắn liền với các dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ xuất hiện hàng ngày
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Việc xử lý tốt vấn đề thứ ba, hay, việc quản lý
tài sản lưu động được tổ chức thực hiện có chất lượng, sẽ tạo ra tiền đề vững chắc cho sự tồn
tại của doanh nghiệp trong ngắn hạn, vì khi đó các nhu cầu chi tiêu thường nhật đều được đáp
ứng, khả năng chi trả của doanh nghiệp cũng được đảm bảo.

12
1.5. Mục tiêu quản lý tài chính doanh nghiệp
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu
ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, đảm bảo phúc lợi cho người lao động…, song tất cả
các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm tới mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho
các chủ sở hữu. Bởi lẽ, một doanh nghiệp phải thuộc về các chủ sở hữu nhất định, các chủ sở
hữu luôn mong muốn được nhìn thấy giá trị đầu tư của họ tăng lên. Bên cạnh đó, việc doanh
nghiệp đặt ra mục tiêu “gia tăng giá trị tài sản cho những người chủ sở hữu”, cũng có nghĩa là
doanh nghiệp phải tiến hành cân nhắc, đánh giá sự tác động của yếu tố thời gian, rủi ro và rất
nhiều các yếu tố phức tạp khác lên quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói
cách khác, để đạt được mục tiêu “tối đa hóa giá trị tài sản cho các chủ sở hữu”, doanh nghiệp
cần xem xét quá trình kinh doanh của mình trong mối quan hệ với rất nhiều các vấn đề khác
nhau xuất hiện trong thực tiễn hoạt động.
Các quyết định tài chính trong doanh nghiệp như quyết định đầu tư, quyết định huy
động vốn, quyết định phân phối lợi nhuận, quyết định ngân quỹ... có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Trong quản lý tài chính, nhà quản lý cần phải cân nhắc tới các yếu tố bên trong và các
yếu tố bên ngoài để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp, nhằm gia tăng giá trị tài sản cho
các chủ sở hữu, đảm bảo lợi ích của các chủ sở hữu.
Suy ngẫm: Tại sao “Tối đa hóa lợi nhuận” không được xem là mục tiêu bao trùm nhất
của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp?
Tối đa hóa lợi nhuận hàm ý nhấn mạnh việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo
ra nhiều của cải vật chất hơn cho doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp
thường cố gắng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, song song với nỗ lực thúc đẩy tiêu
thụ, gia tăng doanh thu.
Hầu hết các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đều có mong muốn làm ra càng
nhiều lợi nhuận càng tốt. Tuy nhiên, việc sử dụng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận để định
hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp lại không phải là một công việc dễ dàng. Lý do là:
mục tiêu này chưa xem xét đến rất nhiều các yếu tố phức tạp xuất hiện trong quá trình tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp, ví dụ yếu tố thời gian và yếu tố rủi ro.
• Yếu tố thời gian
Giả định: Doanh nghiệp đang xem lựa chọn một trong hai dự án đầu tư A và B.
Thông tin về hai dự án này được trình bày trong bảng dưới đây:
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Lợi nhuận thu được hàng năm
Dự án đầu tư Tổng lợi nhuận
Năm 1 Năm 2
A 10 10 20
B 0 20,5 20,5
Nếu sử dụng “tối đa hóa lợi nhuận” làm tiêu chuẩn, dự án B sẽ được lựa chọn vì nó
tạo ra được tổng lợi nhuận cao hơn dự án A.
Tuy nhiên, việc lựa chọn như vậy chưa chắc đã tốt cho doanh nghiệp. Chẳng hạn,
nếu 10 tỷ đồng lợi nhuận thu được sau năm thứ nhất của dự án A lại được đem đi đầu tư vào
một nơi khác, giả dụ: gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng và được hưởng một mức lãi suất tiền
gửi là 10%/năm. Như vậy, việc thực hiện dự án A và gửi tiết kiệm ngân hàng khoản lợi nhuận

13
nhận được sau năm thứ nhất sẽ mang lại cho doanh nghiệp một mức tổng lợi nhuận là 20 +
10*10% = 21 tỷ đồng, lớn hơn so với con số 20,5 tỷ của dự án B.
Qua ví dụ trên, ta thấy: yếu tố thời gian của lợi nhuận là một yếu tố quan trọng cần
phải được xem xét trong quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Tuy nhiên, mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận lại bỏ qua yếu tố này.
• Yếu tố rủi ro
Theo cách nói trong đời sống thường nhật, rủi ro là khả năng xảy ra một biến cố xấu.
Trong đó, biến cố xấu chính là những điều “tồi tệ” mà chúng ta không bao giờ mong muốn
nó xảy ra. Trong kinh doanh, rủi ro lại được sử dụng với ý nghĩa như là sự không chắn chắn ở
thời điểm hiện tại về kết quả kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp trong tương lai.
Giả định: Doanh nghiệp đang xem xét lựa chọn một trong hai khoản đầu tư A và B.
Hai khoản đầu tư này đòi hỏi cùng một quy mô vốn đầu tư ban đầu và có cùng thời hạn đầu
tư là 1 năm. Thông tin về lợi nhuận thu được sau 1 năm đầu tư ứng với từng trạng thái khác
nhau của nền kinh tế của hai khoản đầu tư này được trình bày trong bảng dưới đây:
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Tình trạng của Xác suất Lợi nhuận thu được
nền kinh tế xảy ra Khoản đầu tư A Khoản đầu tư B
Suy thoái 0,2 100 200
Ổn định 0,5 150 220
Tăng trưởng 0,3 300 240
Nhìn vào bảng trên, ta thấy: 300 tỷ là mức lợi nhuận tối đa mà doanh nghiệp có thể
nhận được. Để thu được mức lợi nhuận ấy, đòi hỏi doanh nghiệp phải lựa chọn khoản đầu tư
A, và nền kinh tế phải ở trong điều kiện tăng trưởng. Tuy nhiên, do xác suất xảy trường hợp
nền kinh tế tăng trưởng chỉ là 0,3, thế nên, ngay cả khi đã lựa chọn khoản đầu tư A thì vẫn có
một khả năng cao là doanh nghiệp sẽ không thu về được 300 tỷ lợi nhuận mong đợi ấy. Thậm
chí, trong các điều kiện còn lại của nền kinh tế, khoản đầu tư A đều mang lại ít lợi nhuận hơn
cho doanh nghiệp so với khoản đầu tư B.
Trong thực tế, khi phải đối mặt với những lựa chọn kiểu như trong ví dụ vừa trên, rất
nhiều doanh nghiệp sẽ bỏ qua phương án có khả năng mang lại lợi nhuận cao hơn để giảm
thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.

