You are on page 1of 17

CĐ4: Thuyết kiến tạo nhận thức và mô hình học tập khám phá

Mục lục

I. Thuyết kiến tạo nhận thức

1. Thuyết kiến tạo nhận thức (Cognitive Constructivism)

2. Các luận điểm chính của Thuyết kiến tạo nhận thức

3. Một số phương pháp giảng dạy kiến tạo phổ biến

II. Mô hình học tập khám phá

1. Mô hình học tập khám phá

2. Đặc điểm của mô hình học tập khám phá

3. Các yếu tố cơ bản

4. Ứng dụng mô hình học tập khám phá

Nội dung

I. Thuyết kiến tạo nhận thức

1. Thuyết kiến tạo nhận thức (Cognitive Constructivism)

Thuyết kiến tạo nhận thức xuất hiện vào những năm 1970 và 1980, làm nảy sinh ý tưởng rằng người
học không phải là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động, mà họ chủ động xây dựng kiến thức
của mình trong sự tương tác với môi trường và thông qua việc tổ chức lại các cấu trúc tinh thần
(mental structures) của họ. Do đó, người học được xem như những người tạo ra cảm giác, không chỉ
đơn giản là ghi lại thông tin đã cho mà còn diễn giải nó. Quan điểm học tập này đã dẫn đến sự chuyển
đổi từ “thu nhận kiến thức" (knowledge-acquisition) sang “kiến tạo kiến thức"
(knowledge-construction). Bằng chứng ngày càng tăng ủng hộ bản chất kiến tạo của việc học cũng
phù hợp và được hỗ trợ bởi công trình trước đó của các nhà lý thuyết có ảnh hưởng như Jean Piaget
và Jerome Bruner. Mặc dù có nhiều phiên bản khác nhau của thuyết kiến tạo, nhưng điểm chung là
phương pháp lấy người học làm trung tâm, theo đó giảng viên trở thành người hướng dẫn nhận thức
về cách học của người học chứ không phải người truyền kiến thức.

J ean Piaget được biết đến như một trong những nhà lý thuyết đầu tiên trong thuyết kiến tạo. Các lý
thuyết của ông chỉ ra rằng con người tạo ra tri thức thông qua sự tương tác giữa trải nghiệm và ý
tưởng của họ. Quan điểm của ông về thuyết kiến tạo cho rằng cá nhân là trung tâm của quá trình sáng
tạo và thu nhận tri thức.

Câu hỏi 1: Hãy điền khuyết thông tin dưới đây để thực hiện thử thách (chữ in đậm là chỗ đục lỗ)

Mặc dù có nhiều phiên bản khác nhau của thuyết kiến tạo, nhưng điểm chung là phương pháp lấy
người học làm trung tâm, theo đó giảng viên trở thành người hướng dẫn nhận thức về cách học của
người học chứ không phải người truyền kiến thức.

Câu hỏi: Lý thuyết kiến ​tạo nhận thức gợi ý rằng các cá nhân thích ứng với môi trường của họ thông
qua việc hình thành các cấu trúc nhận thức như thế nào?

=> Lý thuyết kiến tạo nhận thức gợi ý rằng các cá nhân thích nghi với môi trường của họ bằng cách hình
thành các cấu trúc nhận thức thông qua khám phá cá nhân và tương tác với những người khác. Những
cấu trúc nhận thức này, còn được gọi là lược đồ hoặc mô hình tinh thần, là những kiểu suy nghĩ có tổ
chức giúp các cá nhân hiểu được thông tin và trải nghiệm mới. Lý thuyết đề xuất rằng học tập là một quá
trình cá nhân để xây dựng kiến thức thay vì chỉ đơn giản là tiếp nhận nó từ các nguồn bên ngoài

2. Các luận điểm chính của Thuyết kiến tạo nhận thức

Thứ nhất: Học tập là quá trình cá nhân hình thành các tri thức cho mình. Có hai loại tri thức:
tri thức về thuộc tính vật lý, thu được bằng cách hành động trực tiếp với các sự vật; tri thức về
tư duy, quan hệ toán, logic thu được qua sự tương tác với người khác trong các quan hệ xã hội.
Học tập là quá trình cá nhân tổ chức các hành động tìm tòi, khám phá thế giới bên ngoài và cấu tạo lại
chúng dưới dạng các sơ đồ (cấu trúc) nhận thức. Sơ đồ là một cấu trúc nhận thức bao gồm một lớp
các thao tác giống nhau theo một trật tự nhất định. Sơ đồ nhận thức được hình thành từ các hành động
bên ngoài và được nhập tâm.

Vì vậy, sơ đồ có bản chất thao tác và được người học xây dựng lên bằng chính hành động của mình.
Sự phát triển nhận thức là sự phát triển hệ thống các sơ đồ qua các giai đoạn phát triển nhận thức:
● Cảm giác vận động (Sensorimotor): Tư duy phát triển từ việc dựa trên các trị giác
(nghe, nhìn) và hành động (nắm, mút, sờ mó..) trong 2 năm đầu đời (theo cơ chế
kích thích – phản ứng), và hưởng đến tư duy bằng mô hình biểu tượng ở cuối giai
đoạn.
● Trước hoạt động (Pre-Operational): Các mô hình đại diện cho đối tượng dựa vào
các biểu tượng (iconic), ban đầu là bằng chức năng biểu tượng (khoảng 2-4 tuổi)
khi trẻ có thể hiểu, miêu tả, ghi nhớ và họa hình các đối tượng trong trí nhớ của nó
mà không có đối tượng trước mặt. Sau đó chuyển sang giai đoạn trực quan suy
nghĩ (khoảng 4-6 tuổi) khi trẻ có xu hướng đặt câu hỏi tại sao?
● Hoạt động cụ thể (Concrete Operational): Tư duy của một đứa trẻ trưởng thành
hơn với khả năng giải quyết vấn đề qua trải nghiệm các sự kiện và đối tượng cụ
thể, tuy nhiên, tư duy trừu tượng chưa phát triển.
● Hoạt động chính thức (Formal Operations): Tư duy trừu tượng phát triển với khả
năng giả thuyết và suy luận, nó cho phép duy trì sự tập trung, suy nghĩ, theo dõi,
và giải quyết vấn đề thông qua trải nghiệm có hệ thống, có phương pháp.
bắt đầu từ các giản đồ cảm giác và vận động (cấu trúc giác – động, tương ứng với trẻ em
từ 0-2 tuổi) → Cấu trúc tiền thao tác (các hình ảnh tinh thần, hình ảnh biểu trưng, kí hiệu
và biểu tượng, ứng với thời kỳ từ 2-7 tuổi) → Cấu trúc thao tác cụ thể (ứng với thời kỳ 7-
11,12 tuổi) → Cấu trúc thao tác hình thức (ứng với thời kỳ 12 tuổi trở lên).