1.6. Vai trò quản lý tài chính doanh nghiệp


Quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong tổng thể các hoạt động quản
lý nói chung của doanh nghiệp. Quản lý tài chính quyết định tính độc lập, sự thành bại của
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế,
trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, quản lý tài chính
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một quyết định tài chính không được cân nhắc,
hoạch định kỹ lưỡng (do sự tắc trách của công tác quản lý tài chính) có thể gây nên những tổn
thất khôn lường cho doanh nghiệp. Dưới đây là những tác dụng cơ bản của việc quản lý tài
chính có hiệu quả tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp:
• Đảm bảo đủ nguồn tài chính trang trải cho các hoạt động của doanh nghiệp:
Trong điều kiện công tác quản lý tài chính được thực hiện tốt, doanh nghiệp sẽ luôn luôn ở
trong trạng thái có đủ tiền để không chỉ kịp thời thanh toán các món nợ đến hạn, chi trả các

14
nhu cầu chi tiêu (chi lương, chi mua vật tư, chi dịch vụ mua ngoài...) mà còn có đủ tiền để
đáp ứng các nhu cầu đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
• Giúp doanh nghiệp huy động được những đồng vốn có chi phí rẻ cùng với nhiều
điều kiện ưu đãi: Nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo điều kiện cho sự đa dạng hóa các
kênh huy động vốn của doanh nghiệp. Nhờ hoạt động quản lý tài chính có chất lượng, doanh
nghiệp sẽ có thể lựa chọn được từ rất nhiều các kênh huy động vốn khác nhau một hoặc một
số kênh huy động vốn, mà chúng thực sự thích hợp với điều kiện cụ thể hiện tại của doanh
nghiệp (từ các vấn đề về chi phí vốn, thời hạn thanh toán vốn gốc, phương thức thanh toán
vốn gốc cho đến các vấn đề về mức độ can thiệp của người cung cấp vốn, việc chi trả lợi
tức...).
• Đảm bảo tỷ suất sinh lời cao cho các đồng vốn mà doanh nghiệp đang nắm giữ:
Để được đánh giá là tốt, công tác quản lý tài chính cần phải đảm bảo rằng các đồng vốn của
doanh nghiệp hiện đang được sử dụng một cách khôn ngoan nhất, tức là, tất cả chúng đều
đang được đầu tư vào các dự án sinh lãi, và không một đồng vốn nào bị để lãng phí cả.
• Khắc phục được những khiếm khuyết mà doanh nghiệp mắc phải với những
hoạt động khác: Quản lý tài chính là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với mọi hoạt động
khác của doanh nghiệp. Quản lý tài chính tốt sẽ hạn chế, thậm chí là bù đắp được những khuyết
điểm mà doanh nghiệp mắc phải trong các công tác khác. Ví dụ: Việc tiêu thụ đầu ra của một
dự án sản xuất kinh doanh không thuận lợi như dự kiến ban đầu hoàn toàn có thể không ảnh
hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động sau cùng của doanh nghiệp nếu trước đó, số vốn để đầu tư dự
án được huy động với chi phí rất rẻ.
Ngoài ra, do mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân, mỗi tế bào tốt sẽ
cho ra một cơ thể khỏe mạnh, thế nên, quản lý tài chính trong các doanh nghiệp mà tốt, sẽ có
ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính chung quốc gia.

1.7. Các nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp


• Nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận
Theo cách nói thông thường trong đời sống thường nhật, rủi ro là khả năng xảy ra
một biến cố xấu. Trong đó, biến cố xấu chính là những điều “tồi tệ” mà chúng ta không bao
giờ mong muốn nó xảy ra. Trong kinh doanh, rủi ro lại được sử dụng với ý nghĩa như là sự
không chắn chắn ở thời điểm hiện tại về kết quả kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp
trong tương lai. Trong tài chính, rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt giữa lợi nhuận thực tế
so với lợi nhuận kỳ vọng.
Lợi nhuận là thuật ngữ tài chính được sử dụng để phản ánh các khoản thu nhập hay
lợi ích kinh tế ròng mà một chủ thể kiếm được từ một hoạt động đầu tư. Thông thường, người
ta ưa thích việc đo lường lợi nhuận dưới dạng đơn vị phần trăm (tỷ suất lợi nhuận) thay vì
dùng đơn vị tuyệt đối, bởi cách đo lường theo đơn vị phần trăm đã loại bỏ được ảnh hưởng
của quy mô đầu tư lên chỉ tiêu lợi nhuận, từ đó, cho phép đánh giá được hiệu quả thực sự của
một khoản đầu tư.
Trong thực tiễn, các nhà đầu tư thường rất lưu tâm đến yếu tố rủi ro của một khoản
đầu tư. Thông thường, họ sẽ chỉ chấp nhận đầu tư vào các dự án có mức độ rủi ro cao khi họ
trông thấy được cơ hội về việc sẽ thu được một mức lợi nhuận cao hơn so với bình thường từ
việc đầu tư đó. Phần lợi nhuận tăng thêm này chính là phần thưởng cho việc nhà đầu tư đã

15
dám đương đầu với rủi ro. Trong trường hợp, phần lợi nhuận tăng thêm không đủ hấp dẫn,
các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ qua các khoản đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận lớn nhưng
có rủi ro cao, để lựa chọn một khoản đầu tư khác có lợi nhuận thấp hơn nhưng rủi ro ít hơn
nhằm đảm bảo sự an toàn, chắc chắn và ổn định cho hoạt động của mình.
Như vậy, có thể thấy, giữa rủi ro của một khoản đầu tư và lợi nhuận kỳ vọng có mối
quan hệ thuận chiều với nhau. Nói cách khác, rủi ro của một khoản đầu tư càng cao thì lợi
nhuận mà nhà đầu tư kỳ vọng, mong đợi thu được từ khoản đầu tư đó cũng càng lớn, và
ngược lại.
Quản lý tài chính phải được dựa trên mối quan hệ như vậy giữa rủi ro và lợi nhuận.
Nhà đầu tư có thể lựa chọn các phương án đầu tư khác nhau tùy thuộc vào mức độ rủi ro mà
họ chấp nhận và lợi nhuận kỳ vọng mà họ mong muốn. Khi họ bỏ tiền vào những dự án có
mức độ rủi ro cao, họ hy vọng dự án sẽ đem lại một mức lợi nhuận lớn.
Cần lưu ý rằng: Việc đầu tư vào một dự án nhiều rủi ro không đồng nghĩa với việc
sẽ thu về được một mức lợi nhuận lớn (chỉ là có khả năng thôi). Trong thực tế, có vô vàn các
ví dụ minh chứng cho nhận định này. Điển hình cho sự thành công là việc xây dựng kênh đào
Panama của các công ty Mỹ (Trước đó, công ty Wyse của Pháp đã phải bỏ dở công việc.
Việc tiếp nối công việc này tiềm ẩn nhiều rủi ro: chưa kể tới khoản đầu tư khổng lồ trên 400
triệu USD theo thời giá lúc đó, địa chất phức tạp, khí hậu khắc nghiệt…, chỉ cần tính riêng về
lao động, đã có hàng nghìn người chết vì tai nạn lao động), sự “chấp nhận mạo hiểm, dám
đương đầu với rủi ro và thành công” đã mang về cho các nhà đầu tư Mỹ những món lợi
nhuận khổng lồ. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều các ví dụ về sự thất bại, ví dụ sự cố vỡ hồ
chứa bùn đỏ của nhà máy bauxite Ajka (Hungary) gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
Vận dụng nguyên tắc “Đánh đổi rủi ro và lợi nhuận” vào quản trị doanh nghiệp đòi
hỏi nhà tài chính phải quán triệt được hai vấn đề cơ bản sau:
- Nếu hai cơ hội đầu tư có mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng như nhau, thì doanh nghiệp
nên chọn cơ hội đầu tư có rủi ro thấp hơn.
- Nếu hai cơ hội đầu tư có mức độ rủi ro như nhau, thì doanh nghiệp nên chọn cơ hội
đầu tư có tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn.
Ví dụ: Doanh nghiệp hiện đang xem xét hai cơ hội đầu tư với các thông tin liên quan
được trình bày ở bảng dưới đây:

Tình trạng của Xác suất Tỷ suất sinh lời


nền kinh tế xảy ra Khoản đầu tư A Khoản đầu tư B
Suy thoái 0,2 13% 4%
Ổn định 0,5 15% 15%
Tăng trưởng 0,3 17% 23%
Áp dụng công thức xác định tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của một khoản đầu tư:
E(R) = ∑ Ri * Pi
Trong đó: E(R) là tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư.
Ri là tỷ suất lợi nhuận ứng với biến cố i.
Pi là xác suất xảy ra biến cố i.
Ta có:
Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư A là:

16
E(R)A = 13%*0,2 + 15%*0,5 + 17%*0,3 = 15,2%
Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư B là:
E(R)B = 4%*0,2 + 15%*0,5 + 23%*0,3 = 15,2%
Như vậy, hai khoản đầu tư A và B có cùng mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng, thế nên,
để có thể ra được quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần đánh giá xem trong hai khoản đầu tư
này, khoản đầu tư nào có mức độ rủi ro thấp hơn để lựa chọn, và để làm được điều đó, trước
hết, doanh nghiệp cần đo lường được mức độ rủi ro của hai khoản đầu tư đang cân nhắc.
Trong tài chính, rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so với
lợi nhuận kỳ vọng. Lợi nhuận thực tế càng sai biệt so với lợi nhuận kỳ vọng, người ta nói
rằng rủi ro càng cao và ngược lại. Đo lường rủi ro của một khoản đầu tư thực chất chính là đi
đo lường sự sai biệt ấy, và các thước đo được sử dụng ở đây chính là phương sai, độ lệch
chuẩn và hệ số biến đổi. Công thức của các thước đo vừa nêu như sau:
Phương sai (σ2) = ∑ [Ri – E(R)]2 * Pi
Độ lệch chuẩn (σ) = √∑ [Ri – E(R)]2 ∗ Pi
Hệ số biến đổi (CV) = σ / E(R)
Trong đó: E(R) là tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư.
Ri là tỷ suất lợi nhuận ứng với biến cố i.
Pi là xác suất xảy ra biến cố i.
Áp dụng các công thức trên, ta có:
- Với khoản đầu tư A:
σ2 = (0,13 – 0,152)2 * 0,2 + (0,15 – 0,152)2 * 0,5 + (0,17 – 0,152)2 * 0,3
= 0,000196
σ = 0,014
- Với khoản đầu tư B:
σ2 = (0,04 – 0,152)2 * 0,2 + (0,15 – 0,152)2 * 0,5 + (0,23 – 0,152)2 * 0,3
= 0,004336
σ = 0,065848
Ta thấy: Phương sai (σ2) và độ lệch chuẩn (σ) của tỷ suất lợi nhuận của khoản đầu tư
B là lớn hơn so với khoản đầu tư A. Điều này có ý nghĩa là sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so
với lợi nhuận kỳ vọng của khoản đầu tư B là rộng hơn. Kết luận: Khoản đầu tư B có mức độ
rủi ro cao hơn khoản đầu tư A.
Ghi nhớ: Trong điều kiện các khoản đầu tư có cùng mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng,
khoản đầu tư nào có độ lệch chuẩn càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn.
Tuy nhiên, trong trường hợp các khoản đầu tư có tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng rất khác
nhau, thì việc đơn thuần nhìn vào độ lệch chuẩn để đánh giá sẽ cho ra những kết luận không
chính xác. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta dùng chỉ tiêu hệ số biến đổi (CV –
Coefficient of Variation). Hệ số biến đổi (CV) là thước đo rủi ro trên mỗi đơn vị tỷ suất lợi
nhuận kỳ vọng và được xác định theo công thức CV = σ/E(R).
Ví dụ: Xem xét hai khoản đầu tư C và D dưới đây:
Khoản đầu tư C Khoản đầu tư D
Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng (E(R)) 0,08 0,24
Độ lệch chuẩn (σ) 0,06 0,08
Hệ số biến đổi (CV) 0,75 0,33

17
Nhìn vào độ lệch chuẩn, chúng ta thấy rằng độ lệch chuẩn của D lớn hơn C. Liệu có
thể kết luận rằng khoản đầu tư D rủi ro hơn C hay không? Nếu chỉ đơn thuần căn cứ vào độ
lệch chuẩn, có thể kết luận như vậy. Nhưng, vấn đề ở đây là cần so sánh xem tỷ suất lợi
nhuận kỳ vọng của hai khoản đầu tư này như thế nào với nhau? Vì tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng
là khác nhau, nên chúng ta sử dụng hệ số biến đổi (CV) để đánh giá: Khoản đầu tư C có CVC
= 0,06/0,08 = 0,75, trong khi khoản đầu tư D có CVD = 0,08/0,24 = 0,33. Như vậy, khoản đầu
tư C rủi ro hơn khoản đầu tư D.

• Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền


Giá trị của tiền không ngừng thay đổi theo thời gian. Cụ thể: giá trị của một đồng
ngày hôm nay luôn luôn lớn hơn giá trị của một đồng trong tương lai. Giá trị của tiền
không ngừng giảm xuống theo thời gian là do sự tác động của hai nhân tố: lạm phát và chi
phí cơ hội của việc nắm giữ tiền.
Thông thường, trong suốt vòng đời của một dự án đầu tư, có thể có sự xuất hiện của
rất nhiều các dòng tiền đi vào hoặc đi ra khỏi doanh nghiệp mà thời điểm phát sinh các dòng
tiền đó lại không đồng nhất với nhau. Việc ra các quyết định tài chính dựa thuần túy trên số
liệu tại thời điểm phát sinh của các món tiền ấy nhiều khả năng sẽ không mang lại lợi ích tối
đa cho doanh nghiệp.
Ví dụ: Doanh nghiệp đang xem xét một khoản đầu tư có thời hạn 1 năm, số vốn cần
thiết phải bỏ ra tại thời điểm đầu tiên là 100 triệu đồng, khoản đầu tư ấy nếu như được lựa
chọn sẽ mang lại cho doanh nghiệp số tiền là 105 triệu đồng vào thời điểm 1 năm sau. Nếu
doanh nghiệp đánh giá rằng: “Lợi ích nhận được là 105 triệu đồng, lớn hơn chi phí bỏ ra là
100 triệu đồng, dự án có lãi và nên được đầu tư.”, thì việc lựa chọn này chưa chắc đã thực sự
có lợi cho doanh nghiệp. Giả định: Lãi suất tiền gửi ngân hàng hiện tại là 10%/năm, thì rõ
ràng, gửi tiền vào ngân hàng sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp.
Trong quá trình xem xét, cân nhắc một dự án đầu tư, để đảm bảo chất lượng của kết
luận đánh giá, đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành quy đổi, đưa các khoản tiền phát sinh tại
các thời điểm khác nhau của dự án về cùng một thời điểm (thường là thời điểm hiện tại), rồi
sau đó, mới tiến hành tính toán giá trị lợi ích thu được cũng như giá trị chi phí bỏ ra trên cơ
sở số liệu sau quy đổi của các món tiền ấy. Các quyết định tài chính được rút ra sau những
công việc như vậy mới thực sự có ý nghĩa về mặt kinh tế và đảm bảo được cho sự đầu tư có
lãi của doanh nghiệp. Trong quá trình quy đổi giá trị của tiền theo thời gian, chi phí cơ hội
của vốn được sử dụng như là tỷ suất chiết khấu.
Tiếp nối ví dụ vừa trên: Chi phí cơ hội của vốn trong trường hợp này là 10%/năm
(chính là tỷ suất sinh lời mà doanh nghiệp có thể kiếm được từ việc gửi tiền vào ngân hàng).
Sử dụng 10% làm tỷ suất chiết khấu, ta có: Giá trị quy đổi về thời điểm hiện tại của khoản
tiền 105 triệu đồng có thể nhận được sau một năm là: 105 / (1 + 10%) = 95,45 triệu đồng, con
số này nhỏ hơn con số 100 triệu đồng chi phí phải bỏ ra ở thời điểm hiện tại. Như vậy, khoản
đầu tư đang xem xét là không có lãi và doanh nghiệp không nên đầu tư.
Trong điều kiện tỷ suất chiết khấu đã được xác định (giả định là k), giá trị của một
món tiền A bất kỳ theo thời gian sẽ biến đổi theo sơ đồ sau:

18
A
-n ... -2 -1 0 1 2 ... n

A/(1+k) A*(1+k)

A/(1+k)2 A*(1+k)2

A/(1+k)n A*(1+k)n

Ví dụ: Ông bạn cho bạn một món tiền. Bạn có thể lựa chọn một trong 3 cách nhận
tiền sau: (1) nhận 1.000 $ ngay bây giờ, (2) nhận 12.000$ vào thời điểm 12 tháng sau, (3)
nhận 25.000$ vào thời điểm 25 tháng sau. Giả sử bạn có thể kiếm được tỷ suất sinh lời là
11%/tháng trên số tiền nhận được. Hỏi: Bạn nên chọn cách nhận tiền nào? Tại sao?
Bài làm
Người đó có thể kiếm được tỷ suất sinh lời là 11%/tháng trên số tiền nhận được.
 chọn 11%/tháng làm tỷ suất chiết khấu để tính giá trị theo thời gian của các
món tiền mà người đó có thể nhận được.
Giá trị hiện tại của món tiền 12.000$ là: 12.000 / (1+11%)12 = 3.430,09 $
Giá trị hiện tại của món tiền 25.000$ là: 25.000 / (1+11%)25 = 1.840,20 $
→ chọn cách nhận tiền thứ 2.
1000$ 12.000$ 25.000$
0 1 2 ... 12 13 14 ... 25

3430,09$

1840,20$

Trong thực tế, do việc doanh nghiệp của chúng ta rất hiếm khi thu tiền hoặc chi tiền
ngay một lần toàn bộ, thay vào đó, các hoạt động thu chi thường diễn ra theo một “tiến độ”
nhất định, thế nên, sơ đồ dòng tiền mà doanh nghiệp hay phải đương đầu ít khi tồn tại dưới
dạng món tiền đơn như ở phần lý thuyết vừa trên, mà thường tồn tại dưới dạng một chuỗi tiền
tệ.
Chuỗi tiền tệ được hiểu là một tập hợp gồm nhiều món tiền đơn phát sinh tại những
thời điểm khác nhau theo trục thời gian nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giá trị
của chuỗi tiền tệ tại một thời điểm được định nghĩa là tổng giá trị tại thời điểm đó của tất cả
các món tiền đơn thuộc chuỗi. Trong nghiên cứu, người ta thường chia chuỗi tiền tệ ra thành
hai loại, là chuỗi tiền tệ cuối kỳ (chuỗi tiền tệ mà thời điểm phát sinh các món tiền đơn là ở
cuối mỗi kỳ) và chuỗi tiền tệ đầu kỳ (chuỗi tiền tệ mà thời điểm phát sinh các món tiền đơn là
ở đầu mỗi kỳ).
Hình vẽ dưới đây thể hiện giá trị hiện tại (Present value – PV) và giá trị tương lai
(Future value – FV) của chuỗi tiền tệ cuối kỳ:

19
A1 A2 A3 A4 ... An-2 An-1 An
0 1 2 3 4 ... n-2 n-1 n

A1/(1+k) A1*(1+k)n-1

A2/(1+k)2 A2*(1+k)n-2
………………………………………………………………………………………………………

An/(1+k)n An

PV = ∑ Ai / (1+k)i FV = ∑ Ai * (1+k)n-i

Hình vẽ dưới đây thể hiện giá trị hiện tại (Present value – PV) và giá trị tương lai
(Future value – FV) của chuỗi tiền tệ đầu kỳ:
A1 A2 A3 A4 ... An-2 An-1 An
0 1 2 3 ... n-3 n-2 n-1 n

A1 A1*(1+k)n

A2/(1+k) A2*(1+k)n-1
………………………………………………………………………………………………………

An/(1+k)n-1 An*(1+k)

PV = ∑ Ai / (1+k)i-1 FV = ∑ Ai * (1+k)n+1-i

Trong trường hợp A1 = A2 = ... = An = A, ta có chuỗi tiền tệ đều, ngược lại, chúng ta
có chuỗi tiền tệ biến thiên. Với chuỗi tiền tệ đều, sau các phép biến đổi toán học, ta có thể rút
gọn các công thức tính giá trị hiện tại và giá trị tương lai về dạng đơn giản như sau:
+ Chuỗi tiền tệ đều cuối kỳ:
A A A A ... A A A
0 1 2 3 4 ... n-2 n-1 n

(1+k)n – 1 (1+k)n – 1
PV = A * FV = A *
k*(1+k)n k

+ Chuỗi tiền tệ đều đầu kỳ:


A A A A A ... A A
0 1 2 3 4 ... n-2 n-1 n

(1+k)n – 1 (1+k)n – 1
PV = A * FV = A * * (1+k)
k*(1+k)n-1 k

20
Ví dụ 1: Doanh nghiệp An Bình mua một dây chuyền sản xuất, và được lựa chọn
một trong hai cách thanh toán tiền sau:
- Cách 1: Thanh toán ngay tại thời điểm mua hàng số tiền là 100 triệu đồng, và
thanh toán thêm 150 triệu đồng nữa tại thời điểm cuối tháng thứ 5 tính từ thời điểm mua
hàng.
- Cách 2: Vào cuối mỗi tháng, trong vòng 4 tháng đầu tiên tính từ thời điểm mua
hàng, doanh nghiệp thanh toán số tiền là 25 triệu đồng/tháng, và vào cuối mỗi tháng, trong
vòng 4 tháng tiếp theo nữa, doanh nghiệp thanh toán số tiền là 40 triệu đồng/tháng.
Biết: tỷ suất chiết khấu được lựa chọn là 10%/tháng. Yêu cầu: Bạn hãy tư vấn cho
doanh nghiệp An Bình là nên chọn cách thanh toán tiền nào.
Bài làm
Theo cách thanh toán tiền thứ nhất, ta có sơ đồ dòng tiền như sau (Đơn vị: triệu
đồng):
100 150
0 1 2 3 4 5 6 7 8

PV = 100 + 150/(1+10%)5
= 193,14 triệu đồng.