Thao tác – hành động bên trong, được nảy sinh từ hành động có đối tượng bên ngoài. Tuy
nhiên khác với hành động, thao tác là hành động có tính rút gọn và đối tượng của nó
không phải là những sự vật có thực mà là những hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu. Thao tác
cụ thể là các thao tác nhận thức với vật liệu là các dạng vật chất cụ thể, các hành động
thực tiễn. Thao tác hình thức là thao tác trên các vật liệu là các ký hiệu, khái niệm, mệnh
đề… Các thao tác được cấu trúc thành hệ thống nhất định. Cấu trúc thao tác nhận thức
không có sẵn trong đầu đứa trẻ, cũng không nằm trong đối tượng khách quan, mà nằm
ngay trong mối tác động qua lại giữa chủ thể với đối tượng, thông qua hành động.

Thứ hai: Dưới dạng chung nhất, cấu trúc nhận thức có chức năng tạo ra sự thích ứng của cá
thể với các kích thích của môi trường. Các cấu trúc nhận thức được hình thành theo cơ chế
đồng hóa và điều ứng. Đồng hoá là chủ thể tái lập lại một số đặc điểm của khách thể được nhận
thức, đưa chúng vào trong các sơ đồ đã có. Ví dụ: Một đứa trẻ đã thấy con chó, có sơ đồ về con chó,
nếu gặp con chó thực khác, nó sẽ đưa hình ảnh con chó đó vào trong sơ đồ đã có. Điều ứng là quá
trình tái lập lại những đặc điểm của khách thể vào cái đã có, qua đó biến đổi cấu trúc đã có, tạo ra cấu
trúc mới. Ví dụ: Khi lần đầu nhìn thấy con bò (chưa có sơ đồ về con bò), nó đưa hình ảnh con bò vào
sơ đồ con chó và nói ngay đó là con chó, dẫn đến không thích ứng (sai), nó phải cải tổ lại sơ đồ con
chó (nhờ sự tham gia của hình ảnh con bò) để tạo ra sơ đồ mới – sơ đồ con bò.

Trong đồng hoá, các kích thích được chế biến cho phù hợp với sự áp đặt của cấu trúc đã có, còn trong
điều ứng, chủ thể buộc phải thay đổi cấu trúc cho phù hợp với kích thích mới. Đồng hoá dẫn đến tăng
trưởng các cấu trúc đã có, còn điều ứng tạo ra cấu trúc mới. Đồng hoá làm tăng trưởng, điều ứng làm
phát triển.

Thứ ba: Quá trình phát triển nhận thức phụ thuộc trước hết vào sự trưởng thành và chín muồi
các chức năng sinh lý thần kinh của trẻ em; vào sự luyện tập và kinh nghiệm thu được thông
qua hành động với đối tượng; vào tương tác của các yếu tố xã hội và vào tính chủ thể và sự phối
hợp chung của hành động. Chính yếu tố chủ thể làm cho các yếu tố trên không tác động riêng rẽ, rời
rạc, mà chúng được kết hợp với nhau trong một thể thống nhất trong quá trình phát triển của trẻ.

Câu hỏi 2: Hãy sắp xếp các giai đoạn phát triển nhận thức sau theo đúng thứ tự:

Trả lời: (tự đảo thứ tự nha, người thuyết trình sau khi bạn trả lời thì khái quát lại ngắn gọn như sau)
● Cảm giác vận động (Sensorimotor): Tư duy phát triển từ việc dựa trên các trị
giác (nghe, nhìn) và hành động trong 2 năm đầu đời , và hưởng đến tư duy bằng
mô hình biểu tượng ở cuối giai đoạn.
● Trước hoạt động (Pre-Operational): Các mô hình đại diện cho đối tượng dựa
vào các biểu tượng (iconic), ban đầu là bằng chức năng biểu tượng (khoảng 2-4
tuổi) khi trẻ có thể hiểu, miêu tả, ghi nhớ và họa hình các đối tượng trong trí nhớ
của nó mà không có đối tượng trước mặt. Sau đó chuyển sang giai đoạn trực quan
suy nghĩ (khoảng 4-6 tuổi) khi trẻ có xu hướng đặt câu hỏi tại sao?
● Hoạt động cụ thể (Concrete Operational): Tư duy của một đứa trẻ trưởng thành
hơn với khả năng giải quyết vấn đề qua trải nghiệm các sự kiện và đối tượng cụ
thể, tuy nhiên, tư duy trừu tượng chưa phát triển.
● Hoạt động chính thức (Formal Operations): Tư duy trừu tượng phát triển với
khả năng giả thuyết và suy luận, nó cho phép duy trì sự tập trung, suy nghĩ, theo
dõi, và giải quyết vấn đề thông qua trải nghiệm có hệ thống, có phương pháp.
Câu hỏi: Làm thế nào để những giai đoạn này trong quá trình phát triển nhận thức, chẳng hạn như
những giai đoạn do Piaget đề xuất, góp phần vào sự hiểu biết của chúng ta về cách mọi người học hỏi
và tiếp thu kiến ​thức?