Theo cách thanh toán tiền thứ hai, ta có sơ đồ dòng tiền như sau (Đơn vị: triệu
đồng):
25 25 25 25 40 40 40 40
0 1 2 3 4 5 6 7 8

(1+10%)4 – 1 (1+10%)4 – 1 1
PV = 25 * 4
+ 40 * 4
* = 165,85 triệu đồng.
10% * (1+10%) 10% * (1+10%) (1+10%)4

Do giá trị hiện tại của dòng tiền theo cách thanh toán thứ hai nhỏ hơn so với cách thanh toán
thứ nhất, thế nên, doanh nghiệp nên chọn cách thanh toán thứ hai.
Ví dụ 2: Ông An dự định 10 năm nữa sẽ nghỉ hưu và muốn mua 1 căn hộ cao cấp ở
Vũng Tàu. Hiện tại, giá căn hộ là 100.000 $, dự kiến mỗi năm, giá căn hộ tăng khoảng 5%.
Ông An hiện có thể đầu tư tiền của mình hàng năm với suất sinh lợi là 10%/năm. Hỏi: Hàng
năm, ông An phải bỏ ra bao nhiêu tiền đầu tư vào cuối mỗi năm để có đủ tiền mua căn hộ khi
nghỉ hưu.
Bài làm
Dự kiến, sau 10 năm nữa, giá căn hộ sẽ là:
100.000 x (1+5%)10 = 162.889,5 $
Gọi A là số tiền mà ông An phải bỏ ra để đầu tư vào cuối mỗi năm nhằm mục đích
có đủ tiền mua căn hộ khi nghỉ hưu, ta có sơ đồ dòng tiền như sau: (đơn vị: $)
A A A A … A A A
0 1 2 3 4 … 8 9 10
Tỷ suất sinh lời là 10%/năm.
Nếu đầu tư A $ vào cuối mỗi năm như sơ đồ dòng tiền trên, vào thời điểm cuối năm
thứ 10, ông An sẽ có số tiền là:
21
A(1+10%)9 + A(1+10%)8 + A(1+10%)7 + … + A(1+10%)2 + A(1+10%)1 + A
= A x [(1+10%)10 - 1]/10% (áp dụng công thức tính giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ đều
cuối kỳ)
= A x 15,94
Số tiền này phải vừa đúng bằng giá căn hộ khi ông An nghỉ hưu
→ A x 15,94 = 162.889,5 $
→ A = 10.220,56 $

• Nguyên tắc chi trả


Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải đảm bảo được khả
năng chi trả của doanh nghiệp mình. Khả năng chi trả của doanh nghiệp được hiểu là khả
năng của doanh nghiệp trong việc thanh toán đầy đủ, đúng hạn các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài chính khác, cũng như trang trải được các nhu cầu chi tiêu thường nhật của mình.
Việc đảm bảo được khả năng chi trả sẽ tạo ra tiền đề quan trọng bảo đảm cho sự tồn
tại và hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn. Khi ấy, doanh nghiệp không những thanh
toán được các khoản nợ đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ, mà còn có thể liên tục mua sắm các
hàng hóa, dịch vụ đầu vào, giúp cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp diễn ra trơn tru, không bị ngắt quãng.
Để đảm bảo được khả năng chi trả, đòi hỏi doanh nghiệp phải:
o Quan tâm đến các dòng tiền chứ không phải lợi nhuận kế toán. Tiền (tiền mặt tại
quỹ, tiền gửi ngân hàng, ngoại tệ các loại, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, các khoản đầu tư
tài chính tương đương tiền) chính là loại tài sản duy nhất trong doanh nghiệp có thể được sử
dụng ngay cho việc thanh toán. Trong khi đó, lợi nhuận không đồng nghĩa với dòng tiền nhập
quỹ. Thế nên, để thực hiện được các hoạt động chi trả, cái doanh nghiệp cần là tiền, chứ
không phải lợi nhuận kế toán. Trong quá trình hoạt động, bên cạnh mức ngân quỹ hiện tại,
doanh nghiệp cần để tâm đến quy mô và thời điểm phát sinh các dòng tiền nhập quỹ hoặc
xuất quỹ sẽ phát sinh trong tương lai, để từ đó, đưa ra được các quyết định quản lý ngân quỹ
phù hợp, giúp bảo đảm năng lực tài chính cho việc chi trả.
o Cần đặc biệt tính đến các dòng tiền tăng thêm, nhất là các dòng tiền sau thuế khi
đưa ra các quyết định kinh doanh. Đi kèm với các dự án đầu tư là khái niệm “dòng tiền tăng
thêm”. Dòng tiền tăng thêm được hiểu là các dòng tiền chỉ xuất hiện khi một dự án đầu tư
được lựa chọn và thực hiện, và sẽ không bao giờ xuất hiện nếu như dự án đầu tư tương ứng
bị bỏ qua. Có thể nói, dòng tiền tăng thêm chính là sự đóng góp thêm và riêng có của từng dự
án đầu tư cho sự phát triển của doanh nghiệp xét trên khía cạnh tài chính. Dòng tiền tăng
thêm phản ánh sự khác biệt về mặt dòng tiền của doanh nghiệp giữa khi có dự án và khi
không có dự án. Chính việc tính toán đúng và đủ dòng tiền tăng thêm của một dự án đầu tư,
sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đánh giá được chính xác hiệu quả về mặt tài chính của dự
án đầu tư ấy, làm cơ sở cho việc ra quyết định. Ví dụ: Công ty Sony (nổi tiếng với loại máy
chơi game PlayStation 4) hiện đang xem xét dự án phát triển một tựa game mới. Trước sự
cạnh tranh gay gắt tới từ XboxOne của Microsoft, Sony dự kiến sẽ chỉ phát triển tựa game
này dành riêng cho hệ máy PlayStation 4, điều này có nghĩa là trong trường hợp dự án được
thông qua, việc Sony sản xuất và tung tựa game mới ra thị trường sẽ tạo ra tác động thúc đẩy
nhất định tới việc tiêu thụ loại máy PlayStation 4. Ta thấy: Dòng tiền xuất hiện từ việc bán
thêm được chiếc máy PlayStation 4 dưới ảnh hưởng của tựa game mới là dòng tiền mà chỉ
22
khi doanh nghiệp thực hiện dự án mới có, nếu dự án không được chấp nhận, sẽ không có
dòng tiền này. Trong quá trình xem xét, nếu như Sony bỏ qua dòng tiền nói trên và chỉ đánh
giá thuần túy các vấn đề về doanh thu và chi phí của việc sản xuất và tiêu thụ tựa game mới,
thì khi đó, những kết luận rút ra về hiệu quả tài chính của dự án phát triển tựa game mới sẽ
không thật chính xác. Ngoài ra, dòng tiền sau thuế chính là dòng tiền còn lại thuộc về doanh
nghiệp sau khi đã trừ đi phần nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Ngân sách Nhà
nước. Dòng tiền sau thuế có vai trò quan trọng đối với quá trình ra quyết định của doanh
nghiệp vì nó thể hiện được chính xác những gì mà doanh nghiệp thực sự nhận được trong quá
trình đầu tư.