=> Các giai đoạn phát triển nhận thức do Piaget đề xuất góp phần vào sự hiểu biết của chúng ta về cách
mọi người học và tiếp thu kiến thức bằng cách cung cấp một khuôn khổ để hiểu cách các khả năng nhận
thức phát triển theo thời gian. Lý thuyết của Piaget cho rằng các cá nhân tiến bộ qua bốn giai đoạn phát
triển nhận thức, mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi những cách suy nghĩ và hiểu thế giới khác nhau. Các
giai đoạn này bao gồm giai đoạn vận động cảm biến, giai đoạn tiền hoạt động, giai đoạn vận hành cụ thể
và giai đoạn hoạt động chính thức.

Bằng cách hiểu các giai đoạn này, các nhà giáo dục có thể thiết kế kinh nghiệm học tập phù hợp với khả
năng nhận thức của người học và giúp họ tiến tới giai đoạn phát triển tiếp theo. Ví dụ, các nhà giáo dục
có thể sử dụng các ví dụ cụ thể và các hoạt động thực hành để hỗ trợ người học trong giai đoạn tiền
hoạt động, đồng thời khuyến khích người học trong giai đoạn hoạt động chính thức suy nghĩ trừu tượng
và tham gia vào lý luận giả định. Nhìn chung, lý thuyết của Piaget cung cấp những hiểu biết có giá trị về
cách mọi người học và tiếp thu kiến thức, đồng thời có thể cung cấp thông tin cho việc thiết kế trải
nghiệm học tập hiệu quả.

3. Một số phương pháp giảng dạy kiến tạo phổ biến

Học tập tích cực: Một lý thuyết học tập khẳng định rằng người học kiến tạo sự hiểu biết của riêng
họ đối với một chủ đề bằng việc xây dựng kiến thức mới dựa trên nền tảng kiến thức trước đây của
họ. Triển khai hoạt động học tập chủ động có nghĩa là chuyển trọng tâm của việc dạy từ hình thức
truyền thụ kiến thức sang kiến tạo kiến thức của người học thông qua việc tạo ra các nhiệm vụ có chỉ
dẫn, các tương tác, bài tập và môi trường giúp khai thác việc học sâu và học có chủ đích

Lấy học sinh làm trung tâm: Nhằm phát huy sự chủ động sáng tạo của người học. Với phương pháp
này, người học sẽ là người tự khai phá tri thức, thầy cô giáo chỉ là người hướng dẫn và cung cấp
thông tin. Vai trò của người dạy lúc này là dẫn dắt, khơi gợi, truyền cảm hứng cho người học. Để có
thể là người hướng dẫn, người cung cấp thông tin…người dạy phải có hiểu biết sâu sắc về những kiến
thức cơ bản mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn kiến thức của mình thường xuyên. Dưới
sự hướng dẫn của người dạy, người học phải tích cực hơn, tự giác hơn trong việc tham gia giải quyết
các vấn đề, vận dụng cũng như học hỏi kiến thức mới, phải tự tìm ra phương pháp học tối ưu nhất.
Tuy nhiên người học có thực sự trở thành trung tâm của việc dạy hay không đòi hỏi sự cố gắng của cả
người dạy và người học.

Học tập qua vấn đề: Phương pháp học tập trong đó các vấn đề có liên quan đến thực tiễn được lựa
chọn cẩn thận và được sử dụng làm nền tảng cho chương trình dạy học.

Học tập qua dự án: Phương pháp giảng dạy trong đó người học được lĩnh hội kiến thức và kỹ năng
thông qua làm việc trong một khoảng thời gian dài để nghiên cứu và trả lời một câu hỏi, vấn đề hoặc
thách thức mang tính thực tế, lôi cuốn và phức tạp.
Học tập qua trải nghiệm: Một quá trình phát triển kiến thức, kĩ năng và thái độ dựa trên một ý thức
về trải nghiệm nào đó đã có từ trước.

Học tập khám phá: Phương pháp tổ chức học tập theo nhóm nhằm phát huy năng lực giải quyết vấn
đề và tự học cho người học.

(Khúc này tự dẫn chứ không trình bày mục riêng)

Khai thác tối đa những tri thức, kinh nghiệm đã có của người học liên quan đến vấn đề cần dạy, dùng
phép khái quát hóa hoặc tương tự hóa từ đó tạo tiền đề quan trọng giúp người học kiến tạo và khám
phá những tri thức mới.

Khi dạy người học giải quyết vấn đề, cần tập cho người học thói quen giải quyết vấn đề dưới nhiều
góc độ khác nhau.

Khai thác và phân tích các sai lầm, khó khăn của người học để làm tiền đề cho việc xây dựng các tình
huống học tập mới.

Câu hỏi 3: Bằng việc vận dụng thuyết kiến tạo nhận thức vào phương pháp dạy học, người học sẽ có
những lợi thế gì? (trả lời ý đại khái là được)

Trả lời: phát huy sự chủ động sáng tạo, không những lĩnh hội được tri thức mới mà còn tạo
được thói quen giải quyết vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau, phát huy khả năng tự học,...

Câu hỏi: Bằng cách nào các nhà giáo dục có thể áp dụng các nguyên tắc của thuyết kiến ​tạo nhận thức
trong việc dạy các kỹ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt bằng cách khuyến khích người học tiếp cận các
vấn đề từ nhiều góc độ?

=> Các nhà giáo dục có thể áp dụng các nguyên tắc của chủ nghĩa kiến tạo nhận thức trong việc dạy các
kỹ năng giải quyết vấn đề bằng cách khuyến khích người học tiếp cận vấn đề từ nhiều góc độ. Điều này
có thể được thực hiện bằng cách:

- Tạo cơ hội cho người học khám phá các vấn đề và đưa ra giải pháp của riêng họ.

- Khuyến khích người học suy ngẫm về suy nghĩ và quá trình giải quyết vấn đề của chính họ.

- Tạo điều kiện cho các cuộc thảo luận và hợp tác giữa các học viên để chia sẻ các quan điểm và cách
tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề.

- Sử dụng các vấn đề và kịch bản trong thế giới thực để làm cho việc học phù hợp và hấp dẫn hơn.