• Nguyên tắc sinh lợi


Mục tiêu bao trùm của hoạt động quản lý tài chính là tối đa hóa giá trị tài sản cho
những người chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng
đảm bảo được khả năng sinh lợi của mình. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải có
khả năng liên tục tạo ra các giá trị tăng thêm, các giá trị mới, nói cách khác, bên cạnh việc
đánh giá các dòng tiền mà dự án đem lại, doanh nghiệp còn phải tạo ra các dòng tiền mới,
tức là tìm kiếm được các dự án sinh lợi. Nhưng, trong thị trường cạnh tranh, các nhà đầu
tư khó có thể tìm kiếm được nhiều dự án tốt, nhất là các dự án đem lại nhiều lợi nhuận
trong một thời gian dài.
Để vươn lên trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể tiếp cận được
các cơ hội đầu tư sinh lời, đòi hỏi:
o Trước hết, doanh nghiệp cần biết các dự án sinh lợi tồn tại như thế nào và ở đâu
trong môi trường cạnh tranh. Để làm được điều đó, đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp
nói chung, và nhà quản lý tài chính nói riêng, phải có trình độ rất cao và am hiểu rất nhiều
lĩnh vực, như: Ngân hàng, kế toán, thuế, luật pháp, thị trường chứng khoán..., đồng thời, họ
cũng phải có con mắt nhanh nhạy trước các diễn biến của môi trường kinh doanh. Bên cạnh
đó, để hỗ trợ cho những người quản lý cấp cao trong vấn đề phát hiện các cơ hội đầu tư,
doanh nghiệp cần tạo dựng được một bộ phận nghiên cứu và phân tích thị trường chuyên
trách đủ mạnh.
o Tiếp đến, khi đầu tư, doanh nghiệp phải biết làm giảm tính cạnh tranh của thị
trường thông qua việc tạo ra những sản phẩm khác biệt với sản phẩm cạnh tranh và bằng
cách đảm bảo mức chi phí thấp hơn mức chi phí cạnh tranh. Trong quá trình hoạt động,
doanh nghiệp cần: Năng động, sáng tạo trong việc đổi mới, cải tiến sản phẩm, tạo ra các
hàng hóa mới; Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Thường
xuyên cập nhật và áp dụng các kỹ thuật tiên tiến, thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu;
Không ngừng phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm… Làm được các công việc
trên không chỉ giúp đảm bảo mà còn có thể nâng cao được khả năng sinh lời của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh.

• Nguyên tắc thị trường có hiệu quả


Đối với công ty cổ phần, tối đa hóa giá trị tài sản cho các chủ sở hữu đồng nghĩa với
tối đa hóa giá trị thị trường của số cổ phiếu thường mà các cổ đông đang nắm giữ. Trong kinh
doanh, để tạo ra được các tác động tích cực lên thị giá cổ phiếu, đòi hỏi nhà quản lý tài chính
phải có các hiểu biết nhất định về đặc điểm, tính chất và cách thức vận hành của thị trường tài
23
chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Để thỏa mãn được đòi hỏi đó, một
trong các yêu cầu quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính là họ phải nắm vững lý thuyết
thị trường hiệu quả. Thị trường tài chính hiệu quả là thị trường tài chính mà ở đó, giá hiện tại
của các tài sản tài chính phản ánh đầy đủ các thông tin có liên quan. Eugene Fama là người đi
đầu trong việc nghiên cứu thị trường hiệu quả. Ông mô tả ba mức độ hiệu quả của thị trường
như sau:
o Mức độ yếu: Giá cả của chứng khoán (chứng khoán ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng, không chỉ là cổ phiếu) phản ánh đầy đủ, kịp thời các thông tin trong quá khứ về giao
dịch của thị trường.
o Mức độ trung bình: Giá cả chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin liên
quan đến công ty đã được công bố công khai ở hiện tại bên cạnh những thông tin trong quá
khứ.
o Mức độ mạnh: Giá cả của chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin liên quan
tới tổ chức phát hành thậm chí cả những thông tin nội gián.
Trên thực tế, tại công ty cổ phần, mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của các cổ đông
có thể đạt được trong những điều kiện nhất định bằng cách nhà quản lý tài chính, trên cơ sở
những nhận thức đúng đắn về thị trường tài chính, đưa ra các quyết định thích hợp tác động
tới thị giá cổ phiếu của công ty.

• Gắn kết lợi ích của người quản lý với lợi ích của cổ đông
Thông thường, tại các công ty cổ phần, cổ đông và người quản lý thuộc về hai nhóm
chủ thể khác nhau. Cổ đông là những người chủ sở hữu, là các ông chủ của công ty cổ phần,
trong khi, người quản lý lại là người lao động “làm công ăn lương”, được thuê để quản lý,
điều hành hoạt động của công ty cổ phần. Chính sự tách rời quyền sở hữu khỏi việc quản lý,
điều hành như vậy dễ tạo ra tình trạng: Người quản lý hành xử vì lợi ích riêng của mình hơn
là vì lợi ích của cổ đông. Điều này làm phát sinh những mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa cổ
đông với người quản lý, điều hành công ty. Dĩ nhiên trong trường hợp này, mục tiêu cao
nhất của quản lý tài chính doanh nghiệp (tối đa hóa giá trị tài sản cho những người chủ sở
hữu) không những không đạt được, mà còn có thể gây ra những tổn hại nhiều mặt cho công
ty.
Vì vậy, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài và bền vững của công ty, đòi hỏi
phải gắn kết được lợi ích của người quản lý với lợi ích của cổ đông. Để làm được điều này,
trước hết, các cổ đông cần phải thiết lập được các cơ chế giám sát và kiểm soát, giúp họ theo
dõi được quá trình điều hành công ty của người quản lý cũng như đánh giá được xem các
quyết định mà người quản lý đưa ra có thật sự vì cổ đông hay không. Mặt khác, họ cũng phải
làm cho người quản lý ý thức được rằng mình có thể bị thay thế nếu không theo đuổi mục
tiêu của cổ đông. Bên cạnh đó, mặc dù chỉ là người làm thuê, nhưng người quản lý có vai trò
đặc biệt quan trọng đối với quá trình hoạt động của công ty vì họ chính là người trực tiếp
“cầm lái” con tàu công ty cổ phần, thế nên, các cổ đông cần phải dành cho người quản lý
những sự tôn trọng nhất định, cần thực sự coi người quản lý chính là người đại diện cho bản
thân mình. Tiếp đến, công ty cần có những chính sách đãi ngộ hợp lý dành cho người quản
lý. Chế độ này bao gồm tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp thỏa đáng, điều kiện làm
việc đạt chuẩn, chế độ nghỉ phép hợp lý..., và trên hết, chế độ đãi ngộ này phải khiến cho nhà
quản lý cảm nhận được rằng: Khi họ quản lý và điều hành tốt hoạt động của công ty trong
24
phạm vi quyền hạn của mình, toàn tâm, toàn ý vì các mục tiêu của cổ đông, thì lúc đó, công
sức của họ sẽ được đánh giá và đền đáp xứng đáng, lợi ích của họ được đảm bảo. Có thể nói,
một chính sách đãi ngộ tốt sẽ khuyến khích người quản lý hành xử vì lợi ích của cổ đông, và
ngược lại. Ngoài ra, công ty có thể lựa chọn những cá nhân xuất sắc trong số các cổ đông
chủ chốt để làm người quản lý, để họ thực sự coi lợi ích của cổ đông chính là mục tiêu của
quá trình điều hành.
Thực tế ở các nước trên tiên tiến, việc thuê các giám đốc điều hành là một việc phổ
biến, được nhiều công ty lớn sử dụng. Bên cạnh các quy định ngặt nghèo về trách nhiệm,
quyền hạn là chế độ đãi ngộ cực kỳ hấp dẫn và được thể hiện rõ trong các hợp đồng được hai
bên ký kết. Đây chính là kết quả của việc vận dụng nguyên tắc “Gắn kết lợi ích của người
quản lý với lợi ích của các cổ đông”. Nhờ đó, các công ty này hầu hết đều có thể phát triển
lâu dài trong một thể chế quản trị phù hợp và khoa học, dễ dàng tránh được sự căng thẳng về
tài chính và nguy cơ phá sản, đồng thời, lại có khả năng cạnh tranh cao và thường chiếm
được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hóa các chi phí, đồng thời tăng thu nhập
cho chủ sở hữu một cách vững chắc. Trong khi đó, ở một số nước, nhất là ở các nước nặng về
sở hữu công cộng, nhiều giám đốc ở các công ty mà Nhà nước giữ cổ phần đa số, trước khi
về hưu thường có nhiều quyết định, nhiều hợp đồng kinh tế hoàn toàn mang tính trục lợi cá
nhân, gây ra các tổn thất đáng kể cho công ty, thậm chí đẩy công ty vào tình trạng trì trệ.
Có thể nói, việc quán triệt nguyên tắc “Gắn kết lợi ích của người quản lý với lợi ích
của các cổ đông” sẽ đảm bảo tính hài hòa cho công ty – hài hòa về lợi ích giữa chủ sở hữu và
nhà quản lý, hài hòa giữa cống hiến và đãi ngộ, hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích cá
nhân… Từ đó, tạo ra động lực hoạt động tích cực cho “người cầm lái” nói riêng và toàn bộ
người lao động trong công ty nói chung.

• Tác động của thuế


Tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều phải có trách nhiệm đối với quốc gia,
trong đó, trách nhiệm về việc tính đúng và nộp đủ các khoản thuế có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của cả nền kinh tế. Trong thực tiễn hoạt động, doanh nghiệp phải
chịu sự điều tiết tới từ rất nhiều các loại thuế khác nhau. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động
kinh doanh, trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định tài chính nào, nhà quản lý tài chính
đều phải tính tới tác động của thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp.
Các khoản thuế xuất hiện trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng.
Mỗi loại thuế ấy đều có những tác động nhất định đến các mặt hoạt động của doanh
nghiệp. Cụ thể:
o Các khoản thuế đánh ở khâu tiêu thụ sản phẩm (thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu
thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế xuất khẩu) chính là một thành tố cấu thành nên
tổng giá thanh toán mà khách hàng phải trả khi mua sắm các hàng hóa, dịch vụ do doanh
nghiệp cung cấp. Việc Nhà nước quy định loại hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp buôn bán
thuộc đối tượng chịu thuế của các loại thuế như thuế GTGT, thuế Tiêu thụ đặc biệt... cũng
như điều chỉnh tăng, giảm mức thuế suất tương ứng sẽ ảnh hưởng tới giá bán đơn vị của sản
phẩm, từ đó, ảnh hưởng đến cầu về hàng hóa, dịch vụ, đến kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, và
cuối cùng là kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

25
o Thuế thu nhập doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề về thiết lập cơ
cấu vốn (mối quan hệ tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sở hữu) của doanh nghiệp. Để hiểu rõ hơn,
chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:
Công ty cổ phần Đại Phát hiện đang xem xét lựa chọn phương thức huy động vốn
cho một phương án kinh doanh. Quy mô vốn cần có là 1 tỷ đồng. Phương án kinh doanh ấy,
nếu như được thực hiện, hàng năm sẽ mang lại 500 triệu đồng lợi nhuận hoạt động (hay còn
gọi là lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT), và được xác định bằng: “Doanh thu – Tổng chi
phí hoạt động”, chi phí hoạt động thì không bao gồm chi phí lãi vay, vì chi phí lãi vay được
xếp vào chi phí tài chính, nội dung cụ thể sẽ được nghiên cứu ở các chương sau).
Sau khi cân nhắc, công ty nhận thấy rằng để huy động được lượng vốn cần thiết
là 1 tỷ đồng, hiện tại chỉ có hai phương án sau là khả thi: Một, vay dài hạn ngân hàng, chịu lãi
suất 10%/năm; Hai, phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức, bán cho đối tác chiến lược là công ty
Hưng Thịnh với tỷ lệ lợi tức cũng là 10%/năm (Các vấn đề cụ thể về huy động vốn của doanh
nghiệp sẽ được trình bày cẩn thận ở các chương sau). Hiệu quả tạo ra hàng năm của hai
phương án huy động nói trên được thể hiện ở bảng dưới đây:
Đơn vị: Triệu đồng
Phát hành cổ phiếu
Chỉ tiêu Vay dài hạn
ưu đãi cổ tức
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
500 500
(EBIT)

Lãi vay (trả cho ngân hàng) 100 0

Lợi nhuận trước thuế


400 500
(= EBIT – Lãi vay)
Thuế Thu nhập doanh nghiệp
100 125
(thuế suất 25%)

Lợi nhuận sau thuế 300 375

Cổ tức ưu đãi (trả cho Hưng Thịnh) 0 100

Thu nhập thuộc về các cổ đông hiện tại 300 275

Qua bảng trên, ta thấy: Việc vay dài hạn ngân hàng mang lại cho các cổ đông
hiện hữu của công ty Đại Phát khoản thu nhập là 300 triệu đồng mỗi năm, khoản thu nhập
này lớn hơn 25 triệu đồng so với việc phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức. Khoản tiền chênh
lệch 25 triệu đồng này về bản chất chính là phần thuế Thu nhập doanh nghiệp phải nộp ít đi
trong trường hợp đi vay ngân hàng (100 so với 125), nguyên nhân là: Lãi vay được tính vào
chi phí hợp lý, hợp lệ trong kỳ của doanh nghiệp, từ đó, làm giảm thu nhập chịu thuế, thu nhập
tính thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Khoản tiền 25 triệu đồng ấy được gọi là
khoản tiết kiệm thuế Thu nhập doanh nghiệp nhờ sử dụng nợ vay, hay gọi tắt là khoản tiết kiệm
thuế.