- Cung cấp phản hồi và hướng dẫn để giúp người học hoàn thiện kỹ năng giải quyết vấn đề của họ.

Bằng cách áp dụng các nguyên tắc này, các nhà giáo dục có thể giúp người học phát triển các kỹ năng
giải quyết vấn đề linh hoạt và thích ứng hơn có thể được áp dụng trong nhiều bối cảnh khác nhau.
II. Mô hình học tập khám phá

1. Mô hình học tập khám phá

Jerome Bruner (1915 - 2016) (Mỹ)

Học tập khám phá được Jerome Bruner giới thiệu như một lý thuyết học tập chính thức vào năm
1960. Đây là một mô hình dạy học dựa trên sự khám phá của người học. Mô hình này khuyến khích
người học tự xây dựng kiến thức mới cho mình dựa trên kinh nghiệm và kiến thức đã có. Thông qua
việc sử dụng trực giác, trí tưởng tượng và sự sáng tạo của mình người học tìm kiếm các thông tin mới
để khám phá sự thật, tương quan và chân lý mới. Học không bằng cách hấp thụ những gì mình được
nghe hoặc đọc, nhưng tích cực tìm kiếm câu trả lời và các giải pháp cho các vấn đề.

Theo Bruner (1960, 1961), với mô hình học tập khám phá:

- Nội dung học tập không phải được truyền tải bởi người dạy mà do người học phát hiện độc lập;

- Người học là người tham gia tích cực và được khuyến khích đặt câu hỏi và tìm câu trả lời;

- Học tập khám phá ở phạm vi rộng hay hẹp đều hướng vào cá nhân người học;

- Học tập khám phá như là một cách để xác định và cung cấp cấu trúc cách thức cá nhân học do
đó hoạt động dạy học như một quá trình hướng dẫn cho nghiên cứu giáo dục.

Trong học tập khám phá, người học tích cực, chủ động kiến tạo kiến thức cho bản thân qua kinh
nghiệm vốn có và qua tương tác với môi trường học tập. HTKP không chỉ giúp người học nắm chắc
kiến thức, hình thành những kĩ năng, kỹ xảo đáp ứng mục tiêu đầu ra mà quan trọng hơn là phát triển
được khả năng tư duy sáng tạo của người học và những trải nghiệm trong thực tế giúp người học
hoàn thiện bản thân đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.

HTKP không chỉ giới hạn những khía cạnh nhận thức của việc dạy và học. Sự học tập hợp tác đòi
hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý trí mà còn phát triển cả về mặt tình cảm, giao tiếp;
mục đích học tập là xây dựng kiến thức của bản thân nên khi đánh giá các kết quả học tập không định
hướng theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến bộ trong quá trình học tập và trong
những tình huống học tập phức tạp (Nguyễn Phúc Chỉnh & Nguyễn Thị Hằng, 2010).

Câu hỏi 4: Hãy nêu khái quát về mô hình học tập khám phá theo cách hiểu của bạn sau khi tụi
mình đã trình bày

Trả lời: Dù đủ hay không thì cứ khích lệ động viên bằng việc vẫn cho bạn hoàn thành thử thách
nhé =))

2. Đặc điểm của mô hình học tập khám phá

Bicknell-Holmes và Hoffman (2000) mô tả ba thuộc tính chính của việc học phát hiện như: 1)
khám phá và giải quyết vấn đề để tạo, tích hợp và khái quát kiến thức, 2) hoạt động dựa trên sở thích
của học sinh và 3) hoạt động khuyến khích lồng ghép kiến thức mới vào cơ sở kiến thức hiện có của
người học.

Theo Svinki (1998), học tập khám phá có ba đặc điểm chính sau đây:

- Học tập tích cực: người học là người tham gia tích cực trong quá trình học tập chứ không phải
là một chiếc thuyền rỗng chứa những lời giảng của thầy giáo.

- Học tập có ý nghĩa: học tập khám phá có nhiều ý nghĩa vì nó tận dụng sự liên tưởng của bản
thân học sinh như là cơ sở của sự hiểu biết.

- Thay đổi niềm tin và thái độ: học tập khám phá đặt nhiều trách nhiệm học tập hơn cho người
học, học sinh thường phải vận dụng các quá trình tư duy để giải quyết vấn đề và phát hiện các điều
cần học, vì vậy các em phải có nhiều trách nhiệm hơn cho sự học tập của mình.

Câu hỏi 5: Các bạn hãy giúp mình nhắc lại 3 đặc điểm của học tập khám phá nhé

Trả lời: chỉ cần đúng ý khái quát của 3 cái là được: học tập tích cực, học tập có ý nghĩa, thay
đổi niềm tin và thái độ

3. Các yếu tố cơ bản

Có 4 yếu tố chủ yếu trong mô hình học tập khám phá của Bruner

(1) Cấu trúc tối ưu của nhận thức (yếu tố then chốt):

Theo J.Bruner một cấu trúc nhận thức tối ưu cần có ba đặc tính quan trọng: tính tiết kiệm; khả
năng sản sinh ra cái mới; sức mạnh của cấu trúc.
+ Tính tiết kiệm là khả năng đơn giản hoá các thông tin khác nhau trong một lĩnh vực giúp
người học nhận ra được cái chung trong cái riêng; nhận ra sự vật này chỉ là phụ của sự vật khác; nhận
ra sự kiện này không giống tất cả các sự kiện khác.

Bruner cho rằng, bất kỳ chủ đề nào cũng có thể dạy cho người nào bằng một hình thức thích hợp.
Theo ông có ba hình thức biểu hiện của một chủ đề: qua hành động; qua hình ảnh (mô hình, sơ đồ
v.v…); qua các ký hiệu ngôn ngữ, mệnh đề, định lý v.v..Từ đây có ba hành động học tập tương ứng
của người học: Hành động phân tích (bằng tay) sự vật; hành động mô hình hoá; hành động biểu tượng
(kí hiệu hoá).

+ Khả năng sản sinh ra cái mới và sức mạnh của cấu trúc chính là khả năng tìm ra được sự
kiện mới, hiểu biết sâu và rộng hơn những thông tin đã cho; khả năng vận dụng kiến thức đã học vào
việc giải quyết các tình huống riêng.

Theo Bruner, có hai loại ứng dụng các cấu trúc: chuyển di các mối liên tưởng, các kỹ năng hay
kỹ xảo mẫu đã tiếp thu được sang các liên tưởng, kỹ năng gần giống với nó (trẻ em học được kỹ năng
dùng búa đóng đinh bằng sắt, có thể đóng được các chốt bằng gỗ). Đây chính là quá trình học tập
chuyên biệt.

Loại thứ hai là chuyển di các nguyên tắc, các thái độ đã có vào các tình huống khác nhau. Về cơ
bản, đó không phải là học các kỹ năng cụ thể mà là học một ý tưởng (nguyên tắc) tổng quát để dùng
làm cơ sở cho việc triển khai các vấn đề cụ thể sau đó, coi những vấn đề cụ thể này chỉ là những
trường hợp đặc thù của nguyên tắc tổng quát đã học được. Loại chuyển di này chính là trọng tâm của
quá trình dạy học. Đó là sự mở rộng đào sâu không ngừng kiến thức theo những ý tưởng, nguyên tắc
tổng quát và cơ bản. Điều này tuỳ thuộc vào cấu trúc môn học và khả năng nắm vững môn học của
người học.

(2) Cấu trúc của chương trình dạy học:

Để đảm bảo cho cấu trúc có khả năng sản sinh ra cái mới và sức mạnh thì cấu trúc chương trình
môn học phải thỏa mãn hai điều kiện:

Thứ nhất: bộ khung của một lĩnh vực khoa học phải được sắp xếp sao cho các nguyên tắc,
các ý tưởng cơ bản và khái quát nhất chiếm vị trí trung tâm.

Thứ hai: phải vừa sức đối với trình độ của sinh viên có những khả năng khác nhau, ở các
lớp khác nhau và phải tạo ra được hứng thú học tập của người học. Đó là một chương trình được
xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc, những ý tưởng cơ bản làm nòng cốt cho một lĩnh vực khoa
học và được cấu trúc theo nguyên tắc từ chung tới riêng (từ trừu tượng đến cụ thể theo quan điểm của
V.V. Davưdov), sao cho các nguyên tắc, các ý tưởng căn bản này phải được liên tục đào sâu, mở rộng
và được vận dụng dưới những dạng ngày càng phức tạp hơn.
Để cấu trúc được logic các khái niệm như vậy đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các nhà
khoa học trong từng lĩnh vực cụ thể, còn khía cạnh thứ hai cần có sự tham gia của các nhà sư phạm.

(3) Hành động tìm tòi khám phá của học viên:

Ứng với một cấu trúc nhận thức và khung chương trình như trên, J.Bruner đề xuất một mô hình
học tập tìm tòi khám phá.

Theo Bruner, người học phải là người tự lực, tích cực hành động tìm tòi, khám phá đối tượng học
tập để hình thành cho mình các nguyên tắc, các ý tưởng cơ bản từ các tình huống học tập cụ thể.
Trong học tập các môn học, người học phải có thái độ khám phá các định luật, định lý, quy luật
v.v…giống như nhà khoa học thực thụ.

Trong học tập khám phá cho phép sinh viên đi qua ba giai đoạn, ba hành động học tập: Đầu tiên
cần phải thao tác và hành động trên các tài liệu đã có (hành động phân tích), sau đó hành động trên
các hình ảnh về chúng (hành động mô hình hoá) và cuối cùng rút ra được các khái niệm, các quy tắc
chung từ các mô hình đó (hành động ký hiệu hoá).

Vì vậy, trong học tập khám phá, giảng viên cần cung cấp nhiều tình huống để sinh viên có thể đặt
câu hỏi, khám phá và thực nghiệm cho đến tìm ra được các nguyên tắc, các ý tưởng, mối liên hệ cơ
bản trong cấu trúc môn học. Cần tổ chức cho sinh viên tiến hành các hành động học tập tương ứng
với các hình thức biểu hiện của cấu trúc (hành động thực tiễn, hành động mô hình hoá, hành động kí
hiệu hoá), theo phương pháp chung là suy luận quy nạp: từ các hành động trên các vật liệu cụ thể để
rút ra các nguyên tắc.

(4) Bản chất của sự thưởng – phạt và của sự thành công hay thất bại trong dạy học:

J.Bruner đề nghị cần phân biệt trạng thái thành công hay thất bại với sự thưởng hay phạt. Thành
công hay thất bại là kết quả cuối cùng của một nhiệm vụ, còn thưởng hay phạt là hệ quả tiếp theo
những kết quả đó.

Thông thường các bậc cha mẹ hay giảng viên quá chú ý đến phần thưởng hay trách phạt được
kiểm soát từ bên ngoài, khiến học viên không còn chú ý đến sự thành công hay thất bại trong nhiệm
vụ học tập. Người học không được hưởng niềm vui hay nỗi buồn từ sự thành công hay thất bại trong
việc học của mình. Những trải nghiệm đó thuộc về người ban phát phần thưởng hay trách phạt. Điều
này càng dễ xảy ra nếu đứa trẻ không xác định được bản chất của sự thành công hay thất bại. Như
vậy đã tước mất của trẻ em niềm vui đích thực của việc học. Do đó, một trong những vấn đề quan
trọng của dạy học là phải trả lại chức năng ban thưởng của sự thành công hay thất bại cho chính
người học. Ta có thể làm như vậy bằng cách khen thưởng cả những “sai lầm tốt” để người học thấy
quá trình giải quyết công việc cũng có tầm quan trọng như chính kết quả của nó.
Bruner cho rằng chính người học tự thưởng hay phạt bằng cách đánh giá những cố gắng của
chính mình khi độc lập giải quyết vấn đề. Quan niệm của Bruner về thưởng hay phạt đã đảo lộn lý
luận của B.F.Skinner về củng cố bằng phần thưởng.