26
Như vậy, việc huy động nợ mặc dù có rủi ro cao (do áp lực phải thanh toán đủ và
đúng hạn tiền lãi và gốc cho chủ nợ), nhưng lại có khả năng tạo ra khoản tiết kiệm thuế, góp
phần làm gia tăng thu nhập dành cho các chủ sở hữu hiện tại. Trong khi đó, việc huy động
vốn chủ sở hữu tuy rằng an toàn (phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức trong ví dụ vừa trên là huy
động vốn chủ, tuy cổ tức phải trả là cố định, nhưng việc trả cổ tức có thể được hoãn lại sang
các kỳ sau nếu doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính), nhưng lại không có khả năng tạo ra
khoản tiết kiệm thuế (tiền chi trả lợi tức cho các chủ sở hữu luôn được lấy từ lợi nhuận sau
thuế của doanh nghiệp). Do đó, để tối đa hóa được lợi ích dành cho các chủ sở hữu hiện hữu
trong mối quan hệ hợp lý với rủi ro, các nhà quản lý tài chính luôn phải cân nhắc đến sự tác
động của thuế Thu nhập doanh nghiệp khi xem xét lựa chọn giữa việc huy động nợ hay vốn
chủ sở hữu.
o Các khoản thuế khác (như thuế nhập khẩu, thuế môn bài, thuế tài nguyên...) là
những khoản thuế được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Ví
dụ: Thuế nhập khẩu được tính vào giá vốn của vật tư hàng hoá mua về và sẽ được tính vào
các khoản mục chi phí tương ứng khi các vật tư ấy được xuất dùng cho sản xuất kinh doanh.
Thuế môn bài và thuế nhà, đất được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Thuế tài nguyên
được tính vào chi phí sản xuất chung… Vì vậy, khi xem xét hiệu quả của một phương án kinh
doanh, doanh nghiệp cần tính đúng, tính đủ các loại thuế nói trên, nhằm đảm bảo chất lượng
của kết luận đánh giá.
Ngoài ra, tất cả các khoản thuế phát sinh trong quá trình hoạt động đều là một bộ
phận quan trọng cấu thành nên các dòng tiền vào, ra phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp. Ví
dụ: Thuế Giá trị gia tăng, thuế Tiêu thụ đặc biệt... nằm trong dòng tiền thu từ khách hàng,
hoặc dòng tiền trả cho người cung cấp hàng hóa, dịch vụ đầu vào. Thuế Giá trị gia tăng còn
phải nộp, thuế Thu nhập doanh nghiệp... là dòng tiền xuất quỹ khi doanh nghiệp nộp thuế vào
Ngân sách Nhà nước. Do vậy, khi ra các quyết định ngân quỹ, doanh nghiệp không thể không
cân nhắc đến thuế.
Tóm lại, để quyết định tài chính đạt được hiệu quả như mong muốn, đảm bảo được
lợi ích của các chủ sở hữu, thuế cần phải được lưu tâm đúng mức khi doanh nghiệp xem xét,
đánh giá các dự án đầu tư và các phương án kinh doanh của mình.

1.8. Bộ máy quản lý tài chính


Quản lý tài chính là hoạt động có tầm quan trọng hàng đầu trong số các hoạt động của
doanh nghiệp. Quản lý tài chính thường thuộc về nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như
phó tổng giám đốc thứ nhất hoặc giám đốc tài chính. Đôi khi chính tổng giám đốc làm nhiệm
vụ của nhà quản lý tài chính. Trong các doanh nghiệp lớn, các quyết định quan trọng về tài
chính thường do một ủy ban tài chính đưa ra. Trong các doanh nghiệp nhỏ, thường là chính
chủ sở hữu – tổng giám đốc đảm trách nhiệm vụ quản lý hoạt động tài chính của doanh
nghiệp.
Bên dưới người lãnh đạo này là cả một bộ máy quản lý tài chính chuyên trách. Đó là
các phòng, ban tài chính với Trưởng phòng tài vụ hoặc Kế toán trưởng, cùng các kế toán
viên, thủ quỹ. Nhiệm vụ chung đối với cả hệ thống này là hỗ trợ giám đốc tài chính điều hành
chung hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đồng thời, cung cấp các thông tin phục vụ cho
việc ra quyết định chính xác và kịp thời. Dưới đây là các nhiệm vụ cụ thể của phòng, ban tài
chính:
27
• Trên cơ sở luật và chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, xây dựng một chế độ quản
lý tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
• Lập kế hoạch tài chính đồng thời và thống nhất với kế hoạch sản xuất – kinh doanh
của doanh nghiệp.
• Lựa chọn các phương thức huy động vốn cũng như các phương án đầu tư có hiệu quả.
• Tổ chức thanh toán kịp thời, đầy đủ, đúng hạn và đúng chế độ các khoản nợ; đôn
đốc việc thu nợ.
• Tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp và kiểm tra tài chính.
• Tham gia xây dựng giá bán và thiết lập các hợp đồng kinh tế với khách hàng.
Để hoạt động quản lý tài chính thu được hiệu quả cao nhất, đòi hỏi bộ máy quản lý tài
chính cần phải được xây dựng một cách khoa học và hợp lý, cả về số lượng và chất lượng. Về
mặt số lượng, bộ máy này cần gọn, nhẹ; nhưng vẫn phải đủ biên chế cần thiết, để mọi công
việc được tiến hành trôi chảy, đúng tiến độ. Về mặt chất lượng, cần phải đảm bảo rằng các
nhân viên trong bộ máy, trước đó đã phải được đào tạo theo đúng chuyên ngành ở các vị trí
được phân công; ngoài ra, họ còn phải là những người có đủ phẩm chất đạo đức cần thiết, có
tinh thần và thái độ đúng mực với công việc. Đặc biệt, với tư cách là người chịu trách nhiệm
cao nhất đối với chất lượng của hoạt động quản lý tài chính, giám đốc tài chính đòi hỏi phải
có trình độ rất cao và phải am hiểu rất nhiều lĩnh vực, như: Ngân hàng, kế toán, thuế, luật
pháp, thị trường chứng khoán...
Bên cạnh đó, điều kiện về cơ sở vật chất (hệ thống phòng làm việc, trang thiết bị...)
cũng phải được đảm bảo ở chất lượng tốt nhất có thể, từ đó, giúp cho công tác quản lý tài
chính diễn ra thuận lợi và thu được hiệu quả cao.

Tóm lược cuối chương


Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh. Dựa trên hình thức pháp lý theo quy định của luật doanh nghiệp hiện hành, các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay được chia thành: Doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công
ty trách nhiệm hữu hạn (một hoặc hai thành viên trở lên) và công ty cổ phần.
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc doanh nghiệp tổ chức các
công tác tài chính trong kỳ của mình, từ đó, đặt ra yêu cầu đối với các nhà kinh tế, đó là phải
nắm bắt thật rõ các đặc điểm cụ thể về hình thức pháp lý tương ứng của doanh nghiệp mà
mình đang đầu tư hoặc đang quản lý để có các quyết định phù hợp.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể
trong nền kinh tế. Các mối quan hệ này phát sinh rất đa dạng và phức tạp trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp. Để có thể phát triển bền vững và thỏa mãn được yêu cầu của các chủ
chủ sở hữu, đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý thật tốt các mối quan hệ tài chính của mình,
hay nói cách khác là phải thực hiện tốt công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Để đảm bảo chất lượng của công tác quản lý tài chính, doanh nghiệp cần ý thức được các vấn
đề sau: Một, mục tiêu bao trùm nhất của quản lý tài chính doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị
tài sản cho các chủ sở hữu. Hai, quản lý tài chính tập trung vào ba vấn đề: Quản lý đầu tư dài
hạn, quản lý về huy động vốn và quản lý tài sản lưu động. Ba, cần nắm vững và vận dụng
thành thạo bảy nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính.

28

You might also like