Vì kiến thức ở phần này khá dài nên mình sẽ có 2 câu hỏi

Câu hỏi 6: Yếu tố then chốt trong mô hình học tập khám phá của Bruner là gì?

Trả lời: Cấu trúc tối ưu của nhận thức

(sau khi câu trả lời đúng thì hỏi thêm là bạn có nhớ 3 đặc tính của yếu tố này không, nếu không
thì người thuyết trình sẽ trả lời ngắn gọn lại nha: tính tiết kiệm; khả năng sản sinh ra cái mới; sức
mạnh của cấu trúc)

Câu hỏi 7: Trong yếu tố “Hành động tìm tòi và khám phá của học viên” sẽ đi qua 3 giai đoạn,
tương ứng với 3 hành động học tập, hãy sắp xếp thứ tự lại câu trả lời dưới đây:

hành động trên các hình ảnh về chúng (hành động mô hình hoá) → rút ra được các khái
niệm, các quy tắc chung từ các mô hình đó (hành động ký hiệu hoá) → thao tác và hành động
trên các tài liệu đã có (hành động phân tích)

Trả lời:Đầu tiên cần phải thao tác và hành động trên các tài liệu đã có (hành động phân tích), sau
đó hành động trên các hình ảnh về chúng (hành động mô hình hoá) và cuối cùng rút ra được các khái
niệm, các quy tắc chung từ các mô hình đó (hành động ký hiệu hoá).

ViDeO: https://www.youtube.com/watch?v=qmhFtpOSXXM

4. Ứng dụng mô hình học tập khám phá

Một mô hình nhóm muốn giới thiệu là Mô hình 5E

Mô hình 5E có kết cấu chặt chẽ, cần tuân thủ theo một quy trình chuẩn, được hình thành và xây
dựng dần dần từ các lớp đầu cấp (1-2) đến các lớp cuối cấp (4-5), từ một môn học đến triển khai mở
rộng trên nhiều môn học. Tư tưởng chủ đạo của mô hình là kết quả học tập của học sinh sẽ là kết quả
của một quá trình chủ động, năng động tương tác giữa người học với người dạy, người học với người
học hay người học với các thiết bị, đồ dùng học tập.

Mô hình 5E thực chất là mô hình dạy học, là một mẫu hướng dẫn học tập khám phá dựa trên
thuyết kiến tạo. Một mô hình dạy học khám phá 5E gồm 5 pha: Engage (kích thích động cơ học tập),
Explore (khám phá), Explain (giải thích), Elaborate (phát biểu), Evaluation (đánh giá). Ở mỗi pha,
HS được tham gia trực tiếp vào các quá trình hoạt động, được tư duy, hành động, được rèn luyện các
kỹ năng từ đơn giản nhất như nghe, nói, đọc, viết, làm việc nhóm đến các kĩ năng như quan sát có
mục đích, tư duy so sánh, phân tích, tổng hợp, các kỹ năng thực hành, thí nghiệm, đánh giá và tự
đánh giá...Các kĩ năng này là cơ sở để hình thành và phát triển các năng lực như giao tiếp, hợp tác,
năng lực sử dụng ngôn ngữ khoa học, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề…

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC INSPIRE SCIENCE

Pha 1: Engage (kích thích động cơ học tập)

GV sẽ tiếp cận kiến thức sẵn có của người học và giúp họ tham gia hình thành khái niệm mới
thông qua việc sử dụng các hoạt động ngắn làm tăng tính tò mò và gợi ra những kiến thức có sẵn.
Hoạt động này nên tạo được sự kết nối giữa kinh nghiệm học tập trong quá khứ và hiện tại, để khơi
gợi các khái niệm đã học trước đó và tổ chức hệ thống tư duy của HS đối với kết quả của các hoạt
động hiện tại.

Pha 2: Explore (khám phá)

Từ việc kết nối giữa những kiến thức, kinh nghiệm đã có với những điều cần khám phá (nhiệm
vụ học tập), những tình huống có vấn đề xuất hiện. Lúc này, người học có cơ hội tham gia trực tiếp
vào các tình huống, làm việc trực tiếp với các thiết bị, dụng cụ, thực hành các hoạt động dưới sự
hướng dẫn của GV để thu thập thông tin. Trong pha này, người học sẽ được khám phá nội dung học
tập một cách sâu sắc thông qua việc giải quyết vấn đề, khám phá khoa học, mô phỏng hoặc tiến hành
các hoạt động thí nghiệm, thực hành. Các hoạt động giúp người học sử dụng kiến thức sẵn có để tạo
ra các ý tưởng khám phá mới dựa trên các câu hỏi định hướng và điều chỉnh hành động cho người
học của GV thay vì các đáp án. Với cách thức này, người học sẽ tổng hợp những kiến thức học được
thông qua quá trình giải quyết vấn đề và tư duy phản biện.

Pha 3: Explain (giải thích)

Giai đoạn giải thích tập trung sự chú ý của HS vào một nội dung cụ thể trong quá trình tham gia
hoạt động học tập, giúp thăm dò kinh nghiệm của các em và tạo ra các cơ hội để các em chứng minh
sự hiểu biết khái niệm của mình nhờ các kỹ năng học tập. Giai đoạn này cũng tạo cơ hội cho giáo
viên trực tiếp giới thiệu một khái niệm, quy trình hoặc các kỹ năng thực hành. Người học thì giải
thích sự hiểu biết của họ về khái niệm khoa học còn người dạy thì giải thích để hướng dẫn người học
hướng tới một sự hiểu biết sâu sắc hơn, đây là một phần quan trọng của giai đoạn này. Từ chỗ người
học bắt đầu hình thành những hiểu biết khái quát sau quá trình điều tra sơ bộ, thu thập thông tin (pha
1 và 2), quá trình giao lưu, giao tiếp xuất hiện giữa người học - người học, giữa người dạy - người
học hoặc trong chính bản thân người học. Khi làm việc theo nhóm, các em giúp nhau cùng hiểu vấn
đề bằng cách kết nối các ý tưởng, các giả thuyết và kết quả tìm tòi, khám phá được đồng thời trình
bày, giải thích những hiểu biết đã thu được. Thông qua đó, GV sẽ định hướng, điều chỉnh câu trả lời
của HS, đưa ra các thuật ngữ, khái niệm tương ứng.

Pha 4: Elaborate (mở rộng vận dụng)

Người học được mở rộng, cô đọng những hiểu biết của mình thông qua kinh nghiệm mới để phát
triển sâu hơn và rộng hơn, kết nối với những khái niệm có liên quan và vận dụng vào thực tế.

Pha 5: Evaluate (Đánh giá)

Thông qua những kế hoạch đánh giá cặn kẽ, GV sẽ giúp học sinh nhận ra họ đã học được cái gì,
cái gì chưa học được và nhìn lại pha 1 (engage) nếu cần thiết. Lí tưởng nhất là người học xem quá
trình học tập là một quá trình liên tục, kết thúc quy trình này sẽ là khởi đầu của một quy trình mới,
với một vấn đề học tập mới. Giai đoạn đánh giá khuyến khích người học đánh giá sự hiểu biết của
mình và khả năng tạo cơ hội cho GV đánh giá sự tiến bộ của người học hướng tới việc đạt được các
mục tiêu giáo dục. GV đánh giá cách HS vận dụng kiến thức, kỹ năng và cũng cho phép HS tự đánh
giá. HS tự đánh giá bằng cách trao đổi kiến thức, tự diễn đạt cách giải quyết vấn đề của mình theo
nhiều cách khác nhau.

Hoạt động của GV và HS trong quá trình thực hiện mô hình 5E (cái này tham khảo để
phân tích vid th k cần trình lên ppt) (Phát)
Các giai Hoạt động của GV Hoạt động của HS
đoạn của
mô hình

Kích - Tạo sự quan tâm, tò mò khoa học cho học sinh - Đặt câu hỏi: Tại sao chuyện này lại xảy ra?
thích - Tạo dựng các câu hỏi Bản thân mình đã biết gì về chuyện này (chủ
động cơ - Khám phá các phản hồi của học sinh về đề)? Làm cách nào để giải quyết vấn đề này?
học tập những chủ đề hoặc nội dung học tập - Tập trung phán đoán, kết nối những điều đã
biết và xác định giả thiết.
- Chỉ ra những lưu ý của chủ đề.
Khám - Khuyến khích học sinh làm việc cùng nhau - Tự do suy nghĩ trong thời gian giới hạn của
phá không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV hoạt động
- Bao quát lớp, quan tâm và lắng nghe hướng - Kiểm tra các dự đoán và giả thiết
dẫn khi họ tương tác với nhau và với đồ dùng, - Thiết lập những dự đoán mới và giả thiết
thiết bị học tập mới
- Yêu cầu các câu hỏi để chuyển hướng khám - Trình bày quan điểm cá nhân và thảo luận
phá của học sinh khi cần thiết với người khác
- Cung cấp thêm thời gian để HS không bị lúng - Ghi chép lại những quan sát và các ý kiến
túng khi giải quyết vấn đề - Đặt ra các câu hỏi có liên quan đến từng
- Giữ vai trò một người tư vấn, không vội vã nội dung hoạt động
kết luận hoặc đánh giá kết quả làm việc của HS,
không đưa ra các hướng dẫn trực tiếp để giải
quyết vấn đề.

Giải - Khuyến khích HS giải thích các khái niệm, - Giải thích những hướng giải quyết vấn đề
thích định nghĩa theo ý hiểu của mình có khả năng và trả lời các thắc mắc.
- Yêu cầu HS chứng minh và giải thích rõ vấn - Lắng nghe thật kỹ lưỡng những giải thích
đề, sử dụng kinh nghiệm và vốn tri thức đã có của người khác
của học sinh như là nền tảng để giải thích. - Nêu câu hỏi khi có băn khoăn với cách giải
- Đính chính lại và đưa ra cho HS những kiến thích của người khác
thức mới một cách chính xác và khoa học. - Lắng nghe, ghi chép và cố gắng hiểu những
- Đánh giá sự hiểu biết ngày càng tăng của học phần giải thích, trình bày của GV.
sinh. - Sử dụng những quan sát và giải thích đã
được ghi chép lại ở pha trước để so sánh, đối
chiếu.
- Đánh giá sự hiểu biết của chính mình

Mở rộng/ - Mong đợi và khuyến khích học sinh sử dụng - Áp dụng những kiến thức và kĩ năng vừa có
vận dụng các khái niệm, định nghĩa vừa có được ở pha 3. được vào tình huống tương tự.
- Khuyến khích HS áp dụng hoặc mở rộng các - Sử dụng những thông tin ghi chép được để
khái niệm, kỹ năng đã học trong các tình huống đưa ra các câu hỏi, dự đoán, hướng giải
mới quyết, đưa ra quyết định về cách giải quyết
- Tạo cơ hội cho nhiều HS tham gia giải thích, vấn đề.
đưa ra các hướng giải quyết.. - Nêu các kết luận hợp lý dựa trên các chứng
- Củng cố lại những điều đã học được, tạo cơ cứ khoa học.
hội cho HS phát hiện những vấn đề mới thông - Ghi chép quan sát và giải thích.
qua việc hỏi đáp - Kiểm tra sự hiểu biết giữa các thành viên.

Đánh giá - Quan sát HS khi chúng áp dụng các khái niệm - Trả lời các câu hỏi mở bằng cách quan sát,
và kĩ năng mới. sử dụng bằng chứng và những giải thích
- Đánh giá kiến thức và kĩ năng của HS. được chấp nhận trước đó.
- Đưa ra những tiêu chí/chỉ báo đánh giá rõ - Chứng minh sự hiểu biết của mình về các
ràng để làm minh chứng cho sự thay đổi về suy khái niệm hoặc kỹ năng bằng cách giải thích,
nghĩ và thái độ của HS. biện luận chặt chẽ.
- Tạo điều kiện để HS tự đánh giá kiến thức và - Tự đánh giá sự tiến bộ và hiểu biết của
kĩ năng làm việc nhóm. chính mình
- Đặt các câu hỏi mở để HS có cơ hội giải thích - Đưa ra các câu hỏi để làm cơ sở kích thích
hoặc trình bày: Bạn biết gì về chủ đề vừa học? tình huống mới, phát triển hướng nghiên cứu
Tại sao bạn nghĩ...? Bạn có bằng chứng gì để...? học tập trong giai đoạn tiếp theo.

Chia làm 2 nhóm debate, 1 người lên ghi chú các ý 2 nhóm nêu ra. Sau khi xong thì chốt lại
(chiếu cái bảng ở dưới) ưu và nhược điểm của học tập khám phá & học tập truyền thống (Hiếu)

So sánh mô hình học tập khám phá và học tập truyền thống:

Học tập khám phá Học tập truyền thống

Học sinh tham gia thực hành vào các hoạt động giải quyết vấn đề Chuyển giao kiến thức

Chú trọng quá trình Chú trọng kết quả

Thất bại khuyến khích học viên tiếp tục tìm hiểu Thất bại là không tốt

Ưu và nhược điểm của học tập khám phá

Các tác giả Eskandari & Soleimani (2016); Mukharomah (2015); Rahmi và Ratmanida (2014);
Mirasi, Osodo và Kibirige (2013); Oghenevwede (2010); Cohen (2008); Rachel (2006); Saab, Van
Joolingen & Hout-Wolters (2005); hay Svinki (1998); Castronova (2002) đều cho rằng học tập khám
phá hiệu quả hơn và vượt trội so với các phương pháp học tập khác trong việc giảng dạy sinh học;
toán học, ngôn ngữ học và sự vượt trội đó thể hiện ở: kiến thức, kỹ năng học tập; sự cá nhân hoá
những kinh nghiệm học tập; hứng thú và động lực học tập; tính tự chủ và khả năng độc lập cũng như
mức độ lưu giữ kiến thức của người học;…

Tuy nhiên, các tác giả trên cũng cho rằng mô hình học tập khám phá không nên được sử dụng
như một phương pháp giảng dạy chính, bởi vì nó có những hạn chế trong thực tế: tốn thời gian, giảng
viên cần phải được chuẩn bị nhiều và rất kỹ; dễ dẫn đến sự thất vọng cho người học bởi mô hình học
tập này không thể bao quát hết các nội dung của cả khóa học và khó thực hiện ở những lớp đông
người học;…
Tài liệu tham khảo

Dương Giáng Thiên Hương. (2017). Dạy học khám phá theo mô hình 5E - một hướng
vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học ở tiểu học. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE.
Educational Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 4, pp. 112-121. dạy học khám phá theo mô hình 5e - một
hướng vận

Nguyễn Thị Thắng. (2017). Hiệu quả của mô hình học tập khám phá trong dạy học các
môn đào tạo nghề sư phạm đáp ứng chuẩn đầu ra ở Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN.
Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 5 (2017) 113-122.
4193-73-7839-1-10-20171109.pdf

Lytuongnet. (2022). Mô hình dạy học hành động học tập khám phá của Jerome Bruner.
Truy xuất tại
https://lytuong.net/mo-hinh-day-hoc-hanh-dong-hoc-tap-kham-pha-cua-jerome-bruner/

Trung tâm hỗ trợ giảng dạy (center for teaching exellence).Các hoạt động học chủ động
(tích cực). Truy cập vào ngày 15/04/2023 tại:
https://cte.vnu.edu.vn/cac-hoat-dong-hoc-chu-dong-tich-cuc/#:~:text=H%E1%BB%
8Dc%20t%E1%BA%ADp%20ch%E1%BB%A7%20%C4%91%E1%BB%99ng
%20(h%E1%BB%8Dc,th%E1%BB%A9c%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%
C4%91%C3%A2y%20c%E1%BB%A7a%20h%E1%BB%8D.
Hiệp hội cao đẳng cộng đồng Việt Nam (VACC). Hội thảo chuyên đề “Giới thiệu phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Truy cập vào ngày 15/04/2023 tại:
https://vacc.org.vn/hoi-thao-chuyen-de-gioi-thieu-phuong-phap-day-hoc-lay-hoc-sin
h-lam-trung-tam-2/#:~:text=Ph%C6%B0%C6%A1ng%20ph%C3%A1p%20d%E
1%BA%A1y%20h%E1%BB%8Dc%20%E2%80%9Cl%E1%BA%A5y,v%C3%A
0%20cung%20c%E1%BA%A5p%20th%C3%B4ng%20tin.
PGS.TS. Lê Văn Hảo (2021). Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề: một số kết quả triển
khai. Trường đại học Nha Trang.
https://phongdbcl.ntu.edu.vn/uploads/47/files/old/Phuong%20phap%20GD/PP%20
DAY%20HOC%20DUA%20TREN%20VAN%20DE%20(6_2021).pdf
The Dewey Schools (2021). Học tập qua dự án. Truy cập vào ngày 15/04/2023 tại:
https://thedeweyschools.edu.vn/hoc-tap-qua-du-an/
Nghiên cứu giáo dục. (n.d.). Bài 4: Thuyết kiến tạo (Constructivism). Retrieved April 15, 2023, from
https://nghiencuugiaoduc.com.vn/bai-4-thuyet-kien-tao-constructivism/

Nguyễn Quốc Trị (2017). Thuyết kiến tạo - Cơ sở lí luận của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Việt Nam. 62(1A), 58–65. https://doi.org/10.18173/2354-1075.2017-0030

Lê Thị Lệ Hà, Lưu Thanh Tú & Nguyễn Thị Lan Anh. (2016). Tiếp cận lí thuyết kiến tạo trong dạy học. Tạp
chí Giáo Dục.

You might also like